Xây dựng chính quyền địa phương theo Hiến pháp năm 2013
TCCS - Chính quyền địa phương là một trong những định chế pháp lý quan trọng của Hiến pháp năm 2013, bởi chính quyền địa phương là một bộ phận không thể tách rời bộ máy nhà nước do Hiến pháp quy định. Theo đó, cần dựa trên cơ sở hiến định để tiến hành xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước nói chung, chính quyền địa phương nói riêng.
Theo Hiến pháp năm 2013, chính quyền địa phương ở nước ta được quy định ở Chương IX với 7 điều, từ Điều 110 đến Điều 116. Đây là cơ sở pháp lý cao nhất để tiến hành đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương ở nước ta hiện nay. Xa rời các quy định của Hiến pháp chẳng những mất phương hướng đổi mới mà còn dẫn đến vi hiến - điều không thể chấp nhận được trong tinh thần thượng tôn Hiến pháp của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đang xây dựng ở nước ta hiện nay. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện chính quyền địa phương theo Hiến pháp năm 2013 cần nắm vững các quan điểm, định hướng sau:
1- Chính quyền địa phương là một thể thống nhất, quan hệ chặt chẽ, không thể tách rời giữa hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân
Không phải ngẫu nhiên mà Hiến pháp năm 2013 đặt tên Chương là Chính quyền địa phương mà không đặt tên là Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, như các bản Hiến pháp năm 1959, năm 1980 và năm 1992. Đây không phải là một sự thay đổi câu chữ mà là một sự thay đổi về chất trong quan niệm về mối quan hệ giữa hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân. Mặc dù, hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân là hai cơ quan có quyền hạn và nhiệm vụ khác nhau, nhưng được tổ chức và hoạt động trên cùng một phạm vi lãnh thổ xác định và đều có cùng một chức năng là “Chính quyền địa phương tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật tại địa phương; quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; chịu sự kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước cấp trên” (Khoản 1, Điều 112, Hiến pháp năm 2013).
Việc hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân gọi chung là chính quyền địa phương có ý nghĩa pháp lý ở tầm hiến định đặc biệt quan trọng, nhằm gắn kết chặt chẽ hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân thành một thực thể chung là chính quyền địa phương. Hai thiết chế này có mối quan hệ chặt chẽ không tách rời nhau về mặt tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn. Hiệu lực, hiệu quả của mỗi cấp chính quyền địa phương là kết quả tổng hợp của hiệu lực và hiệu quả của cả hai cơ quan này hợp thành một thể thống nhất. Hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hội đồng nhân dân cũng chính là hiệu lực và hiệu quả hoạt động của ủy ban nhân dân và ngược lại, không thể đánh giá như một số người cho rằng, hội đồng nhân dân thì hoạt động hình thức còn ủy ban nhân dân thì hoạt động thực chất, có hiệu lực và hiệu quả. Điều này khác hoàn toàn với hai thiết chế Quốc hội và Chính phủ. Hai thiết chế này có mối quan hệ độc lập tương đối với chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn khác nhau. Quốc hội thực hiện chức năng lập pháp, giám sát tối cao và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Còn Chính phủ thực hiện chức năng hành chính nhà nước cao nhất và là cơ quan thực hiện quyền hành pháp. Mối quan hệ giữa hai cơ quan này theo nguyên tắc “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” (Khoản 3, Điều 2, Hiến pháp năm 2013). Xu hướng tách rời hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân, xem chúng là hai thiết chế có tính độc lập tương đối, giống như Quốc hội và Chính phủ là trái với tinh thần và nội dung của Hiến pháp năm 2013. Vì thế, tính chất, vị trí và vai trò của hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân không nên xác định một cách tách rời như Quốc hội và Chính phủ. Mọi lập luận cho rằng, đã có ủy ban nhân dân thì phải có hội đồng nhân dân, như đã có Chính phủ thì phải có Quốc hội để thực hiện vai trò cơ quan quyền lực nhà nước, giám sát của cơ quan dân cử đối với cơ quan hành chính nhà nước đều không phù hợp với Hiến pháp năm 2013 về chính quyền địa phương. Kinh nghiệm của quốc tế chỉ ra rằng, khi sử dụng thuật ngữ “chính quyền địa phương” là nhằm mục đích nhấn mạnh tính tự quản của các cấp chính quyền địa phương. Đây là xu hướng phổ biến trong xây dựng chính quyền địa phương ở các nước dân chủ và pháp quyền trong thời đại ngày nay nhằm phát huy mạnh mẽ tính tự quản, tự chịu trách nhiệm của các cấp chính quyền. Mục đích của việc gọi hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân là chính quyền địa phương còn nhằm tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm cao hơn của chính quyền địa phương.
Tên Chương IX của Hiến pháp năm 2013 được gọi là “Chính quyền địa phương” đặt ra yêu cầu phải đổi mới một cách thực sự về mô hình tổ chức cũng như chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương theo hướng: Phải bảo đảm gắn kết chặt chẽ, thống nhất hơn nữa giữa hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân trong việc quy định và thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của chính quyền địa phương; tạo điều kiện để mỗi cấp chính quyền địa phương tự chủ, tự chịu trách nhiệm cao hơn nữa; khẳng định vị trí của chính quyền địa phương là một thể thống nhất của hai thiết chế hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân trong hệ thống hành chính thống nhất, thông suốt trong cả nước.
2- Hiến pháp năm 2013 quy định “về đơn vị hành chính tương đương” nhằm mở đường cho việc thành lập đơn vị hành chính mới trong thành phố trực thuộc Trung ương
Đơn vị hành chính được quy định ở Điều 110, Hiến pháp năm 2013 với một bổ sung mới “đơn vị hành chính tương đương” quận, huyện, thị xã trong thành phố trực thuộc Trung ương nhằm mục đích mở đường cho việc thành lập đơn vị hành chính mới trong thành phố này. Ví như thành phố Thủ Đức thuộc Thành phố Hồ Chí Minh trên cơ sở sắp xếp quận 2, quận 9 và quận Thủ Đức để hình thành khu đô thị sáng tạo theo đề nghị của Thành phố gần đây. Có thể thấy, quy định mở này trong Hiến pháp năm 2013 nhằm mở đường cho việc tiếp tục đổi mới, cải cách chính quyền ở đô thị phù hợp với tình hình và đặc điểm của từng địa phương. Cùng với quy định mở đó, Hiến pháp năm 2013 còn bổ sung “Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập” (Khoản 1, Điều 110 Hiến pháp năm 2013) nhằm đáp ứng nhu cầu thiết lập các đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt đang đặt ra trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường ở một số địa phương.
3- Hiến pháp năm 2013 tạo lập nền tảng hiến định cho việc đổi mới mô hình chính quyền địa phương phù hợp với đặc điểm nông thôn và đô thị
Từ thực tiễn tổ chức chính quyền ở cả 3 cấp đều có hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân ở các đơn vị hành chính của thành phố cũng như nông thôn đã bộc lộ tính hình thức, hiệu quả hoạt động không cao, bộ máy cồng kềnh, trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ giữa hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân các cấp, Điều 111, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do luật định”.
Theo điều quy định trên, một khái niệm mới ra đời, đó là cấp “Chính quyền địa phương”. Với khái niệm này, cho phép tổ chức chính quyền ở đô thị và nông thôn có thể khác nhau. Việc phân chia đơn vị hành chính để quản lý với mô hình tổ chức chính quyền ở từng đơn vị hành chính có thể không giống nhau. Ở tất cả các đơn vị hành chính đều có chính quyền địa phương nhưng không nhất thiết một đơn vị hành chính là một cấp chính quyền địa phương. Cấp chính quyền được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt. Ở đâu được coi là cấp chính quyền thì chính quyền ở đó bao gồm đầy đủ cả hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân; ủy ban nhân dân do hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra. Còn ở đâu không được coi là cấp chính quyền thì ở đó có cơ quan hành chính thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính và dịch vụ công tại đơn vị hành chính đó. Như vậy, Hiến pháp năm 2013 sử dụng thuật ngữ cấp chính quyền địa phương để giao cho Luật Tổ chức chính quyền địa phương thể chế hóa phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt. Với quy định mới này sẽ mở đường cho việc cải cách, đổi mới mô hình tổ chức chính quyền ở nông thôn và đô thị, tạo điều kiện cho việc xây dựng và hoàn thiện chính quyền nông thôn và đô thị, phù hợp với đối tượng, cách thức và phương pháp quản lý nhà nước hoàn toàn khác nhau. Theo đó, ở thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh hay một thành phố thuộc tỉnh nào đó có thể không xem phường hay quận là một cấp chính quyền và ở đó không có hội đồng nhân dân mà chỉ có ủy ban nhân dân. Dựa vào quy định này của Hiến pháp, ngày 27-11-2019, Quốc hội thông qua Nghị quyết số 97/2019/QH14, thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị tại thành phố Hà Nội. Tại Điều 1 của Nghị quyết này, chính quyền địa phương ở thành phố Hà Nội, huyện, quận, thị xã, xã, thị trấn là cấp chính quyền địa phương gồm có hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân. Trong khi đó, chính quyền địa phương ở các phường thuộc quận, thị xã tại thành phố Hà Nội chỉ có ủy ban nhân dân phường. Mô hình thí điểm này nhằm làm cho bộ máy chính quyền gọn nhẹ, thông suốt, giải quyết nhanh vấn đề cấp bách; trách nhiệm của cán bộ cấp phường được xác định rõ ràng hơn, tinh giản biên chế, tiết kiệm ngân sách, phù hợp với đặc điểm quản lý nhà nước ở đô thị khác với quản lý nhà nước ở nông thôn.
Như vậy, theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013, có thể tổ chức một hệ thống chính quyền địa phương đa dạng, phân biệt cấp chính quyền và cấp hành chính phù hợp với quản lý nông thôn, đô thị, hải đảo, trong đó điều cơ bản là không tổ chức hội đồng nhân dân ở quận hoặc phường; khắc phục những hạn chế, bất cập về nhận thức lý luận cũng như thực tiễn tổ chức và hoạt động của mô hình chính quyền rập khuôn “hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương; ủy ban nhân dân là cơ quan cơ quan chấp hành, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương” được tổ chức ở các cấp kéo dài trong nhiều năm nhưng hình thức kém hiệu quả.
Mô hình tổ chức chính quyền địa phương cần phải tiếp tục đổi mới cho phù hợp với đặc điểm dân cư, phân chia đơn vị hành chính - lãnh thổ và đặc thù quản lý hành chính nhà nước giữa nông thôn và thành phố mà Đảng ta đã đề ra nhiều năm nay. Qua nghiên cứu thực tiễn có thể thấy rằng, đô thị có một số đặc điểm đòi hỏi phải có sự phân biệt trong mô hình tổ chức chính quyền địa phương giữa đô thị và nông thôn, như: Dân cư tập trung với mật độ cao, địa giới hành chính và điều kiện sinh sống của người dân khá chật hẹp; kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội phát triển có tính liên thông đồng bộ; nếp sống văn hóa của người dân gắn liền với đặc điểm sinh hoạt, giao tiếp rất đặc thù khác với nông thôn; nơi dễ tập trung phát sinh các tệ nạn xã hội, gây phức tạp trong quản lý,...
Với những đặc điểm đó, quản lý nhà nước ở đô thị đòi hỏi phải bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ và liên thông trên mọi khía cạnh của quản lý nhà nước, như tổ chức bộ máy, cơ chế, phương thức quản lý, thẩm quyền và trách nhiệm. Trong lúc đó, nông thôn có những đặc điểm tương phản với đô thị như: Dân cư tập trung ở mật độ không cao và phần lớn đất đai thường được sử dụng cho sản xuất nông nghiệp; người dân nông thôn là những hộ gia đình gắn kết với nhau trong sản xuất, sinh hoạt và các hoạt động xã hội khác; tính gắn kết trong cộng đồng có quy mô nhỏ, phù hợp với cách quản lý theo kiểu tự quản, tự quyết định các vấn đề quan trọng. Với các đặc điểm cơ bản đó, mô hình quản lý nhà nước ở nông thôn phải có những khác biệt so với ở đô thị. Sự khác biệt đó trước hết là quản lý mọi mặt đời sống xã hội phải phát huy tốt nhất ý chí của cộng đồng. Áp dụng cơ chế quản lý trực tiếp bỏ qua vai trò của cơ quan đại diện, dù trong điều kiện hệ thống pháp luật có hoàn thiện đến đâu cũng sẽ không phù hợp và phát huy hiệu quả ở địa bàn nông thôn.
Ở nước ta, quận thuộc thành phố trực thuộc Trung ương, thành phố; thị xã thuộc tỉnh là những đơn vị hành chính có tổ chức dân cư, phân chia đơn vị hành chính và tính chất quản lý nhà nước hoàn toàn khác với cấp huyện thuộc tỉnh ở tính chất trung gian thể hiện rõ nét hơn so với cấp huyện. Chính vì thế, không nên rập khuôn tổ chức chính quyền ba cấp hành chính ở đô thị giống như ở nông thôn. Thực tiễn thí điểm không tổ chức hội đồng nhân dân ở quận, huyện, phường thuộc 10 tỉnh, thành hơn 5 năm vừa qua chỉ ra một điều rằng, không tổ chức hội đồng nhân dân ở một số cấp không ảnh hưởng gì đến toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nói chung, đến tổ chức và hoạt động quản lý nhà nước, quyền làm chủ của nhân dân nói riêng, mà bộ máy ở đó gọn nhẹ, tiết kiệm được ngân sách. Thực tiễn này được xem là thành công của việc làm thí điểm cần phải sử dụng để thiết kế mô hình tổ chức chính quyền địa phương theo Hiến pháp năm 2013 như đã trình bày ở trên.
Việc không tổ chức hội đồng nhân dân ở những đơn vị hành chính trung gian không làm mất đi tính đại diện của cư tri, bởi đại diện đã được xác định ở cấp chính quyền và đây mới là đại diện thực chất. Thực hiện quản lý nhà nước ở các đơn vị hành chính trung gian do cấp chính quyền thực hiện. Cánh tay nối dài của cấp chính quyền được đặt ở các đơn vị hành chính trung gian nhằm giúp cho chính quyền làm tốt hơn vai trò tự quản, tự chịu trách nhiệm của mình. Kinh nghiệm phổ biến về tổ chức quyền lực nhà nước của nhân loại chỉ ra rằng, đối với chính quyền địa phương thì vị trí đặc biệt quan trọng là chính quyền địa phương ở hai đầu: tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và xã, phường ở cơ sở. Chính quyền hai đầu này cần xây dựng đủ mạnh để thực hiện vai trò tự quản, tự chịu trách nhiệm. Còn chính quyền ở các đơn vị hành chính lãnh thổ khác được xem là chính quyền trung gian để giúp cho chính quyền ở hai đầu thực hiện tốt hơn nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Vì vậy, tổ chức chính quyền ở các đơn vị hành chính trung gian ở mỗi nước được tổ chức một cách khác nhau và ở đơn vị hành chính - lãnh thổ khác nhau cũng có thể tổ chức khác nhau, xuất phát từ đặc điểm dân cư, phân chia đơn vị hành chính - lãnh thổ và đặc thù của quản lý hành chính nhà nước.
4- Phân cấp, phân quyền giữa chính quyền địa phương với chính quyền Trung ương và giữa các cấp của chính quyền địa phương
Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương xác định trên cơ sở phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương và của mỗi cấp chính quyền địa phương” (Khoản 2, Điều 112, Hiến pháp năm 2013). Có thể nói, đây là một nguyên tắc hiến định quan trọng trong việc phân công quyền lực nhà nước giữa Trung ương và địa phương cũng như giữa các cấp chính quyền địa phương với nhau. Nguyên tắc này là cơ sở hiến định để Luật Tổ chức chính quyền địa phương và các luật chuyên ngành thể chế hóa mối quan hệ về nhiệm vụ, quyền hạn giữa chính quyền Trung ương và chính quyền địa phương phù hợp với từng thời kỳ và từng loại công việc. Bởi chỉ trên cơ sở phân định rõ thẩm quyền của mỗi cấp chính quyền thì việc xác định trách nhiệm, tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của mỗi cấp chính quyền mới có hiệu quả. Cùng với việc phân cấp, phân quyền theo nguyên tắc nói trên, Hiến pháp năm 2013 còn quy định về ủy quyền. Khoản 3, Điều 112 quy định: “Trong trường hợp cần thiết, chính quyền địa phương được giao thực hiện một số nhiệm vụ của cơ quan nhà nước cấp trên với các điều kiện bảo đảm thực hiện nhiệm vụ đó”. Quy định này chỉ ra rằng, chính quyền địa phương còn là chủ thể được ủy quyền của chính quyền Trung ương trong việc thực thi một số công vụ nhất định. Tuy nhiên, đối với các công vụ do cơ quan nhà nước cấp trên giao thì chính quyền địa phương sẽ được cơ quan nhà nước cấp trên bảo đảm các điều kiện để thực hiện.
Thực tiễn chỉ ra rằng, có nhiều nhiệm vụ thuộc thẩm quyền của Trung ương được giao cho địa phương thực hiện, nhưng chỉ giao việc mà không kèm theo các điều kiện để thực hiện công việc đó. Vì vậy, gây nhiều khó khăn cho địa phương trong việc thực thi công vụ. Quy định tại Khoản 3, Điều 112 nói trên là cơ sở hiến định để giải quyết mối quan hệ ủy quyền giữa chính quyền cấp trên đối với chính quyền cấp dưới trong thi hành công vụ. Như vậy, vấn đề phân cấp, phân quyền đã được khẳng định và thể hiện thành nguyên tắc của Hiến pháp. Tuy nhiên, cho đến nay, việc phân cấp, phân quyền chưa đủ mạnh để tạo điều kiện cho các địa phương phát huy lợi thế so sánh và những đặc thù vốn có của mình trong việc phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, Luật Tổ chức chính quyền địa phương cũng như các luật chuyên ngành cũng cần căn cứ vào nguyên tắc của Hiến pháp để tiếp tục cụ thể hóa phù hợp với từng cấp chính quyền, với địa bàn đô thị, nông thôn, hải đảo; bảo đảm sự nhất quán, thống nhất, đồng bộ trong việc thể hiện và thực hiện đúng tinh thần phân cấp, phân quyền mà Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định. Đây cũng chính là một định hướng tiếp tục xây dựng và hoàn thiện chính quyền địa phương theo Hiến pháp năm 2013.
5- Việc kiểm soát quyền lực nhà nước đối với chính quyền địa phương
Trước hết, cần phải khẳng định rằng kiểm soát quyền lực nhà nước đối với chính quyền địa phương gồm cả hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân thuộc thẩm quyền của chính quyền Trung ương. Bằng giám sát tối cao của Quốc hội, thanh tra, kiểm tra, kiểm soát của Chính phủ và các bộ trong việc thi hành Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm cho pháp luật được các cấp chính quyền địa phương tuân thủ một cách nghiêm chỉnh.
Thứ hai, giám sát của hội đồng nhân dân cùng cấp đối với ủy ban nhân dân và với chính quyền cấp dưới không nên quan niệm như giám sát tối cao của Quốc hội đối với Chính phủ. Bởi như trình bày ở phần đầu, chính quyền địa phương gồm hai thiết chế là hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân có mối quan hệ mật thiết không tách rời nhau. Vì thế, giám sát của hội đồng nhân dân đối với ủy ban nhân dân cùng cấp mang tính chất giám sát nội bộ, chủ yếu là giám sát việc thực hiện nghị quyết của mình đã đề ra nhằm bảo đảm cho chính quyền cấp mình hoạt động có hiệu lực và hiệu quả.
Thứ ba, giám sát đối với chính quyền trung gian (quận, thành phố, thị xã thuộc tỉnh hoặc phường thuộc thành phố). Chính quyền ở các đơn vị hành chính này là một bộ phận của chính quyền cấp trên đứng ở đây, nên một mặt chịu sự kiểm soát quyền lực nhà nước của chính quyền Trung ương và mặt khác chịu sự giám sát của hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và sự kiểm tra, thanh tra, kiểm soát của ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Thứ tư, kiểm soát quyền lực nhà nước đối với chính quyền địa phương còn được thực hiện bởi vai trò giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp và các thành viên của Mặt trận Tổ quốc. Đồng thời, kiểm soát quyền lực nhà nước đối với chính quyền địa phương còn thực hiện bởi cá nhân công dân bằng việc thực hiện các quyền khiếu nại, tố cáo.
Thứ năm, kiểm soát quyền lực nhà nước đối với chính quyền địa phương còn được thực hiện bằng các phương tiện thông tin đại chúng và bằng các hoạt động xét xử các quyết định hành chính, các hành vi hành chính mà cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện tại tòa án.
Như vậy, kiểm soát quyền lực nhà nước đối với chính quyền địa phương được thực hiện bởi một cơ chế bao gồm các cơ quan nhà nước cấp trên (chính quyền Trung ương) đối với chính quyền cấp dưới; giám sát mang tính chất bên trong của chính quyền địa phương; giám sát của hội đồng nhân dân đối với ủy ban nhân dân cùng cấp; giám sát, kiểm tra, thanh tra của chính quyền cấp trên đối với chính quyền cấp dưới. Đồng thời, kiểm soát quyền lực nhà nước đối với chính quyền địa phương còn được thực hiện bởi cơ chế do nhân dân tiến hành thông qua các tổ chức đoàn thể quần chúng. Rõ ràng không nên lo lắng rằng, ở một đơn vị hành chính - lãnh thổ nào đó không tổ chức hội đồng nhân dân thì không có người kiểm soát quyền lực nhà nước. Hơn nữa, giám sát của hội đồng nhân dân đối với ủy ban nhân dân cùng cấp không hoàn toàn mang tính chất kiểm soát quyền lực nhà nước, như giám sát tối cao của Quốc hội đối với Chính phủ. Bởi vì, hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân tuy là hai thiết chế nhưng cùng thống nhất với nhau là chính quyền địa phương./.
Thường trực Chính phủ họp về mô hình chính quyền đô thị tại Thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng  (02/03/2021)
Giá trị bình đẳng - tiêu chí quan trọng của chủ nghĩa xã hội  (11/12/2020)
Xây dựng hệ thống an sinh xã hội, bảo đảm cho lao động nông thôn di cư hòa nhập xã hội thành thị, chuyển đổi nghề nghiệp ổn định và bền vững  (20/11/2020)
- Phát huy vai trò của công tác cán bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
- Ấn Độ: Hướng tới cường quốc kinh tế và tri thức toàn cầu trong nhiệm kỳ thứ ba của Thủ tướng Na-ren-đra Mô-đi
- Một số vấn đề về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Thành tựu phát triển lý luận của Đảng qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới (kỳ 1)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển