Những bài học kinh nghiệm giữ nước
TCCSĐT - Kế sách giữ nước có nội dung trung tâm là đường lối, học thuyết quốc phòng, trong đó bao gồm xây dựng lực lượng vũ trang và bảo đảm tác chiến, phương thức tiến hành chiến tranh chống xâm lược, bảo vệ Tổ quốc… Tư tưởng chỉ đạo được xem là định hướng cơ bản để hình thành học thuyết quốc phòng.
Những bài học kinh nghiệm giữ nước
Ở nước ta, khi lịch sử chưa thành văn, đã có những truyền thuyết dân gian về quá trình dựng nước và giữ nước. Đáng chú ý là truyền thuyết Thánh Gióng và nỏ thần của An Dương Vương của Việt Nam thời cổ đại. Thánh Gióng sinh ra ở thời Hùng Vương thứ 6, khoảng năm 1718 - 1631 trước Công nguyên (TCN). Sau khi sinh 3 năm, Thánh Gióng không nói không cười, không ra khỏi nôi,… Nhưng khi nghe sứ giả của nhà Vua đưa tin giặc Ân đến xâm lược và chiêu mộ người tài cứu nước, Thánh Gióng vươn vai đứng dậy và dùng gậy sắt, ngựa sắt ra trận đánh giặc, khi gậy sắt gãy nhổ tre đằng ngà đuổi giặc... Khi giặc tan, Ngài cưỡi ngựa sắt lên đỉnh núi Sóc bay về trời. Đó là một biểu tượng mang tính nhân văn cao cả của một dân tộc có truyền thống yêu hòa bình, sống hòa hiếu với láng giềng và lân bang. Hành động ấy rất hào hùng và lãng mạn, thế nhưng lại có thể không phù hợp với thực tiễn, vì nếu không chủ động chuẩn bị quốc phòng có thể không ứng phó kịp thời, dễ chịu tổn thất lớn.
![]()
Tre đằng ngà Việt Nam
Câu chuyện quốc phòng một triều đại khác của Việt Nam thời cổ đại là Thục phán An Dương Vương (khoảng 257 - 208 TCN), dựa trên tư tưởng “Kỹ trị” vì chủ yếu dựa vào sức mạnh huyền thoại của các loại thành hào và siêu vũ khí, cũng rất đáng quan tâm. Đây cũng là điều đáng ngạc nhiên vì xảy ra tại một quốc gia với nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp, trong thời đại phát triển tiểu thủ công nghiệp còn hết sức sơ khai trên thế giới. Thục phán An Dương Vương thay thế Hùng vương thứ 18 trị vì đất nước. Nhờ thần Kim Quy, An Dương Vương xây được Loa Thành và sử dụng nỏ thần (do thần Kim Quy tặng) đánh tan quân Tần, nhưng sau đó bị con rể là Trọng Thủy lừa công chúa Mỵ Châu lấy trộm lẫy nỏ thần mang về nước, khi Triệu Đà cất quân sang xâm lược, An Dương Vương cậy thế có Loa Thành và nỏ thần huyền thoại nên chủ quan khinh địch, khi giặc đến đưa nỏ thần ra bắn không còn hiệu nghiệm, để mất nước… Đây là bài học đắt giá về chủ quan khinh địch, tư tưởng chỉ dựa vào vũ khí thần bí.
Nhà Lê (sơ) cũng là triều đại gắn liền với rất nhiều truyền thuyết (như gươm thần “tự đến” với Lê Lợi (1385 - 1433), lời sấm truyền “Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần” và việc dòng chữ này nổi trên lá cây trôi theo dòng suối, sự tích Lê Lợi trả lại gươm báu cho Rùa vàng…). Đáng chú ý, sau khi đánh tan giặc Minh xâm lược, Vua trả lại gươm thần cho Rùa vàng trên hồ Lục Thủy (Hồ Gươm). Có thể hành động này gián tiếp gửi thông điệp kêu gọi tướng lĩnh giã từ vũ khí, bởi từ kinh nghiệm hậu trường các triều đại trước, Lê Lợi e ngại hậu họa làm phản… Hành động như vậy củng cố tinh thần hòa hiếu, góp phần giữ vững ngai vàng của Lê Lợi, nhưng gián tiếp làm giảm sức mạnh quốc phòng của đất nước, dân tộc...
| |
| Mũi tên đồng tìm thấy tại Cổ Loa |
Các truyền thuyết trên dù mơ hồ, nhưng là bài học kinh nghiệm lịch sử rất sâu sắc và mang tính thời sự đến ngày nay, cả bài học thành công cũng như thất bại để rút kinh nghiệm.
Trong lịch sử quốc phòng thành văn từ cổ đại tới cận đại, đáng chú ý là học thuyết quốc phòng “Tiên phát chế nhân” của nghệ thuật quân sự Việt Nam thời trung đại. Trước âm mưu xâm lược Đại Việt của nhà Tống, Lý Thường Kiệt (1019 - 1105) là thống lĩnh quân đội thời Lý, năm 1075 đã tham mưu cho Triều đình chủ động xuất 10 vạn quân sang đánh vào các kho lương thảo, căn cứ hậu cần ở Châu Ung, Châu Liêm và Châu Khâm của đối phương trước khi đối phương kịp động binh xâm lược Đại Việt. Bằng hành động bất ngờ này, nhà Lý đã kiềm chế được sức mạnh của giặc Tống, làm chậm thời điểm xuất quân của địch, có thời gian chuẩn bị phòng thủ đất nước chu đáo hơn (hơn 1 năm) và đã chiến thắng giặc ngoại xâm trên phòng tuyến sông Như Nguyệt.
Kinh nghiệm này đã được Hồ Chủ tịch vận dụng sáng tạo trên mặt trận ngoại giao quốc phòng năm 1946. Sau khi Việt Nam ký Hiệp định sơ bộ với đại diện của Pháp tại Hà Nội 06-3-1946, Hồ Chủ tịch đích thân xuất ngoại sang Pháp, chủ động ký Tạm ước 14-9-1946 với Pháp để có thêm thời gian cần thiết (3 tháng) gấp rút chuẩn bị đất nước cho cuộc kháng chiến trường kỳ.
Sau này, Chiến lược chiến tranh ngăn chặn (Pre-emptive War), còn được gọi là đánh đòn phủ đầu, của Tổng thống Bush (con) của Mỹ trong Chiến tranh I-rắc năm 2003 tuy có tác dụng hạn chế là lật đổ chính quyền của Xa-đam Hút-xen, nhưng kế hoạch bình định I-rắc thời hậu chiến dù được hoạch định rất kỹ lưỡng vẫn dường như thất bại. Kỷ niệm 10 năm cuộc chiến này, Mỹ và đồng minh buộc phải thừa nhận đang bị sa lầy tại đây.
Học thuyết quốc phòng của Việt Nam thời trung đại “Ngụ binh ư nông” được đánh giá rất cao, dựa trên chính sách tổ chức và xây dựng lực lượng vũ trang cho phòng thủ đất nước từ thời bình của các triều đại Lý, Trần, Lê (sơ) trong các thế kỷ XI - XV… Lịch sử chống ngoại xâm của Việt Nam luôn ở trong thế nhỏ đánh lớn, ít địch nhiều, yếu chống mạnh, đòi hỏi phải có lực lượng vũ trang thường trực đủ mạnh. Nhưng trong khoảng thời gian hòa bình, cần huy động tối đa nhân tài vật lực cho khôi phục và phát triển kinh tế, xã hội, tạo tiền đề cần thiết cho quốc phòng… Do đó, cần có kế sách linh hoạt và hợp lý… Bản chất của học thuyết này là chế độ binh dịch (tương tự nghĩa vụ quân sự ngày nay), với hệ thống tổ chức và quản lý đinh tráng (nam) độ tuổi từ 18 tới 60, làm cơ sở để tuyển quân thường trực cũng như động viên thời chiến. Với bối cảnh quốc gia nông nghiệp, thường bị ngoại xâm đe dọa, thời bình binh sĩ thay nhau về quê sản xuất để tự nuôi mình. Nghĩa là, thời bình giảm quân đội thường trực, tăng lực lượng dự bị trong các cộng đồng dân cư, để đẩy mạnh sản xuất, xây dựng đất nước, nhưng duy trì nghiêm huấn luyện quân dự bị dưới dạng quân ở trong dân… Đây có thể xem như biểu hiện sơ khai của tư tưởng quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân của dân tộc Việt Nam, đang tiếp tục được phát huy trong điều kiện mới ngày nay.
| |
| “Ngụ binh ư nông” thời nay |
Học thuyết quốc phòng của Việt Nam thời trung đại “Mở đường lui cho địch”, giúp binh sĩ giặc bại trận bảo toàn tính mạng, giảm thiểu tổn thất do binh đao gây ra cho đất nước, giữ hòa hiếu lâu dài với đối phương và láng giềng, cũng là nét nhân văn trong nghệ thuật quân sự của Việt Nam. Lê Lợi mở Hội thề thành Đông Quan, hỗ trợ giặc Minh rút về nước trong “danh dự”.
Trong kháng chiến chống Pháp, Đảng, Chính phủ Việt Nam đã cùng Hồ Chủ tịch chấp nhận điều kiện Hiệp định Giơ-ne-vơ với đất nước tạm thời chia đôi để thống nhất đất nước bằng hiệp thương chính trị. Trong Kháng chiến chống Mỹ, với đường lối chiến lược “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào”, mục đích của Việt Nam nhằm đánh bại ý chí xâm lược, giải phóng Miền Nam, ký kết Hiệp định Pa-ri để Mỹ rút lui trong “danh dự”.
Một số kế sách, học thuyết quốc phòng trên thế giới
Học thuyết quốc phòng “Đưa chiến tranh ra ngoài biên giới quốc gia” cũng rất đáng quan tâm. Trước Thế chiến thứ hai, cả phương Tây và Liên Xô đều tìm cách ký kết các thỏa hiệp với Đức (Hiệp ước Muy-ních giữa Anh, Pháp, Đức và I-ta-li-a ngày 30-9-1938; Hiệp ước không tiến công nhau giữa Liên Xô và Đức ký ngày 23-8-1939, thường gọi theo tên của các bộ trưởng ngoại giao Liên Xô (Mô-lô-tốp 1890 - 1986) và Đức (Ri-ben-tờ-rốp 1893 - 1946) là Hiệp ước Mô-lô-tốp - Ri-ben-tờ-rốp) để chĩa mũi nhọn xâm lược của Đức sang phía bên kia nhưng đều không tránh khỏi thảm họa chiến tranh tàn khốc…. Thậm chí, sau khi đã có những dấu hiệu chiến tranh rõ nét vẫn không thay đổi học thuyết, không chuyển kịp thời đất nước vào trạng thái chiến tranh, dẫn tới tổn thất to lớn thời kỳ đầu chiến tranh, để quân Đức tiến sát tới ngoại ô thủ đô Mát-xcơ-va… Chỉ có Hải quân Liên Xô chủ động chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu, sơ tán kịp thời lực lượng tới nơi bí mật và chuẩn bị đánh trả nên đã bảo toàn được lực lượng trong những ngày đầu chiến tranh.
Học thuyết “Quốc phòng (phòng thủ) tập thể” (Collective Defense), phổ biến trong thời kỳ chiến tranh lạnh, như khối Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) từ năm 1949 (ban đầu có 12 thành viên, trong thời kỳ chiến tranh lạnh Pháp rút lui, thêm 4 quốc gia mới nên tăng lên 15, hiện nay là 28); khối Hiệp ước Vác-xa-va từ 1955 (ban đầu có 8 thành viên, sau An-ba-ni rút khỏi khối) và tan rã từ 1990 sau khi Liên Xô - thành viên sáng lập và là trụ cột - tan rã); khối Thỏa thuận phòng thủ năm quốc gia (Five Power Defense Arrangement - FPDA) là Anh, Ô-xtrây-li-a, Niu Di-lân, Ma-lai-xi-a và Sing-ga-po từ 1971 (vẫn còn hiệu lực)… Tuy học thuyết này chưa khẳng định được năng lực thực tế, do chưa xảy ra chiến tranh giữa các khối, chiến tranh chống lại thành viên của các khối…, nhưng năng lực duy trì sức mạnh đoàn kết thấp (khối Hiệp ước Vác-xa-va tự tan rã, có thành viên đã rời bỏ NATO…), khả năng đối phó với thách thức phi truyền thống (khủng bố quốc tế, cướp biển và cướp vũ trang chống tại tàu thuyền trên biển) hạn chế.
“Liên minh song phương”, thông thường là với các cường quốc, chỉ hiệu quả khi ở xa các thế lực hiếu chiến, hiệu lực khá hạn chế... Các cường quốc thường thỏa thuận sau lưng các quốc gia nhỏ yếu, cũng như không đánh nhau vì lợi ích của các quốc gia nhỏ yếu… Trong Hiệp ước Muy-ních, Hiệp ước Mô-lô-tốp và Ri-ben-tờ-rốp cũng như các thỏa thuận sau này giữa Mỹ, Anh và Liên Xô, các quốc gia ở Trung Âu được phân chia thành các vùng ảnh hưởng của họ, thậm chí có những vùng lãnh thổ bị chia cắt hay sát nhập theo chủ ý của các quốc gia thắng trận…
Có một dạng thức khác của liên minh song phương, nhưng với cấp độ cao hơn, tạm gọi là “Quốc phòng khoán gọn”, phổ biến trên các quốc đảo hay vùng lãnh thổ ủy trị ở Nam Thái Bình Dương. Do tiềm lực kinh tế khá thấp, năng lực tự bảo vệ hạn chế, trong khi nguy cơ xâm lược thấp vì không có động cơ, kẻ thù xâm lược thực thụ vẫn chưa định hình, họ quan niệm xây dựng lực lượng vũ trang cho phòng thủ, bảo vệ đất nước là việc làm tốn kém, do đó, tạm thời không cần thiết. Thay vào đó, họ có cam kết bảo đảm quốc phòng từ các thể chế ủy trị. Phương thức này cho phép họ tập trung vào phát triển kinh tế, dựa trên nền tảng nông nghiệp, khai thác đánh bắt nguồn hải sản độc đáo và dồi dào của đại dương, đặc biệt là du lịch sinh thái bền vững… Quốc phòng của các quốc đảo nhỏ này đã được các cường quốc (Mỹ, Pháp…) hay Liên hợp quốc bảo đảm với tư cách là đồng minh, quốc gia và tổ chức thực thi quyền ủy trị. Cho tới lúc này, chưa có ai xâm lược các quốc đảo nhỏ bé này, nên hiệu lực của loại hình quốc phòng khoán gọn cũng chưa được khẳng định.
… và lời kết
Trong lịch sử đã có rất nhiều kế sách giữ nước được sử dụng thành công. Tuy nhiên, sự thành công hay không phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố cả khách quan và chủ quan. Điều đó cần được nhìn nhận một cách khách quan trong “tình hình cụ thể” và “hoàn cảnh cụ thể”. Có kế sách được vận dụng thành công ở nhiều quốc gia, nhưng có kế sách chỉ thành công ở một trường hợp cụ thể. Có kế sách sử dụng thành công ở thời điểm này nhưng lại không thành công ở thời điểm khác. Dù ở khía cạnh nào thì kế sách giữ nước cũng chỉ là những “bài học lịch sử”, “kinh nghiệm lịch sử” mà các thế hệ sau lĩnh hội.
Đối với Việt Nam, vận dụng kế sách giữ nước là dựa trên nền tảng “Quốc phòng toàn dân” được chuẩn bị sẵn từ thời bình, đủ để bảo vệ Tổ quốc, sẵn sàng triển khai và chuyển hóa thành thế trận “Chiến tranh nhân dân” với sức trỗi dậy và chuyển hóa thế trận nhanh mạnh như Thánh Gióng, dựa vào thành, hào của thế trận lòng dân, vũ khí có sức mạnh và hiện đại như nỏ thần Kim Quy, quân dân đồng lòng, trên dưới đoàn kết như thời Trần, Lê (sơ)… Tuy vẫn mở rộng hội nhập quốc tế và khu vực, dựa vào sức mạnh thời đại, sự ủng hộ của bạn bè và các quốc gia thân thiện, nhưng phải lấy sức mạnh nội tại của quốc gia làm nền tảng. Việt Nam chủ trương không tham gia các liên minh quân sự cũng như không dùng liên minh quân sự để phòng thủ, bảo vệ Tổ quốc. Chúng ta quyết chiến đấu để bảo vệ Tổ quốc, nhưng mục đích cao hơn là phải duy trì nền hòa bình lâu dài, không tạo thù hằn dân tộc./.
Đổi mới hoạt động của Công đoàn Việt Nam đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế  (28/07/2014)
Đổi mới hoạt động của Công đoàn Việt Nam đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế  (28/07/2014)
Xây dựng Quảng Ninh vững chắc về an ninh và hợp tác quốc tế tích cực  (27/07/2014)
Tiếp tục triển khai các chính sách đối với người có công  (27/07/2014)
Vinh danh 85 Chủ tịch Công đoàn cơ sở tiêu biểu toàn quốc  (27/07/2014)
- Chủ nghĩa thực dân số trong thời đại số và những vấn đề đặt ra
- Phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển đội ngũ nhà giáo và sự vận dụng của Đảng trong giai đoạn hiện nay
- Ngành y tế với công tác chăm sóc, bảo vệ và phát huy vai trò người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm