Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở nông thôn

Tăng Minh Lộc
16:21, ngày 15-10-2008

Nông nghiệp, nông dân và nông thôn là nội dung có tầm quan trọng đặc biệt trong sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chiến lược phát triển đất nước của Đảng cũng như các cam kết của Chính phủ trên lộ trình hội nhập kinh tế thế giới, giải quyết tốt các nội dung đặt ra đối với nông nghiệp, nông dân, nông thôn thực sự là chìa khóa để đạt tới sự phát triển toàn diện, bền vững.

Những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chính sách về phát triển nông nghiệp, nông thôn. Chỉ tính từ năm 2000 đến năm 2007 đã có 34 nghị quyết, quyết định về các chính sách đầu tư, hỗ trợ phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Nhờ đó, đời sống người dân được cải thiện, diện mạo nông thôn nhiều vùng quê đổi thay và phát triển theo hướng tích cực. Nông nghiệp đã đạt tốc độ tăng trưởng cao và tăng đều qua các năm, bảo đảm được an ninh lương thực, kim ngạch xuất khẩu tăng. Có thể nói, phát triển nông nghiệp, xóa đói, giảm nghèo là một trong những thành tựu kinh tế lớn nhất của nước ta trong thời kỳ đổi mới.

Về chất lượng nguồn nhân lực nông thôn hiện nay

Nội tại vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn ở nước ta vẫn còn chứa đựng nhiều mảng yếu. Trong quá trình tác động của công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, những mảng yếu đó càng bộc lộ rõ hơn. Một trong những mảng yếu đó là chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển. Những cơ hội đem lại cho người lao động trong lộ trình thực hiện các cam kết gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) là việc làm tăng do sự xuất hiện nhiều nghề mới ở các lĩnh vực mới, khu vực mới; thị trường lao động phát triển, sự di chuyển lao động giữa các vùng và lãnh thổ, giữa các doanh nghiệp... tăng cao. Người lao động Việt Nam vừa có thể tham gia sâu vào quá trình phân công lao động quốc tế vừa có cơ hội để tiếp nhận khoa học và công nghệ tiên tiến. Chúng ta đang có một lực lượng lao động xã hội rất lớn. Nguồn lao động của Việt Nam hằng năm được bổ sung nhiều nhưng cơ hội để họ có được việc làm bảo đảm thu nhập ổn định đời sống lại không dễ dàng. Số lao động đã được đào tạo không chỉ chiếm tỷ lệ thấp mà còn bất cập do chất lượng đào tạo kém; cơ cấu đào tạo bất hợp lý, mất cân đối giữa đào tạo nghề và đào tạo ở cấp bậc đại học, cao đẳng. Thêm nữa, số đã qua đào tạo đối với thanh niên ở khu vực nông thôn lại chiếm tỷ lệ rất thấp so với khu vực đô thị. Quá trình đô thị hóa nông thôn đã làm gia tăng áp lực về thiếu việc làm cho khu vực này thêm trầm trọng; đồng nghĩa với việc gia tăng tỷ lệ chất lượng nguồn nhân lực thấp.

Mâu thuẫn nội tại chất lượng nguồn nhân lực nông thôn nước ta càng phát sinh thêm do chúng ta chưa tìm ra được lối thoát về đào tạo để nâng cao chất lượng nhân lực cho khu vực này. Hiện nay, hơn 78% lao động ở nước ta chưa qua đào tạo, trong số đó 63% là lao động ở địa bàn nông nghiệp, nông thôn. Đây thực sự là một số liệu đáng để chúng ta phải suy nghĩ và trăn trở.

Đặc điểm dễ nhận thấy ở người lao động của một nền sản xuất nông nghiệp có trình độ thấp ở Việt Nam như hiện nay là vẫn mang nặng tính chất của người sản xuất nhỏ lẻ, phân tán, năng lực ứng dụng khoa học - công nghệ và các tiến bộ kỹ thuật vào thực tiễn rất hạn chế, nên đa số họ là những người thụ động, tư duy cạnh tranh kém, tính tự do và manh mún cao. Từ đó thu nhập của họ thấp, khả năng chuyển đổi nghề khi bị mất đất hoặc cơ hội tham gia vào môi trường lao động công nghiệp đòi hỏi các kỹ năng và tính kỷ luật lao động cao là không dễ dàng.

Hiện nay nước ta có 10 triệu hộ nông dân với hơn 30 triệu lao động trong độ tuổi, nhưng mới có 17% trong số đó được đào tạo chủ yếu thông qua các lớp tập huấn khuyến nông sơ sài. Trong số 16,5 triệu thanh niên nông thôn đang cần có việc làm ổn định thì chỉ có 12% tốt nghiệp phổ thông trung học; 3,11% có trình độ chuyên môn kỹ thuật từ trung cấp trở lên (thấp hơn 4 lần so với thanh niên đô thị). Với trình độ như vậy họ khó có thể áp dụng tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp có ứng dụng công nghệ cao, đủ sức cạnh tranh với sản phẩm hàng hóa nông sản trong khu vực và cũng khó có thể tìm được việc làm ở các doanh nghiệp đòi hỏi lao động phải qua đào tạo và đạt trình độ tay nghề cao. Do đó, nhiều nơi sau khi chuyển ruộng đất cho sản xuất công nghiệp, nếu doanh nghiệp có ưu tiên tuyển lao động trẻ cho các hộ mất đất thì họ cũng khó có thể đảm nhận công việc kỹ thuật để đạt được mức thu nhập cao, nên dù có những cơ hội chuyển đổi nghề, người lao động nông thôn (bao gồm cả thanh niên đến tuổi lao động và người chủ gia đình bị mất đất) đều khó tiếp nhận những nghề mới. Tình trạng nguồn lao động trình độ thấp, chưa được đào tạo nghề (cả nghề nông và phi nông) cùng với sự thiếu kiến thức, tác phong sống và tính kỷ luật, kỹ năng lao động trong lao động công nghiệp kém nên rất khó đáp ứng được yêu cầu ngày càng tăng cao trước tốc độ của công nghiệp hóa và hội nhập. Từ đó có thể thấy rằng, thu nhập của người lao động ở khu vực nông thôn thấp và ngày càng cách xa ở khu vực đô thị. Những điểm vừa nêu trên đây là một rào cản và thách thức lớn nhất trong giai đoạn hiện nay đối với người lao động khu vực nông thôn.

Cũng cần phải nói đến một thực trạng có ảnh hưởng quan trọng đến chất lượng nguồn nhân lực nông thôn là đội ngũ cán bộ cơ sở. Theo số liệu điều tra thống kê năm 2006, cả nước có 81.300 công chức xã. Về trình độ học vấn: có 0,1% chưa biết chữ; 2,4% có trình độ tiểu học; 21,5% trung học cơ sở và 75% trung học phổ thông. Về trình độ chuyên môn: 9% cao đẳng, đại học; 39,4% trung cấp; 9,8% sơ cấp; 48,7% chưa đào tạo. Về trình độ quản lý nhà nước: có tới 55% chưa qua bất kỳ lớp học quản lý nhà nước nào; 85% không hiểu biết gì về vi tính. ở vùng nào cũng có cán bộ chưa qua đào tạo. Tại các tỉnh vùng núi Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ tỷ lệ còn cao hơn. Đó là lý do chủ yếu dẫn đến tình trạng trì trệ, yếu kém, thiếu khả năng vận động tổ chức, chỉ đạo quần chúng thực hiện các nhiệm vụ chính trị ở địa phương, cơ sở. Tình trạng lúng túng trong giải quyết các công việc phát sinh từ thực tế, thậm chí còn làm sai lệch chính sách, pháp luật không phải là hiện tượng cá biệt. Lực lượng khoa học kỹ thuật nông nghiệp ở nông thôn hiện chỉ chiếm 0,5% - 0,6% lao động trực tiếp ở khu vực này... Bất cập nữa là về chính sách sử dụng và thu hút cán bộ, người lao động có trình độ cao cũng đang bộc lộ sự bảo thủ, lạc hậu, chậm đổi mới, không thỏa mãn được các yêu cầu cơ bản, tối thiểu hiện nay, ít nhất là về lợi ích, vì vậy không thu hút được lực lượng lao động có trình độ cao về làm việc ở địa phương, thậm chí còn khó ”giữ chân” được những cán bộ khoa học - kỹ thuật đang công tác tại các cơ sở ở nông thôn. Tình trạng này càng làm cho chất lượng nguồn nhân lực nông thôn trở nên thấp kém hơn.

Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến chất lượng nguồn nhân lực ở nông thôn thấp, ảnh hưởng lớn đến tiến trình phát triển chính là do môi trường kinh tế, văn hóa - xã hội nông thôn chưa thực sự thay đổi lớn theo hướng phát triển bền vững trên lộ trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Quá trình đô thị hóa nông thôn diễn ra với tốc độ cao nhưng mang nặng tính tự phát nên công nghiệp - dịch vụ nông thôn khó phát triển; môi trường tự nhiên bị phá vỡ, sinh thái bị mất cân bằng; thu nhập của nông dân tuy được cải thiện nhưng còn thấp; sự chênh lệch giữa các vùng, giữa nông thôn và đô thị ngày càng cách xa. Tác động của quá trình mất đất và sự thiếu chuẩn bị việc chuyển đổi nghề cho nông dân đã thúc đẩy tình trạng di dân tự do tìm việc làm ở đô thị hoặc các khu công nghiệp các tỉnh phía Nam. Nhiều nơi, lực lượng lao động trên đồng ruộng đa số là phụ nữ, người già và trẻ em. Từ đó, dẫn đến tình trạng sản xuất nông nghiệp bấp bênh; thu nhập từ lao động nông nghiệp không có lãi nên người lao động dễ dàng coi nhẹ sản xuất trên đồng ruộng. Như vậy có thể thấy khá rõ các yếu tố: môi trường xã hội và tự nhiên nông thôn suy giảm; trình độ kiến thức, kỹ năng lao động của người lao động nông thôn thấp; lực hút cán bộ khoa học - kỹ thuật khu vực nông nghiệp mỏng manh và trình độ quản lý, tổ chức của đội ngũ cán bộ cơ sở (thôn, xã) yếu kém làm cho chất lượng nguồn nhân lực khu vực nông thôn - chìa khóa mở ra sự thành công của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn gặp nhiều thách thức và trở ngại.

Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở nông thôn

Mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2020 đã được Đảng ta xác định là:

- Phát triển nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, đa dạng, bền vững có chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao. Tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 3%- 3,5%/năm.

- Xây dựng một nông thôn mới giàu đẹp, có kinh tế phát triển, kết cấu hạ tầng hiện đại, môi trường sinh thái sạch đẹp, bản sắc văn hóa được giữ gìn.

- Nâng cao chất lượng cuộc sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Tăng thu nhập của nông dân đạt khoảng 2.000 - 2.500 USD/năm. Xây dựng người nông dân thành người lao động văn minh có văn hóa, có kiến thức kinh tế- kỹ thuật, biết kinh doanh và có đời sống khá giả.

Để đạt mục tiêu đó thì việc đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nông thôn bao gồm đào tạo nghề cho nông dân, kiến thức tổ chức quản lý kinh tế - xã hội cho đội ngũ cán bộ cơ sở, tăng cường lực lượng cán bộ khoa học - kỹ thuật nông nghiệp, phát triển kết cấu hạ tầng cấp xã cho các vùng nông thôn phải được coi là giải pháp trọng điểm, là khâu ”đột phá”. Trong giai đoạn tới, bám sát vào mục tiêu trên để đề ra kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực tương thích. Theo đó, đến năm 2020, có khoảng 60% - 70% lao động nông nghiệp sẽ được chuyển sang các ngành công nghiệp, dịch vụ. Số lao động này phải được đào tạo nghề cơ bản và số nông dân còn lại phải được đào tạo nghề nông đạt tỷ lệ khoảng 40%.

Về nội dung nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trước hết là chú trọng việc đào tạo nghề nông cho nông dân và các chủ trang trại nhằm giúp họ nâng cao kiến thức hiểu biết về khoa học - kỹ thuật hướng tới năng suất lao động cao, chất lượng tốt, giá thành hạ, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm; biết làm nghề nông một cách khoa học, có kỹ năng quản lý, có kiến thức thị trường để lựa chọn nghề sản xuất ra loại sản phẩm có giá trị kinh tế cao; đồng thời, bồi dưỡng kiến thức xây dựng nông thôn mới để giúp họ tham gia vào quá trình xây dựng kế hoạch phát triển làng, xã, tự giác đóng góp xây dựng và quản lý sau xây dựng các công trình hạ tầng của cộng đồng.

- Đào tạo nghề cho nông dân chủ yếu là tập huấn, bồi dưỡng kiến thức cho lao động nông nghiệp qua trung tâm học tập cộng đồng tại thôn do một tổ chức đoàn thể hoặc hợp tác xã nơi đó chủ trì. Sử dụng các mô hình mẫu của chương trình khuyến nông. Kết hợp hình thức đào tạo, bồi dưỡng ở trình độ cao hơn tại hệ thống các trường cao đẳng, trung cấp nông nghiệp tỉnh.

- Đào tạo nghề công nghiệp - dịch vụ cho lao động nông thôn, chủ yếu là thanh niên, học sinh mới tốt nghiệp hệ phổ thông hoặc bổ túc văn hóa giúp họ chuẩn bị sẵn điều kiện chuyển sang lao động nghề phi nông nghiệp trong nước. Với lực lượng lao động này, cần đặc biệt coi trọng dạy nghề, ngoại ngữ, kỹ năng giao tiếp phục vụ cho nhu cầu xuất khẩu lao động đang tăng cao về số lượng và đòi hỏi chất lượng tốt. Hình thức đào tạo cho họ chủ yếu qua các cơ sở dạy nghề chuyên nghiệp tại địa phương.

- Đào tạo nâng cao kiến thức và năng lực cho đội ngũ cán bộ xã và quyết tâm chuẩn hóa đội ngũ cán bộ cơ sở.

Nội dung đào tạo cho đội ngũ cán bộ xã chủ yếu là về kiến thức luật pháp, quản lý kinh tế - xã hội, kỹ năng tổ chức thực hiện các chủ trương, đề án của cấp trên ở địa bàn thôn, xã. Thực hiện chuẩn hóa đội ngũ cán bộ cơ sở trước hết là ở vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa theo các tiêu chí cơ bản: cán bộ tối thiểu phải có trình độ học vấn trung học phổ thông cơ sở và có chứng chỉ được đào tạo sơ cấp về quản lý nhà nước. Và, chỉ bố trí cán bộ vào bộ máy lãnh đạo, quản lý ở cơ sở khi họ có đủ tiêu chuẩn.

- Tiếp tục phát triển thêm các trường nội trú, trung học cơ sở, trung học phổ thông (theo cụm xã) cho các huyện vùng núi khó khăn, gắn với dạy nghề cho học sinh cuối cấp để tạo ra nguồn bổ sung về cán bộ và lao động có tay nghề cao.

- Nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông nông thôn. Về nội dung này, cần tập trung thực hiện đồng bộ nâng cấp cơ sở vật chất và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên. Chú trọng sự đồng đều về chất lượng giáo dục theo yêu cầu đổi mới đồng bộ, toàn diện. Thực hiện kiên cố hóa 100% phòng học theo chuẩn của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Phấn đấu đến năm 2020, các tỉnh vùng khó khăn (Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, Trung Bộ) phổ cập trung học cơ sở, các tỉnh còn lại phải đạt phổ cập trung học phổ thông.

Để nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông ở địa bàn nông thôn, nhất là ở các xã, huyện khó khăn, cần có chính sách hỗ trợ phù hợp, có tính khả thi cao. Đó là:

- Tiếp tục đầu tư kinh phí cho kiên cố hóa phòng học ở khu vực nông thôn chưa hoàn thành. Hỗ trợ 100% kinh phí sách giáo khoa và sinh hoạt phí cho học sinh thuộc diện nghèo hoặc đối tượng chính sách xã hội cho học sinh các trường nội trú.

- Hỗ trợ thúc đẩy dạy nghề, bằng việc điều chỉnh, bố trí ngân sách hỗ trợ mua sắm thiết bị đào tạo nghề cần thiết cho các trung tâm giáo dục cộng đồng. Tăng kinh phí đầu tư xây dựng các mô hình khuyến nông, xây dựng mô hình nông thôn mới hơn trước. Hỗ trợ kinh phí để ít nhất mỗi huyện có một Trung tâm dạy nghề tổng hợp theo chuẩn của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (do doanh nghiệp đầu tư và thực hiện). Giúp cho người học nghề được vay ngân hàng không lãi suất tiền học phí (ngân sách nhà nước hỗ trợ lãi suất ngân hàng). Đồng thời, khuyến khích các doanh nghiệp tự đào tạo công nhân (bằng chính sách hỗ trợ một phần kinh phí dạy nghề cho công nhân, nhân viên mới tuyển chưa có chứng chỉ nghề).

- Hỗ trợ 100% kinh phí cho đào tạo cán bộ cơ sở và có chính sách đưa cán bộ khoa học - kỹ thuật về nông thôn thông qua việc yêu cầu thực hiện chế độ nghĩa vụ đối với sinh viên đại học (các ngành liên quan đến nông nghiệp, nông thôn) về công tác tại cơ sở xã thời hạn từ 3 đến 5 năm. Cùng với áp dụng nghĩa vụ đi thực tế và phục vụ nông thôn là khuyến khích chế độ đãi ngộ. Ngoài tiền lương, đối tượng này còn được hưởng ít nhất 50% lương và sau thời hạn nghĩa vụ, họ sẽ được ưu tiên xét tuyển bổ sung cho lượng công chức và các đơn vị sự nghiệp nông nghiệp các cấp./.