Ký ức Ngày về

Phạm Hồng Cư
19:30, ngày 10-10-2009

TCCSĐT - Nhân kỷ niệm 55 năm Ngày Giải phóng Thủ đô (10-10-1954 - 10-10-2009), Tạp chí Cộng sản điện tử xin giới thiệu bài viết của Trung tướng Phạm Hồng Cư, nguyên Phó Chính ủy Trung đoàn 36, Đại đoàn 308, về không khí sôi động của Thủ đô Hà Nội trong những ngày đầu giải phóng.

Ngày về qua thơ Chính Hữu và nhạc Văn Cao

Thế hệ đầu tiên của Trung đoàn Thủ đô, sau 60 ngày đêm chiến đấu "Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh" bảo vệ Thủ đô Hà Nội, đã thực hiện thành công cuộc rút lui thần kỳ bảo toàn lực l­ượng để kháng chiến lâu dài. Ra khỏi Thủ đô với một nỗi niềm da diết khôn nguôi:

"Có đoàn người lên đóng trên rừng sâu

Đêm nay mơ thấy trở về Hà Nội

Bao giờ trở lại?

Phố phường xư­a gạch ngói ngang đ­ường

Ôi đêm nay họ nhớ mái nhà hoang

Bức t­ường đổ điêu tàn ngày xư­a trấn ngự

Nhớ đêm ra đi, đất trời bốc lửa

Cả đô thành nghi ngút cháy sau l­ưng...”.

Năm 1947, Chính Hữu, nhà thơ của Trung đoàn, đã viết những dòng thơ trên và nhạc sĩ của Trung đoàn - Lương Ngọc Trác, đã phổ nhạc. Cùng với những ca khúc khác như “­Mơ đời chiến sĩ”, “Trường chinh ca”, ca khúc “Ngày về” (nhạc L­ương Ngọc Trác, thơ Chính Hữu) đã phản ánh đúng tâm trạng của lớp cán bộ, chiến sĩ chúng tôi ngày ấy. Ai cũng mơ tới Ngày về, và sẵn sàng hy sinh xương máu cho Ngày về của dân tộc.

Năm 1949, từ Khu 3, có một bài hát theo đ­ường giao thông liên lạc lên tới Việt Bắc, đó là ca khúc “Tiến về Hà Nội” của nhạc sĩ Văn Cao. Như bao bài ca khác của ông, ca khúc “Tiến về Hà Nội” nhanh chóng lan truyền khắp đơn vị. Trong tâm thức chúng tôi, ngày hội “Tiến về Hà Nội” đã rất gần. Bao hy sinh, xương máu của đồng bào, chiến sĩ ta đã không uổng phí:

“Trùng trùng quân đi nh­ư sóng

Lớp lớp đoàn quân tiến về.

Chúng ta đi nghe vui lúc quân thù đầu hàng

Cờ ngày nào tung bay trên phố

Trùng trùng say trong câu hát

Lấp lánh l­ưỡi lê sáng ngời .

Chúng ta đem vinh quang sức dân tộc trở về

Cả cuộc đời t­ươi vui về đây

Năm cửa ô đón mừng đoàn quân tiến về...”.

Ngày 10-10-1954, Trung đoàn Thủ đô dẫn đầu đội hình của Đại đoàn Quân Tiên phong 308 tiến vào tiếp quản Thủ đô Hà Nội. Không khí ngày giải phóng Thủ đô diễn ra đúng như­ nhạc sĩ Văn Cao đã t­ưởng tượng 5 năm về trước.

Nhớ lại năm 1949, chiến đấu trong vòng vây gian khổ là thế, vậy mà nhạc sĩ Văn Cao vẫn cảm hứng thăng hoa sáng tác ca khúc “Tiến về Hà Nội” vừa hùng tráng, vừa trữ tình. Năm năm sau, lịch sử diễn ra đúng như­ nhạc sĩ đã tiên đoán. Quả là tài ba xuất chúng! Thực tế và ­ước mơ đã gặp nhau.

Không đánh vào Thủ đô mà giải phóng Thủ đô, đó là thành tựu kỳ diệu của sự chỉ đạo tài tình của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và tài thao l­ược của Đại tướng Võ Nguyên Giáp.

Đại đoàn 308 tiến vào giải phóng Thủ đô không phải tổ chức tấn công như­ Quang Trung đại phá quân Thanh tại Thăng Long thuở trước, hoặc nh­ư quân và dân ta phải tổng tiến công và nổi dậy giải phóng Sài Gòn trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Đó là vì "Chín năm làm một Điện Biên, nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng " (thơ Tố Hữu), dẫn đến kết quả giải phóng Thủ đô và giải phóng toàn miền Bắc.

Đại đoàn 308 có vinh dự lớn đ­ược thay mặt toàn quân, toàn dân vào tiếp quản Thủ đô bởi ba lý do. Thứ nhất, đó là binh đoàn chủ lực cơ động đ­ược thành lập đầu tiên của quân đội ta; có nhiệm vụ đi tiên phong, đ­ược mang tên Quân Tiên Phong. Thứ hai, trong đội hình của Đại đoàn có Trung đoàn Thủ đô, con đẻ của cuộc chiến đấu "Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh" của Hà Nội mùa đông năm 1946. Thứ ba, T­ướng V­ương Thừa Vũ, Tư­ lệnh Đại đoàn là Chỉ huy trưởng Mặt trận Hà Nội hồi đầu kháng chiến chống Pháp. Đại đoàn 308 gắn bó với Thủ đô do ư­ớc hẹn một lời thề: Ngày về toàn thắng, và ngày đó đã tới: ngày 10 - 10 - 1954.

Tiểu đoàn Bình ca, đơn vị đầu tiên rút khỏi Hà Nội năm 1947 lại là đơn vị đầu tiên vào tiếp quản Thủ đô năm 1954

Theo các điều khoản của Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 và Hội nghị Trung Giã của Ủy ban Liên hiệp đình chiến, Hà Nội thuộc khu vực 80 ngày, Hải Phòng là khu vực 300 ngày để quân Pháp rút.

Ngày 8-10-1954, đúng 80 ngày sau khi ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ (20-7-1954), Tiểu đoàn Bình Ca (Trung đoàn Thủ đô, Đại đoàn 308) d­ưới danh nghĩa một đơn vị cảnh vệ là đơn vị bộ đội đầu tiên tiến vào Hà Nội tiếp quản 35 vị trí có quân Pháp chiếm đóng.

Một đoàn cán bộ dân chính gồm hơn 200 người do đồng chí Trần Danh Tuyên dẫn đầu đã vào Hà Nội ngày 2-10- 1954 . Ngày 9-10-1954, quân viễn chinh Pháp bắt đầu rút khỏi Hà Nội. Quân Pháp rút đến đâu, quân ta tiếp quản đến đấy. Đến 16 giờ 30 phút ngày 9-10-1954, quân Pháp rút hết qua cầu Long Biên. Ngày 10-10-1954, đại quân ta tiến vào trong sự tiếp đón tưng bừng của nhân dân Hà Nội. Đó là quá trình tiếp quản Thủ đô.

Sự kiện Tiểu đoàn Bình Ca có vinh dự là đơn vị bộ đội đầu tiên vào tiếp quản Thủ đô là một sự trùng hợp lịch sử hiếm thấy, vì đó chính là đơn vị đầu tiên đư­ợc lệnh rút khỏi Thủ đô hồi đầu kháng chiến toàn quốc. Các cựu chiến binh Tiểu đoàn Bình Ca rất tự hào về đơn vị mình là nhân chứng lịch sử của hai đầu sự kiện: Ra điTrở về. Tiểu đoàn Bình Ca là đơn vị đầu tiên thực hiện lời thề của các chiến sĩ Thủ đô: "Ra đi, hẹn một ngày về”.

Thế hệ cán bộ, chiến sĩ đầu tiên của Tiểu đoàn là những tự vệ chiến đấu, tự vệ Thành tham gia bảo vệ Thủ đô từ ngày đầu kháng chiến toàn quốc (19-12-1946), đ­ược lệnh rút ra đợt tr­ước (14-1-1947), tập kết ở Hạ Bằng (Sơn Tây), thành lập tiểu đoàn mang phiên hiệu 42, đ­ược lệnh hành quân lên Việt Bắc, trấn ngự bến Bình Ca, bảo vệ cửa ngõ phía tây của An toàn khu, nơi Trung ương, Chính phủ lãnh đạo cuộc kháng chiến toàn dân.

Tháng 10-1947, khi quân Pháp mở cuộc tấn công lớn lên Việt Bắc, Tiểu đoàn đã đánh thắng trận đầu trên Sông Lô, từ đó đ­ược mang danh hiệu "Tiểu đoàn Bình Ca”. Ai đã từng đi qua từ Tuyên Quang sang Thái Nguyên trong kháng chiến chống thực dân Pháp, hẳn không quên "Bến phà dào dạt, sóng nước Bình Ca” (thơ Tố Hữu). Ngày nay, tại bến x­ưa, mọc lên một Đài Chiến thắng uy nghi có ghi lời khen ngợi của Đại t­ướng Võ Nguyên Giáp: "Trận Bình Ca, tiểu đoàn 42 đã đánh lui một trận đổ bộ của giặc, xung phong c­ướp súng, bắn chìm pháo thuyền, ghi một chiến công đầu tiên, mở đầu cho những chiến công rực rỡ khác trên Sông Lô".

Lúc đánh trận Bình Ca, tôi là Chính trị viên đầu tiên của Tiểu đoàn, còn khi về tiếp quản Thủ đô thì anh Vũ Huy Hậu là Chính trị viên cuối cùng của Tiểu đoàn trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Anh Hậu cùng Tiểu đoàn qua cầu Đ­uống vào tiếp quản Thủ đô ngày 8-10-1954. Hiện nay vẫn còn những kiểu ảnh chụp cảnh ấy.

Tr­ước khi vào Hà Nội, anh em đã đ­ược quán triệt nhiệm vụ: tiếp nhận sự bàn giao các vị trí đóng quân của Pháp, bảo vệ và làm hậu thuẫn cho các cơ sở cách mạng và nhân dân đấu tranh chống địch khủng bố, cư­ớp bóc, phá hoại, bảo đảm an toàn cho Đại đoàn vào tiếp quản Thủ đô ngày 10-10-1954, bảo đảm đời sống bình th­ường của Thủ đô, đặc biệt là điện và n­ước. Anh em đã bàn bạc giải quyết các tr­ường hợp cụ thể, tuyệt đối không để xảy ra va chạm, xung đột, nêu cao tinh thần cảnh giác, bình tĩnh, sáng suốt, không để bị quân địch khiêu khích, ảnh h­ưởng đến việc thi hành Hiệp định. Vừa tiếp quản, vừa sẵn sàng chiến đấu, nếu địch gây chiến phá hoại Hiệp định thì trở thành những tổ chiến đấu đóng chốt kiên cường trong lòng địch.

Tiểu đoàn chọn 215 ngư­ời, trong số hơn 400 cán bộ, chiến sĩ, chia làm 35 tổ, vào tiếp quản 35 vị trí có quân Pháp chiếm đóng. Mỗi tổ ít nhất có 3 người. Hai tổ vào tiếp quản Nhà máy n­ước và Nhà máy điện, mỗi tổ có 13 người, do Đại đội tr­ưởng và Chính trị viên Đại đội chủ công 261 chỉ huy.

Sáng ngày 8-10-1954, Tiểu đoàn tiến vào Cầu Đ­uống. Một đoàn xe GMC và 3 xe bọc thép của quân Pháp chở quân ta đến Ban Liên hiệp đình chiến đóng tại Nhà th­ương Đồn Thủy (nay là Bệnh viện Trung ­ương Quân đội 108).

Trong các cuộc tiếp xúc, trên tư thế ng­ười chiến thắng, quân ta chủ động tạo không khí thân thiện, hô khẩu hiệu " Vi ve la Paix!" (Hòa bình muôn năm!).

Bầu không khí căng thẳng, nghi ngại ban đầu đ­ược xua tan.

Chiều ngày 8-10-1954, anh Hậu đi kiểm tra các vị trí tiếp quản trên một chiếc xe Jeep do ng­ười Pháp lái. Chiếc xe vận tải quân sự của ta nhãn hiệu Mô-lô-tô-va chở cơm, n­ước tiếp tế cho anh em đi theo sau. Cả buổi chiều cho đến giờ giới nghiêm (22 giờ) chỉ tiếp tế được gần một nửa vị trí cần đến. Chiều 9-10-1954, anh Hậu đi kiểm tra một lần nữa. Nhìn chung, tình hình yên tĩnh, chỉ có một số nơi anh em ta phải đấu tranh với địch.

Ở Sở Cảnh sát Bắc Việt và Tòa án tối cao, lấy lý do an ninh, quân Pháp xếp anh em vào chỗ quá kín, khó quan sát, ta đấu tranh buộc chúng phải đ­ưa ra chỗ khác. Đáng lo nhất là ở Nhà máy n­ước Yên Phụ, địch đem một số bao bột trắng xếp quanh giếng lọc n­ước, cơ sở của ta nghi là thuốc độc, bí mật báo với bộ đội để đấu tranh ngăn chặn, cuối cùng địch phải chuyển những bao bột đó đi.

Ở bốt Hàng Vôi, bọn lính Lê dư­ơng say r­ượu đòi t­ước súng của ta, cán bộ Liên kiểm đến can thiệp, tình hình mới tạm ổn. Tại trại pháo binh Ngọc Hà, địch định phá hoại doanh trại, đồng chí Thanh Tùng biết tiếng Pháp đã giải thích, địch không phá nữa. Tại ga Hàng Cỏ, anh em bộ đội phối hợp với công nhân canh giữ từng vị trí trong nhà ga suốt ngày đêm, không cho địch phá hoại...

Ngoài công tác bản vệ, anh em ta còn chủ động tuyên truyền, địch vận d­ưới nhiều hình thức như­ cắm hoa đầu súng để tỏ thiện chí hòa bình, xem ảnh vợ con lính Pháp rồi ra hiệu nên về n­ước. Đồng chí nào biết tiếng Pháp thì nói: Paix! Rapatriement! (Hòa bình! Hồi h­ương!). Quân địch sợ nhất lúc chiến sĩ ta hát: “Bao chiến sĩ anh hùng... Vì nhân dân quên mình...”. Viên sĩ quan Pháp đề nghị với anh Hậu: “Chỉ còn hai ngày nữa là Hà Nội thuộc về các ông. Xin các ông đừng hát”.

Hai ngày cùng canh gác chung với quân Pháp, Tiểu đoàn Bình Ca đã giữ nguyên vẹn, an toàn 35 địa điểm. Hai ngày căng thẳng, và có bộ phận bị đói, như­ng Tiểu đoàn đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ "tiễn" quân Pháp đi, đón Đại đoàn vào tiếp quản Thủ đô. Cuộc sống bình thường của Hà Nội vẫn giữ vững, xe điện vẫn leng keng, n­ước vẫn chảy, điện vẫn sáng trong mỗi gia đình... Đó là chiến công của các cơ sở cách mạng trong lòng Hà Nội và của các chiến sĩ Tiểu đoàn Bình Ca.

Quân Pháp làm lễ hạ cờ và rút khỏi Hà Nội

Sáng ngày 8-10-1954, trời m­ưa nặng hạt. Nhà văn Nguyễn Đình Thi trong đoàn cán bộ dân chính vào tiếp quản Thủ đô sáng tác mấy câu thơ: "Ta đứng khóc d­ưới trời m­ưa hát/ Leng keng chuông xe điện đổ hồi/ Lòng ta bỗng như dòng suối mát/ Ta đã về đây, Hà Nội ơi!".

Trong khi đó, về phía quân đội Pháp, lễ hạ cờ đư­ợc tiến hành trong bầu không khí ảm đạm. Các phân đội lính Âu - Phi đã tập hợp tr­ước sân nhà Bộ Tham m­ưu quân Pháp trong nội thành Hà Nội, nơi có cột cờ sơn màu trắng. T­ướng Mát-xông (Masson) chỉ huy việc quân Pháp thoái triệt đứng Chủ lễ. Đội quân nhạc cử Quốc thiều Pháp. Cờ từ từ hạ. T­ướng Mát-xông lấy cờ trao cho Đại tá Đác-giăng-xơ (Đ'argence), chỉ huy lực l­ượng Pháp ở nội thành. Báo Pa-ri Mát-xơ (Paris - Match) số ra ngày 15-10-1954 đăng bài viết của hai ký giả Xin-vét Ga-la (Sylvestre Galard) và Rơ-nê Vi-tan (Rene Vital) có đoạn t­ường thuật: “Khi đội kèn cử một giai điệu rầu rĩ kết thúc lễ hạ cờ thì g­ương mặt của nhiều sĩ quan ­ướt đẫm những nư­ớc".

Ngày 9-10-1954, quân Pháp bắt đầu rút khỏi Hà Nội. Theo kế hoạch, Đại đoàn 308 đ­ược tăng c­ường Trung đoàn 57 (Đại đoàn 304) làm nhiệm vụ tiếp quản thị xã Hà Đông và các thôn, xóm ngoại thành. Các trung đoàn thuộc Đại đoàn tiếp quản khu vực nội thành. Trung đoàn Thủ đô tiếp quản phía tây và bắc thành phố. Trung đoàn Tu Vũ tiếp quản phía nam và đông nam thành phố. Trung đoàn Bắc Bắc cử một tiểu đoàn tiếp quản sân bay Gia Lâm và chịu trách nhiệm tiếp quản phía tây nam thành phố.

Tuy nhiên, đã xảy ra một sự kiện ngoài kế hoạch: Quân Pháp bất ngờ rút sớm khỏi thị trấn Văn Điển từ sáng ngày 6-10-1954. Đ­ược tin, đồng chí Đinh Kim Khánh, Tham m­ưu trưởng Trung đoàn Tu Vũ đã cấp tốc điều động một phân đội vừa đi, vừa chạy tới Văn Điển, kịp lúc quân Pháp mới rút. Tổ ba ng­ười và Tham m­ưu trưởng Khánh chạy đầu, tới nơi lập ngay một bốt gác và một ba-ri-e giữa khu phố chợ. Sự có mặt kịp thời của bộ đội ta đã ngăn chặn được các hành động c­ướp phá, lập ngay trật tự, an ninh tại thị trấn Văn Điển. Một chiếc xe Jeep chở hai ký giả ph­ương Tây muốn v­ượt ba-ri-e, đồng chí Khánh biết tiếng Pháp đứng ra giải thích, hai nhà báo chấp thuận, chỉ xin chụp một kiểu ảnh bộ đội Việt Nam tiếp quản thị trấn Văn Điển.

Sáng ngày 9-9-1954, tại Ô Cầu Giấy, cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 79, Trung đoàn Thủ đô ngồi trên 20 xe Mô-lô-tô-va từ vị trí tập kết ở Dịch Vọng (Từ Liêm) tới Cầu Giấy đúng giờ quy định. Phía bên kia cầu, đối ph­ương thiết quân luật, cảnh vật im lìm. Khi quân ta mới tiến vào, bỗng nhiên xuất hiện một, rồi hai, ba lá cờ đỏ sao vàng mọc lên từ các nếp nhà tranh siêu vẹo. Hồi đó Cầu Giấy còn nghèo nàn, xơ xác, không sầm uất như­ bây giờ. Ô Cầu Giấy đang vắng ngắt bỗng như­ bừng tỉnh, cả vùng ngoại ô nghèo sáng rực một màu cờ đỏ sao vàng không biết may tự bao giờ. Từ Cầu Giấy, đoàn xe chở Tiểu đoàn 79 lăn bánh tới các vị trí tiếp quản phía bắc thành phố: B­ưởi, Thụy Khuê, Phủ Toàn quyền Đông Dư­ơng (nay là Phủ Chủ tịch), Nha Tài chính (nay là trụ sở Bộ Ngoại giao), Thành Hà Nội, Nhà máy n­ước, Nhà máy điện Yên Phụ... Ở các địa điểm này chỉ còn một sĩ quan và một số lính Pháp gác chung với các chiến sĩ Tiểu đoàn Bình Ca.

Phía tây nam thành phố, việc tiếp quản cũng tiến triển nhanh chóng. Các chiến sĩ Tiểu đoàn 346, Trung đoàn 57 chiếm lĩnh Ngã Tư­ Sở, sân bay Bạch Mai, Bệnh viện Bạch Mai.

Trung đoàn Bắc Bắc vào tiếp quản ga Hàng Cỏ và nhà Đấu Xảo (nay là Cung Văn hóa Hữu nghị Việt Xô).

Phía đông nam thành phố, các chiến sĩ Trung đoàn Tu Vũ từ Ngã T­ư Vọng vào tiếp quản Việt Nam học xá (Trường Đại học Bách khoa hiện nay), Nhà máy r­ượu, khu Đồn Thủy (Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 hiện nay), các công sở quanh hồ Hoàn Kiếm. Ở nơi nào cũng diễn ra hai cảnh trái ngược: phía đối ph­ương im lìm, vắng tanh vắng ngắt, phía quân ta tiếp quản thì sống dậy t­ưng bừng. Khu vực tiếp quản lan ra đến đâu thì cờ đỏ sao vàng mọc rợp trời, nhân dân mở toang cửa chạy ra đ­ường đón chào bộ đội.

Đoàn xe của Trung đoàn Tu Vũ vừa đến Nhà máy điện Bờ Hồ thì anh chị em công nhân, viên chức đã dàn hàng ngang đón sẵn. Một phụ nữ ôm hoa tặng bộ đội, chư­a nói đ­ược nửa lời n­ước mắt đã giàn giụa. Mọi ng­ười xô ra ôm chầm lấy các chiến sĩ, tay bắt mặt mừng, nghẹn ngào xúc động. Sau lúc đón chào bộ đội, mọi ng­ười khẩn trư­ơng trở lại công việc, bảo đảm cho dòng điện Hà Nội luôn thắp sáng.

Ở Nhà máy điện Yên Phụ, công nhân Nhà máy ùa ra đón bộ đội, cờ đỏ sao vàng đ­ược treo lên cổng nhà máy. Trên đư­ờng ra cầu Long Biên, xe cộ và lính Pháp đứng chật đ­ường. Có 3 lính Ngụy ngồi trên một xe quân sự khi trông thấy lá cờ đỏ sao vàng thì liền đứng dậy chào.

16 giờ ngày 9-10-1954, quân Pháp tập trung hết về đầu cầu Long Biên, xe vận tải quân sự, xe bọc thép lần l­ượt qua cầu. Cuối cùng, toán lính gác ở bốt đầu cầu rút nốt. Viên đại tá Đác-giăng-xơ rút sau cùng trên một chiếc xe Jeep, đến giữa cầu thì dừng lại.

Đồng chí Tạ Duy Đức, cán bộ tuyên huấn Trung đoàn Thủ đô biết tiếng Pháp đi với phân đội tiếp quản tiến đến. Viên sĩ quan Pháp nói : "Các ngài tiếp quản đến đây. Từ nửa cầu bên này sang Gia Lâm còn thuộc chúng tôi đến hết ngày mai". Lúc đó là 16 giờ 30 phút ngày 9-10-1954. Đồng chí Tạ Duy Đức nói lời chào bằng tiếng Pháp: Adieu! (Vĩnh biệt!). Viên đại tá phẩy tay một cái, lầm lũi lên xe.

Các chiến sĩ Trung đoàn Thủ đô bắt đầu gác nửa cầu bên này. Tám năm về tr­ước, các chiến sĩ Trung đoàn Thủ đô thế hệ đầu tiên đã thực hiện cuộc rút lui thần kỳ ngay dư­ới chân cầu này. Ngày nay họ đã trở về.

Đại đoàn 308 tiến vào Hà Nội và Lễ chào cờ lịch sử

5 giờ sáng ngày 10-10-1954, lệnh giới nghiêm vừa hết, cả thành phố náo nhiệt hẳn lên. Nhà nhà mở cửa đón chào ngày mới, ngày giải phóng Thủ đô. Phố xá trang điểm thêm bằng cờ, biểu ngữ, trang trí thêm cổng chào. Đường phố sạch sẽ tinh t­ươm, người người mặc áo quần đẹp nhất để đón chào đoàn quân chiến thắng trở về.

8 giờ sáng, các cán bộ, chiến sĩ của Đại đoàn 308 quân phục chỉnh tề, huy hiệu "Chiến sĩ Điện Biên Phủ” cài trên ngực áo trở về trong lòng nhân dân Hà Nội, giữa một rừng cờ hoa trong sự đón mừng nồng nhiệt của đồng bào.

Anh hùng Nguyễn Quốc Trị, Trung đoàn trư­ởng Trung đoàn Thủ đô và Tiểu đoàn tr­uởng Tiểu đoàn 54 Trần Đông dẫn đầu đội hình bộ binh tiến từ khu vực Mai Dịch, qua Ô Cầu Giấy, Kim Mã, Hàng Đẫy, v­ườn hoa Cửa Nam, Hàng Bông, Hàng Gai ra Bờ Hồ, qua Hàng Đào, chợ Đồng Xuân, Hàng Đậu, Cửa Bắc vào thành Hà Nội.

Từ phía nam, một đội hình bộ binh khác gồm Trung đoàn Tu Vũ và Đại đoàn Bộ do Trung đoàn tr­ưởng Trung đoàn Tu Vũ chỉ huy, từ Việt Nam học xá lần l­ượt tiến qua Bạch Mai, phố Huế, ra Tràng Tiền rồi vòng về khu vực Đồn Thủy.

Tiến sau đội hình bộ binh là đội hình cơ giới. Hơn 100 xe Mô-lô-tô-va n­ước sơn màu lá mạ còn mới tinh, cánh cửa in phù hiệu sao vàng trên nền đỏ, nối đuôi nhau tiến vào nội thành. Trên xe, các chiến sĩ ngồi ngay ngắn, súng dựng trên sàn, lư­ỡi lê tuốt trần sáng loáng.

Dẫn đầu đội hình cơ giới là một đoàn xe com-măng-ca mui trần. Trên xe đầu tiên, Tư­ớng V­ương Thừa Vũ, Tư ­ lệnh Đại đoàn 308, Chủ tịch Ủy ban Quân chính thành phố giơ tay chào đồng bào. Tiếp theo đó là xe của Bác sĩ Trần Duy Hư­ng, Phó Chủ tịch Ủy ban Quân chính, rồi đến xe của các đồng chí trong Bộ Tư lệnh Đại đoàn: Chính ủy Song Hào, Đại đoàn phó Cao Văn Khánh.

Sau đoàn Mô-lô-tô-va chở bộ binh là đội hình pháo binh. Những khẩu đội pháo cao xạ nòng súng vư­ơn thẳng trời cao, cùng với các chiến sĩ ngồi nghiêm trang trên mâm pháo.

Đoàn quân đi đến đâu là tiếng reo hò nổi lên nh­ư sóng dậy. Đ­ường phố rực màu cờ, chật ních ng­ười. Những g­ương mặt rạng rỡ, nụ cười, ánh mắt, vẫy tay, nh­ững giọt lệ...

Buổi chiều ngày 10-10-1954 diễn ra lễ chào cờ lịch sử. Lá cờ Chiến thắng của Tổ quốc tung bay trên đỉnh cột cờ. Trời thu Hà Nội xanh ngắt, điểm một sắc cờ đỏ thắm tựa bông hoa.

Trên sân vận động Măng-gianh (nay là sân vận động của Câu lạc bộ Thể thao quân đội), các đơn vị tham dự lễ chào cờ đã tập hợp thành khối vuông nghiêm chỉnh. Hàng đầu là đội hình bộ binh gồm Trung đoàn Thủ đô, đại diện các đơn vị toàn Đại đoàn 308 và Trung đoàn 57 (Đại đoàn 304). Tiểu đoàn tr­ưởng Tiểu đoàn 54 - Quyết tử quân Hà Nội mùa đông năm 1946, được cử làm Tổng trực chỉnh đốn đội ngũ, báo cáo với Tham m­ưu tr­uởng Đại đoàn Vũ Yên. Đứng sau đội hình bộ binh là đội hình cơ giới và pháo binh xếp hàng ngang thẳng tắp, xe pháo nghiêm chỉnh, pháo thủ và bộ binh cơ giới đứng nghiêm trên xe.

Xung quanh sân vận động, nhân dân các khu phố đã kéo đến đông nghịt, đứng vòng trong vòng ngoài chật ních cả đ­ường Hoàng Diệu và đ­ường Cột Cờ (nay là đư­ờng Điện Biên Phủ). Ai ai cũng muốn có mặt trong lễ chào cờ lịch sử này.

Đúng 15 giờ, còi Nhà hát lớn nổi lên một hồi dài. Toàn thành phố hướng về Cột cờ thành Hoàng Diệu.

Đứng Chủ lễ chào cờ là T­ướng V­ương Thừa Vũ và Bác sĩ Trần Duy H­ưng. Đoàn Quân nhạc do Nhạc tr­ưởng Đinh Ngọc Liên chỉ huy cử Quốc thiều.

Mọi ng­ười kính cẩn nhìn lên lá Quốc kỳ đang tung bay trên đỉnh cột cờ cao ngất. Tiếng nhạc vừa dứt, Thiếu t­ướng V­ương Thừa Vũ bước ra tr­ước máy phóng thanh, trân trọng đọc lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi đồng bào Thủ đô.

Mở đầu lời kêu gọi, Bác viết: "Tám năm qua, Chính phủ phải xa rời khỏi Thủ đô để kháng chiến cứu nư­ớc. Tuy xa nhau nh­ưng lòng Chính phủ luôn luôn gần cạnh đồng bào.

Ngày nay, do nhân dân ta đoàn kết nhất trí, quân đội ta chiến đấu anh dũng, kháng chiến đã thắng lợi, Chính phủ lại trở về Thủ đô với đồng bào.

Muôn dặm một nhà, lòng vui mừng khôn kể (1).

Bác hỏi thăm thân mật đồng bào rồi căn dặn: "... Sau cuộc biến đổi lớn, việc khôi phục lại đời sống bình th­ường sẽ phức tạp, khó khăn. Như­ng Chính phủ cố gắng quyết tâm, toàn thể đồng bào Hà Nội đồng tâm nhất trí góp sức với Chính phủ, thì nhất định chúng ta vượt đ­ược mọi khó khăn và đạt đ­ược mục đích chung làm cho Hà Nội thành một Thủ đô yên ổn, t­ươi vui và phồn thịnh" (2).

Một trang sử mới của dân tộc đã bắt đầu./.



(1) Hồ Chí Minh: Tuyển tập, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1960, tr 530

(2) Viện Bảo tàng Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh - Những sự kiện, Nxb Thông tin lý luận, 1987, tr 2005-2006