Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã từ sau Hội nghị Trung ương 5 khóa IX và một số kiến nghị

ThS. Trần Thị Hạnh Trường Đại học Nội vụ - Bộ Nội vụ
17:02, ngày 03-07-2015

TCCSĐT - Thực tiễn cho thấy, chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã có vai trò quan trọng, quyết định sự phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa ở địa phương. Đảng, Nhà nước luôn quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã, thông qua việc ban hành nhiều chủ trương, các văn bản quy phạm pháp luật nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã. Gần đây nhất là Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa IX, ngày 18-3-2002, “Về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn".

1- Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa IX (Nghị quyết số 17-NQ/TW) đã chỉ ra những mục tiêu cơ bản là: Xây dựng đội ngũ cán bộ ở cơ sở có năng lực tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, công tâm, thạo việc, tận tụy với dân, biết phát huy sức dân, không tham nhũng; trẻ hóa đội ngũ, chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng, giải quyết hợp lý và đồng bộ chính sách đối với cán bộ cơ sở… Quan điểm, chủ trương này đặt cơ sở cho việc xác định các chức danh cán bộ, công chức và chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã.

Thể chế hóa Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa IX, các cơ quan nhà nước đã ban hành nhiều văn bản, nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã, như: Pháp lệnh Cán bộ, công chức (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2003); Nghị định số 114/2003/NĐ-CP, ngày 10-10-2003 của Chính phủ, về cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn; Thông tư số 03/2004/TT-BNV, ngày 16-01-2004, của Bộ Nội vụ, hướng dẫn thực hiện Nghị định số 114/2003/NĐ-CP; Nghị định số 121/2003/NĐ-CP, ngày 21-10-2003, của Chính phủ, về chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn; Thông tư liên tịch số 34/2004/TTLT-BNV-BTC-BLĐTBXH, ngày 14-5-2004 của Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, hướng dẫn thực hiện Nghị định số 121/2003/NĐ-CP; Quyết định số 106/2007/QĐ-TTCP, ngày 13-7-2007, của Thủ tướng Chính phủ, về việc xây dựng Đề án “Một số giải pháp tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng và tạo nguồn đội ngũ cán bộ hệ thống chính trị cơ sở vùng Tây Bắc (giai đoạn 2007 - 2010); Nghị định số 112/2011/NĐ-CP, ngày 05-12-2011, của Chính phủ, về công chức xã, phường, thị trấn; Hướng dẫn số 2788/HD-BNV, ngày 29-7-2011, của Bộ Nội vụ, về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức xã giai đoạn 2011 - 2015 thực hiện Quyết định số 1956/QĐ-TTg; Thông tư số 06/2012/TT-BNV của Bộ Nội vụ, về chức trách, tiêu chuẩn cụ thể, nhiệm vụ và tuyển dụng công chức xã, phường, thị trấn... Những văn bản trên là cơ sở pháp lý quan trọng để làm tốt công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã.

Đặc biệt, Luật Cán bộ công chức (năm 2008) lần đầu tiên đã dành riêng một chương quy định về cán bộ, công chức cấp xã. Điều này góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã theo đúng tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa IX. Và gần đây nhất, Dự án thí điểm tuyển chọn 600 trí thức trẻ làm phó chủ tịch xã tại 62 huyện nghèo trong cả nước; Đề án tuyển chọn 500 trí thức trẻ về các xã tham gia phát triển nông thôn miền núi giai đoạn 2013 - 2020; Kết luận số 86-KL/TW, mục tiêu đến năm 2020 thu hút ít nhất 1.000 sinh viên tốt nghiệp xuất sắc và cán bộ khoa học trẻ vào các lĩnh vực công tác của cơ quan Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội từ trung ương đến địa phương nhằm mục đích phát triển kinh tế - xã hội, góp phần xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới đồng thời nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã theo chủ trương của Đảng.

Song song với đó, tại các địa phương, như Đà Nẵng, Bình Dương, Lào Cai, Bạc Liêu, Hải Dương... cũng đã ban hành nhiều văn bản nhằm thu hút nhân lực, nâng cao chất lượng cán bộ, công chức cấp xã.

Có thể thấy, trong thời gian qua cùng với sự quan tâm lãnh đạo của Đảng, sự ủng hộ của các cấp ủy đảng, chính quyền, từ trung ương đến địa phương, đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã đã có bước phát triển cả về số lượng, chất lượng. Công tác bầu cử, tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng, khen thưởng, kỷ luật, thôi việc, phân cấp quản lý cán bộ, công chức và chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao về công tác tại địa bàn xã… đã được thực hiện một cách công khai, minh bạch, theo đúng quy định. Điều này đã tạo động lực cho đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã nêu cao tinh thần trách nhiệm, phấn đấu học tập, bồi dưỡng nhằm hoàn thiện trình độ đáp ứng yêu cầu vị trí việc làm, góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương nói riêng và của đất nước nói chung. Đến nay, nhìn chung đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã có trình độ chuyên môn, lý luận chính trị, kỹ năng giải quyết công việc, thực hiện tốt nhiệm vụ được giao góp phần đưa đời sống người dân nông thôn phát triển từng bước.

2- Tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay đặt ra yêu cầu ngày càng cao về quản lý, điều hành phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn xã, đòi hỏi cán bộ, công chức cấp xã phải có trình độ về tin học, khả năng nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ vào thực tiễn hoạt động, đội ngũ này tại nhiều địa phương đã bộc lộ những hạn chế, yếu kém.

Theo thống kê của Bộ Nội vụ về số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức và người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, tính đến tháng 6-2013, cho thấy:

Về đội ngũ cán bộ chuyên trách cấp xã, cả nước có 145.112 người. Trong đó, số cán bộ người dân tộc thiểu số là 27.571 người (chiếm 19%); số cán bộ nữ là 24.959 người (chiếm 17,2%). Về trình độ chuyên môn, số cán bộ chưa qua đào tạo có 45.071 người (chiếm 31,06%); số có trình độ sơ cấp là 9.375 người (chiếm 6,46%); trung cấp là 52.429 người (chiếm 36,13%); cao đẳng là 6.095 người (chiếm 4,20%) và đại học là 32.142 người (chiếm 22,15%). Về trình độ lý luận chính trị, số chưa qua đào tạo là 25.336 người (chiếm 17,46%); số có trình độ sơ cấp là 23.639 người (chiếm 16,29%); trung cấp 89.244 người (chiếm 61,5%) và cao cấp là 6.893 người (chiếm 4,75%).

Đội ngũ công chức cấp xã cả nước có 111.496 người. Trong đó, số công chức người dân tộc thiểu số là 17.728 người (chiếm 15,90%), số công chức nữ là 28.097 người (chiếm 25,20%). Về trình độ chuyên môn: có 8.507 công chức (chiếm 7,63%) chưa qua đào tạo chuyên môn; công chức có trình độ sơ cấp là 2.409 người (chiếm 2,16%); trung cấp là 66.251 người (chiếm 59,42%); cao đẳng là 6.790 người (chiếm 6,09%) và trình độ đại học là 27.539 người (chiếm 24,7%). Về trình độ lý luận chính trị, số công chức chưa qua đào tạo là 46.082 người (chiếm 41,33%); trình độ sơ cấp là 23.481 người (chiếm 21,06%); trung cấp là 41.119 người (chiếm 36,88%) và trình độ cao cấp là 814 người (chiếm 0,73%).

Số liệu thống kê cho thấy, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã nhìn chung thấp hơn so với mặt bằng chung của đội ngũ cán bộ, công chức các cấp. Cán bộ, công chức cấp xã có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ tốt nghiệp trung cấp chiếm đại đa số (cán bộ chiếm tỉ lệ là 36,13%; công chức chiếm tỉ lệ là 59,42%). Đó là thống kê trên văn bằng, chứng chỉ còn trong thực tế, không ít cán bộ, công chức cấp xã chỉ ở trình độ "cầm tay chỉ việc", nên khi tham mưu trong quản lý nhà nước và giải quyết các thủ tục hành chính còn nhiều lúng túng, dẫn đến sai phạm gây bức xúc, khiếu kiện trong nhân dân. Chăn nuôi, trồng trọt là công việc chính ở nông thôn nhưng nhiều người trong đội ngũ này không am hiểu về kỹ thuật nông nghiệp không tham mưu được cho sự phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.

Với trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và lý luận chính trị như vậy, đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã đang gặp phải những thách thức lớn trước đòi hỏi phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn hiện nay. Trong khi đó, lực lượng đông đảo sinh viên tốt nghiệp đại học, được đào tạo cơ bản thì không được tuyển dụng, dẫn đến tình trạng, nguồn lực cho đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã vừa thừa, lại vừa thiếu.

3- Để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã, nhằm đạt được mục tiêu như Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa IX đã đề ra, xin đề xuất một số giải pháp cơ bản sau:

Một là, khảo sát, điều tra, đánh giá một cách khách quan thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã về tiêu chuẩn, điều kiện; độ tuổi, thâm niên công tác. Trên cơ sở khảo sát, tiến hành những biện pháp sau:

- Cán bộ, công chức cấp xã không đủ tiêu chuẩn, cần có yêu cầu cụ thể về thời gian hoàn thiện bằng cấp theo quy định tiêu chuẩn của ngạch. Nếu không hoàn thành nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng theo đúng thời gian quy định thì sẽ điều chuyển sang ngạch khác.

- Cán bộ, công chức có thời gian cống hiến lâu năm, đã lớn tuổi không có khả năng đào tạo, làm việc theo kinh nghiệm, giải quyết công việc hiệu quả không cao mà trình độ chuyên môn, nghiệp vụ chưa đạt tiêu chuẩn theo quy định nên có chế độ, chính sách phù hợp, nhằm khuyến khích nghỉ hưu trước tuổi hoặc áp dụng hình thức nghỉ thôi việc.

- Làm tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng để bảo đảm cho cán bộ tham gia các nhiệm kỳ đủ trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đạt tiêu chuẩn. Đồng thời, đối với cán bộ không đạt tiêu chuẩn về chuyên môn, nghiệp vụ và trình độ lý luận chính trị thì không đưa vào danh sách bầu cử.

Hai là, tiêu chuẩn về cán bộ, công chức cấp xã chỉ yêu cầu tốt nghiệp trung cấp như hiện nay là quá thấp. Hiện nay, đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã phải tốt nghiệp đại học. Vì vậy, cần ban hành quy định mới về tiêu chuẩn trình độ chuyên môn của cán bộ, công chức khi tuyển dụng, bổ nhiệm phải đạt trình độ đại học trở lên.

Ba là, tổ chức thi sát hạch công chức 5 năm/lần, như các nước tiên tiến hiện nay trên thế giới đang áp dụng, kết hợp với khảo sát lấy ý kiến phản hồi của người dân về chuyên môn, nghiệp vụ, thái độ, tinh thần phục vụ, kỹ năng giải quyết công việc của đội ngũ công chức cấp xã. Đây sẽ là căn cứ để thải loại những công chức không có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và phẩm chất đạo đức kém ra khỏi bộ máy công quyền.

Bốn là, xây dựng chế độ phụ cấp công vụ phù hợp, thống nhất đối với công chức khối đảng, đoàn thể và công chức khối cơ quan nhà nước. Có chế độ phụ cấp và chính sách thu hút đối với cán bộ, công chức công tác ở các xã vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo có nhiều khó khăn và vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số. Tiến hành thực hiện đúng và kịp thời các chính sách đối với đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã, như thu hút, đãi ngộ nhân tài; khuyến khích đào tạo, bồi dưỡng; thu hút, bố trí, sử dụng sinh viên tốt nghiệp đại học về công tác tại xã... Qua đây, động viên sự nhiệt tình công tác, gắn bó với địa phương, củng cố sự đoàn kết, thống nhất trong đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã, ngăn chặn những tiêu cực của cán bộ, công chức và thực hiện công bằng xã hội.

Năm là, đối với đề án thu hút trí thức trẻ về công tác tại địa bàn xã:

- Cần triển khai nhân rộng mô hình Dự án 500 trí thức trẻ tình nguyện về công tác tại các xã khó khăn trên kết quả điều tra, khảo sát các xã trong cả nước, chứ không chỉ đưa trí thức trẻ về công tác tại các xã tự đăng ký như hiện nay, để tránh tình trạng tiêu chí “con ông cháu cha” được ưu tiên tuyển dụng hơn người có trình độ. Nâng số lượng tuyển trí thức trẻ cho mỗi xã không phải một như hiện tại, mà là hai người, góp phần giải quyết tình trạng thất nghiệp cho đội ngũ sinh viên tốt nghiệp đại học, đồng thời nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã.

- Chính sách trong tuyển dụng là xét hồ sơ mà không qua thi tuyển công chức như quy định sẽ dẫn đến tiêu cực nhất định. Việc đánh giá năng lực, trình độ dựa trên bằng cấp, chứng chỉ đôi khi chỉ mang tính hình thức, máy móc, có sinh viên tốt nghiệp loại giỏi, xuất sắc nhưng trong thực tế chất lượng thực hiện công việc lại không tương xứng kết quả học tập; chưa có phương pháp kiểm chứng chất lượng thật, trình độ, năng lực thật sẽ tạo kẽ hở trong công tác tuyển chọn.

Để khắc phục tình trạng này, xin có đề xuất như sau: Bộ Giáo dục và Đào tạo cần có văn bản quy định cụ thể về danh tiếng và mức độ xếp hạng của các trường đại học hoặc cơ sở đào tạo ở trong và ngoài nước, nhằm bảo đảm tính công bằng trong công tác tuyển dụng, để thu hút được đội ngũ trí thức trẻ có trình độ thực sự về công tác tại địa bàn xã; đánh giá kết quả làm việc sau khi tiếp nhận, từ đó tuyển dụng đúng người, đúng việc. Nội dung đánh giá cần tập trung vào công việc theo vị trí việc làm. Đồng thời, cũng cần có các quy định cũng như chính sách phù hợp. Ví dụ, nếu sau một năm công tác, đối tượng tuyển dụng được đánh giá xếp từ loại khá trở xuống sẽ không được hưởng phụ cấp hằng tháng, xếp loại trung bình sẽ cho thôi việc...

- Cần có chính sách đủ mạnh nhằm giữ chân đội ngũ trí thức trẻ sau khi hết thời gian công tác tại xã. Chính sách cần tập trung vào chế độ phụ cấp, đãi ngộ, tiền lương, nhà ở... và tạo điều kiện về cơ sở vật chất, môi trường làm việc giúp đội ngũ trí thức trẻ yên tâm công tác, gắn bó lâu dài với địa phương.

Sáu là, cần tập trung làm tốt công tác quy hoạch đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã theo từng giai đoạn, từng năm cụ thể. Muốn làm được vậy, Nhà nước cần có văn bản hướng dẫn cụ thể về chế độ công chức dự bị đối với cán bộ, công chức cấp xã, tránh tình trạng mỗi địa phương thực hiện một kiểu như hiện nay, nhằm đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức kế cận đáp ứng được ngay số lượng cán bộ, công chức cấp xã thiếu hụt do nghỉ hưu, do thay đổi sau mỗi nhiệm kỳ, hay cán bộ, công chức bị buộc thôi việc./.