Tăng cường công tác bảo đảm an sinh xã hội cho trẻ em

Phạm Gia Cường Ban Tuyên giáo Trung ương
20:58, ngày 20-07-2015

TCCSĐT - Chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em góp phần quan trọng vào việc chuẩn bị và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Đầu tư cho trẻ em là đầu tư cho tương lai của đất nước. Do vậy, hướng tới bảo đảm an sinh xã hội ngày càng tốt hơn cho trẻ em là trách nhiệm của mỗi gia đình và toàn xã hội.

Quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà nước đối với trẻ em

Trẻ em là những con người chưa trưởng thành về mặt thể chất, tâm lý và xã hội, dễ bị tổn thương do những tác động của môi trường sống, cần được bảo vệ, chăm sóc và giáo dục. Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em. Để thúc đẩy việc thực hiện quyền trẻ em, Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị 38-CT/TW, ngày 30-5-1994, về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Ngày 28-6-2000, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị 55-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng ở cơ sở đối với công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, trong đó khẳng định trẻ em là hạnh phúc của gia đình, là tương lai của dân tộc, là lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cần được ưu tiên bảo vệ, chăm sóc và giáo dục. Trong phạm vi khả năng, cần tạo điều kiện tối đa để mọi trẻ em được bảo vệ, chăm sóc và được phát triển toàn diện về đức, trí, thể, mỹ. Chỉ thị 20-CT/TW, ngày 05-11-2012 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng đối với công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em trong tình hình mới cũng nhấn mạnh chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em là vấn đề có tính chiến lược, lâu dài, góp phần quan trọng vào việc chuẩn bị và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.

Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng khẳng định cần bảo đảm các quyền cơ bản của trẻ em, tạo môi trường để trẻ em được phát triển toàn diện về thể chất và trí tuệ; chú trọng bảo vệ và chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, trẻ em gia đình nghèo, trẻ em vùng sâu, vùng xa, vùng có nhiều khó khăn; ngăn chặn và đẩy lùi các nguy cơ xâm hại trẻ em; nhân rộng các mô hình làm tốt việc bảo vệ, chăm sóc trẻ em dựa vào cộng đồng.

Trong Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XII, Đảng ta cũng nhấn mạnh cần coi trọng chăm sóc sức khỏe nhân dân, công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình, bảo vệ và chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em; xây dựng gia đình hạnh phúc…; bảo đảm cân bằng tỷ lệ giới tính khi sinh và quyền trẻ em.

Hiến pháp 2013 thể hiện quan điểm coi trọng công tác trẻ em của Đảng và Nhà nước ta. Chương 2, Điều 37 của Hiến pháp 2013 khẳng định trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn đề về trẻ em; nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi vi phạm quyền trẻ em.

Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em được Quốc hội khóa IX kỳ họp thứ 8 thông qua năm 2004, đã quy định tương đối đầy đủ các quyền và bổn phận của trẻ em, trách nhiệm của gia đình, các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân trong việc bảo đảm thực hiện các quyền cơ bản của trẻ em nhằm tạo ra những điều kiện để khơi dậy tính chủ thể và năng động của trẻ em, đồng thời bảo đảm quyền của trẻ em. Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em quy định trẻ em có 10 nhóm quyền cơ bản (Điều 11 đến Điều 20): quyền được khai sinh và có quốc tịch; quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng; quyền sống chung với cha mẹ; quyền được tôn trọng, bảo vệ tính mạng, thân thể, nhân phẩm và danh dự; quyền được chăm sóc sức khoẻ; quyền được học tập; quyền vui chơi, giải trí, hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể dục, thể thao, du lịch; quyền được phát triển năng khiếu; quyền có tài sản; quyền được tiếp cận thông tin, bày tỏ ý kiến và tham gia hoạt động xã hội. Luật cũng đã quy định về các chính sách của Nhà nước và trách nhiệm của các tổ chức với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Ngoài ra, các vấn đề liên quan đến trẻ em còn được nhắc đến trong các bộ luật khác, như Bộ luật Hình sự, Luật Hôn nhân và Gia đình, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Lao động, Luật Giáo dục…

Về chính sách liên quan đến trẻ em, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 267/QĐ-TTg, ngày 22-02-2011, về việc phê duyệt Chương trình Quốc gia bảo vệ trẻ em giai đoạn 2011 - 2015, Quyết định 65/2005/QĐ-TTg, ngày 25-3-2005, về việc phê duyệt đề án chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn dựa vào cộng đồng giai đoạn 2005 - 2010, Quyết định số 19/2004/QĐ-TTg, ngày 12-2-2004 về việc phê duyệt chương trình phòng ngừa, giải quyết tình trạng trẻ em lang thang, trẻ em bị xâm phạm tình dục, trẻ em lao động nặng nhọc, trong điều kiện độc hại nguy hiểm giai đoạn 2004 - 2010, Quyết định 37/2010/QĐ-TTg, ngày 22-4-2010 về việc quy định tiêu chuẩn xã, phường phù hợp với trẻ em, Quyết định 84/2009/QĐ-TTg về việc phê duyệt Kế hoạch hành động quốc gia vì trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020, Quyết định số 2013/QĐ-TTg, ngày 14-11-2011, phê duyệt Chiến lược Dân số và Sức khỏe sinh sản Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 (trong đó đặt ra mục tiêu nâng cao sức khỏe, giảm bệnh, tật và tử vong ở trẻ em; thu hẹp sự khác biệt đáng kể về các chỉ báo sức khỏe trẻ em giữa các vùng, miền; cải thiện sức khỏe sinh sản của người chưa thành niên và thanh niên, trong đó tăng tỷ lệ dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản thân thiện..).

Hằng năm các địa phương tổ chức Tháng hành động vì trẻ em từ 15-5 đến 30-6 để vận động toàn xã hội tham gia công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em, xây dựng các mô hình hỗ trợ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt.

Thực trạng công tác bảo đảm an sinh xã hội cho trẻ em

Để tồn tại và phát triển, cũng như bảo đảm quyền, thực hiện được bổn phận, trẻ em cần được bảo đảm các nhu cầu cơ bản, đồng thời tránh được những nguy cơ làm tổn hại đến trẻ em. Trẻ em có các nhóm nhu cầu cơ bản, như nhu cầu được chăm sóc về thể chất; nhu cầu được bảo vệ; nhu cầu được yêu thương; nhu cầu nhận thức và ý thức về bản thân; nhu cầu được thể hiện bản thân... Trên thực tế, công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em mới chỉ chú trọng tới những trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, hay là mới chỉ quan tâm giải quyết những vấn đề xảy ra đối với trẻ em, ít quan tâm tới việc đáp ứng nhu cầu của tất cả trẻ em và phòng ngừa những rủi ro đối với trẻ em. Do vậy, nhu cầu của trẻ em vẫn chưa được đáp ứng, chưa gắn với gia đình. Ví dụ như đối với trẻ em từ trên 4 tháng tuổi đến dưới 18 tháng tuổi, khi người mẹ hết thời gian nghỉ thai sản và đi làm, thì gia đình sẽ gặp khó trong việc chăm sóc trẻ em. Khi trẻ em đi nhà trẻ, mẫu giáo thì phải đóng học phí, trong khi đó trẻ em ở bậc tiểu học không phải đóng học phí. Vấn đề dạy thêm tràn lan đã và đang là vấn đề đáng quan tâm của toàn xã hội, khiến nhiều trẻ em ít có thời gian vui chơi, giải trí và làm tăng áp lực đối với học sinh và gia đình. Không gian vui chơi của trẻ em còn thiếu, chưa bảo đảm cơ sở vật chất và chưa phù hợp với đặc điểm lứa tuổi.

Trong cuộc sống, trẻ em có thể gặp phải những nguy cơ, rủi ro gây tổn hại đến thể chất, đời sống tinh thần và mối quan hệ xã hội. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê năm 2009, số trẻ em là 23.630.000 triệu (chiếm 27,5% tổng số dân cả nước), trong đó có 1.537.179 trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt (chiếm khoảng 6% số trẻ em). Cũng theo kết quả điều tra trên, có gần 4 triệu trẻ em chưa từng được đi học, (chiếm 5% tổng số dân 5 tuổi trở lên). Nếu tính cả nhóm trẻ em nghèo (2,75 triệu), trẻ em bị bạo lực, trẻ em bị buôn bán và trẻ em bị tai nạn thương tích thì tổng cộng có khoảng 4,28 triệu trẻ em (chiếm 5% số dân và khoảng 18,2% số trẻ em). Đa phần nhóm trẻ này vẫn gặp nhiều rào cản trong việc tiếp cận với các dịch vụ và phúc lợi xã hội. Có một thực trạng đáng buồn là trong công tác cai nghiện ma túy, tỷ lệ tái nghiện ở trẻ em hiện nay còn cao (trẻ em nam là 96%, trẻ em nữ khoảng 90%). Số trẻ em này cũng bị kỳ thị, phân biệt đối xử, có nguy cơ vi phạm pháp luật rất cao và khó hòa nhập cộng đồng. Bên cạnh đó, tỷ lệ người chưa thành niên vi phạm pháp luật có xu hướng gia tăng. Tính chất vi phạm pháp luật cũng phức tạp hơn, có xu hướng lập băng nhóm, phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Khi trẻ em hoàn thành việc chấp hành án hoặc hoàn thành chương trình giáo dục tại các trường giáo dưỡng trở về cộng đồng cũng gặp nhiều rào cản trong quá trình hòa nhập cộng đồng.

Ngoài ra, hiện nay các địa phương chưa thực sự quan tâm đến công tác quản lý chặt chẽ số trẻ em này; do vậy nguy cơ bị ngược đãi, xâm hại, bị ép phải lao động nặng nhọc ở nhóm trẻ em này là khá cao. Việc xây dựng một xã hội hòa nhập cho trẻ em khuyết tật nói riêng và người khuyết tật nói chung ở nước ta còn là một thách thức lớn và cần phải nhiều năm nữa mới có thể xóa bỏ được các rào cản về phân biệt đối xử, về tiếp cận, thụ hưởng các dịch vụ xã hội. Còn nhiều trẻ em bị bỏ rơi trong tình trạng sức khỏe không tốt, như suy dinh dưỡng, khuyết tật hoặc bị nhiễm HIV/AIDS. Tình trạng ngược đãi, xâm hại tình dục, bạo lực đối với trẻ em vẫn ở mức cao và gây bức xúc trong xã hội. Trẻ em lang thang, trẻ em lao động, trẻ em khuyết tật, trẻ em làm việc xa gia đình thiếu cơ hội tiếp cận phúc lợi xã hội dành cho trẻ em.

Năm 2009, Bộ Y tế ước tính có khoảng 4.720 trẻ em có HIV. Theo các chuyên gia, trên thực tế con số này cao hơn nhiều. Số trẻ em sống chung cùng cha mẹ, người thân có HIV/AIDS có nguy cơ bị ảnh hưởng rất cao nhưng chưa được chú ý đúng mức và chưa có giải pháp hữu hiệu để bảo vệ các em. Nhìn chung, nhóm trẻ em có HIV đang chịu nhiều áp lực, sống trong nghèo khó, chịu sự kỳ thị, phân biệt đối xử... Tất cả khiến cho các em rất khó hòa nhập với cộng đồng và khó tiếp cận với các dịch vụ xã hội cơ bản, như giáo dục, y tế, vui chơi giải trí, tham gia các hoạt động xã hội...

Môi trường xã hội luôn tiềm ẩn nhiều nguy cơ dẫn đến trẻ em bị bạo lực, bị xâm hại và vi phạm pháp luật. Trong khi đó việc thực thi pháp luật, ý thức chấp hành các quy định của luật pháp ở nước ta hiện nay chưa nghiêm; hình thức xử lý đối với người có hành vi xâm hại trẻ em chưa kịp thời và còn nương nhẹ; nhiều trường hợp bị bỏ qua, không có tác dụng răn đe hoặc giáo dục. Một bộ phận cán bộ có chức năng bảo vệ trẻ em làm việc thiếu trách nhiệm. Việc phối hợp hoạt động giữa các cơ quan, tổ chức bảo vệ và chăm sóc trẻ em chưa hiệu quả do có sự chồng chéo về chức năng nhiệm vụ và do năng lực chuyên môn hạn chế. Việc giáo dục đạo đức và kỹ năng sống cho học sinh trong trường học, cộng đồng chưa được quan tâm đúng mức; sự phối hợp giữa nhà trường và gia đình trong việc quản lý, giáo dục học sinh chưa thường xuyên, thiếu chặt chẽ, tổ chức hoạt động của các tổ chức Đoàn, Đội chưa đáp ứng được nhu cầu của học sinh.

Bên cạnh đó, chính những khó khăn về kinh tế của một bộ phận các gia đình, cha mẹ ly hôn, ly thân, cha mẹ mắc các tệ nạn xã hội... cũng là nguyên nhân dẫn đến tình trạng sao nhãng, bỏ mặc trẻ em, là điều kiện nảy sinh các hành vi ngược đãi, xâm hại tình dục, bạo lực, bóc lột đối với trẻ em hoặc trẻ em vi phạm pháp luật, sử dụng ma túy. Phân hóa giàu nghèo, phân tầng xã hội cũng dẫn đến gia tăng áp lực về tâm lý trong đời sống gia đình và xã hội, dẫn đến các hành vi “lệch chuẩn” ở trẻ em và người lớn, trẻ em có nguy cơ cao bị bỏ rơi, đi lang thang, lao động kiếm sống sớm. Sự thiếu hiểu biết về pháp luật, lối sống ích kỷ, thiếu trách nhiệm hoặc phương pháp giáo dục cực đoan của một số gia đình cũng tạo ra sự mất an toàn cho trẻ em ngay trong chính gia đình của mình.

Giải pháp nâng cao công tác bảo đảm an sinh xã hội cho trẻ em

Để nâng cao công tác bảo đảm an sinh xã hội cho trẻ em, trong thời gian tới, cần thực hiện các giải pháp đồng bộ sau:

Một là, hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách đối với trẻ em theo hướng thân thiện, tạo điều kiện cho trẻ em ý thức được hành vi sai, có điều kiện sửa sai, không để trẻ em rơi vào môi trường có nhiều hành vi vi phạm pháp luật, không có định kiến với trẻ em vi phạm pháp luật. Việc xây dựng các chính sách đối với trẻ em nên sử dụng cách tiếp cận “những nhu cầu cơ bản”, chú trọng công tác giảm nghèo, nâng cao dịch vụ y tế, giáo dục, nhà ở,... và các vấn đề liên quan đến hạnh phúc và an sinh của con người nói chung và trẻ em nói riêng, tạo điều kiện để trẻ em có thể sống trong môi trường tốt.

Hai là, dịch vụ an sinh xã hội với trẻ em cần trở thành một nguồn lực quan trọng cho trẻ em và gia đình. Trong đó, hệ thống dịch vụ an sinh xã hội với trẻ em cần dựa trên nền tảng bảo đảm an toàn cho trẻ em và hỗ trợ gia đình - mái ấm an toàn và lâu bền nhất cho trẻ em; tạo được tình trạng thoải mái, hạnh phúc cho trẻ em và gia đình; hỗ trợ cộng đồng với gia đình; lấy gia đình làm trung tâm.

Hỗ trợ các nỗ lực của gia đình chăm sóc trẻ em là một mục tiêu quan trọng của các cơ quan dịch vụ xã hội trẻ em. Bằng cách củng cố việc thực hiện chức năng gia đình, các cơ quan dịch vụ xã hội có thể tối đa hóa cơ hội cho trẻ em có nguy cơ bị ngược đãi được an toàn với gia đình. Các nỗ lực của gia đình bị ảnh hưởng bởi trạng thái kinh tế của cộng đồng. Do đó, cộng đồng cần hỗ trợ gia đình trong việc cung cấp môi trường an toàn và nuôi trưỡng trẻ em. Các hỗ trợ cơ bản như việc làm, nhà ở và phát triển kinh tế cộng đồng là cần thiết để hệ thống an sinh với trẻ em có thể đẩy lùi các nguyên nhân dẫn tới ngược đãi trẻ em.

Hệ thống an sinh xã hội với trẻ em cần lấy gia đình làm trung tâm, hướng tới việc đáp ứng các nhu cầu của trẻ em. Khi gia đình được tham gia vào quá trình xem xét và thiết kế dịch vụ để đáp ứng nhu cầu của trẻ em, gia đình, thì khả năng của gia đình trong việc nuôi dạy con cái sẽ tăng lên. Phối hợp với gia đình, cơ quan phúc lợi trẻ em có thể xây dựng được các dịch vụ đáp ứng tốt và giúp gia đình thực hiện tốt chức năng của gia đình và cho phép trẻ em có cuộc sống an toàn với gia đình.

Ba là, xã hội hóa công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Xã hội hóa là quan điểm xuyên suốt của Đảng trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em là trách nhiệm của gia đình, nhà trường, các cơ quan nhà nước, các tổ chức và toàn xã hội. Việc thực hiện xã hội hóa công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em cần dựa trên cơ sở thực hiện chức năng của gia đình, nhà trường, các cơ quan nhà nước, các tổ chức và toàn xã hội nhằm mục đích tạo ra môi trường thân thiện với trẻ em, bảo đảm các nguồn lực và dịch vụ xã hội đáp ứng nhu cầu của trẻ em, hạn chế tối đa những ảnh hưởng tiêu cực của môi trường sống, đặc biệt xây dựng môi trường gia đình ổn định, an toàn và môi trường nhà trường là nơi tổ chức cuộc sống cho trẻ em ở từng giai đoạn lứa tuổi./.