Ninh Bình là một vùng đất cổ, có con người cư trú từ cách đây 3 vạn năm. Qua quá trình biến thiên của lịch sử, vùng đất Ninh Bình có nhiều thay đổi về tên gọi. Năm Minh Mạng thứ 3 (1822), đổi đạo Thanh Bình thành đạo Ninh Bình; địa danh Ninh Bình có từ đây, với ý nghĩa một vùng đất vững chãi, bình yên thể hiện ý chí quật cường, tinh thần anh dũng, quả cảm của nhân dân vùng đất này. Năm Minh Mạng thứ 10 (1829), đổi đạo Ninh Bình thành trấn Ninh Bình và đến năm Minh Mạng thứ 12 (1831), trấn Ninh Bình được đổi thành tỉnh Ninh Bình.
Phần thứ nhất:
VÙNG ĐẤT VÀ CON NGƯỜI NINH BÌNH

Ninh Bình là một vùng đất cổ, có con người cư trú từ cách đây 3 vạn năm. Qua quá trình biến thiên của lịch sử, vùng đất Ninh Bình có nhiều thay đổi về tên gọi. Năm Minh Mạng thứ 3 (1822), đổi đạo Thanh Bình thành đạo Ninh Bình; địa danh Ninh Bình có từ đây, với ý nghĩa một vùng đất vững chãi, bình yên thể hiện ý chí quật cường, tinh thần anh dũng, quả cảm của nhân dân vùng đất này. Năm Minh Mạng thứ 10 (1829), đổi đạo Ninh Bình thành trấn Ninh Bình và đến năm Minh Mạng thứ 12 (1831), trấn Ninh Bình được đổi thành tỉnh Ninh Bình.

Ngày 27-12-1975, tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khoá V ra Nghị quyết hợp nhất tỉnh Ninh Bình và tỉnh Nam Hà thành tỉnh Hà Nam Ninh. Ngày 26-12-1991, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khoá VIII ra Nghị quyết tách tỉnh Hà Nam Ninh thành 2 tỉnh Nam Hà, Ninh Bình. Ngày 1-4-1992, tỉnh Ninh Bình chính thức hoạt động theo đơn vị hành chính mới, gồm 5 huyện: Hoàng Long, Gia Viễn, Hoa Lư, Tam Điệp, Kim Sơn và 2 thị xã: Ninh Bình, Tam Điệp. Tháng 11-1993, huyện Hoàng Long được đổi tên thành huyện Nho Quan. Tháng 7-1994, huyện Yên Khánh được thành lập lại, đổi tên huyện Tam Điệp thành huyện Yên Mô như trước đây. Ngày 7-2-2007, thành phố Ninh Bình trực thuộc tỉnh được thành lập trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên, dân số và các đơn vị hành chính trực thuộc của thị xã Ninh Bình, gồm 10 phường và 04 xã. Đến nay, tỉnh Ninh Bình có 1 thành phố, 1 thị xã và 6 huyện.

- Vị trí địa lý của tỉnh Ninh Bình hiện nay nằm ở phía Đông Nam đồng bằng Bắc Bộ, tiếp giáp với các tỉnh: Hà Nam, Nam Định, Thanh Hoá, Hoà Bình và biển Đông. Tỉnh Ninh Bình có diện tích tự nhiên gần 1.400 km2, Địa hình tự nhiên phân thành 3 vùng rõ rệt: vùng đồi núi bán sơn địa gồm huyện Nho Quan và một phần thị xã Tam Điệp; vùng đồng chiêm trũng gồm huyện Gia Viễn và huyện Hoa Lư; vùng đồng bằng ven biển gồm huyện Kim Sơn, phía Nam huyện Yên Khánh và một phần phía Đông huyện Yên Mô. Hằng năm, vùng bãi bồi thuộc huyện Kim Sơn tiến ra biển khoảng 80 m đến 100 m. Rừng núi Ninh Bình nằm trong hệ đá vôi hình cánh cung, chạy dài từ vùng Tây Bắc theo hướng Tây Bắc - Đông Nam. Khu rừng nguyên sinh Cúc Phương có nhiều động, thực vật quý hiếm. Núi đá vôi ở Ninh Bình có nhiều hang động đẹp nổi tiếng như Nam thiên đệ nhị động (Bích Động), Nam thiên đệ tam động (Địch Lộng), động Thiên Tôn, động Liên Hoa, đặc biệt là khu hang động Tràng An... vùng đèo Ba Dội là “cổ họng Bắc - Nam”, cửa ải trọng yếu giữa Khu III và Khu IV của đất nước. Thiên nhiên đã tạo cho Ninh Bình một vùng đất có biển, có rừng núi, có đồng bằng, giàu tiềm năng phát triển toàn diện và là một địa bàn có thế hiểm yếu về quân sự: tiến có thể đánh, lui có thế giữ. Vì vậy, Ninh Bình là một vùng đất mang đầy dấu tích lịch sử chống giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước từ thời Hai Bà Trưng đến ngày nay.

- Dân số Ninh Bình những năm 1927 - 1928 có khoảng gần 300.000 người; đến năm 1945 khoảng 350.000 người; đến năm 1992 có 819.600 người và đến năm 2011 tăng lên 907.800 người. Đại bộ phận dân cư Ninh Bình là dân tộc Kinh và có khoảng hơn 20 ngàn người thuộc dân tộc ít người, đại đa số là dân tộc Mường, sống tập trung ở một số xã miền núi huyện Nho Quan. Hiện nay có khoảng 5,18% dân số theo đạo Phật, 16, 3 % theo đạo Công giáo, còn lại đại đa số nhân dân không theo tôn giáo nào. 
- Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, vùng đất và con người Ninh Bình đã để lại những dấu ấn đặc biệt. Đầu Công nguyên, Hai Bà Trưng dựa vào địa hình rừng núi Tam Điệp để chống lại quân Đông Hán do Mã Viện chỉ huy, tại đây nhân dân trong vùng đã cung cấp lương thảo, gia nhập nghĩa quân đánh giặc. Những năm đầu thế kỷ X, Dương Đình Nghệ và Ngô Quyền dựa vào dãy núi Tam Điệp đắp thành luỹ để xây dựng và bảo vệ lực lượng miền Thanh Hoá, rồi tiến quân đánh thắng quân Nam Hán, lập chiến công vang dội ở Đại La năm 930, Bạch Đằng năm 938. Vào nửa cuối thế kỷ X, Đinh Bộ Lĩnh dẹp xong loạn 12 sứ quân, thu giang sơn về một mối vào năm 968, lập vương triều phong kiến trung ương tập quyền đầu tiên ở nước ta, đặt tên nước Đại Cồ Việt, dựng kinh đô ở đất Hoa Lư, ban hành nhiều chính sách cách tân để xây dựng đất nước. Những năm cuối thế kỷ X, Thập đạo tướng quân Lê Hoàn lên ngôi vua lập vương triều nhà Lê (thay thế vương triều Đinh) trực tiếp thống lĩnh quân sỹ kháng Tống, bình Chiêm giữ vững nền độc lập và bờ cõi đất nước. Tiếp theo nhà Lê, năm 1009, Lý Công Uẩn lên ngôi vua, lập ra nhà Lý, năm 1010 quyết định dời đô từ Hoa Lư ra thành Đại La (Thăng Long – Hà Nội).

Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông xâm lược thế kỷ XIII, các vua Trần lấy dãy núi Tam Điệp làm bức tường thành bảo vệ vùng Châu Ái, Châu Hoan (Thanh Hoá, Nghệ An). Năm 1285, vương triều Trần rút khỏi thành Thăng Long thực hiện "vườn không nhà trống" về vùng đất Ninh Bình xây dựng căn cứ địa Trường Yên (thuộc xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư ngày nay). Từ căn cứ này, các vua Trần tổ chức quân dân Đại Việt phản công đánh thắng quân Nguyên Mông xâm lược, bảo vệ vững chắc nền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ nước nhà.

Trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đầu thế kỷ XV, nghĩa quân Lê Lợi nhiều lần tiến quân đánh giặc Minh xâm lược, qua vùng Tam Điệp, Nho Quan (huyện Khôi), nhân dân ủng hộ lương thảo và gia nhập nghĩa quân tham gia chiến đấu, giải phóng các lộ vùng đồng bằng Bắc Bộ. Cuối thời hậu Lê, Ngô Thì Nhậm chọn vùng núi Tam Điệp, Ninh Bình làm nơi phòng thủ, chờ đại quân Tây Sơn tiến ra Bắc. Từ Tam Điệp, đại quân Quang Trung - Nguyễn Huệ tiến đánh tan 29 vạn quân Thanh vào mùa xuân năm Kỷ Dậu (1789), giải phóng Thăng Long, giành lại độc lập. Sau chiến thắng, Vua đã tặng nhân dân Ninh Bình bốn chữ “Dân thuần, tục mỹ”. 

Truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm của nhân dân Ninh Bình ngày càng được phát huy mạnh mẽ. Ninh Bình là một trong những địa phương sớm tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin và đường lối cách mạng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, góp phần cùng với quân và dân cả nước làm nên Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, đóng góp những chiến công to lớn trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, xứng đáng là quê hương anh hùng của một dân tộc anh hùng. Trong niềm vui chung của cả dân tộc, Đảng bộ, chính quyền, quân và dân Ninh Bình bắt tay vào khắc phục hậu quả chiến tranh, xây dựng quê hương, thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. 16 năm hợp nhất tỉnh Hà Nam Ninh (1976-1991), quân dân các huyện, thị xã khu vực Ninh Bình phấn đấu góp phần cùng cả tỉnh giành nhiều thắng lợi trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, vượt qua giai đoạn khó khăn, thử thách, tạo ra những động lực quan trọng, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống nhân dân.

- Trong thực tiễn xây dựng và chiến đấu bảo vệ quê hương, người dân Ninh Bình đời sau nối tiếp đời trước hun đúc nên những phẩm chất, tính cách cao đẹp trở thành truyền thống quý báu. Đó là truyền thống lao động cần cù sáng tạo, đoàn kết, đùm bọc giúp đỡ nhau trong khó khăn, gian khổ, chống đỡ, khắc phục hậu quả thiên tai, dũng cảm, kiên cường trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Quá trình lịch sử đấu tranh xây dựng và phát triển quê hương của nhân dân Ninh Bình đã sáng tạo một không gian văn hoá đặc sắc, năng động; đến nay, có gần 800 di tích lịch sử, văn hoá, trong đó có 79 di tích lịch sử, văn hoá, danh thắng cấp quốc gia. Những thành tựu rực rỡ về kiến trúc, điêu khắc như đền thờ Vua Đinh - Vua Lê, đền Thái Vi, nhà thờ đá Phát Diệm.v.v…; những áng thơ văn, lễ hội, ca múa, trong đó hát chèo có từ thời Đinh, hát ca trù, hát xẩm ở Yên Phong (Yên Mô), hát văn (Phủ Đồi, Nho Quan).v.v. còn duy trì và phát triển đến ngày nay. Nhiều danh nhân nổi tiếng như Đinh Bộ Lĩnh, Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Dương Vân Nga, Nguyễn Minh Không, Trương Hán Siêu, Ninh Tốn, Vũ Duy Thanh, Vũ Phạm Khải, Phạm Thận Duật và các vị khoa bảng, nhà văn hoá, nhà khoa học đương đại được sinh ra và lớn lên ở vùng đất này. Mỗi ngọn núi, con sông trên đất Ninh Bình đều là những địa danh ghi lại những dấu tích về văn hoá, lịch sử trong tiến trình chinh phục thiên nhiên, chống thù trong, giặc ngoài để đứng vững và phát triển. Mỗi tên đất, tên làng đều thể hiện khát vọng về một cuộc sống hoà bình, hạnh phúc bền vững của nhân dân trên mảnh đất Ninh Bình…

Phần thứ hai:
NHỮNG THÀNH TỰU NỔI BẬT SAU 20 NĂM TÁI LẬP 
TỈNH NINH BÌNH

1. Tình hình kinh tế – xã hội thời điểm tái lập tỉnh.

Trong thời gian tỉnh mới được tái lập, tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh gặp nhiều khó khăn. Ninh Bình lúc đó là một tỉnh nghèo. Sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản chiếm 62,9 % GDP, nhưng chưa phát triển toàn diện, tốc độ tăng trưởng chậm và chưa vững chắc, còn mang nặng tính chất tự cấp, tự túc; sản lượng lương thực bình quân đầu người năm 1992 mới đạt trên 330 kg. Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp nhỏ bé, phân tán, manh mún; kỹ thuật, công nghệ lạc hậu, hiệu quả thấp, sản xuất kinh doanh ở nhiều đơn vị quốc doanh thua lỗ. 

Năm 1992, tổng thu ngân sách trên địa bàn mới chỉ đạt gần 40 tỷ đồng, trong đó, thuế nông nghiệp chiếm khoảng 50 % cơ cấu nguồn thu ngân sách. Lao động thiếu việc làm, trong khi dân số tăng cao. Hệ thống giao thông, công trình thuỷ lợi xuống cấp nghiêm trọng. Trường học, bệnh viện, trạm y tế xã còn thiếu và xuống cấp. 

Các vấn đề xã hội và đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội còn diễn biến phức tạp. Công tác xây dựng Đảng, chính quyền và các đoàn thể chậm đổi mới, chưa ngang tầm với nhiệm vụ đặt ra. GDP bình quân đầu người thấp, đạt 840.000 đồng/người/năm, đời sống một bộ phận nhân dân rất khó khăn.

2. Kết quả thực hiện các Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh từ 1992 - 2010.

Sau khi tái lập tỉnh, được sự quan tâm của Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ và sự giúp đỡ của các bộ, ngành Trung ương, Đảng bộ, chính quyền, quân và dân Ninh Bình quyết tâm phấn đấu, đẩy mạnh công cuộc đổi mới, đạt được những thành tựu quan trọng, hoàn thành khá toàn diện mục tiêu Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XII, XIII, XIV, XIX đề ra. 

a. Giai đoạn 1992 – 1995.

Sau 4 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XII, Đảng bộ và nhân dân tỉnh đã phát huy truyền thống cách mạng, vượt qua nhiều khó khăn thử thách, giành được những thắng lợi lớn có ý nghĩa quan trọng, góp phần cùng cả nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo tiền đề cho bước phát triển nhanh hơn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đến năm 1995, nền kinh tế của tỉnh có bước phát triển mới, tương đối toàn diện, tốc độ tăng trưởng khá, cao hơn so với các thời kỳ trước đây, đạt và vượt nhiều chỉ tiêu chủ yếu, nổi bật là sản xuất nông nghiệp. Sản lượng lương thực đạt 31,9 vạn tấn; lương thực bình quân đầu người đạt 372 kg; tốc độ tăng trưởng công nghiệp bình quân hàng năm đạt 15,2 %; tỷ trọng giá trị công nghiệp trong tổng giá trị sản lượng nông – công nghiệp đạt 23,65 %. Thu ngân sách trên địa bàn năm 1995 đạt gần 84,5 tỷ đồng. Tình hình xã hội có nhiều chuyển biến tốt. Đời sống của đại bộ phận nhân dân ổn định và có nhiều mặt được cải thiện. An ninh chính trị được giữ vững, trật tự an toàn xã hội và nền quốc phòng toàn dân được củng cố, góp phần giữ vững ổn định chính trị, tăng cường đoàn kết, thống nhất trong Đảng bộ và nhân dân. Hệ thống chính trị được đổi mới và tăng cường. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức Đảng, hiệu lực quản lý, điều hành của chính quyền, vai trò của Mặt trận và các đoàn thể được nâng cao.

b. Giai đoạn 1996 - 2000.

Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII, Đảng bộ, quân và dân trong tỉnh đã đoàn kết, phấn đấu đạt được những kết quả quan trọng trên các lĩnh vực. Kinh tế tăng trưởng khá; tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đạt 8,12 %/năm; trong đó giá trị sản xuất nông nghiệp tăng 5,28 %, công nghiệp tăng 15,12 %, dịch vụ tăng 9,72 %. Đến năm 2000, sản lượng lương thực quy thóc đạt 45,5 vạn tấn, bình quân lương thực đầu người đạt 504 kg. Thu ngân sách trên địa bàn đạt 150 tỷ đồng. Cơ sở vật chất kỹ thuật, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được tăng cường. Các hoạt động văn hoá – xã hội có nhiều chuyển biến tích cực. Đời sống của nhân dân tiếp tục ổn định và nhiều mặt được cải thiện. Quốc phòng an ninh được giữ vững. Hệ thống chính trị tiếp tục được củng cố, ngày càng vững mạnh.

c. Giai đoạn 2001 – 2005.

Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV, Ninh Bình đã đạt nhiều kết quả quan trọng trên các lĩnh vực, trong đó nổi bật nhất là lĩnh vực phát triển kinh tế. 

Giai đoạn này, nền kinh tế của tỉnh đã bước vào thời kỳ tăng trưởng nhanh, cơ cấu kinh tế chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp – xây dựng và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng nông, lâm nghiệp và thủy sản. Tốc độ tăng trưởng GDP (2001 – 2005), bình quân đạt 20,5 %/năm. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, đến năm 2005, nông, lâm nghiệp, thuỷ sản chiếm 30,9 %; công nghiệp – xây dựng chiếm 35,7 %; dịch vụ chiếm 33,4 %. Sản xuất nông nghiệp phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá. Sản lượng lương thực quy thóc bình quân đạt 45,4 vạn tấn/năm; giá trị sản phẩm trên 1 ha đất canh tác đạt 25,4 triệu đồng/năm. Giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn đến năm 2005 gấp 2,7 lần so với năm 2000. Giá trị sản xuất hàng xuất khẩu đến năm 2005 đạt 50,3 triệu USD; giá trị kim ngạch nhập khẩu đạt 22 triệu USD. Lĩnh vực dịch vụ, du lịch, giao thông vận tải, điện lực, bưu chính viễn thông đều có bước phát triển, cơ bản đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống. Thu ngân sách trên địa bàn năm 2005 đạt 639 tỷ đồng. GDP bình quân đầu người năm 2005 đạt 5,3 triệu đồng, gấp 2,1 lần năm 2000. Tỷ lệ hộ nghèo đến năm 2005 còn 6,2 % (theo tiêu chí năm 2000), cơ bản không còn hộ đói. 

d. Giai đoạn 2006 – 2010.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX, Ninh Bình tiếp tục phát huy được truyền thống và sức mạnh tổng hợp của Đảng bộ và các tầng lớp nhân dân, chủ động khắc phục khó khăn, vượt qua thách thức, vận dụng sáng tạo đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước phù hợp với thực tiễn của tỉnh, nỗ lực phấn đấu đạt kết quả toàn diện trên nhiều lĩnh vực. 

- Trong điều kiện có nhiều khó khăn, ảnh hưởng của thiên tai, dịch bệnh, khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 - 2009, nhưng tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm của tỉnh đạt 16,5%, cao hơn mức tăng trưởng bình quân cả nước. Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội năm 2010 đạt 19.200 tỷ đồng, gấp 4,36 lần năm 2006. Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất bình quân hàng năm (theo giá cố định 1994): Nông, lâm nghiệp, thuỷ sản: 4,3%; Công nghiệp: 28,4%; Dịch vụ: 19,12%. Cơ cấu kinh tế (theo GDP giá hiện hành) đến năm 2010: Công nghiệp – xây dựng: 48,9%; Dịch vụ: 35,3%; Nông, lâm nghiệp, thuỷ sản: 15,8%. GDP bình quân đầu người năm 2010 đạt 20,9 triệu đồng, tăng gần 4 lần so với năm 2005, bằng 90 % so với bình quân chung cả nước (1200 USD) và vượt bình quân vùng Đồng bằng sông Hồng (1.040 USD). Thu ngân sách trên địa bàn năm 2010 đạt 3066 tỷ đồng.

Lĩnh vực sản xuất công nghiệp và xây dựng có sự phát triển mạnh, giá trị sản xuất công nghiệp bình quân 5 năm tăng 28,4%. Những dự án lớn như: các nhà máy xi măng The Vissai, Hướng Dương, Duyên Hà, ô tô Thành Công, nhà máy kính Tràng An... đã góp phần làm tăng năng lực sản xuất và tạo giá trị tăng thêm. 

Huy động nguồn lực cho đầu tư xây dựng cơ bản tăng mạnh, cơ cấu nguồn vốn chuyển dịch theo hướng tích cực. Trong giai đoạn này, tổng nguồn vốn đạt 46.000 tỷ đồng, tăng gấp 5 lần so với thời kỳ 2001- 2005. Nông nghiệp tiếp tục phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá, giá trị sản xuất trên 1 ha đất canh tác tăng cao, đạt 75 triệu đồng, tăng gấp 3 lần so với năm 2005. Du lịch có bước phát triển khá. Năm 2010, đón trên 3,3 triệu lượt khách du lịch đến Ninh Bình. Hoạt động xuất, nhập khẩu có chuyển biến tích cực. Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu 5 năm đạt 985 triệu USD, trong đó xuất khẩu đạt trên 240 triệu USD, tăng bình quân 26,2%/năm. 

- Cùng với phát triển kinh tế, các vấn đề xã hội được quan tâm giải quyết, đạt nhiều tiến bộ, an sinh xã hội được đảm bảo, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện. Giáo dục - đào tạo phát triển khá toàn diện; Công tác khoa học, công nghệ; bảo vệ tài nguyên, môi trường được coi trọng. Công tác chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân được quan tâm. Văn hoá - thông tin, thể dục - thể thao, báo chí, phát thanh - truyền hình, văn học - nghệ thuật có nhiều tiến bộ. Công tác giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội được triển khai mạnh mẽ trong toàn tỉnh, trọng tâm là ở các xã có tỷ lệ hộ nghèo cao. 

Công tác quân sự, quốc phòng địa phương được tăng cường, an ninh chính trị được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. Hệ thống chính trị tiếp tục được củng cố, đổi mới phương thức và nâng cao chất lượng hoạt động, góp phần thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh. 

3. Những thành tựu nổi bật của Đảng bộ, chính quyền, quân và dân tỉnh Ninh Bình đạt được trong chặng đường 20 năm qua.

Kể từ ngày 1-4-1992 đến nay, trải qua 2 thập kỷ phát triển, dưới ánh sáng của đường lối đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, phát huy truyền thống lịch sử và cách mạng của quê hương anh hùng, Đảng bộ quân và dân tỉnh Ninh Bình đã đoàn kết, phấn đấu vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, giành nhiều thành tựu quan trọng, nổi bật là:

- Thứ nhất: kinh tế của tỉnh liên tục tăng trưởng khá, tạo bước đột phá về chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, đồng thời có sự chuyển dịch giữa các thành phần kinh tế và các vùng trong tỉnh. Sản xuất công nghiệp ngày càng phát triển trở thành động lực chính để phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Các ngành dịch vụ phát triển trong đó du lịch đang từng bước trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản đặc biệt là sản xuất lương thực đạt được những thành tựu đáng kể, góp phần đảm bảo an ninh lương thực. 

Trong 20 năm qua, tổng sản phẩm trên địa bàn tăng liên tục qua các năm; bình quân thời kỳ 1992 – 1995 tăng 13,3 %; thời kỳ 1996 – 2000 tăng 9,6 %; thời kỳ 2001 – 2005 tăng 13,1 %; thời kỳ 2006 – 2011 tăng 15,7 % và là thời kỳ tăng trưởng cao nhất trong 20 năm. Tính chung cả giai đoạn 20 năm, giá trị GDP năm 2011 tăng 8,9 lần so với năm 1992; trong đó giá trị sản xuất công nghiệp – xây dựng tăng 27,71 lần, giá trị dịch vụ tăng 12,4 lần, giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 1,73 lần. Thu ngân sách năm 2011 đạt 3.392 tỷ đồng, gấp 84,8 lần năm 1992.

Từ 1992 đến 2011, chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng nông, lâm nghiệp và thuỷ sản. Sau 20 năm, từ một tỉnh thuần nông, bước đầu đã hình thành rõ nét nền kinh tế phát triển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Năm 2011, tỷ trọng công nghiệp – xây dựng chiếm 49 %, dịch vụ chiếm 36 %, nông, lâm nghiệp, thuỷ sản chỉ còn 15 %. Cơ cấu vùng kinh tế có bước chuyển dịch theo hướng hình thành các vùng động lực phát triển kinh tế của tỉnh, vùng chuyên canh và các khu công nghiệp, cụm công nghiệp như vùng chuyên canh lúa chất lượng cao ở Kim Sơn, Yên Khánh, Yên Mô; chuyên canh cây dứa ở thị xã Tam Điệp; cây lạc ở Nho Quan,...các khu công nghiệp ở thành phố Ninh Bình, thị xã Tam Điệp, huyện Hoa Lư, Gia Viễn.. Môi trường đầu tư kinh doanh lành mạnh, thông thoáng cùng với các cơ chế, chính sách ưu đãi, đã khuyến khích các doanh nghiệp ngoài nhà nước phát triển cả về số lượng và quy mô, nhiều doanh nghiệp có dự án lớn như các nhà máy xi măng: The Vissai, Tam Điệp, Hướng Dương, Duyên Hà, nhà máy cán thép Pomihoa, nhà máy kính nổi Tràng An, nhà máy lắp ráp ô tô Thành Công, nhà máy sản xuất phân đạm Ninh Bình... đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh năm 2010 đứng thứ 10 trong cả nước.

Trong 20 năm qua, sản xuất công nghiệp phát triển với tốc độ khá nhanh, giá trị sản xuất năm 2011 đạt gần 13 nghìn tỷ đồng, tăng 42 lần so với năm 1992; bình quân mỗi năm tăng khoảng 20 %. Toàn tỉnh đã quy hoạch 7 khu công nghiệp (Gián Khẩu, Khánh Phú, Tam Điệp, Khánh Cư, Phúc Sơn, Sơn Hà, Xích Thổ) và 22 cụm công nghiệp. Đã có 70 dự án với tổng vốn đầu tư trên 30 nghìn tỷ đồng được triển khai xây dựng và đi vào hoạt động tại 3 khu công nghiệp: Gián Khẩu, Khánh Phú, Tam Điệp. Tỷ lệ lấp đầy khu công nghiệp Gián Khẩu đạt 100 %, khu công nghiệp Khánh Phú đạt 95,4 %, khu công nghiệp Tam Điệp đạt 51,5 %.

Các ngành dịch vụ tiếp tục phát triển, mạng lưới kinh doanh thương mại đã có mặt ở hầu hết các địa bàn dân cư. Với tài nguyên du lịch phong phú, Ninh Bình đã là điểm du lịch của nhiều du khách từ trước năm 1992. Du lịch Ninh Bình đã thực sự có bước phát triển qua từng giai đoạn, nhất là giai đoạn 2006 – 2011, đã đạt mức tăng trưởng mạnh. Kết cấu hạ tầng du lịch được tăng cường, tạo ra bước phát triển có tính đột phá, tập trung chủ yếu vào loại hình du lịch tâm linh và du lịch sinh thái. Các dự án trọng điểm như khu du lịch Tràng An, Bái Đính, Tam Cốc – Bích Động, khu sinh thái đất ngập nước Vân Long; khu di tích lịch sử văn hoá Cố đô Hoa Lư, các công trình kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội được xây dựng. Các cơ sở kinh doanh và phục vụ hoạt động du lịch tăng nhanh, đến năm 2011, đã có 4.835 cơ sở kinh doanh và phục vụ du lịch. Nhiều công trình có tổng mức vốn đầu tư lớn như khu du lịch Tràng An, khu nghỉ dưỡng cao cấp Anmandara, trung tâm thể thao sân golf 54 lỗ hồ Yên Thắng, khu nghỉ dưỡng Resort Cúc Phương, khách sạn Hoàng Sơn, khách sạn Legend,... được đầu tư, tạo diện mạo mới cho du lịch Ninh Bình. Số lượng khách du lịch đến tham quan năm sau cao hơn năm trước, thể hiện sức hấp dẫn của du lịch Ninh Bình. Năm 1992, số khách du lịch đến Ninh Bình mới đạt 64 nghìn lượt khách, đến năm 2011, số khách du lịch đến Ninh Bình đã đạt 3,6 triệu lượt khách, gấp 5,5 lần năm 2005 và gấp 562,5 lần năm 1992. Doanh thu từ hoạt động du lịch năm 1992 đạt 904 triệu đồng, đến năm 2011 đạt hơn 655 tỷ đồng, gấp 725 lần năm 1992.

Hoạt động xuất nhập khẩu đã tập trung đầu tư mở rộng sản xuất, khai thác mặt hàng, mở rộng thị trường. Đến năm 2011, kim ngạch xuất khẩu đạt gần 264 triệu USD, bình quân giai đoạn 1992 – 2011, mỗi năm tổng kim ngạch xuất khẩu tăng hơn 28 %, giai đoạn 2006 – 2011 đạt tốc độ tăng mạnh nhất, hơn 51 %. Bên cạnh các mặt hàng truyền thống như thảm cói, hàng thêu, thịt lợn đông lạnh, đến nay nhiều mặt hàng mới có giá trị xuất khẩu cao như: hàng dệt may, giày vải, xi măng,...

Sau nhiều năm tập trung giải quyết vấn đề lương thực, an ninh lương thực của tỉnh đã được bảo đảm, nông nghiệp phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá. Giá trị sản xuất ngành nông nghiệp đã tăng từ 842 tỷ đồng năm 1992 lên 1.867 tỷ đồng năm 2011, gấp 2,22 lần. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp có sự chuyển dịch tích cực, hoạt động dịch vụ phát triển mạnh, hình thành và phát triển các mô hình kinh tế mới (trang trại, doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp tư nhân) hoạt động có hiệu quả, thu hút nhiều lao động nông thôn, tạo nhiều sản phẩm cho nền kinh tế. Đã hình thành các vùng nguyên liệu chuyên canh gắn với các cơ sở chế biến và thị trường nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, nhất là hàng nông sản chế biến để xuất khẩu. Sản xuất vụ đông được mở rộng, nhiều cây trồng mới có giá trị kinh tế cao được đưa vào sản xuất, góp phần tăng thu nhập, cải thiện đời sống nông dân. Giá trị sản xuất nông nghiệp trên 1 ha canh tác năm 2011 đạt 86 triệu đồng. Năng suất lúa năm 2011 đạt 60,4 tạ/ha, tăng 1,71 lần so với năm 1992; sản lượng lương thực có hạt năm 2011 đạt hơn 51,4 vạn tấn, tăng gần 1,9 lần năm 1992, không những đảm bảo đủ nhu cầu tiêu dùng của người dân và chăn nuôi mà còn cung cấp cho thị trường ngoài tỉnh.

- Thứ hai: kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nhất là kết cấu hạ tầng giao thông, thuỷ lợi, điện năng phát triển tương đối đồng bộ, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. 

Nhà nước tập trung đầu tư cải tạo, nâng cấp tuyến Quốc lộ 1A, Quốc lộ 10, 477 qua địa bàn tỉnh. Các tuyến tỉnh lộ, huyện lộ và gần 1700 km đường giao thông nông thôn được đầu tư kiên cố hoá. Đang tích cực triển khai xây dựng dự án tuyến đường Bái Đính – Kim Sơn, tuyến đường Bái Đính – Chùa Hương.
Hệ thống trạm bơm điện phục vụ tưới, tiêu trên địa bàn toàn tỉnh được đặc biệt quan tâm đầu tư, phục vụ sản xuất nông nghiệp và đảm bảo an toàn cho dân cư trong mùa lũ. Nhiều hồ chứa nước với trữ lượng hàng triệu m3 đảm bảo tưới cho cây trồng hàng năm, góp phần hạn chế lũ cho vùng chiêm trũng. Đến năm 2011, toàn tỉnh đã kiên cố hơn 925 km kênh mương. Hệ thống đê điều được đầu tư xây dựng mới và nâng cấp cải tạo như hệ thống đê biển Bình Minh II, Bình Minh III, đê tả và đê hữu sông Hoàng Long, đê tả sông Đáy,..

Từ chỗ hệ thống lưới điện chỉ có 580 km đường dây cao, hạ thế, 9 trạm trung gian 35/10 KV, với tổng công suất trên 37 nghìn KVA; đến nay hệ thống lưới điện trên địa bàn tỉnh đã có 174 km đường dây 110 KV, 1.100 km đường dây trung thế, 1.135 km đương dây hạ thế trục chính và 1.087 km đường nhánh cùng với hàng trăm trạm và máy biến áp các loại, đảm bảo phục vụ cơ bản nhu cầu điện sản xuất và sinh hoạt trên địa bàn.

Bên cạnh đó, hạ tầng văn hoá – xã hội cũng được quan tâm đầu tư. Đến nay, các xã, phường, thị trấn trong tỉnh có trụ sở kiên cố đạt tiêu chuẩn. 80% trường, lớp học được kiên cố hoá. 67% thôn, xóm, phố có nhà văn hoá; 70% xã, phường, thị trấn có nhà văn hoá; 50% huyện, thành phố, thị xã có nhà văn hóa thiếu nhi. Cơ sở vật chất phục vụ luyện tập và thi đấu thể thao ở cấp tỉnh đủ năng lực đáp ứng nhu cầu luyện tập của vận động viên và đăng cai các giải thi đấu quốc gia và quốc tế. Cơ sở hạ tầng viễn thông không ngừng mở rộng, phát triển đến vùng sâu, vùng xa; số thuê bao điện thoại/10.000 dân đã tăng 217 lần so với năm 1992; 100 % số xã có điểm bưu điện văn hoá và đường truyền internet, số thuê bao internet đạt bình quân 6,2 thuê bao/100 dân.

- Thứ ba: đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, các lĩnh vực giáo dục, y tế và các lĩnh vực xã hội khác từng bước được củng cố, phát triển, cơ bản đảm bảo sự hài hoà giữa phát triển kinh tế là trung tâm, phát triển văn hoá là nền tảng tinh thần xã hội.

Tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh, đã thúc đẩy vấn đề giải quyết việc làm đạt được nhiều tiến bộ, thu nhập của người lao động được cải thiện và nâng lên đáng kể, đời sống của dân cư thành thị và nông thôn được cải thiện rõ rệt. Đến nay, tỷ lệ nhà kiên cố của nhân dân đạt 95,8 %; diện tích nhà ở bình quân 1 khẩu tăng từ 13,2 m2 lên 17 m2 năm 2010. Đến năm 2011, thu nhập bình quân đầu người đạt 24,91 triệu đồng, tăng 24,07 triệu đồng so với năm 1992. Tỷ lệ hộ dân được dùng điện đạt 100 %; được dùng nước hợp vệ sinh đạt 90,7 %, tăng 45,8 % so với năm 1992; tỷ lệ hộ dân có máy thu hình đạt 91 %, tăng 38,5 %; tỷ lệ hộ nghèo (theo tiêu chí 2011 – 2015) còn 9,86 % và không còn hộ đói.

Sự nghiệp giáo dục đào tạo đạt được nhiều thành tựu mới. Hệ thống giáo dục phát triển cả chiều rộng và chiều sâu, ở tất cả các ngành học, bậc học. Tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn và trên chuẩn là 98,1%, (trên chuẩn là 41,9%). Tỷ lệ phòng học kiên cố hóa cao tầng đạt 75,9%. Số trường chuẩn quốc gia đạt tỷ lệ trên 50%; là một trong những tỉnh dẫn đầu trong cả nước. Năm học 2010 - 2011, các cấp học phổ thông đạt tỷ lệ tốt nghiệp cao, trên 99%; trong đó tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THPT đạt 99,78%, xếp thứ ba toàn quốc; tỷ lệ học sinh tốt nghiệp bổ túc THPT đạt 99,87%, xếp thứ tư toàn quốc; Ninh Bình đứng thứ 7 toàn quốc về điểm bình quân của thí sinh thi đại học; trong năm học 2010 – 2011 đã đạt 47 giải học sinh giỏi Quốc gia lớp 12 THPT. 

Lĩnh vực y tế đạt được những tiến bộ đáng kể. Năm 2010, Bệnh viện đa khoa tỉnh quy mô 700 giường với trang thiết bị hiện đại hoàn thành, đưa vào sử dụng; Bệnh viện Sản – Nhi, Bệnh viện Mắt được thành lập. Nhiều bệnh viện tuyến huyện, trạm y tế xã tiếp tục được đầu tư củng cố, xây dựng cơ sở mới. Đến năm 2011, toàn tỉnh có 172 cơ sở y tế, tăng 16 cơ sở; bình quân có 30 giường bệnh/1 vạn dân, tăng 1,36 lần; bình quân có 5,8 bác sĩ/1 vạn dân, tăng 1,7 người so với năm 1992. 100 % số xã có trạm y tế, 86,2 % số xã đạt chuẩn quốc gia về y tế; 99,8 % số thôn có cán bộ y tế thôn.

Công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm được thực hiện tích cực và có hiệu quả. Năm 2011, tỷ lệ lao động qua đào tạo đã đạt 31 %, giải quyết việc làm cho gần 20.000 lao động. Cùng với chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động chuyển dịch khá nhanh theo hướng tích cực. Trong 5 năm gần đây, 22% số lao động đã chuyển từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp - xây dựng và dịch vụ.

Công tác xoá đói, giảm nghèo góp phần đảm bảo an sinh xã hội được quan tâm và đạt kết quả nổi bật. Các xã có tỷ lệ hộ nghèo cao được ưu tiên hỗ trợ đầu tư kết cấu hạ tầng; người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn được hỗ trợ giống cây trồng, vật nuôi, vay vốn ưu đãi, ưu tiên đào tạo nghề, giải quyết việc làm, xuất khẩu lao động, hỗ trợ cải tạo sửa chữa và xây nhà ở. Hộ nghèo của 23 xã có tỷ lệ hộ nghèo cao giảm từ 21,5% (năm 2007) xuống còn dưới 10% (năm 2010). Năm 2006, tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh còn 12,66 %, với sự phấn đấu quyết liệt của cả hệ thống chính trị, đến hết năm 2011, tỷ lệ hộ nghèo còn 9,86 % (theo tiêu chí 2011 – 2015). Đã hoàn thành xây, sửa chữa gần 3.000 nhà ở dột nát cho hộ nghèo, hộ chính sách. 

- Thứ tư: Công tác quốc phòng địa phương được tăng cường, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được giữ vững, bảo đảm cuộc sống bình yên cho nhân dân và môi trường xã hội lành mạnh.
 
Phong trào thi đua "Vì an ninh Tổ quốc", "Thực hiện 6 điều Bác Hồ dạy Công an nhân dân", phong trào quần chúng "Bảo vệ an ninh Tổ quốc", "Đảm bảo an toàn giao thông", "Tổ dân phố tự quản về an ninh trật tự ", "Tổ dân phố 3 giảm" được đẩy mạnh. Phong trào thi đua "Sáng mãi phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ", thi đua "Quyết thắng" trong lực lượng quân sự địa phương được phát động liên tục, rộng khắp. Các cấp uỷ Đảng, chính quyền đã quán triệt và thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế đi đôi với củng cố quốc phòng - an ninh; thường xuyên chăm lo, xây dựng lực lượng quân đội nhân dân, công an nhân dân trong sạch, vững mạnh, xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc, bảo vệ an toàn các sự kiện chính trị, các chuyến thăm và làm việc của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các cơ quan trọng yếu của tỉnh, góp phần trực tiếp giữ vững ổn định chính trị, tăng cường quốc phòng - an ninh, đảm bảo trật tự, an toàn xã hội, phát hiện, giải quyết kịp thời các vấn đề phức tạp nảy sinh, không để xảy ra điểm nóng.

- Thứ năm: hệ thống chính trị được củng cố, chất lượng hoạt động được nâng lên. Phương thức lãnh đạo, năng lực lãnh đạo của các cấp uỷ đảng từ tỉnh đến cơ sở được đổi mới, hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của chính quyền các cấp được nâng lên, đáp ứng yêu cầu đổi mới và phát triển của tỉnh.

Công tác xây dựng Đảng được tập trung chỉ đạo toàn diện trên cả 3 mặt: Chính trị, tư tưởng, tổ chức; việc thực hiện cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” đạt được nhiều kết quả; công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong sạch, vững mạnh được coi trọng. Đến năm 2011, 87,5 % tổ chức cơ sở Đảng được công nhận tổ chức cơ sở Đảng trong sạch, vững mạnh.

20 năm đổi mới và phát triển, Đảng bộ tỉnh đã có sự phát triển về số lượng tổ chức Đảng và đảng viên. Năm 1992, mới có 636 tổ chức cơ sở Đảng, trên 2000 chi bộ trực thuộc đảng bộ cơ sở và hơn 40.000 đảng viên, đến nay Đảng bộ tỉnh đã có 13 đảng bộ trực thuộc, 711 tổ chức cơ sở đảng, 3068 chi bộ trực thuộc đảng bộ cơ sở và hơn 58.000 đảng viên. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng bộ tỉnh được nâng lên, đã lãnh đạo quân và dân toàn tỉnh thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị, kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh qua từng giai đoạn, tạo ra sự phát triển mạnh mẽ, toàn diện và liên tục trên các lĩnh vực.

Chất lượng hoạt động của hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân các cấp ngày càng được nâng cao. Nội dung các kỳ họp hội đồng nhân dân các cấp có sự đổi mới và hiệu quả. Chức năng quyết định, giám sát của hội đồng nhân dân ngày càng được thực hiện tốt hơn, từng bước đáp ứng tâm tư, nguyện vọng hợp pháp, chính đáng của nhân dân, thúc đẩy thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh. 

Sự quản lý, điều hành của uỷ ban nhân dân các cấp đã năng động hơn, tăng cường phân cấp, tập trung giải quyết những vấn đề lớn, quan trọng, những vấn đề bức xúc ở cơ sở. Cơ cấu, tổ chức, bộ máy của các cơ quan Nhà nước được sắp xếp lại đã góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động. Công tác cải cách hành chính được đẩy mạnh, cải cách thủ tục hành chính có nhiều tiến bộ. Triển khai thực hiện đồng bộ, có hiệu quả cơ chế “một cửa”, từng bước nhân rộng cơ chế một cửa liên thông tại các huyện, thành phố, thị xã, các sở, ngành và các xã, phường, thị trấn trong tỉnh.

Cùng với việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về phòng, chống tham nhũng, lãng phí, cấp uỷ, chính quyền các cấp đã chỉ đạo tăng cường công tác quản lý, thực hiện các biện pháp phòng ngừa tham nhũng một cách đồng bộ, toàn diện, từng bước phát huy được hiệu quả như: công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị; xây dựng và thực hiện định mức, tiêu chuẩn; chuyển đổi vị trí công tác... Công tác giám sát của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp có nhiều hoạt động tích cực, đã phát hiện, kiến nghị nhiều biện pháp với các cơ quan có thẩm quyền nhằm khắc phục những thiếu sót trong công tác quản lý. 

Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể đã động viên các tầng lớp nhân dân trong tỉnh tiếp tục được đổi mới theo hướng sát cơ sở, thiết thực, hiệu quả, chú trọng phát triển đoàn viên, hội viên. Công tác vận động quần chúng có nhiều chuyển biến rõ nét, các đoàn viên, hội viên đã thể hiện vai trò là nòng cốt và tích cực tham gia các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước nhằm thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. 

4. Những phần thưởng cao quý đã đạt được trong 20 năm đổi mới và phát triển (1992 – 2012).

Đảng và Nhà nước đã ghi nhận và khen thưởng những thành tích của Đảng bộ, quân và dân tỉnh Ninh Bình từ năm 1992 đến năm 2012:

- Tỉnh Ninh Bình và 7/8 huyện, thị xã được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
 
- Tỉnh Ninh Bình được tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhất lần thứ nhất năm 2007, lần thứ hai năm 2012. 

- 68 tập thể, 17 cá nhân được phong tặng, truy tặng Danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. 
- 08 tập thể, 03 cá nhân được phong tặng Danh hiệu Anh hùng Lao động.
 
- 344 bà mẹ được phong tặng, truy tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước Mẹ Việt Nam Anh hùng. 

- 720 Huân chương các loại được tặng thưởng cho các tập thể và cá nhân có thành tích xuất sắc. 

5. Những bài học kinh nghiệm trong 20 năm đổi mới và phát triển

Từ thực tiễn 20 năm tỉnh nhà được tái lập, đổi mới và phát triển, với những kết quả đã đạt được cũng như những khuyết điểm, yếu kém và nguyên nhân, chúng ta đúc kết được một số bài học kinh nghiệm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ ở địa phương:

- Một là: Tổ chức triển khai thực hiện nghiêm túc, kịp thời các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Trong công tác lãnh đạo, luôn quán triệt tư tưởng phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, xây dựng và phát triển văn hoá trở thành nền tảng tinh thần, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. 

- Hai là: Công tác chỉ đạo, điều hành phải trên cơ sở quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm túc các quan điểm, đường lối, nguyên tắc của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình - nguyên tắc cơ bản để đảm bảo sự đoàn kết, thống nhất, đồng thời tăng cường công tác vận động, làm tốt công tác tư tưởng để tạo sự đồng thuận cao trong cán bộ và nhân dân. Bám sát thực tiễn của địa phương, kịp thời đề ra chính sách và những giải pháp cụ thể, có vận dụng sáng tạo, linh hoạt, phù hợp với tình hình mới. Chỉ đạo điều hành, giải quyết công việc phải tập trung, quyết liệt, có trọng tâm, trọng điểm, phân công, phân cấp rõ ràng. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, nêu cao trách nhiệm thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của người đứng đầu, phát huy tính tiền phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên. Thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, hướng về cơ sở, phát huy dân chủ đi đôi với giữ vững kỷ cương, kỷ luật và làm tốt công tác vận động quần chúng. Phát động và đẩy mạnh các phong trào hành động cách mạng trong nhân dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân là yếu tố quan trọng tạo nên động lực, đảm bảo hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ. 

- Ba là: Phải thực sự coi trọng chất lượng, hiệu quả tăng trưởng và phát triển bền vững. Tranh thủ sự giúp đỡ của Trung ương đi đôi với tăng cường huy động, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả các nguồn lực. Coi trọng việc kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Phát triển kinh tế nhanh và bền vững phải gắn với đảm bảo an sinh xã hội, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nhất là đối với hộ nghèo, hộ chính sách, đồng bào vùng sâu, vùng xa. Phát triển kinh tế phải đi đôi với đảm bảo ổn định chính trị - xã hội, coi đây là tiền đề, điều kiện để phát triển nhanh và bền vững. 

Phần thứ ba:
NHỮNG THÀNH TỰU XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN 
THÀNH PHỐ NINH BÌNH SAU 5 NĂM THÀNH LẬP

Từ một thị xã nhỏ bé, điều kiện kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân rất khó khăn, sau 5 năm thành lập thành phố và 20 năm trở lại vị trí trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội, an ninh - quốc phòng của tỉnh, thành phố Ninh Bình đã phát huy mạnh mẽ truyền thống anh hùng, năng động, sáng tạo, đoàn kết, đổi mới, bứt phá vươn lên đạt nhiều thành tựu quan trọng trên mọi lĩnh vực.

1. Về phát triển kinh tế

Kinh tế phát triển nhanh và bền vững, tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2005 - 2010 đạt 18,2%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực, tỷ trọng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ tăng nhanh, tỷ trọng nông nghiệp giảm dần phù hợp với lộ trình đô thị hoá. Cơ cấu kinh tế hiện nay của thành phố: công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp chiếm 50,19 %; dịch vụ chiếm 48,61 %; nông nghiệp chiếm 1,2 %. Thành phố đã chủ động quy hoạch và từng bước triển khai đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng 2 khu tiểu thủ công nghiệp và làng nghề truyền thống.

- Dịch vụ tăng trưởng nhanh, cơ bản đáp ứng nhu cầu thị trường. Mạng lưới thương mại được quy hoạch và đầu tư xây dựng. Thành phố ngày càng có nhiều cơ sở kinh doanh theo hình thức siêu thị, góp phần nâng cao chất lượng hàng hoá, dịch vụ, tạo tiền đề để xây dựng ngành dịch vụ văn minh, hiện đại. Hiện nay trên địa bàn thành phố có trên 100 khách sạn và nhà hàng lớn, trong đó 18 khách sạn đã được xếp sao; trên 500 doanh nghiệp và hơn 8.000 hộ gia đình hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ. 

- Nông nghiệp phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá, tích cực chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, cây trồng, vật nuôi nhằm tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả. Giá trị canh tác trên 1 ha đất nông nghiệp và mặt nước nuôi trồng thuỷ sản hàng năm đều tăng, năm 2011 đạt 87,1 triệu đồng.

- Thu ngân sách năm sau cao hơn năm trước, đóng góp từ 30 - 40 % ngân sách tỉnh; năm 1992, số thu ngân sách của thành phố chỉ đạt 2,5 tỷ đồng, đến năm 2007 đã tăng lên 503 tỷ đồng, đến năm 2011 đã vượt ngưỡng 1.000 tỷ đồng (đạt 1.041 tỷ đồng).

- Công tác quản lý đô thị có nhiều tiến bộ. Thành phố tập trung xây dựng quy hoạch chi tiết các phường xã, các khu đô thị mới và các khu chức năng. Năm 2011 đã hoàn chỉnh và công khai quy hoạch chi tiết 6/14 phường, xã và nhiều khu đô thị mới. Cơ sở vật chất, kết cấu hạ tầng đô thị phát triển vượt bậc, ngày càng đồng bộ, từng bước văn minh, hiện đại. Từ năm 2005 đến nay thành phố Ninh Bình đã triển khai giải phóng mặt bằng trên 140 dự án, trong đó có 8 dự án cấp quốc gia, 41 dự án cấp tỉnh phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của thành phố và tỉnh. 

- Cơ sở vật chất, kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị phát triển vượt bậc. Từ một đô thị nhỏ bé, năm 1992 chưa có vỉa hè, hệ thống giao thông, cơ sở hạ tầng thấp kém, đến nay đã có 112,3km/231km đường giao thông được bê tông hoá chiếm tỷ lệ 48,6%; 53,3km được thảm áp phan chiếm tỷ lệ 23,1%; đường rải đá nhựa 20,9km chiếm 9%. Tỷ lệ đường giao thông nội thành có vỉa hè đạt tiêu chuẩn chiếm 65%, có điện chiếu sáng công cộng đạt 77%. Tỷ lệ hộ gia đình được dùng nước máy đạt 97%. Sau 5 năm thành lập, thành phố đã có một số điểm nhấn ấn tượng về trang trí và cảnh quan đô thị, xứng tầm với các đô thị lớn trong toàn quốc.

2. Về phát triển văn hoá – xã hội

- Sự nghiệp giáo dục - đào tạo không ngừng phát triển. Chất lượng dạy và học ngày càng nâng lên. Tỷ lệ học sinh lên lớp và tốt nghiệp đạt trên 99%. Cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy và học được đầu tư thường xuyên, đến nay có 99% phòng học kiên cố, 14/14 phường xã có trường mầm non công lập. Thành phố giữ vững truyền thống đơn vị lá cờ đầu của tỉnh về học sinh giỏi và giáo dục toàn diện trong nhà trường. Đến nay, 41/41 trường học đạt chuẩn quốc gia (trong đó có 4 trường đạt chuẩn mức độ 2). Công tác xã hội hoá giáo dục được coi trọng; phong trào khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập đạt kết quả tốt.

- Hoạt động văn hoá, văn nghệ, thông tin, tuyên truyền phát triển đa dạng, phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị. Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá đạt kết quả tốt; năm 2011 có 91,5% gia đình, 65,5 % phố, thôn và 88,3% cơ quan đạt tiêu chuẩn văn hoá. Phong trào TDTT phát triển mạnh, thu hút ngày càng nhiều đối tượng tập luyện. Cơ sở vật chất phục vụ hoạt động văn hoá, TDTT được quan tâm đầu tư. Đến nay 14/14 phường, xã có nhà đa năng, 128/177 phố, thôn có điểm sinh hoạt văn hoá, đạt tỷ lệ 72,3%. 

- An sinh xã hội đạt kết quả nổi bật, công tác giảm nghèo đạt thành tích xuất sắc, thực hiện tốt công tác dạy nghề, giải quyết việc làm và chính sách xã hội. Tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh, hiện nay toàn thành phố chỉ còn 398 hộ nghèo (theo tiêu chí 2011 - 2015) chiếm tỷ lệ 1,35% và 625 hộ cận nghèo, chiếm tỷ lệ 2,11%. Tỷ lệ hộ gia đình khá và giàu hiện nay đạt 32,6%. Thu nhập bình quân đầu người năm 2011 đạt 25,4 triệu đồng. 

- Công tác phòng chống dịch bệnh và chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân được quan tâm. Hiện nay 14/14 phường xã đạt chuẩn quốc gia về y tế, 100% trạm y tế có bác sỹ. Công tác quản lý dịch vụ y, dược tư nhân và kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm có nhiều cố gắng.

3. Về an ninh, quốc phòng

5 năm qua, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn thành phố luôn được giữ vững. Công tác quân sự địa phương được quan tâm, chất lượng và hoạt động không ngừng được nâng lên, nhất là xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc, xây dựng nền quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân. Khả năng sẵn sàng chiến đấu của LLVT nhân dân được tăng cường. Lực lượng dân quân tự vệ tăng về số lượng, đảm bảo chất lượng. Lực lượng dự bị động viên được điều chỉnh, bổ sung, tổ chức huấn luyện đủ chỉ tiêu trên giao. Công tác huấn luyện quân sự, giáo dục chính trị, diễn tập, tuyển quân đạt kết quả tốt.

4. Về xây dựng hệ thống chính trị

- Công tác xây dựng Đảng được chú trọng trên cả 3 mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức. Việc học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức, tác phong Hồ Chí Minh được triển khai sâu rộng, thu được kết quả tốt. 5 năm qua, cấp uỷ, chính quyền thành phố đã có nhiều đổi mới trong lãnh đạo, chỉ đạo, hướng mạnh về cơ sở, kịp thời quyết định các chủ trương, chính sách nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, tạo điều kiện cho cơ sở giữ vững sự ổn định, tiếp tục phát triển đi lên. Các mặt công tác xây dựng Đảng đạt kết quả tốt, góp phần nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên. Năm 2011, tỷ lệ tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh đạt 92,3%, tăng 5,1% so với năm 2010. 

- Công tác xây dựng chính quyền được coi trọng, chất lượng hoạt động của HĐND, sự quản lý, điều hành của UBND tiếp tục được nâng lên, cải cách hành chính đạt kết quả tốt. Công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí đạt được một số kết quả. Từ năm 2007, thành phố đã khai trương Trung tâm một cửa liên thông, đến năm 2008 tất cả các phường, xã đều có bộ phận một cửa. Việc giải quyết thủ tục hành chính đảm bảo nhanh chóng, tiện lợi, giảm nhiều phiền hà và thời gian đi lại của nhân dân. Hoạt động của chính quyền cơ sở có nhiều cố gắng, hàng năm 100% chính quyền phường, xã đều đạt tiêu chuẩn vững mạnh.

- Công tác dân vận của các cấp uỷ đảng và chính quyền được tăng cường. Hoạt động của MTTQ và các đoàn thể nhân nhân tiếp tục được đổi mới theo hướng sâu sát cơ sở, thiết thực, hiệu quả. Các phong trào thi đua, các cuộc vận động lớn được triển khai sâu rộng, thu được kết quả tốt, nhất là phong trào thi đua yêu nước, dân vận khéo, toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư, ngày vì người nghèo… 

Nhìn lại chặng đường 5 năm qua, Đảng bộ, quân và dân thành phố Ninh Bình đã không ngừng phấn đấu, thu được nhiều kết quả rất đáng tự hào, trong đó nổi bật là: giữ vững và tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội; kinh tế không ngừng phát triển; thu ngân sách đạt cao nhất từ trước tới nay; cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị phát triển vượt bậc, diện mạo thành phố ngày càng khởi sắc theo hướng văn minh, hiện đại; an sinh xã hội đạt kết quả nổi bật, công tác giảm nghèo đạt thành tích xuất sắc; an ninh chính trị được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo; công tác quân sự và quốc phòng địa phương đạt nhiều kết quả; quan tâm giải quyết kịp thời những khó khăn bức xúc của nhân dân; ban hành nhiều chủ trương chính sách mới sát thực tế, tạo ra động lực mạnh mẽ đưa thành phố phát triển đi lên. 

Phần thứ tư:
PHÁT HUY TRUYỀN THỐNG VÀ NHỮNG THÀNH TỰU ĐÃ ĐẠT ĐƯỢC, NINH BÌNH 
TIẾP TỤC ĐỔI MỚI, HỘI NHẬP VÀ PHÁT TRIỂN

Tự hào về những trang sử vẻ vang của quê hương anh hùng, Đảng bộ, quân và dân Ninh Bình càng xác định rõ trách nhiệm, phát huy truyền thống đoàn kết, anh dũng, thông minh và sáng tạo của cha ông, quyết tâm thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XX, Nghị quyết Đại hội XI của Đảng. Trong bối cảnh thời cơ và thách thức đan xen đối với sự phát triển của đất nước và của tỉnh, Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XX xác định phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ và các giải pháp chủ yếu trong nhiệm kỳ 2010 – 2015.

1. Phương hướng và những mục tiêu chủ yếu đến năm 2015.

Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XX đã xác định: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, hiệu lực, hiệu quả quản lý điều hành của chính quyền các cấp; phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân; duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bền vững, đưa kinh tế du lịch vào thời kỳ tăng tốc; tập trung trí tuệ, nguồn lực từng bước xây dựng nông thôn mới nhằm giải quyết đồng bộ các vấn đề: nông nghiệp, nông dân và nông thôn; phát triển mạnh mẽ văn hoá, giáo dục, không ngừng chăm lo đào tạo nguồn nhân lực; đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính; giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; tăng cường quốc phòng địa phương; củng cố vững chắc hệ thống chính trị; xây dựng Ninh Bình trở thành tỉnh phát triển khá trong khu vực Đồng bằng sông Hồng”.

2. Các mục tiêu chủ yếu đến năm 2015: 

- Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm: 14%. 

- Tốc độ tăng GTSX bình quân hàng năm (theo giá CĐ 1994): 15%. Cụ thể từng lĩnh vực: Công nghiệp-xây dựng: 15% (trong đó: Công nghiệp 16%); Dịch vụ: 19%; Nông, lâm nghiệp, thuỷ sản: 2,5%. 

- Cơ cấu kinh tế (theo GDP, giá hiện hành): Công nghiệp – xây dựng 48%; Dịch vụ 42%; Nông, lâm nghiệp, thuỷ sản 10%. 

- GDP bình quân đầu người đến năm 2015 theo giá hiện hành: 50 triệu đồng.

- Tổng vốn đầu tư toàn xã hội bình quân đạt 15.000 tỷ đồng/năm

- Sản lượng lương thực có hạt bình quân hàng năm: 48 vạn tấn trở lên.

- Thu ngân sách đến năm 2015 đạt 4.200 tỷ đồng.
 
- Kim ngạch xuất khẩu đến năm 2015 đạt 300 triệu USD.

- Khách du lịch đến năm năm 2015 đạt 6.000.000 lượt khách (trong đó: khách quốc tế 1.000.000 lượt khách); khách lưu trú đến năm 2015 đạt 1.000.000 lượt khách (trong đó khách quốc tế 350.000 lượt khách). 

- Tỷ lệ đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi và chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi mức độ 2 (theo tiêu chí 2010): 100%. Tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia đến năm 2015: Mầm non: 70%; Tiểu học (Đạt chuẩn mức độ II): 50%; Trung học cơ sở: 70%; Trung học phổ thông: 40%.

- Số bác sỹ bình quân trên 1 vạn dân đến năm 2015: 8,9 bác sỹ. Mức giảm tỷ lệ sinh hàng năm: 0,2 ‰; Mức giảm tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng bình quân hàng năm: 0,6%.

- Tỷ lệ lao động được đào tạo nghề đến năm cuối nhiệm kỳ: 40% .

- Mỗi năm giảm bình quân 2,5% hộ nghèo trở lên theo tiêu chí hộ nghèo giai đoạn 2011-2015 để đến năm 2015, tỷ lệ hộ nghèo trên địa bàn tỉnh còn khoảng 7%. 

- Tỷ lệ xã được công nhận nông thôn mới đến năm 2015: 20% trở lên.

- Tỷ lệ dân số thành thị được cung cấp nước sạch đến năm 2015: 98%. Tỷ lệ dân số nông thôn được cung cấp nước sinh hoạt hợp vệ sinh đến năm 2015: trên 90%.

- Tỷ lệ diện tích đất có rừng che phủ đến năm 2015: 20%.

- Tỷ lệ tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh; chính quyền, đoàn thể sơ sở vững mạnh 85%; kết nạp đảng viên mới 2.500 người/năm (trong đó đảng viên là người có đạo 60 người). 

3. Nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu cần tập trung thực hiện

a. Về kinh tế - xã hội: Duy trì ổn định tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bền vững, huy động mọi nguồn lực từng bước xây dựng nông thôn mới; phát triển văn hoá - xã hội đồng bộ với tăng trưởng kinh tế và bảo vệ tài nguyên môi trường nhằm hướng tới phát triển bền vững.

- Quản lý, khai thác hợp lý, phát huy hiệu quả các khu, cụm công nghiệp hiện có; đầu tư xây dựng các khu công nghiệp mới; nâng cao quy mô, chất lượng thu hút đầu tư; khuyến khích các dự án công nghệ cao, công nghệ sạch, sản phẩm mới có giá trị cao nhằm duy trì tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp. Tập trung giải quyết khó khăn vướng mắc, tạo mọi điều kiện thuận lợi để duy trì, ổn định sản xuất các sản phẩm công nghiệp hiện có trên địa bàn; phát huy tối đa công suất các nhà máy xi măng. Đưa các dự án lớn như xây dựng hạ tầng các khu công nghiệp, nhà máy sản xuất Phân đạm Ninh Bình, nhà máy sản xuất phôi thép; nhà máy ô tô Thành Công…đi vào hoạt động đúng tiến độ.

- Xây dựng và thực hiện tốt các quy hoạch phát triển ngành, sản phẩm công nghiệp, trong đó ưu tiên thu hút các dự án có công nghệ cao, công nghệ sạch thuộc các lĩnh vực điện tử, điện lạnh, ô tô, cơ khí, bia, chế biến hàng hoá nông sản…Nghiên cứu quy hoạch phát triển thêm khu, cụm công nghiệp ở huyện Kim Sơn để phát triển kinh tế biển. Ban hành chính sách ưu tiên phát triển các làng nghề truyền thống, nhất là những làng nghề gắn với vùng du lịch. Xây dựng Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Ninh Bình đến năm 2020 đảm bảo chất lượng, phù hợp với xu thế phát triển, có tầm nhìn lâu dài. Có giải pháp đồng bộ trong việc quản lý, thực hiện quy hoạch ngành, vùng, nhất là quy hoạch đất đai, tài nguyên khoáng sản, quy hoạch đô thị đến năm 2020, định hướng đến năm 2030, phấn đấu đến năm 2015 xây dựng Thành phố Ninh Bình trở thành đô thị loại II.

- Huy động mọi nguồn lực, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo từng bước xây dựng nông thôn mới. Rà soát, bổ sung quy hoạch phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội - môi trường theo chuẩn mới; quy hoạch sử dụng đất và hạ tầng thiết yếu cho phát triển sản xuất nông nghiệp. Quy hoạch và quản lý chặt chẽ quy hoạch diện tích đất 2 lúa. Giữ ổn định diện tích trồng lúa hàng năm (từ 75 - 80 ngàn ha). Mở rộng diện tích lúa chất lượng cao, đạt 40% diện tích gieo trồng vào năm 2015. Phấn đấu đến năm cuối nhiệm kỳ, giá trị sản phẩm trên 1 ha đất nông nghiệp đạt bình quân 100 triệu đồng/năm... Phát triển chăn nuôi và nuôi trồng thuỷ sản theo hướng công nghiệp và mô hình trang trại, tăng giá trị sản phẩm và tỷ trọng của ngành chăn nuôi, thuỷ sản. Tập trung khai thác có hiệu quả thuỷ sản vùng ven biển Kim Sơn, nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt. Phát triển lâm nghiệp toàn diện từ khâu quản lý, bảo vệ, trồng, cải tạo đến khai thác, chế biến, bảo vệ môi trường cho du lịch sinh thái. Củng cố và phát triển kinh tế hợp tác, tạo điều kiện thuận lợi để thúc đẩy kinh tế trang trại phát triển, nhân rộng các điển hình tiên tiến làm kinh tế giỏi, phấn đấu có nhiều hộ nông dân đạt 200 triệu đồng/ha/năm.

Hoàn thành chương trình kiên cố hoá trường, lớp học; coi trọng giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông. Nâng cao chất lượng giáo dục trí, đức, thể, mỹ cho học sinh, quan tâm phát hiện, bồi dưỡng học sinh giỏi cấp phổ thông, xây dựng trường trọng điểm chất lượng cao ở cấp Trung học Cơ sở và Trung học Phổ thông. Nâng cao tỷ lệ người dân tham gia các hình thức bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội. Xây dựng, nâng cấp, đầu tư trang thiết bị và tăng cường nguồn nhân lực cho trạm y tế xã, phường, thị trấn đáp ứng yêu cầu khám chữa bệnh ban đầu cho nhân dân.

Xây dựng và thực hiện nếp sống văn hoá nông thôn mới. Xây dựng, nâng cao hiệu quả hoạt động của các thiết chế văn hoá ở cơ sở. Phấn đấu đến năm 2015, có 80% số hộ gia đình ở nông thôn, 70% làng (bản, thôn, xóm) đạt danh hiệu văn hoá; 70% khu dân cư, 70% xã có nhà văn hoá; 100% khu dân cư có hệ thống truyền thanh công cộng. Quan tâm phát triển, đào tạo nghề, giải quyết việc làm, xuất khẩu lao động đối với lao động nông thôn, gắn đào tạo nghề với phát triển làng nghề truyền thống, những sản phẩm mới trong nông nghiệp, phát triển du lịch và dịch vụ du lịch.

Quy hoạch phát triển các khu dân cư mới và chỉnh trang các khu dân cư hiện có theo hướng văn minh, bảo tồn bản sắc văn hoá truyền thống. Xây dựng chương trình nhà ở nông thôn theo đúng quy hoạch, đạt tiêu chuẩn nông thôn mới; xoá bỏ nhà tạm, nhà dột nát; nâng cao tỷ lệ hộ có nhà ở đạt chuẩn.

Củng cố, hoàn thiện hệ thống thuỷ lợi, cơ bản đáp ứng yêu cầu sản xuất và dân sinh. Xây dựng các công trình cung cấp nước sinh hoạt, phấn đấu đến năm 2015 có trên 90% dân số nông thôn được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh, trong đó 60% sử dụng nước sạch từ trạm cấp nước tập trung. Đến năm 2015, cơ bản đường trục xã, liên xã được nhựa hoá hoặc bê tông hoá; đường trục thôn, xóm được cứng hoá; đường ngõ, xóm sạch và không lầy lội; đường trục chính nội đồng được cứng hoá phục vụ cho vận chuyển hàng hoá nông sản và đi lại của nhân dân. Cải tạo, nâng cấp hạ tầng điện nông thôn; xây dựng và đổi mới phương thức quản lý, kinh doanh điện ngày càng hiệu quả và phù hợp với thực trạng nông thôn. Phấn đấu đến năm 2011, 100% số hộ được mua điện trực tiếp không qua khâu trung gian; đến năm 2015, 100% số xã có hạ tầng điện đạt tiêu chuẩn nông thôn mới. Làm tốt công tác bảo vệ môi trường. Giữ vững an ninh trật tự nông thôn. Xây dựng hệ thống chính trị nông thôn vững mạnh; đặc biệt chú trọng xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cấp xã.

- Phát triển đồng bộ các ngành dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ du lịch, đưa tỷ trọng dịch vụ chiếm 42% trong cơ cấu kinh tế vào năm 2015 (theo GDP). Bổ sung những giải pháp khả thi nhằm đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết 15-NQ/TU của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về phát triển du lịch đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 để du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Chú trọng công tác quy hoạch, công tác quản lý nhà nước về du lịch. Đặc biệt chú ý công tác đào tạo đội ngũ những người làm du lịch theo hướng chuyên nghiệp. Thực hiện nếp sống văn hoá, văn minh tại các khu, điểm du lịch. Nghiên cứu cơ chế, chính sách thúc đẩy phát triển hạ tầng du lịch, dịch vụ du lịch, đưa Ninh Bình trở thành một trong những trung tâm du lịch trọng điểm của cả nước.

Nâng cao hiệu quả công tác xúc tiến thương mại, giữ vững thị trường truyền thống đi đôi với tích cực, chủ động tìm kiếm, mở rộng thị trường mới; phát triển các mặt hàng xuất khẩu truyền thống, chú trọng cải tiến mẫu mã; tìm kiếm thị trường để xuất khẩu trực tiếp các sản phẩm mới như: sản phẩm may mặc, hải sản chế biến, vật liệu xây dựng, ô tô. 

- Tăng thu ngân sách theo hướng ngày càng vững chắc. Xây dựng các cơ chế, chính sách tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế duy trì và mở rộng sản xuất kinh doanh. Phấn đấu tốc độ thu từ sản xuất kinh doanh tăng bình quân 15%/năm, đảm bảo chi đầu tư phát triển bình quân giai đoạn 2011 - 2015 chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi ngân sách trên địa bàn. 

- Phát triển văn hoá - xã hội đồng bộ với tăng trưởng kinh tế nhằm hướng tới phát triển bền vững ở cả đô thị và nông thôn; phát triển mạnh mẽ, toàn diện giáo dục - đào tạo; nâng cao chất lượng công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân; đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động văn hoá, thể dục - thể thao; thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội. 

Kết hợp chặt chẽ giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế với phát triển văn hoá để văn hoá thực sự trở thành nền tảng tinh thần của xã hội, khơi dậy và phát huy bản sắc văn hiến của vùng đất và con người Cố đô Hoa Lư. Thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội. Tiếp tục đẩy mạnh phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”. Tăng thời lượng phát sóng trên sóng phát thanh và truyền hình, nâng cao chất lượng chương trình truyền hình của tỉnh, các ấn phẩm báo chí và Báo Ninh Bình điện tử. 

Thực hiện đồng bộ các giải pháp phát triển giáo dục toàn diện. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng số lượng, quy mô với nâng cao chất lượng giáo dục giữa dạy chữ, dạy người và dạy nghề. Củng cố vững chắc phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Tăng cường đầu tư xây dựng trường học đạt chuẩn quốc gia. Nâng cao số lượng và chất lượng học sinh đoạt giải trong các kỳ thi Quốc gia và Quốc tế. Phát triển một số loại hình trường chất lượng cao. Đẩy mạnh hơn nữa xã hội hoá giáo dục, đào tạo. Đào tạo và đào tạo lại tiến tới chuẩn hoá các chức danh cán bộ, công chức từ tỉnh đến cơ sở. Chú trọng nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, đội ngũ cán bộ khoa học, doanh nhân và lao động lành nghề.

Đẩy mạnh các hoạt động khoa học - công nghệ với phương châm thiết thực và hiệu quả; tăng cường nghiên cứu, tiếp thu và ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào sản xuất và đời sống. Chú trọng sử dụng hợp lý, bền vững và chống suy thoái tài nguyên đất, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, tài nguyên biển. Giảm ô nhiễm không khí ở đô thị và khu công nghiệp, hạn chế những ảnh hưởng có hại đến biến đổi khí hậu, phòng và chống thiên tai. Tiếp tục nâng cao nhận thức cộng đồng trong việc sử dụng hợp lý, tiết kiệm và bảo vệ tài nguyên, đảm bảo vệ sinh môi trường, cảnh quan đô thị và nông thôn, đồng thời thực hiện nghiêm chế tài trong việc xử lý những vi phạm. 

Kiện toàn tổ chức bộ máy, có chính sách thu hút, đào tạo để tăng số lượng và nâng cao chất lượng đội ngũ bác sỹ. Sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất, trang thiết bị đã đầu tư cho các bệnh viện tuyến tỉnh, tuyến huyện. Nâng cao chất lượng dân số và công tác dân số, kế hoạch hoá gia đình. Tăng cường công tác y tế cơ sở, phấn đấu 100% số xã đạt chuẩn quốc gia về y tế. Giảm tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng xuống còn dưới 15% vào năm 2015. Làm tốt công tác vệ sinh phòng dịch, vệ sinh an toàn thực phẩm; quản lý chặt chẽ thị trường thuốc và nâng cao y đức đội ngũ thày thuốc.

Tiếp tục phát động mạnh mẽ phong trào luyện tập thể dục - thể thao trong nhân dân, chú trọng thể thao thành tích cao. Tập trung đầu tư các môn thể thao Ninh Bình có thế mạnh. Quản lý, khai thác có hiệu quả các công trình thể thao đã đầu tư. Xây dựng Trường năng khiếu của tỉnh để đào tạo tài năng trên các lĩnh vực văn hoá, văn nghệ, thể dục, thể thao. 

Bổ sung, sửa đổi chính sách, tiếp tục triển khai Nghị quyết; mở rộng việc thực hiện chính sách ở các xã cận nghèo để công tác giảm nghèo đạt kết quả theo hướng bền vững. Tiếp tục thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, chính sách đối với người có công, gia đình chính sách và các đối tượng được hưởng chính sách. Phấn đấu tạo việc làm mới mỗi năm từ 20.000 lao động trở lên; mỗi năm giảm từ 2,5% hộ nghèo trở lên theo tiêu chí hộ nghèo giai đoạn 2011-2015. 

b. Tăng cường công tác quân sự, quốc phòng địa phương; giữ vững an ninh chính trị, đảm bảo trật tự an toàn xã hội để làm nền tảng cho phát triển kinh tế - xã hội.

Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng, sự quản lý, điều hành của chính quyền các cấp về công tác quân sự, quốc phòng địa phương, đảm bảo an ninh trật tự. Kết hợp chặt chẽ giữa nhiệm vụ quốc phòng - an ninh với phát triển kinh tế - xã hội. Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong việc thực hiện nhiệm vụ công tác quân sự, quốc phòng địa phương, giữ vững trật tự an toàn xã hội để bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch.

c. Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng; hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của chính quyền các cấp, xây dựng hệ thống chính trị ngày càng trong sạch, vững mạnh.

- Đẩy mạnh việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” theo hướng toàn diện, hiệu quả, thiết thực. Triển khai toàn diện, đồng bộ các nhiệm vụ và giải pháp trên tất cả các lĩnh vực chính trị, tư tưởng và tổ chức, trong đó chú trọng một số nhiệm vụ: Tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả các chỉ thị, nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương; của Tỉnh uỷ về công tác xây dựng Đảng.

Tăng cường công tác tư tưởng, nâng cao tính chiến đấu và sức thuyết phục của các tổ chức đảng; các cấp uỷ đảng và đảng viên bám sát thực tế, lắng nghe tâm tư nguyện vọng và những vướng mắc trong tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân để kịp thời giải quyết, giáo dục, thuyết phục nhằm củng cố sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong các tầng lớp nhân dân, đảm bảo thống nhất giữa nhận thức và hành động. Đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức về chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân.

Chú trọng công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng và công tác đảng viên, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng và đảng viên, lấy kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị và chuyển biến từ cơ sở làm thước đo đánh giá công tác xây dựng Đảng. Đổi mới và nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, trong đó đề cao chất lượng tự phê bình và phê bình. Chú trọng phát triển Đảng trong công nhân, nông dân, học sinh, sinh viên và quần chúng là người có đạo. Quan tâm, bồi dưỡng, tạo mọi điều kiện để chủ doanh nghiệp phấn đấu có đủ tiêu chuẩn được đứng trong hàng ngũ của Đảng. Quan tâm xây dựng điểm, xây dựng mô hình, tổng kết thực tiễn về công tác xây dựng Đảng. 

Thực hiện nghiêm túc, có chất lượng hơn nữa 7 khâu trong công tác cán bộ, đảm bảo dân chủ, công khai, chặt chẽ, đúng nguyên tắc, đúng quy trình. Nâng cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan, đơn vị, phát huy tính tiền phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên, tạo điều kiện để cán bộ, đảng viên phát huy hết khả năng, năng lực, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Chú trọng đào tạo bồi dưỡng lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ và tin học cho cán bộ, công chức. Có chính sách cụ thể quan tâm đến cán bộ nữ, cán bộ trẻ trên cơ sở quy định của Đảng và Nhà nước. Làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ.

Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ đảng về công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật trong Đảng nhằm kịp thời ngăn chặn những biểu hiện vi phạm khi mới nảy sinh, phát hiện và khắc phục những khuyết điểm, thiếu sót. Quan tâm đến tự kiểm tra của Đảng và của từng cấp uỷ. Gắn việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát với thực hiện “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, cuộc vận động “ Xây dựng, chỉnh đốn Đảng”.

- Đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của hội đồng nhân dân, đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của Uỷ ban nhân dân các cấp. Nâng cao chất lượng và trách nhiệm của đại biểu hội đồng nhân dân, tăng cường hoạt động giám sát và tiếp xúc với cử tri của người đại biểu nhân dân. Đổi mới việc ban hành các nghị quyết của hội đồng nhân dân, thể chế hoá kịp thời đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước nhằm khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của địa phương, đảm bảo đúng quy định pháp luật. 

Đổi mới hoạt động của Uỷ ban nhân dân theo hướng tăng cường phân cấp giữa các cấp chính quyền, giữa cấp với ngành cho phù hợp yêu cầu quản lý Nhà nước trong tình hình mới. Nâng cao tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm của Uỷ ban nhân dân các cấp trong việc quyết định và tổ chức thực hiện những nhiệm vụ theo thẩm quyền và phạm vi được phân cấp theo đúng quy định của pháp luật. Làm rõ trách nhiệm và thẩm quyền của người đứng đầu cơ quan quản lý Nhà nước các cấp, các ngành, của cán bộ, công chức trong thực hiện nhiệm vụ. Quan tâm xây dựng hệ thống công sở cho chính quyền cấp xã, đảm bảo điều kiện để hoạt động. Đẩy mạnh cải cách hành chính, trước hết là cải cách thủ tục hành chính. Mở rộng thực hiện xã hội hoá các loại dịch vụ công. Chú trọng giải quyết nhanh thủ tục trong các lĩnh vực đầu tư, tạo môi trường thuận lợi khuyến khích sản xuất kinh doanh. 

Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 (khoá X) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật, chỉ thị, nghị quyết của Trung ương, các quy định về phòng, chống tham nhũng, lãng phí gắn với triển khai thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Thực hiện đồng bộ các biện pháp phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Kết hợp giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo với việc phòng ngừa, phát hiện và xử lý tham nhũng, lãng phí. Phát huy vai trò xã hội của các đoàn thể và nhân dân trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Tiếp tục thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, tăng cường công tác giám sát hoạt động của cán bộ, công chức ở khu dân cư. 

- Nâng cao hiệu quả công tác vận động quần chúng của cả hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở. Tăng cường công tác giáo dục chính trị, đạo đức lối sống cho thanh, thiếu nhi; nâng cao nhận thức về bình đẳng giới của phụ nữ; tính tiền phong của giai cấp công nhân trong tình hình mới; vai trò của giai cấp nông dân - chủ thể của quá trình phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới. Quan tâm xây dựng đội ngũ trí thức, đội ngũ cán bộ khoa học, phát huy uy tín, gương mẫu của người cao tuổi, cựu chiến binh. Kịp thời nắm bắt tư tưởng, tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân để giải quyết những khó khăn, vướng mắc ngay từ cơ sở. Đẩy mạnh công tác dân vận của các cấp chính quyền. 

Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội tiếp tục xây dựng tổ chức vững mạnh, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, khắc phục tình trạng hành chính hoá hoạt động của đoàn thể. Phát huy vai trò nòng cốt trong việc tập hợp, đoàn kết nhân dân, thực hiện tốt hơn quy chế dân chủ ở cơ sở, tổ chức các phong trào thi đua yêu nước, vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện toàn diện các nhiệm vụ chính trị trên địa bàn tỉnh. Lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ công tác tôn giáo, dân tộc. Giải quyết có tình, có lý, đúng pháp luật những nguyện vọng chính đáng của các tổ chức tôn giáo, đồng thời kiên quyết đấu tranh với những hoạt động lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo. Phát huy những giá trị tốt đẹp của các tôn giáo, động viên các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ tích cực tham gia thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương. 

Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng theo hướng đảm bảo sự lãnh đạo toàn diện của Đảng, thực hiện nghiêm Điều lệ Đảng, các quy định của Đảng và các quy định của pháp luật, phát huy tính chủ động, sáng tạo, nâng cao trách nhiệm, vai trò, vị trí của các cơ quan chính quyền các cấp và của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị xã hội từ tỉnh đến cơ sở, làm cho mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và nhân dân ngày càng bền chặt, tạo thành sức mạnh tổng hợp, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp đã đề ra.

Kỷ niệm 20 năm tái lập tỉnh Ninh Bình, 5 năm thành lập thành phố Ninh Bình, Đảng bộ và nhân dân tỉnh ta vô cùng phấn khởi, tự hào với những trang sử hào hùng, những kết quả quan trọng đã đạt được trong chặng đường 20 năm tái lập tỉnh (1992-2012). Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân trong tỉnh và những người con của quê hương Ninh Bình đang công tác, sinh sống và học tập ở trong và ngoài nước, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tăng cường đoàn kết, phát huy truyền thống cách mạng của quê hương, tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, năng động, sáng tạo, ra sức thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XX đề ra, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XI của Đảng./.
-------------------