Cơ cấu lại và phát triển bền vững nông nghiệp đồng bằng sông Cửu Long trên cơ sở liên kết vùng

Nguyễn Phong Quang Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ
21:59, ngày 08-07-2015

TCCSĐT - Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, ngành nông nghiệp vùng đồng bằng sông Cửu Long đang đứng trước nhiều cơ hội và thách thức. Yêu cầu cấp thiết đặt ra là phải cơ cấu lại nền nông nghiệp trên cơ sở tăng cường liên kết vùng để nông nghiệp vùng đồng bằng sông Cửu Long tiếp tục phát triển bền vững, hiệu quả, góp phần đắc lực vào sự phát triển kinh tế - xã hội của toàn vùng và cả nước.

Từ những thành tựu, hạn chế trong phát triển nông nghiệp…

Vùng đồng bằng sông Cửu Long có diện tích gần 40.000km2, dân số gần 18 triệu người (chiếm khoảng 12% diện tích đất và 22% dân số cả nước). Đây là vùng đất có vị trí chiến lược của cả nước, với 3 mặt Đông, Tây, Nam giáp biển Đông và biển Tây Nam, có đường bờ biển dài hơn 700km với 360.000km2, vùng đặc quyền kinh tế, có vị trí rất thuận lợi để phát triển kinh tế biển; đồng thời cũng là một trong số ít vùng trên thế giới có lợi thế đặc biệt về sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản. Hằng năm, toàn vùng đóng góp khoảng 27% GDP của cả nước, sản xuất hơn 50% tổng sản lượng lương thực, đóng góp hơn 90% lượng gạo xuất khẩu, thu ngoại tệ khoảng 3 tỉ USD. Sản xuất lúa gạo, cây ăn trái và nuôi trồng thủy sản là thế mạnh của đồng bằng sông Cửu Long, đã góp phần bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, gia tăng kim ngạch xuất khẩu cho cả nước, nâng cao đời sống vật chất, tạo cơ hội việc làm cho cư dân ở khu vực nông thôn.

Một trong những nguyên nhân tạo nên thành tựu trong sản xuất nông nghiệp của đồng bằng sông Cửu Long là nhờ người nông dân ngày càng tiếp cận và ứng dụng nhanh hơn với những tiến bộ khoa học - công nghệ. Đặc biệt gần đây, chủ trương liên kết “4 nhà” trong sản xuất nông nghiệp đã được các địa phương quan tâm thúc đẩy, mà điển hình là sự thành công bước đầu của mô hình “Cánh đồng lớn”. Với thực tế sản xuất nông nghiệp còn manh mún, quy mô nhỏ lẻ, thiếu sự gắn kết giữa doanh nghiệp với nông dân thì mô hình “Cánh đồng lớn” đang được xem là một trong những mô hình liên kết đạt hiệu quả cao trong sản xuất và tiêu thụ nông sản. Theo tính toán, mỗi hec-ta lúa tham gia trong “Cánh đồng lớn” người nông dân có thể giảm được chi phí sản xuất 10%-5%, giá trị sản lượng tăng lên 20%-25%, thu lợi nhuận thêm 2,2-7,5 triệu đồng. Hiện nay, mô hình “Cánh đồng lớn” không chỉ giới hạn tại các tỉnh, thành vùng đồng bằng sông Cửu Long mà đã được áp dụng tại địa phương trong cả nước. Mô hình này không chỉ giới hạn ở sản xuất lúa mà còn được áp dụng đối với nhiều mô hình sản xuất khác như: mía đường, cà phê, điều, chè, nuôi trồng thủy sản, rau quả an toàn,…

Ngoài sản phẩm lúa gạo, ngành nông nghiệp các tỉnh, thành vùng đồng bằng sông Cửu Long cũng đã xây dựng được các mô hình tổ chức liên kết chăn nuôi và nuôi trồng chế biến thủy sản. Cụ thể như mô hình liên kết chăn nuôi lợn và gia cầm tại Công ty Cổ phần chăn nuôi CP Việt Nam; mô hình tổ chức vùng nguyên liệu sản xuất chế biến cá tra thuộc Công ty cổ phần thủy sản Hùng Vương và Công ty cổ phần xuất nhập khẩu thủy sản An Giang… Điểm nổi bật của những mô hình này là doanh nghiệp đóng vai trò là nhà đầu tư cho nông dân, là người tổ chức sản xuất, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật và bảo đảm thị trường tiêu thụ. Nông dân là người trực tiếp sản xuất, nhận khoán theo định mức chi phí, được hỗ trợ một phần chi phí xây dựng cơ bản ban đầu, chi phí lao động và sản xuất trên đất của họ. Những mô hình liên kết sản xuất trong nông nghiệp kể trên đã đóng góp quan trọng vào sự phát triển nông nghiệp đồng bằng sông Cửu Long.

Tuy nhiên, quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đồng bằng sông Cửu Long vẫn đang tồn tại nhiều yếu kém, bất cập như: tăng trưởng kinh tế thiếu vững chắc, tiềm năng và lợi thế của vùng chưa được đầu tư, khai thác đúng mức, đúng tầm; kinh tế phát triển chủ yếu theo chiều rộng; việc đầu tư và ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ tạo ra giá trị gia tăng không cao; hệ thống kết cấu hạ tầng thiếu đồng bộ, nhất là hạ tầng về giao thông, thủy lợi; giá trị sản xuất nông nghiệp thiếu tính ổn định và có nguy cơ bị thu hẹp diện tích sản xuất do tác động của tình trạng biến đổi khí hậu, nước biển dâng, môi trường ngày càng bị ô nhiễm.

Do còn những mặt hạn chế trong cơ chế, chính sách, những yếu kém nội tại trong quá trình thực hiện mối liên kết “4 nhà”, nên hiệu quả từ các mô hình liên kết sản xuất trong nông nghiệp chưa đạt như mong muốn. Cụ thể là:

- Đồng bằng sông Cửu Long là vùng trọng điểm về nông nghiệp và bảo đảm an ninh lương thực của quốc gia nhưng mức đầu tư cho vùng còn thấp. Do vậy, sản xuất nông nghiệp thiếu bảo đảm về điều kiện hạ tầng kinh tế - kỹ thuật. Công nghệ chế biến còn khá lạc hậu, giá thành còn cao, tỷ lệ hao hụt, thất thoát sau thu hoạch còn lớn. Ngoài ra, hệ thống cơ chế, chính sách trong nông nghiệp còn nhiều bất cập đã làm ảnh hưởng đến sức hút đầu tư của các doanh nghiệp trong và ngoài nước.

- Nông dân sản xuất nhỏ lẻ, không đồng bộ, khó kết nối với thị trường trong và ngoài nước. Giao thông ở vùng sâu, vùng xa còn khó khăn; thông tin về thị trường hạn chế, gây ảnh hưởng lớn đến việc tiêu thụ sản phẩm của nông dân, khó tạo điều kiện liên kết chặt chẽ giữa người nông dân và doanh nghiệp trong chế biến và tiêu thụ sản phẩm.

- Nguồn lao động ở nông thôn đang có xu hướng giảm và “lão” hóa, do lao động trẻ ở nông thôn có trình độ học vấn có xu hướng rời bỏ nông thôn và lao động phổ thông di dân đến làm việc tại các thành phố lớn ngày càng tăng. Đây là cản trở lớn trong phát triển sản xuất nông nghiệp ở đồng bằng sông Cửu Long trong tương lai.

Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế trên là do những cơ chế, chính sách nhằm phát huy lợi thế và tiềm năng của vùng còn thiếu và chưa đồng bộ; có mặt chưa phù hợp với đặc điểm, yêu cầu, nhiệm vụ của vùng; sự phối hợp của các bộ, ngành, Trung ương thiếu chặt chẽ trong sự liên kết vùng và liên ngành…

… Đến yêu cầu tất yếu phải liên kết vùng

Trong xu thế hội nhập quốc tế, sản xuất nông nghiệp vùng đồng bằng sông Cửu Long đang đứng trước nhiều cơ hội và thách thức.

Cơ hội rõ nét nhất là khả năng mở rộng thị trường trong và ngoài nước rất lớn do xu thế gia tăng nhu cầu sản phẩm nông nghiệp và lương thực trên thế giới. Các cơ chế, chính sách của Nhà nước đang tiến đến chỗ ngày càng minh bạch, ổn định hơn, khuyến khích được mọi thành phần kinh tế, nhất là các doanh nghiệp tư nhân, tham gia vào lĩnh vực nông nghiệp. Cụ thể như Quyết định số 899/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về tái cơ cấu ngành nông nghiệp có một số nội dung tiếp cận về tái cơ cấu ngành nông nghiệp liên quan đến khái niệm an ninh lương thực, tiếp cận theo chuỗi giá trị, sử dụng tài nguyên nông nghiệp hợp lý và phát triển nông nghiệp theo lợi thế so sánh và bền vững theo vùng, miền.

Thách thức mà các nhà quản lý, doanh nghiệp và nông dân đồng bằng sông Cửu Long đã và đang đối mặt là tính cạnh tranh đối với các mặt hàng nông, thủy sản chất lượng cao, giá rẻ và dịch vụ tốt trên thị trường ngày càng gay gắt khi nước ta hội nhập sâu vào nền kinh tế toàn cầu. Khi đó, các hàng hóa như lúa gạo, cây ăn trái, rau màu, các sản phẩm từ chăn nuôi và thủy sản của đồng bằng sông Cửu Long cũng như cả nước sẽ phải cạnh tranh gay gắt trên cả sân nhà lẫn sân khách. Điều đáng quan ngại là hiện nay giá thành sản xuất một số hàng hóa còn khá cao, chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn về chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm theo các tiêu chuẩn quốc tế. Nguyên nhân là do hệ thống quản lý và giám sát tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa còn nhiều bất cập; việc xây dựng hệ thống sản xuất theo tiêu chuẩn mô hình GlobalGAP, VietGAP còn gặp khó khăn. Vùng đồng bằng sông Cửu Long gặp nhiều thách thức do thiên tai, dịch bệnh gia tăng và tình trạng biến đổi khí hậu ngày càng mạnh mẽ. Do đó, các loại dịch bệnh dễ bùng phát trên lúa, thủy sản, gia súc, gia cầm; diện tích nông nghiệp toàn vùng bị thu hẹp, thay đổi hệ sinh thái, ảnh hưởng rất lớn đến phát triển kinh tế - xã hội và đời sống người dân. Ngoài ra, tình trạng sản lượng tăng nhưng thu nhập của người nông dân không tăng tương xứng, hiện tượng tranh mua, tranh bán trên thương trường ngày càng gay gắt cũng là những thách thức không nhỏ trong phát triển sản xuất nông nghiệp của vùng trong thời gian tới.

Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05 tháng 8 năm 2008, Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X "Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn” đã nhấn mạnh mục tiêu trước mắt là tạo chuyển biến mạnh mẽ trong sản xuất nông nghiệp, kinh tế nông thôn và nâng cao đời sống nhân dân trên cơ sở đẩy mạnh phát triển nông nghiệp, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn; tăng cường nghiên cứu và chuyển giao khoa học - công nghệ tiên tiến, tạo bước đột phá trong đào tạo nhân lực; tăng cường công tác xóa đói, giảm nghèo. Phát huy thế mạnh từng vùng, đẩy mạnh sản xuất hàng hóa nông sản xuất khẩu và bảo đảm an ninh lương thực quốc gia.

Xuất phát từ yêu cầu phát triển bền vững vùng đồng bằng sông Cửu Long, Bộ Chính trị đã có Kết luận số 28-KL/TW ngày 14-8-2012 “Về phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm an ninh, quốc phòng vùng đồng bằng sông Cửu Long, thời kỳ 2011 - 2020”. Theo đó, phương hướng, mục tiêu phát triển đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2020 được xác định là: “Xây dựng và phát triển vùng đồng bằng sông Cửu Long trở thành vùng trọng điểm sản xuất nông nghiệp hàng hóa theo hướng hiện đại, phát triển công nghiệp chế biến và công nghiệp phụ trợ cho nông nghiệp với tốc độ tăng trưởng cao, bền vững. Phát triển mạnh kinh tế biển, xây dựng ngành thủy sản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của quốc gia có quy mô lớn, hiện đại, sức cạnh tranh cao… Tập trung hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Phát triển công nghiệp năng lượng, sinh hóa, công nghiệp chế tác trực tiếp phục vụ sản xuất nông nghiệp. Hình thành cơ cấu hệ thống đê điều, cống đập ngăn mặn, ứng phó với nước biển dâng và tác động của thượng nguồn sông Mê Công…”.

Để tiếp tục thực hiện tốt Nghị quyết số 26-NQ/TW, kết luận số 28-KL/TW, Quyết định số 939/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về “Phê duyệt kế hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2020”, vấn đề đặt ra hiện nay là phải khẩn trương cơ cấu lại và phát triển bền vững nông nghiệp vùng đồng bằng sông Cửu Long trên cơ sở liên kết vùng.

Yêu cầu cấp thiết và mang tính tất yếu là phải tăng cường các mối quan hệ, liên kết vùng cụ thể để cùng nhau đưa ra những chính sách, mục tiêu sản xuất nông nghiệp bền vững, nhằm bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội của toàn vùng và cả nước. Liên kết vùng là một trong những cơ sở quan trọng để tiến hành quá trình cơ cấu lại nền kinh tế nói chung và cơ cấu lạ nông nghiệp vùng đồng bằng sông Cửu Long nói riêng. Tạo được sự liên kết vùng vững chắc và thực chất sẽ nâng cao hiệu quả đầu tư, tránh tình trạng đầu tư dàn trải, lãng phí và sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các địa phương; hướng đến mục tiêu hiện đại hóa ngành sản xuất lúa gạo, thủy sản, cây ăn trái và xây dựng nông thôn mới, giúp hàng chục triệu nông dân đồng bằng sông Cửu Long trở thành “doanh nhân nông nghiệp”, vươn lên khá giàu bằng chính nghề nông.

Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, lãnh đạo 13 tỉnh, thành vùng đồng bằng sông Cửu Long đã cùng với Trường Đại học Cần Thơ, Viện Lúa đồng bằng sông Cửu Long, Viện Cây ăn quả miền Nam xây dựng “Đề án Liên kết vùng với sự tham gia “4 nhà” để hỗ trợ và phát triển nông nghiệp vùng đồng bằng sông Cửu Long” trong thời gian tới.

Mục tiêu chung của Đề án là: Phát triển bền vững các ngành hàng nông nghiệp chủ lực ở đồng bằng sông Cửu Long thông qua liên kết vùng với sự tham gia của “ 4 nhà” (nhà nước - nhà khoa học - nhà doanh nghiệp - nhà nông), làm nền tảng khoa học và thực tiễn vững chắc phát triển cơ chế, tổ chức và chính sách cải tiến năng lực cạnh tranh của ngành nông nghiệp trong bối cảnh hội nhập quốc tế và ứng phó với biến đổi khí hậu, góp phần bảo đảm an ninh lương thực quốc gia và phát triển nông thôn vùng đồng bằng sông Cửu Long bền vững.

Muốn xây dựng được cơ chế, chính sách trong liên kết vùng, yêu cầu đặt ra là các địa phương vùng đồng bằng sông Cửu Long phải xuất phát trên tinh thần tự nguyện, nhận thấy lợi ích của việc liên kết, lấy lợi ích chung, lợi ích của toàn vùng để xác định mục tiêu liên kết. Trong đó, cần tập trung giải quyết tốt các vấn đề: bảo đảm an ninh quốc phòng, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội bền vững, hạn chế ô nhiễm môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu. Nếu không có sự liên kết thì không thể nâng cao năng lực cạnh tranh, không phát huy được lợi thế, tiềm năng của vùng, của từng địa phương, thậm chí còn triệt tiêu lợi thế của nhau. Liên kết vùng không chỉ nhằm phát huy lợi thế của từng địa phương trong vùng mà còn phát huy lợi thế quốc gia. Các nội dung liên kết, triển khai thực hiện cần có vai trò của Nhà nước, Chính phủ, các bộ, ngành Trung ương, các địa phương trong vùng đồng bằng sông Cửu Long và cả hệ thống chính trị vào cuộc.

Một số giải pháp cần tập trung thực hiện thời gian tới

Để cơ cấu lại và phát triển bền vững nông nghiệp đồng bằng sông Cửu Long trên cơ sở liên kết vùng, hướng tới xây dựng một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, hiệu quả và bền vững, có năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh cao, đáp ứng nhu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu, thời gian tới các bộ, ngành Trung ương có liên quan và các địa phương vùng đồng bằng sông Cửu Long cần chú trọng phối hợp thực hiện tốt một số giải pháp sau:

Một là, quy hoạch lại sản xuất nông nghiệp theo vùng, theo quy mô liên kết vùng trên cơ sở gắn với cung - cầu thị trường, gắn với mục tiêu nâng cao hiệu quả, chất lượng, giá trị nông sản. Các địa phương cần tạo môi trường thuận lợi để thiết lập và tăng cường các mối liên kết giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp với người dân, giữa người dân với người dân, nhằm tổ chức, hình thành mối liên kết giữa sản xuất, chế biến và bao tiêu sản phẩm chặt chẽ hơn.

Hai là, trên cơ sở các quyết định, quy định của Chính phủ về liên kết của từng vùng, từng địa phương, các tỉnh, thành vùng đồng bằng sông Cửu Long có thể ký kết các thỏa thuận, quy chế liên kết trong một số lĩnh vực có thế mạnh, nhất là trong nông nghiệp, thủy sản, và có thể triển khai ngay vào thực tế để phát huy hiệu quả của các mô hình liên kết đã có.

Ba là, cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp và phát triển kinh tế nông nghiệp đồng bằng sông Cửu Long phải theo hướng sản xuất hàng hóa lớn. Trước hết, cần quan tâm xây dựng, nhân rộng mô hình “Cánh đồng lớn”, các vùng chuyên canh, nâng cao năng lực tổ chức và quản lý của nông dân, tăng cường mối liên kết “4 nhà” theo những mô hình hợp tác kiểu mới. Để tái cơ cấu ngành lúa gạo đồng bằng sông Cửu Long, cần chú trọng giải quyết tốt vấn đề thu nhập của người trồng lúa. Quá trình tái cơ cấu phải chú trọng đến việc cải tiến, đổi mới cơ chế, chính sách nhằm bảo đảm tính hài hòa trong việc phân chia lợi ích giữa các khâu trong chuỗi sản xuất tiêu thụ lúa gạo.

Bốn là, về lâu dài, trong sản xuất lúa, cá tra, tôm… phải có sự điều chỉnh căn cơ từ cơ cấu sản xuất, theo hướng phân bổ lại nguồn lực đầu tư phù hợp; gắn kết chặt chẽ từ khâu sản xuất, chế biến đến xuất khẩu, nhằm nâng cao giá trị sản phẩm, đem lại hiệu quả cao hơn cho người sản xuất và kinh doanh. Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ và các ngành, địa phương trong vùng cần tăng cường phối hợp để hỗ trợ, tạo điều kiện quảng bá các sản phẩm nông nghiệp chủ lực của đồng bằng sông Cửu Long hướng đến người tiêu dùng trong và ngoài nước.

Năm là, tập trung cải tạo giống cây trồng, vật nuôi, tạo và nhân nhanh các giống có năng suất, chất lượng và giá trị cao. Tăng cường năng lực hợp tác nghiên cứu khoa học - công nghệ giữa các địa phương trong vùng, giữa vùng đồng bằng sông Cửu Long với các vùng miền khác trong cả nước, kết hợp chuyển giao công nghệ từ nước ngoài để chọn lựa các giống cây, con cho năng suất và chất lượng cao. Đưa nhanh các công nghệ mới vào tất cả các khâu: sản xuất, thu hoạch, bảo quản, chế biến, vận chuyển và tiêu thụ sản phẩm.

Sáu là, xây dựng và thí điểm các khu nông nghiệp công nghệ cao dựa vào những tiến bộ khoa học - công nghệ mới, nhất là công nghệ sinh học, công nghệ thông tin; xây dựng các mô hình liên kết, quản lý theo tiêu chí hiện đại. Sau đó nhân rộng để tạo bước chuyển biến đột phá trong sản xuất nông nghiệp vùng đồng bằng sông Cửu Long./.