Một số giải pháp cơ bản hướng đến kiện toàn quản lý đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Thực tiễn đã chứng minh rằng, trong các điều kiện vật chất cần thiết, đất đai giữ vị trí và ý nghĩa đặc biệt quan trọng - là điều kiện đầu tiên, là cơ sở thiên nhiên của mọi quá trình sản xuất, là nơi tìm được công cụ lao động, nguyên liệu lao động và nơi sinh tồn của xã hội loài người. Đất đai vừa đóng vai trò là nguồn lực, vừa đóng vai trò là yếu tố đầu vào không thể thiếu trong hoạt động kinh tế. Trong các ngành phi nông nghiệp, đất đai giữ vai trò thụ động với chức năng là cơ sở không gian và vị trí để hoàn thiện quá trình lao động, là kho tàng dự trữ trong lòng đất. Trong các ngành nông - lâm nghiệp, đất đai là yếu tố tích cực của quá trình sản xuất, là điều kiện vật chất - cơ sở không gian, đồng thời là đối tượng lao động và công cụ hay phương tiện lao động. Trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay ở nước ta đã nảy sinh nhiều vấn đề bức thiết cần giải quyết. Trong điều kiện quỹ đất có hạn nên việc quản lý, sử dụng một cách tiết kiệm có hiệu quả nguồn tài nguyên này vào việc phát triển kinh tế của đất nước có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Thực trạng việc quản lý và sử dụng đất đai trong giai đoạn hiện nay
Thực hiện Điều 53 Luật Đất đai năm 2003 về thống kê đất đai hằng năm và kiểm kê đất đai 5 năm 1 lần, ngày 15-5-2009 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị 618/CT-TTg về việc kiểm kê đất đai và xây dựng bản đồ hiện trạng sử dụng đất năm 2010, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã chỉ đạo thực hiện công tác kiểm kê đất đai ngày 1-1-2010 và xây dựng bản đồ hiện trạng sử dụng đất trên địa bàn cả nước với 63 đơn vị hành chính cấp tỉnh, 693 đơn vị hành chính cấp huyện và 11.076 đơn vị hành chính cấp xã. Qua kiểm kê cho thấy cả nước có tổng diện tích tự nhiên 33.093.857 ha bao gồm đất nông nghiệp 26.100.106 ha chiếm 79%, đất phi nông nghiệp 3.670.186 ha chiếm 11% và đất chưa sử dụng 3.323.512 ha chiếm 10% diện tích tự nhiên, trong đó có 24.989.102 ha chiếm 75,51% là đã có chủ sử dụng. So với năm 2005, diện tích đất sản xuất nông nghiệp tăng 1.277.600 ha, trong đó đất trồng lúa có 4.127.721 ha, vượt so với quy hoạch 10,33% nhưng giảm 37.546 ha, bình quân hằng năm giảm 7.000 ha; đất lâm nghiệp tăng 571.616 ha(1).
Trong hơn mười năm qua (2001 - 2012), công tác quản lý nhà nước về đất đai đã đạt được những tiến bộ rõ rệt, hệ thống quản lý nhà nước về đất đai được tăng cường(2), từng bước phân cấp và phát huy tính tự chủ của địa phương như việc lập và thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, giao đất, cho thuê đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng, thu hồi đất bồi thường giải phóng mặt bằng để chuyển sang mục đích sử dụng khác. Pháp luật về đất đai ngày càng được hoàn thiện; các quyền của người sử dụng đất được mở rộng và được Nhà nước bảo đảm; thị trường bất động sản, trong đó có quyền sử dụng đất đã được hình thành và phát triển nhanh. Những kết quả trên tạo điều kiện cho việc sử dụng đất đai hợp lý và hiệu quả hơn.
Tuy nhiên, tình hình quản lý và sử dụng đất đai hiện nay còn bộc lộ nhiều yếu kém thể hiện ở chỗ: Hệ thống quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn đặt ra, việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất ở cấp xã, cấp huyện tại một số tỉnh thành trong cả nước còn chậm. Thiếu đồng bộ giữa quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch chi tiết của các ngành, quy hoạch không gian đô thị của thành phố,... Ngoài ra, việc lập và phê duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất còn chậm, tính khả thi chưa cao, việc công bố công khai và tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất còn yếu kém dẫn đến việc phải điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Kết quả thực hiện kế hoạch sử dụng đất hằng năm chưa sát với kế hoạch sử dụng đất đã được phê duyệt.
Việc giao đất, cho thuê đất vào mục đích chuyên dùng và đất ở tại các địa phương còn một số tồn tại như sử dụng không đúng vị trí, sai lệch diện tích được giao, sử dụng sai mục đích, tiến độ xây dựng chậm hoặc bỏ hoang hóa, không sử dụng đất, chậm nộp tiền thuê đất. Vẫn còn những hành vi tiêu cực trong lĩnh vực quản lý đất đai. Cơ chế tài chính về đất đai thiếu hiệu quả, thị trường bất động sản còn hoạt động tự phát, tình trạng đầu cơ đất đai đã đẩy giá đất lên cao gây tác động xấu đến môi trường đầu tư. Cơ quan quản lý đất đai các cấp nhìn chung còn nhiều yếu kém, cán bộ địa chính ở cơ sở còn hạn chế về chuyên môn, nghiệp vụ,… Trong thực tế, công tác quản lý và sử dụng đất đai tại các doanh nghiệp nhà nước, các đơn vị sự nghiệp nhà nước, các bộ, ngành còn nhiều lãng phí. Theo Cục Quản lý Công sản (Bộ Tài chính), trên địa bàn cả nước, các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập đang quản lý, sử dụng diện tích đất, nhà với tổng diện tích đất lên đến 1,5 tỷ m2, giá trị tương đương khoảng 594.000 tỷ đồng; trong đó khu vực sự nghiệp công lập chiếm 1,2 tỷ m2, bằng 80% tổng diện tích; tổng diện tích nhà lên đến hơn 100.000m2 với tổng giá trị khoảng 138.000 tỷ đồng. Riêng các tập đoàn, tổng công ty nhà nước hiện đang quản lý, sử dụng khoảng 155 triệu m2 đất, trong đó nhiều đơn vị chiếm giữ số lượng nhà, đất rất lớn, nguồn đất chưa sử dụng khoảng 3.164 ha(3). Phần lớn đất công được giao cho các đơn vị thuộc những vị trí đắc địa ở các đô thị lớn, các trung tâm công nghiệp, tuy nhiên, tình trạng sử dụng đất lãng phí, sai mục đích đang diễn ra phổ biến, gây thất thoát lớn cho ngân sách. Theo tính toán, nếu tính đúng, thu đủ và có cơ chế buộc phải sử dụng đất hiệu quả thì ngân sách nhà nước có thể thu được khoảng 5 tỷ USD mỗi năm - một khoản tiền không nhỏ trong bối cảnh hiện nay để giải quyết các vấn đề an sinh xã hội.
Những hạn chế, bất cập ở trên, về cơ bản do những nguyên nhân sau:
Thứ nhất, phân cấp thực hiện chức năng quản lý nhà nước về đất đai hiện nay chưa hợp lý, thể hiện ở sự chồng chéo về thẩm quyền giữa các cấp, các ngành trong việc tổ chức lập và thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng đô thị; thanh tra, kiểm tra, giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về đất đai,... do có nhiều ngành, nhiều cấp tham gia, vì vậy trách nhiệm của từng ngành, cấp không rõ ràng ảnh hưởng đến chất lượng công việc và kéo dài thời gian thực hiện. Ngoài ra, hệ thống chính sách, pháp luật về đất đai chưa theo kịp với thực tiễn cũng là “lực cản” đáng kể gây khó khăn cho công tác quản lý đất đai.
Thứ hai, đội ngũ cán bộ, công chức ngành địa chính ở các cấp còn quá mỏng, trình độ chuyên môn nghiệp vụ còn hạn chế. Đội ngũ cán bộ địa chính cấp cơ sở đóng vai trò rất quan trọng trong việc giám sát thi hành Luật Đất đai của địa phương và các đối tượng sử dụng đất, nhưng chưa được đào tạo sâu về chuyên môn, nghiệp vụ, thiếu phương tiện làm việc. Chức năng, nhiệm vụ của ngành địa chính chưa rõ ràng, còn mang nặng tính tham mưu, giúp việc hơn là một cơ quan chuyên trách về quản lý đất đai.
Thứ ba, công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm về đất đai chưa được tiến hành thường xuyên, dẫn đến chưa phát hiện và ngăn chặn kịp thời các hành vi sai phạm, thiếu kiên quyết trong khắc phục hậu quả các hành vi sai phạm. Thậm chí, do trách nhiệm của người đứng đầu chưa được quy định chặt chẽ, chế tài xử lý chưa rõ ràng, thiếu gương mẫu, buông lỏng trong công tác quản lý, do vậy đã gián tiếp có việc còn tiếp tay cho sai phạm vì lợi ích cục bộ của địa phương và quyền lợi của cá nhân mà làm trái các quy định về quản lý đất đai.
Một vài giải pháp cơ bản hướng đến kiện toàn quản lý đất đai trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản và toàn diện nền sản xuất xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính với năng suất, chất lượng và hiệu quả thấp sang sử dụng lao động được đào tạo ngày càng nhiều hơn cho năng suất chất lượng và hiệu quả cao hơn dựa trên phương pháp sản xuất công nghiệp, vận dụng những thành tựu mới của khoa học - công nghệ (KHCN) tiên tiến. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh các ngành sản xuất có hàm lượng KHCN cao, giá trị gia tăng cao. Có thể nói, thực chất và nội dung cơ bản của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sáng tạo và ứng dụng tri thức do giáo dục - đào tạo và KHCN tạo ra vào phát triển kinh tế - xã hội, tạo nên sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước.
Kinh nghiệm thực tiễn của các nước đã cho thấy, đất đai có một vị trí đặc biệt đối với con người, xã hội, doanh nghiệp. Mỗi quốc gia đều được định vị vào lãnh thổ, đất đai của mình, đều phát triển được là nhờ vào quỹ đất đai và tổ chức tốt môi trường diễn ra mọi hoạt động kinh tế - xã hội của quốc gia. Do vậy, đất đai luôn được các chính phủ coi là vốn quý của xã hội, và luôn được chú trọng gìn giữ và phát huy tiềm năng từ đất. Để duy trì ổn định các mối quan hệ về đất đai, từ đó tạo điều kiện cho sử dụng đất đai hiệu quả, nhà nước đều rất chú trọng xây dựng chính sách, pháp luật quản lý đất đai. Trong Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã nhấn mạnh đến việc: “Đổi mới, hoàn thiện luật pháp, cơ chế, chính sách về sở hữu đối với đất đai, tài nguyên, vốn và các loại tài sản công khác để tài nguyên, vốn và các tài sản công được quản lý, sử dụng có hiệu quả, khắc phục tình trạng thất thoát, lãng phí. Đất đai, tài nguyên, vốn, tài sản do Nhà nước đại diện chủ sở hữu được giao cho các chủ thể thuộc mọi thành phần kinh tế sử dụng theo nguyên tắc hiệu quả”(4).
Giai đoạn sắp tới, để thực hiện định hướng trên, theo chúng tôi cần tiến hành đồng bộ các giải pháp cơ bản sau nhằm hướng đến kiện toàn quản lý đất đai trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Một là, quản lý chặt chẽ tài nguyên đất. Chúng ta biết rằng, đất đai là nguồn tài nguyên có giới hạn, không thể nào muốn là tăng lên được, trong khi đó, con người ngày càng tăng, vì vậy công tác quản lý chặt chẽ nguồn tài nguyên đất và đưa vào khai thác sử dụng có hiệu quả là một việc làm cấp thiết trong tiến trình đẩy nhanh và mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay. Nhận thức được đây là một trong những vấn đề quan trọng, mới đây nhất, ngày 22-11, với 86,8% tổng số đại biểu tán thành, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và Kế hoạch sử dụng đất 2011 - 2015 cấp quốc gia. Theo Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020, có hơn 26,7 triệu ha đất được dành cho nông nghiệp; trong đó đất trồng lúa hơn 3,8 triệu ha; diện tích đất dành cho phi nông nghiệp hơn 4,8 triệu ha, trong đó đất dành cho phát triển hạ tầng hơn 1,5 triệu ha.
Bằng việc thông qua Nghị quyết quan trọng này, Quốc hội hướng đến các mục tiêu bảo đảm quản lý chặt chẽ tài nguyên đất đai theo quy hoạch, kế hoạch và pháp luật; sử dụng đất đúng mục đích, tiết kiệm, hiệu quả; bảo vệ môi trường sinh thái, ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu và nước biển dâng, bảo đảm phát triển bền vững. Nghị quyết cũng nhằm phát huy tối đa tiềm năng, nguồn lực về đất đai đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia và các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước.
Hai là, chú trọng nâng cao trình độ quản lý của cán bộ ngành địa chính. Về thực trạng cho thấy cán bộ của ngành địa chính còn quá mỏng. Đặc biệt, ở cấp xã chỉ có 01 cán bộ địa chính, lại thường không được đào tạo chuyên môn nghiệp vụ về đất đai mà chủ yếu là quản lý theo kinh nghiệm. Vì vậy, thực tế cán bộ địa chính không nắm bắt được kịp thời và đầy đủ về quản lý đất đai, khi để xảy ra vi phạm, đã không có biện pháp ngăn chặn được kịp thời và càng để lâu lại càng khó xử lý. Xuất phát từ thực tiễn đó, giai đoạn sắp tới cần thiết phải kết hợp giữa giáo dục về tinh thần trách nhiệm đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ địa chính kiên quyết đấu tranh với những hành vi tiêu cực, tham nhũng, với việc chú trọng tăng cường lực lượng cán bộ của ngành địa chính đủ mạnh về cả số lượng và chất lượng, đồng thời được quan tâm đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn thường xuyên để đảm nhận công việc, đáp ứng được yêu cầu quản lý trong giai đoạn hiện nay.
Ba là, tiến tới hoàn thiện phân cấp về quản lý đất đai. Tiến trình đẩy nhanh và mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, công tác quy hoạch đất đai phải được quản lý thống nhất trong cả nước sao cho quy hoạch vùng, địa phương phải tuân thủ quy hoạch quốc gia, kể cả trong nội dung quy hoạch cũng như trong điều chỉnh và tổ chức thực hiện. Vì lẽ đó, thời gian tới, cần tiến hành tập trung nghiên cứu một cách đầy đủ và toàn diện để có đủ cơ sở phân cấp trong quản lý nhà nước về đất đai, bảo đảm quản lý thống nhất, hiệu quả và không chồng chéo.
Bốn là, chú trọng tăng cường và nâng cao hiệu quả cải cách hành chính trong quản lý nhà nước về đất đai. Cụ thể, giai đoạn sắp tới để thích ứng với sự thay đổi của thực tiễn, cần tập trung hơn nữa việc thể chế và hoàn thiện hệ thống văn bản quy trình, quy chế về quản lý và sử dụng tài nguyên đất để phù hợp hơn với yêu cầu thực tế, song song đó cần đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, bảo đảm giảm thời gian, giảm thủ tục, giảm chi phí đối với tổ chức và công dân. Có quy định để thực hiện quy hoạch sử dụng đất đồng bộ với các quy hoạch chuyên ngành; không giao đất cho các dự án sản xuất phi nông nghiệp ngoài quy hoạch các khu, cụm công nghiệp, khu kinh tế, làng nghề; giao đất, cho thuê đất đúng nhu cầu sử dụng đất hiệu quả và tính khả thi của dự án đầu tư.
Có thể khẳng định rằng, đất đai giữ một vai trò đặc biệt quan trọng, là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh và quốc phòng. Thực trạng quản lý đất đai của nước ta hiện đã và đang phát sinh nhiều mâu thuẫn mới cần được giải quyết thấu đáo mới có thể tạo “cú hích” cho kinh tế phát triển, bảo đảm an sinh xã hội, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội cho những năm tiếp theo, hướng đến phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Do vậy, việc sử dụng đất tiết kiệm có hiệu quả và bảo vệ lâu bền nguồn tài nguyên vô giá này là nhiệm vụ vô cùng quan trọng và cấp bách đối với nước ta hiện nay./.
-----------------------------------------
(1) Số liệu theo Bộ Tài nguyên và Môi trường thông báo tại Hội nghị tổng kết ngày 27-12-2010
(2)Thời gian vừa qua, nhiều văn bản mới về lĩnh vực nói trên được ban hành như Nghị định 38/2011/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Nghị định 181/2004/NĐ-CP; Nghị định 149/2004/NĐ-CP quy định về thủ tục hành chính trong quản lý đất đai; Thông tư 16/2011/TT-BTNMT quy định sửa đổi, bổ sung một số nội dung liên quan đến thủ tục hành chính về lĩnh vực đất; Nghị định 121/2010/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 142/2005/NĐ-CP về thu tiền thuê đất, thuê mặt; Nghị định 120/2010/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 198/2004/NĐ-CP về thu tiền sử dụng đất; Nghị định 20/2011/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Nghị quyết 55/2010/QH12 về miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp; Thông tư 39/2011/TT-BTC sửa đổi, bổ sung Thông tư 83/2007/TT-BTC hướng dẫn thực hiện Quyết định số 09/2007/QĐ-TTg việc sắp xếp lại, xử lý nhà, đất thuộc sở hữu nhà nước; Thông tư liên tịch 07/2011/TTLT-BNNPTNT-BTNMT hướng dẫn một số nội dung về giao rừng, thuê rừng gắn liền với giao đất, thuê đất lâm nghiệp; Thông tư 9/2011/TT-BTNMT quy định đấu thầu cung cấp dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước về đo đạc đất đai phục vụ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
(3) http://www.baomoi.com/Thuc-trang-quan-ly-va-su-dung-dat-dai-hien-nay/148/9589840.epi
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.207.
Tuần tin cải cách hành chính từ ngày 31-12-2012 đến ngày 06-01-2013  (07/01/2013)
Những kỹ năng cần thiết của nguồn nhân lực hành chính đáp ứng yêu cầu phát triển nền kinh tế tri thức ở Việt Nam  (07/01/2013)
Những kỹ năng cần thiết của nguồn nhân lực hành chính đáp ứng yêu cầu phát triển nền kinh tế tri thức ở Việt Nam  (07/01/2013)
Những sự kiện trong nước đáng chú ý trong tuần (từ ngày 31-12-2012 đến 06-01-2013)  (07/01/2013)
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm, làm việc tại tỉnh Lào Cai  (06/01/2013)
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm an ninh kinh tế, góp phần bảo đảm an ninh quốc gia trong bối cảnh hội nhập quốc tế
- Hoàn thiện pháp luật về tổ chức, hoạt động của chính quyền đô thị, đáp ứng yêu cầu quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả ở Việt Nam
- Vai trò của các quốc gia tầm trung trong hệ thống quốc tế và gợi mở cho Việt Nam trong mục tiêu khẳng định vị thế quốc gia trong bối cảnh mới
- Đắk Nông: “Điểm sáng” trong phát triển du lịch thời kỳ hội nhập quốc tế
- Tự quản trong cộng đồng xã hội đối với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (kỳ 1)
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên