Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội trong điều kiện mới
TCCS - Trên cơ sở quan điểm, nguyên tắc, mục tiêu xây dựng Đảng và hệ thống chính trị theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng, yêu cầu đặt ra hiện nay là cần tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội theo hướng đồng bộ, hiệu quả, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội, góp phần xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội - cơ sở lý luận và thực tiễn
Phương thức lãnh đạo của Đảng là tổng thể các hình thức, phương pháp, cách thức, quy chế, quy định, quy trình, phong cách, lề lối làm việc mà Đảng sử dụng để tác động vào đối tượng lãnh đạo, nhằm thực hiện thắng lợi Cương lĩnh chính trị, đường lối, các nghị quyết của Đảng, để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) xác định rõ phương thức lãnh đạo của Đảng, tập trung vào các nội dung chính là: Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên; Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ; Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị(1).
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội được triển khai, tổ chức nghiên cứu trên cơ sở các nội dung nêu trên. Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, đồng thời các tổ chức của Đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Thông qua luật và nghị quyết, Quốc hội thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước.
Đại hội XIII của Đảng xác định nhiệm vụ: “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị... Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, bảo đảm Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Đổi mới phương thức, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động, phát huy dân chủ, pháp quyền, tăng tính chuyên nghiệp trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội, trong thực hiện chức năng lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao”(2).
Đại hội XIII của Đảng đề ra yêu cầu đổi mới tổ chức, hoạt động của Quốc hội, đặt trong tổng thể nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị là tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Thực hiện Chương trình công tác toàn khóa của Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII, Hội nghị Trung ương 6 đã ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 9-11-2022, “Về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới” và Nghị quyết số 28-NQ/TW, ngày 17-11-2022, “Về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị trong giai đoạn mới”, trong đó đề ra các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng gắn với đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội trong sự đổi mới tổng thể tổ chức bộ máy nhà nước.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng có ý nghĩa quyết định trong việc định hướng và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Quốc hội. Thực tiễn những năm qua cho thấy, vai trò lãnh đạo của Đảng với Quốc hội trong thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng ngày càng rõ ràng, hạn chế sự chồng lấn, bao biện, làm thay. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội thể hiện ở việc xác định đúng vai trò, vị trí của Quốc hội, đề ra định hướng cơ bản, phát huy dân chủ, tăng cường vai trò chủ động, sáng tạo và tạo điều kiện thuận lợi để Quốc hội hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Quan điểm, nguyên tắc, mục tiêu đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội
Về quan điểm, nguyên tắc:
- Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng theo Cương lĩnh và các quan điểm, chủ trương của Đảng về tổ chức, hoạt động của Quốc hội; bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn mà Hiến pháp, pháp luật quy định.
- Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng cần đi đôi với đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội và đặt trong tổng thể yêu cầu đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị theo phương châm thực hiện từng bước, có lộ trình hợp lý, phù hợp.
- Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng tuân thủ nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp. Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Đổi mới trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới phù hợp với đặc điểm, điều kiện thực tiễn của Việt Nam và yêu cầu hội nhập quốc tế sâu rộng; bảo đảm phát triển bền vững trong tương lai.
Về mục tiêu:
Mục tiêu đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng là nhằm xây dựng Quốc hội vì nhân dân, thực sự đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, phát huy dân chủ, pháp quyền, khoa học, tăng tính chuyên nghiệp, hiện đại, hiệu lực, hiệu quả, công khai, minh bạch trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội, đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030 và định hướng đến năm 2045; cụ thể là:
- Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng để thực hiện hiệu quả hơn nữa chức năng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, vừa bảo đảm phát huy vai trò của Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, vừa bảo đảm dân chủ trong hoạt động của Quốc hội. Tăng tính chuyên nghiệp, phát huy dân chủ, tính pháp quyền trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội.
- Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng gắn với đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội trong khuôn khổ Hiến pháp; xác định rõ hơn vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và phương thức hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội và Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội theo hướng rành mạch, chủ động, trách nhiệm, chuyên sâu, chuyên nghiệp, tăng tính nghiên cứu khoa học, nhạy bén, bao quát được hiệu lực hoạt động, đề xuất được sáng kiến nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội. Chất lượng hoạt động lập pháp được nâng cao, đổi mới quy trình, đáp ứng kịp thời yêu cầu thực tiễn; quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước thực chất hơn; nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động giám sát. Tăng tính công khai, minh bạch, bảo đảm thực hiện chức năng đại diện của nhân dân; đổi mới hình thức hoạt động của Quốc hội; xây dựng Quốc hội điện tử. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực và cơ chế bảo vệ Hiến pháp, bảo đảm các nguyên tắc pháp quyền trong hoạt động của Quốc hội. Hoàn thiện bộ máy giúp việc khoa học, chủ động, chuyên nghiệp, chuyên sâu.
- Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng nhằm xây dựng Quốc hội khoa học, hiện đại, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả, công khai, minh bạch, dân chủ, hướng tới hoạt động thường xuyên, thực sự vì nhân dân, là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất; thực hiện đầy đủ, chuyên nghiệp chức năng lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước; hoàn thiện công tác tổ chức bộ máy và nhân sự cấp cao của các cơ quan nhà nước, hiến định vị trí, vai trò của Hội đồng bầu cử quốc gia, của cơ chế bảo vệ Hiến pháp. Phát huy vị trí, vai trò trung tâm của đại biểu Quốc hội; xây dựng hệ thống pháp luật khoa học, đồng bộ, thống nhất, ổn định, khả thi, công khai, minh bạch, thúc đẩy sáng tạo, bền vững, ứng phó kịp thời trước những chuyển biến nhanh của thực tiễn và hội nhập quốc tế sâu rộng, bảo đảm giữ vững quốc phòng - an ninh trong điều kiện mới.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội bằng các chủ trương, đường lối, chính sách lớn
Trong thời gian qua, Quốc hội đã làm tốt nhiệm vụ thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành luật và nghị quyết của Quốc hội. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã quy định nội dung thẩm tra bắt buộc về sự phù hợp của nội dung dự thảo văn bản với đường lối, chủ trương của Đảng. Đảng đoàn Quốc hội đã phát huy vai trò tích cực, chủ động trong việc lãnh đạo, chỉ đạo đối với các hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội. Các chủ trương, chính sách lớn, phức tạp đều được kịp thời báo cáo xin ý kiến Bộ Chính trị, Ban Bí thư để có phương án giải quyết phù hợp, hiệu quả. Đảng đoàn Quốc hội luôn thực hiện nghiêm túc việc xin ý kiến của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư những định hướng lớn về nội dung các hoạt động của Quốc hội, những vấn đề chủ yếu của một số dự án luật, pháp lệnh quan trọng, có tác động và ảnh hưởng đến tình hình chính trị, quốc phòng, an ninh, kinh tế, xã hội và đời sống nhân dân.
Quốc hội kịp thời phản ánh với Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư những ý kiến, kiến nghị của nhân dân về xây dựng đất nước nhằm góp phần vào việc định hướng chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng. Nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIV, hoạt động của Đảng đoàn Quốc hội đã có nhiều đổi mới trong việc xin ý kiến Bộ Chính trị. Các nội dung báo cáo xin ý kiến được phân thành nhóm vấn đề, để vừa bảo đảm tăng cường vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, vừa phát huy dân chủ trong thảo luận của Quốc hội, bao gồm vấn đề cần xin ý kiến chỉ đạo cụ thể, vấn đề báo cáo để Bộ Chính trị nắm thông tin và xin được trình Quốc hội xem xét, thảo luận.
Kế thừa những kết quả trong thời gian qua, trong giai đoạn tiếp theo cần đẩy mạnh đổi mới phương thức lãnh đạo bằng các chủ trương, đường lối, chính sách, cụ thể như sau:
Thứ nhất, tiếp tục bổ sung, phát triển đường lối chính trị để giúp Đảng lãnh đạo Nhà nước toàn diện, trong đó có lãnh đạo Quốc hội. Với vai trò của mình, Quốc hội có nhiệm vụ thực hiện đường lối chính trị được tuyên ngôn trong Cương lĩnh và những chủ trương lớn của Đảng. Đường lối chính trị được xác định cụ thể trong văn kiện các kỳ đại hội Đảng và cụ thể hóa tại các hội nghị Trung ương bằng các nghị quyết chuyên đề xác định các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp chính sách xuất phát từ yêu cầu thực tiễn.
Thứ hai, nâng cao chất lượng thảo luận về các vấn đề phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, môi trường, quốc phòng - an ninh, ban hành kịp thời nghị quyết; trong đó, xác định rõ các mục tiêu, gợi ý giải pháp và công cụ chính sách phù hợp để Nhà nước thực hiện. Một mặt, Quốc hội là một thành tố trong hệ thống chính trị, có nhiệm vụ thực hiện các mục tiêu chính sách này; mặt khác, là cơ quan thực hiện quyền lập pháp và giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và Nghị quyết của Quốc hội.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội bằng các chủ trương, đường lối, chính sách bảo đảm xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, ổn định, công khai, minh bạch, có sức cạnh tranh quốc tế theo yêu cầu, định hướng của Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa đến năm 2030 và định hướng đến năm 2045. Đổi mới phương thức lãnh đạo gắn liền với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật để thực hiện các mục tiêu chính sách trong các lĩnh vực, ngành trên cơ sở chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng đã được hoạch định.
Đổi mới phương thức lãnh đạo bằng các chủ trương, đường lối, chính sách bảo đảm Đảng không làm thay Nhà nước, trong đó có Quốc hội, trong việc tổ chức thực hiện chính sách trên tất cả các mặt, các lĩnh vực đời sống xã hội; đồng thời, trên cơ sở đường lối, chủ trương, chính sách lớn, Đảng lãnh đạo Nhà nước, trong đó có Quốc hội, tiếp tục hoàn thiện các chính sách cụ thể và thực hiện chính sách, đánh giá chính sách qua các chức năng của Quốc hội, như ban hành các nghị quyết, chương trình pháp luật, quyết định những vấn đề quan trọng, giám sát tối cao... Các mục tiêu chính sách cần được đo lường cụ thể bằng các chỉ số, các tiêu chí định lượng để thuận lợi cho việc thực hiện, giám sát đánh giá.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng để Quốc hội thực hiện chính sách bằng chương trình pháp luật (thông qua các luật) và chương trình giám sát, thực hiện chính sách thông qua các quyết định quan trọng; trong đó, quá trình thực hiện ngân sách Quốc hội cũng là việc thực hiện các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, từ việc phân bổ ngân sách, quyết toán ngân sách. Do đó, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội, qua các hoạt động của Quốc hội đều gắn với việc thực hiện các chủ trương, đường lối, chính sách mà Đảng với tư cách là thành tố cốt lõi lãnh đạo hệ thống chính trị đã hoạch định và xây dựng. Như vậy, đổi mới phương thức lãnh đạo bằng chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng gắn liền với đổi mới hoạt động của Quốc hội, tạo thành xung lực lớn thúc đẩy quản trị quốc gia hiệu quả, hướng đến mục tiêu phát triển bền vững.
Thời gian qua, các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, như giảm nghèo, bảo vệ môi trường sinh thái, phát triển bền vững, phòng, chống tham nhũng, ứng phó với biến đổi khí hậu, tự chủ và xã hội hóa cung ứng dịch vụ công, giáo dục - y tế, phòng, chống đại dịch COVID-19,... đều gắn với chương trình pháp luật và quyết định những vấn đề quan trọng, như quyết định ngân sách, quyết định đầu tư công phục hồi kinh tế - xã hội sau đại dịch COVID-19. Yêu cầu cấp thiết đặt ra hiện nay là phải đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội, đổi mới hoạt động lập pháp của Quốc hội nhằm đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng, bảo đảm tiến độ ban hành luật và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo lập khung khổ pháp lý để thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2030, định hướng đến năm 2045.
Thứ ba, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng gắn liền trách nhiệm kiểm tra, giám sát đánh giá việc thực hiện các chủ trương, đường lối, chính sách. Nhà nước, trong đó có Quốc hội, thực hiện các chủ trương, đường lối, chính sách thông qua chương trình pháp luật, thông qua các luật, bảo đảm hiệu lực các luật và hệ thống pháp luật, sự tuân thủ pháp luật thông qua hoạt động giám sát, căn cứ vào các mục tiêu chính sách của từng lĩnh vực, từng ngành với các chỉ tiêu, tiêu chí cụ thể.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng theo hướng Đảng kiểm tra, giám sát kết quả thực hiện các chính sách, tác động chính sách (sau thực hiện), thông qua sơ kết, tổng kết các nghị quyết được ban hành vào giữa nhiệm kỳ hoặc kết thúc nhiệm kỳ của Nhà nước, Quốc hội, để bảo đảm việc kiểm tra, giám sát đánh giá kết quả thực hiện, tác động của các chủ trương, chính sách một cách đầy đủ nhất.
Thứ tư, nâng cao chất lượng hoạch định chính sách, tạo điều kiện thuận lợi cho Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội thực hiện chức năng, nhiệm vụ. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng bao gồm tăng cường chất lượng phân tích chính sách, tham vấn chính sách, bảo đảm các mục tiêu chính sách phù hợp, đồng thuận đối với Nhà nước, nhất là Quốc hội với cộng đồng xã hội. Mấu chốt của việc đổi mới ở đây là, trên cơ sở đường lối chính trị thể hiện trong Cương lĩnh, các nghị quyết được ban hành “đúng” và “trúng”, nhất là các nghị quyết chuyên đề, tạo sự đồng thuận trong cả hệ thống chính trị, tạo điều kiện thuận lợi cho Quốc hội tổ chức thực hiện.
Thứ năm, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng để tạo sự chủ động, sáng tạo trong hoạt động của Quốc hội, nhất là hoạt động lập pháp đối với một số chủ trương, đường lối, chính sách mà Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị quyết định khung để Quốc hội thảo luận, quyết định cụ thể trong phạm vi chủ trương của Đảng; đồng thời, giúp Bộ Chính trị kịp thời điều chỉnh các nội dung chỉ đạo của Đảng đối với vấn đề quan trọng, mà qua thảo luận tại Quốc hội còn có ý kiến khác nhau. Với từng nhiệm kỳ Quốc hội, Đảng có định hướng chương trình xây dựng luật, pháp lệnh cho cả nhiệm kỳ.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội bằng công tác tổ chức cán bộ
Đại hội VI của Đảng đánh dấu sự đổi mới trên nhiều mặt, nhiều lĩnh vực, trong đó có quan điểm đổi mới về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Báo cáo chính trị của Đại hội VI chỉ rõ: “Nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước. Nêu cao vị trí và vai trò của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, tạo điều kiện cho các cơ quan dân cử thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn theo Hiến pháp quy định. Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và quản lý xã hội bằng pháp luật... Chấn chỉnh bộ máy quản lý nhà nước theo hướng tinh, gọn, có đủ năng lực thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành pháp luật, chính sách cụ thể”(3).
Báo cáo chính trị tại Đại hội IX của Đảng đã đề cập thêm một nhiệm vụ quan trọng của Quốc hội là quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước(4). Nhiệm vụ đặt ra với Quốc hội là kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội, trọng tâm là tăng cường công tác lập pháp, đổi mới quy trình ban hành luật. Quốc hội cần làm tốt chức năng quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, quyết định và phân bổ ngân sách nhà nước, thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước.
Thời gian qua, Đảng đoàn Quốc hội đã thực hiện nhiều quy trình chặt chẽ nhằm bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng với Quốc hội và công tác tổ chức cán bộ của Quốc hội. Trên cơ sở tổng kết thực tiễn những nhiệm kỳ vừa qua, cần đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội về công tác tổ chức cán bộ như sau:
Một là, trước mỗi kỳ bầu cử đại biểu Quốc hội, Đảng đoàn Quốc hội xây dựng đề án công phu về các nội dung lớn của cuộc bầu cử, trình Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương cho ý kiến; đồng thời, triển khai nghiêm túc kết luận của Bộ Chính trị về đề án bầu cử. Tuy nhiên, Đảng không làm thay, cụ thể là không ấn định về cơ cấu đại biểu, không quy định cơ cấu “cứng” phân bổ cho cơ quan, tổ chức. Thời gian qua, hầu hết người giới thiệu ứng cử trong cơ cấu “cứng” là lãnh đạo cơ quan, tổ chức làm cho tỷ lệ đại biểu là nhà khoa học và các giới, các ngành chưa cao, dẫn đến việc tỷ lệ không nhỏ đại biểu Quốc hội “gánh nhiều cơ cấu”. Xu hướng tăng dần đại biểu Quốc hội chuyên trách từ khoảng 5 - 6% tổng số đại biểu Quốc hội đầu nhiệm kỳ Quốc hội khóa IX lên 25,1% ở Quốc hội khóa XI(5), khoảng 35 - 40% ở Quốc hội khóa XIII và tăng khoảng 5% ở mỗi nhiệm kỳ tiếp theo là tín hiệu tốt; bởi vì, việc tăng số lượng đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách sẽ giúp Quốc hội hoạt động hiệu quả, chất lượng hơn.
Hai là, đổi mới công tác cán bộ, lựa chọn người đủ đức, đủ tài tham gia vào Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Nhân sự cấp chiến lược phải chịu trách nhiệm trước Đảng về thực hiện các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, tức là gắn việc lựa chọn nhân sự cấp chiến lược với thực hiện chính sách; nói cách khác là tích hợp phương thức lãnh đạo bằng công tác cán bộ với phương thức lãnh đạo bằng chính sách. Nhân sự cơ cấu vào các ủy ban của Quốc hội như hiện nay về cơ bản là phù hợp, bảo đảm sự kết nối giữa Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Hội đồng Dân tộc, các ủy ban, các cơ quan thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội, gồm có 3 cơ quan giúp việc về các lĩnh vực công tác đại biểu, dân nguyện, lập pháp(6). Đặc biệt, Ban Công tác đại biểu làm tốt công tác tham mưu, việc phục vụ bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân đi vào nền nếp; nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách.
Trong thời gian qua, Đảng đã lãnh đạo Ủy ban Thường vụ Quốc hội thực hiện tốt nhiệm vụ là cơ quan thường trực của Quốc hội, chỉ đạo, điều hòa, phối hợp hoạt động của các cơ quan của Quốc hội. Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã phân công Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội thẩm tra các dự án luật, nghị quyết và các báo cáo, dự án khác theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn; thực hiện các nội dung thuộc chương trình giám sát của Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Ba là, cần có cơ chế tăng cường vai trò, sự tham gia của Đảng đoàn Quốc hội và tổ chức đảng ở Thường trực Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội từ sớm, từ xa trong tham mưu với Đảng để quyết định chủ trương, đường lối, chính sách; có quy định về sự phối hợp giữa Đảng đoàn Quốc hội và cơ quan trình nội dung nghị quyết ra Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư nhằm tạo sự đồng thuận trong hoạt động của Quốc hội. Đề cao vai trò của Bí thư, Phó Bí thư Đảng đoàn Quốc hội và Đảng đoàn Quốc hội chịu trách nhiệm trước Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư về kết quả hoạt động của Quốc hội, mở rộng thêm phạm vi đánh giá và cụ thể hóa bằng việc đánh giá kết quả thực hiện các chủ trương, đường lối, chính sách mà Đảng đã hoạch định.
Bốn là, đổi mới phương thức lãnh đạo qua các tổ chức đảng trong Quốc hội, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Hội đồng Dân tộc và 9 ủy ban(7) (từ nhiệm kỳ Quốc hội khóa XII) thông qua các tổ chức đảng tại đây. Hội đồng Dân tộc và các ủy ban có thường trực, gồm chủ tịch/chủ nhiệm, phó chủ tịch/phó chủ nhiệm và ủy viên hoạt động chuyên trách. Cần sớm hoàn thiện tổ chức đảng trong Quốc hội để gắn kết, quản lý chặt chẽ đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách ở các cơ quan của Quốc hội, cơ quan của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; quy định rõ vai trò của tổ chức đảng ở Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của Quốc hội trong lãnh đạo cơ quan tương ứng của Quốc hội; có mô hình tổ chức đảng đặc thù trong Quốc hội khi tăng đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách.
Năm là, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với Đoàn đại biểu Quốc hội, tập trung vào các đại biểu Quốc hội chuyên trách, giúp Đoàn đại biểu Quốc hội phát huy được vai trò là cầu nối giữa đại biểu và công dân cử tri, cung cấp thêm nhiều thông tin, dữ liệu minh bạch hơn cho hoạt động giám sát của các cơ quan của Quốc hội, giúp đại biểu Quốc hội thực hiện tốt nhiệm vụ.
Sáu là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng qua tìm kiếm, lựa chọn nhân tài là nhân sự cấp chiến lược vào bộ phận hỗ trợ, tham mưu cho Quốc hội, điển hình như vị trí Tổng Thư ký Quốc hội và tăng cường kỷ cương hành chính, mục tiêu cải cách hành chính đối với Văn phòng Quốc hội.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội bằng công tác vận động, tuyên truyền
Quốc hội thông qua cử tri, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng, ý chí của nhân dân, vận động nhân dân tích cực tham gia xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, đặc biệt là vận động nhân dân thực hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ nhất, Đảng chú ý lắng nghe ý kiến, tiếng nói của mọi tầng lớp nhân dân. Để đổi mới hiệu quả phương thức lãnh đạo của Đảng bằng công tác vận động, tuyên truyền, mỗi đảng viên tham gia Quốc hội phải ra sức rèn luyện đạo đức gắn với học tập lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhất là về phát huy sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc,... để có phương pháp đúng đắn, hiệu quả trong việc vận động, tập hợp quần chúng nhân dân thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị.
Thứ hai, đại biểu Quốc hội là cầu nối giữa cử tri và Quốc hội, lắng nghe tiếng nói của cử tri về những vấn đề phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, tập hợp những ý kiến đó, chuyển tải đến Đảng; đồng thời, tập hợp, vận động nhân dân thực hiện chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Thứ ba, đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và các cơ quan, hội đồng, các ủy ban của Quốc hội, Văn phòng Quốc hội có nhiệm vụ tham vấn minh bạch đối với nhu cầu, ý chí, nguyện vọng chính đáng của nhân dân về các chủ trương, đường lối và chính sách, đánh giá tác động của chính sách, pháp luật trong chương trình pháp luật, đánh giá thực hiện chính sách, tác động chính sách; từ đó, tham mưu với Đảng hoạch định “đúng” và “trúng”, kịp thời những vấn đề phát triển kinh tế - chính trị, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh trong bối cảnh mới.
Thứ tư, công tác dân nguyện không chỉ tham mưu thực hiện tốt công tác dân nguyện của Quốc hội, mà còn chủ động tiếp nhận, phân loại và xử lý đơn, thư của công dân, đi sâu phân tích, đánh giá kiến nghị cử tri, đôn đốc các cơ quan giải quyết kiến nghị của cử tri; từng bước khắc phục được tình trạng chuyển đơn, thư qua lại giữa các cơ quan của Quốc hội, thực hiện khẩn trương, hiệu quả hơn việc trả lời và thực hiện kiến nghị của cử tri. Chú trọng nắm bắt tâm tư, ý chí, nguyện vọng của nhân dân về các chủ trương, đường lối, chính sách, thông qua Ủy ban Thường vụ Quốc hội kịp thời chuyển tải đến các cơ quan lãnh đạo của Đảng ở Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
Thứ năm, thực hiện tốt trách nhiệm nêu gương của đội ngũ cán bộ, đảng viên của Quốc hội. Các đại biểu Quốc hội cần phải ra sức học tập đạo đức cách mạng theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, thực hiện “nói đi đôi với làm”, trở thành tấm gương sáng trong cơ quan và bên ngoài xã hội; từ đó, tạo uy tín, sức hút tự nhiên đối với các tầng lớp nhân dân trong xã hội./.
------------------------
(1) Xem: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 88 - 89
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 174 - 175
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1987, tr. 226
(4) Xem: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 132
(5) Lần đầu tiên Luật Tổ chức Quốc hội năm 2001 quy định có tối thiểu 25% đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách.
(6) Ban Công tác đại biểu, Ban Dân nguyện và Ban Công tác lập pháp.
(7) Thêm Ủy ban Tư pháp, không còn Ủy ban Kinh tế và Ngân sách, mà thay vào đó là Ủy ban Kinh tế và Ủy ban Tài chính, Ngân sách.
Kỳ họp bất thường lần thứ 2, Quốc hội khóa XV  (05/01/2023)
Đảng bộ thành phố Hà Nội: Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng, góp phần xây dựng Đảng bộ và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh  (25/11/2022)
Bế mạc Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XV  (15/11/2022)
Khai mạc Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XV  (20/10/2022)
- Phát huy vai trò của công tác cán bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
- Ấn Độ: Hướng tới cường quốc kinh tế và tri thức toàn cầu trong nhiệm kỳ thứ ba của Thủ tướng Na-ren-đra Mô-đi
- Một số vấn đề về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Thành tựu phát triển lý luận của Đảng qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới (kỳ 1)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển