Những kỹ năng cần thiết của nguồn nhân lực hành chính đáp ứng yêu cầu phát triển nền kinh tế tri thức ở Việt Nam
Kinh tế tri thức và đặc trưng của nền kinh tế tri thức
Kinh tế tri thức đã, đang và sẽ tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội của tất cả các quốc gia trên thế giới và Việt Nam không nằm ngoài sự tác động đó.
Từ lâu, chúng ta đều biết, tri thức được xem là thành phần quan trọng hàm chứa trong mỗi con người và kỹ thuật, là hạt nhân của sự phát triển; nhưng phải đến những năm giữa của thế kỷ XX thì khái niệm xã hội tri thức mới được các nhà nghiên cứu đề cập tới. Trong khoảng vài thập kỷ gần đây, các nhà kinh tế và quản lý tại nhiều quốc gia trên thế giới mới đề cập tới khái niệm kinh tế tri thức. Cơ sở đưa ra khái niệm này là dựa trên những bước tiến nhảy vọt, chưa từng thấy của khoa học công nghệ từ cuối thế kỷ XX đến nay.
Để có thể hiểu được khái niệm này, cần tìm hiểu vài nét về quá trình ra đời của nó qua một số mốc lịch sử sau:
- Trong tác phẩm “Sự chuyển di lực lượng” (năm 1990), nhà Tương lai học nổi tiếng A.Tofler đã nêu ra khái niệm nền kinh tế tri thức như sau: “Sự phát triển của nền kinh tế tri thức mới này thật ra là một lực lượng mới bùng nổ, nó làm cho nền kinh tế tiên tiến diễn ra một cuộc cạnh tranh quyết liệt trên toàn thế giới”.
- Bản “Báo cáo về khoa học, kỹ thuật và triển vọng công nghiệp” của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) năm 1996 đã khái quát về nền kinh tế tri thức là nền kinh tế dựa trên cơ sở tri thức, trực tiếp căn cứ vào việc sản xuất, phân phối và sử dụng tri thức và thông tin.
- Khi nói về chiến lược phát triển “Kinh tế tri thức” năm 1997, cựu Tổng thống Mỹ Bill Clinton đã chỉ ra mối quan hệ giữa giáo dục và nền kinh tế tri thức như sau: “Nền kinh tế mới là nền kinh tế tri thức. Chúng ta hướng tới nền kinh tế tri thức thế kỷ XXI đòi hỏi phải có một chiến lược kinh tế mới, mà việc thực hiện giáo dục đi trước một bước quan trọng hơn bất cứ lúc nào”. Sau đó, năm 1998, trong “Báo cáo về Ngân hàng thế giới”, ông đã dùng khái niệm kinh tế tri thức để mô tả nền kinh tế kiểu mới trong đó tri thức và thông tin đóng vai trò chủ đạo và tuyên bố rõ rằng thế giới, hay nói đúng hơn là các nước phát triển, đã tiến vào thời đại kinh tế tri thức (1).
Từ những quan niệm nêu trên, có thể thấy nền kinh tế tri thức là nền kinh tế sử dụng tri thức làm trụ cột chính để phát triển kinh tế - xã hội.
Như vậy, trong nền kinh tế tri thức, hoạt động chủ yếu nhất là tạo ra tri thức, quảng bá tri thức và sử dụng tri thức, tri thức trở thành lực lượng sản xuất quan trọng nhất. Bởi thế, sức sáng tạo sẽ trở thành động lực trực tiếp nhất cho sự phát triển. Nếu như trong nền kinh tế công nghiệp, việc tạo ra giá trị, nâng cao năng lực cạnh tranh chủ yếu dựa vào sự tối ưu hóa, hoàn thiện cái đã có thì trong kinh tế tri thức, việc tạo ra giá trị và nâng cao năng lực cạnh tranh chủ yếu là do tìm ra cái chưa biết (2).
Hơn nữa, là một yếu tố quan trọng của lực lượng sản xuất nhưng tri thức lại rất khác biệt với các yếu tố khác của lực lượng sản xuất (vốn, tài nguyên,…) với những đặc trưng cơ bản:
- Tri thức không bị hao mòn, giá trị của thông tin và tri thức ngày một tăng lên;
- Khi chuyển giao tri thức cho người khác, người sở hữu tri thức vẫn còn nguyên vốn tri thức của mình;
- Khi chuyển giao cho nhiều người thì vốn tri thức được nhân lên mà chi phí lại không đáng kể;
- Tiếp nhận vốn tri thức không dễ dàng mà phải thông qua giáo dục, đào tạo. Vì thế, giáo dục, đào tạo trở thành ngành sản xuất cơ bản nhất, quan trọng nhất trong nền kinh tế tri thức;
- Tri thức - một tư liệu sản xuất chủ yếu trong nền kinh tế thị trường lại do người lao động sở hữu, không tách khỏi người lao động, cho nên người lao động phải thực sự được làm chủ, hợp tác bình đẳng trong các tổ chức kinh doanh và trong việc tạo ra và phân phối của cải;
- Khi tri thức trở thành vốn chủ yếu của sản xuất thì vấn đề quản lý tri thức trở thành hoạt động quan trọng. Nếu như trong nền kinh tế công nghiệp, công việc quan trọng là quản lý năng suất và sau đó là quản lý chất lượng thì trong nền kinh tế tri thức quản lý thông tin và quản lý tri thức tức là quản lý việc tạo ra, truyền tải và sử dụng tri thức sao cho có hiệu quả cao nhất lại là yếu tố quan trọng nhất.
Cho tới nay, nhiều nhà chiến lược kinh tế hàng đầu trên thế giới đều thống nhất cho rằng thời đại kinh tế tri thức có 10 đặc điểm chính sau đây (3):
Một là, ý tưởng đổi mới và phát triển công nghệ mới trở thành chìa khóa cho việc tạo ra việc làm mới và nâng cao chất lượng cuộc sống. Nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao, cơ cấu chuyển dịch nhanh.
Hai là, việc tìm các công nghệ mới trở thành loại hình hoạt động quan trọng nhất. Doanh nghiệp nào cũng có thể tìm ra công nghệ mới; không còn sự phân biệt giữa phòng thí nghiệm với công xưởng, đồng thời xuất hiện nhiều doanh nghiệp chuyên về sản xuất công nghệ.
Ba là, công nghệ thông tin được sử dụng rộng rãi trong mọi lĩnh vực, mạng thông tin phủ khắp mỗi nước và trên thế giới, liên kết các tổ chức, gia đình và các quốc gia. Thông tin trở thành nguồn tài nguyên quan trọng. Mọi lĩnh vực hoạt động của con người đều có sự tác động của thông tin.
Bốn là, dân chủ hóa được thúc đẩy vì mọi người đều dễ dàng truy cập thông tin mà mình cần. Mọi người dân đều có thể biết được các chủ trương, chính sách một cách chính xác, kịp thời. Các cơ quan chức năng không thể hoạt động trái luật. Mối liên kết giữa chính quyền và người dân được thiết lập bền vững.
Năm là, giáo dục và đào tạo (đầu tư cho con người) được chú trọng, được đầu tư cao hơn hẳn so với các dự án đầu tư về cơ sở vật chất (nhà máy, công xưởng, khai thác nguyên, nhiên liệu...). Tất cả mọi người đều học tập thường xuyên bằng các loại hình đào tạo đa dạng: học ở trường, học từ xa, học trên mạng thông tin.
Sáu là, tri thức trở thành vốn quý nhất và là nguồn lực hàng đầu để tăng trưởng. Vốn tri thức không giống như các loại vốn vật chất khác (máy móc, tiền, vàng...) dễ hư hao hoặc mất đi khi sử dụng, tri thức và thông tin dễ chuyển giao và chia sẻ.
Bảy là, chu kỳ đổi mới của xã hội ngày càng ngắn, càng nhanh, năng lực sáng tạo của con người mở ra vô tận. Công nghệ đổi mới rất nhanh, có khi chỉ tính từng ngày, từng tháng. Vì vậy, các doanh nghiệp muốn tồn tại phải luôn đi tìm công nghệ mới và phải luôn đổi mới công nghệ và sản phẩm.
Tám là, các doanh nghiệp vừa phải cạnh tranh, vừa phải hợp tác để phát triển ở cả trong nước và quốc tế. Triết lý "cả hai cùng có lợi" thấm rộng trong mọi hoạt động của con người.
Chín là, các sản phẩm và thị trường ngày càng có tính toàn cầu. Nhiều nước cùng tham gia vào sản xuất một sản phẩm. Một sản phẩm được tiêu thụ ở nhiều thị trường, nhiều nước.
Mười là, dù xu hướng thông tin, tri thức mang tính toàn cầu hóa nhưng bản sắc văn hóa dân tộc phải được chú ý giữ gìn để tránh bị hòa tan, để tạo thêm sức mạnh nội sinh.
Trong nền kinh tế tri thức mà chúng ta đang hướng đến, việc tìm ra phương án tối ưu cho các hoạt động của hệ thống hành chính nhà nước - một bộ phận của thể chế, phụ thuộc chủ yếu vào chất lượng của nguồn nhân lực hành chính nhà nước. Nguồn nhân lực này phải thực sự trở thành một lực lượng có những năng lực mới để có thể làm việc hiệu quả trong nền kinh tế tri thức.
Những kỹ năng cần đào tạo cho nguồn nhân lực hành chính nhà nước để hướng tới nền kinh tế tri thức
Việc trang bị những kiến thức, kỹ năng mới cho nguồn nhân lực hành chính nhà nước theo yêu cầu hướng tới nền kinh tế tri thức được thực hiện chủ yếu thông qua hoạt động đào tạo. Đào tạo theo nghĩa chung nhất là quá trình tác động đến con người, làm cho họ lĩnh hội và nắm vững những kiến thức, kỹ năng một cách có hệ thống nhằm thích nghi với cuộc sống và có thể thực hiện hiệu quả một công việc nhất định trong một tổ chức. Do vậy, đào tạo chính là một quá trình làm cho người được đào tạo trở thành có năng lực theo một tiêu chuẩn nhất định (4).
Đào tạo phát triển nguồn nhân lực tổ chức là một hoạt động nhằm đem đến sự thay đổi và nâng cao năng lực của con người trong tổ chức để hướng đến khả năng đáp ứng được các yêu cầu trong tương lai của tổ chức. Trong các cơ quan hành chính nhà nước, mục tiêu đào tạo phát triển nguồn nhân lực là nhằm nâng cao hiệu quả, hiệu lực của các hoạt động quản lý nhà nước, phục vụ và đáp ứng ngày càng tốt hơn các nhu cầu của công dân theo xu hướng phát triển trên thế giới - xu hướng toàn cầu hóa và tiến tới nền kinh tế tri thức. Do vậy, trong đào tạo phát triển nguồn nhân lực hành chính nhà nước, cần trang bị cho họ những kỹ năng cơ bản sau đây:
Kỹ năng quản lý tri thức
Hướng tới nền kinh tế tri thức là chuyển sang nền kinh tế lấy tri thức làm nền tảng phát triển, do vậy để quản lý được sự phát triển kinh tế - xã hội ấy thì nhất thiết người làm việc trong các cơ quan hành chính phải có kỹ năng quản lý tri thức. Quản lý tri thức tốt sẽ làm tăng hiệu quả làm việc của bản thân người làm việc trong cơ quan hành chính nhà nước cũng như của cơ quan đó, để có thể cạnh tranh được trong việc cung cấp các dịch vụ công cho công dân. Quản lý tri thức là các hoạt động tiếp thu tri thức và xử lý thông tin một cách hiệu quả.
Để có thể điều hành được xã hội trong nền kinh tế ấy thì buộc nguồn nhân lực hành chính nhà nước - những người thực thi công vụ phải có năng lực tiếp thu tri thức để từ đó hiểu biết sâu sắc đối tượng quản lý làm cơ sở ra các quyết định quản lý phù hợp.
Việc thu nhận tri thức phụ thuộc chính vào năng lực tiếp thu tri thức, năng lực này không chỉ dùng để chiếm hữu tri thức mà còn để có thể luôn luôn đổi mới giúp con người có thể suy nghĩ độc lập, sáng tạo nhằm tạo ra tri thức mới.
Thông tin là nguyên liệu chủ yếu của nền kinh tế tri thức, lượng thông tin khổng lồ được sản sinh và trao đổi hàng ngày ấy buộc mỗi người làm việc trong bộ máy hành chính nhà nước phải tiến hành sàng lọc, phân tích, tổ chức, quy nạp và lựa chọn để tìm ra thông tin hữu hiệu đối với công việc của bản thân mình. Vì thế, đòi hỏi mỗi người phải có năng lực xử lý thông tin mới giúp cho họ có khả năng nhìn thấy rõ tình hình và nắm chắc cơ hội để có những hành động thích ứng nhằm đạt mục tiêu quản lý của cơ quan mình.
Kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin
Các đặc trưng của nền kinh tế tri thức như đã nêu trên với nền tảng là tri thức sẽ đòi hỏi phải có một công cụ đủ mạnh phục vụ cho việc sản xuất, xử lý, chuyển giao, lưu trữ và sử dụng thông tin. Công cụ đó chính là công nghệ thông tin. Càng ngày, công nghệ thông tin càng được ứng dụng rộng rãi ở tất cả các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội. Trong hệ thống hành chính nhà nước, công nghệ thông tin được ứng dụng trước hết là giúp cho việc xử lý thông tin nhanh chóng, chính xác, đầy đủ, phục vụ tốt cho các tổ chức và công dân, sau đó là tiến tới hình thành Chính phủ điện tử. Do vậy, kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin là thiết yếu đối với nguồn nhân lực hành chính nhà nước.
Kỹ năng giải quyết vấn đề
Đặc điểm của nền kinh tế tri thức là “mở” và luôn thay đổi, chính vì thế, nó tạo ra áp lực lớn đối với những nhà quản lý hành chính nhà nước, bởi họ luôn có nguy cơ phải đối mặt với những vấn đề mới chưa hề có tiền lệ trong những tình thế rất khẩn trương. Và thường trong những tình huống như vậy thì nhà quản lý có xu hướng thiếu sáng suốt và có thể đưa ra những quyết định không hợp lý gây ảnh hưởng xấu đến hiệu quả hoạt động của cơ quan nhà nước và thậm chí có thể đem lại hậu quả khó lường. Vì thế, cần phải trang bị cho họ kỹ năng giải quyết vấn đề để họ có thể nhận diện chính xác được vấn đề, xác định được đúng nguyên nhân và lựa chọn đúng phương pháp và công cụ để giải quyết vấn đề một cách tối ưu.
Kỹ năng làm việc trong môi trường đa văn hóa
Kinh tế tri thức đi cùng với nó là quá trình toàn cầu hóa làm cho mối quan hệ tương tác ngày càng tăng lên giữa những người thuộc các dân tộc và các quốc gia có những nền văn hóa khác nhau. Sự nhạy cảm về văn hóa trở nên quan trọng trong việc tiếp xúc, giải quyết công việc đối với những người đến từ các nền văn hóa khác nhau. Kỹ năng làm việc trong môi trường đa văn hóa trở nên cần thiết đối với những người làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước. Điều này buộc họ phải hiểu những nền văn hóa khác nhau và giải quyết công việc đối với những đối tượng trên góc độ văn hóa của chính đối tượng đó.
Kỹ năng quản lý thời gian
Khối lượng công việc ngày càng nhiều do lượng thông tin, tri thức ngày càng tăng lên sẽ đặt ra yêu cầu đối với các nhân viên hành chính nhà nước là cần phải biết cách sử dụng quỹ thời gian một cách hiệu quả. Việc trang bị cho họ kỹ năng quản lý thời gian sẽ giúp họ tổ chức công việc tốt hơn, biết đặt ưu tiên giải quyết công việc hợp lý và do vậy sẽ làm được nhiều việc hơn. Mặt khác, quản lý thời gian tốt cũng là cách để những người làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước tạo được sự cân bằng giữa công việc với đời sống gia đình, giúp họ giải tỏa được những căng thẳng và duy trì được cường độ làm việc, đóng góp được nhiều hơn vào việc phục vụ công dân.
Những phân tích trên đây sẽ giúp cho chúng ta nhận thức được sự cần thiết của những kỹ năng này ở mức độ sâu sắc hơn đối với nguồn nhân lực hành chính nhà nước. Từ đó, các cơ quan hành chính nhà nước sẽ chủ động lập kế hoạch đào tạo phát triển nguồn nhân lực của mình nhằm đáp ứng các yêu cầu của thời đại mới - thời đại của nền kinh tế tri thức./.
--------------------------------------------------
Chú thích:
1. Thế Trường (năm 2005), Hành trang thời đại kinh tế tri thức, NXB Văn hóa - Thông tin (tr. 64-69)
2. GS. Đặng Hữu, “Phát huy năng lực sáng tạo, xây dựng hệ thống đổi mới quốc gia để hội nhập vào xu thế phát triển kinh tế tri thức toàn cầu” đăng trên website www.vids.org.vn
3. Tạp chí Tri thức và Phát triển, số 1-2004
4. Học viện Hành chính (năm 2005), Áp dụng phương pháp dạy học tình huống trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức Việt Nam (Đề tài cấp bộ, mã số 2000 - 98 - 078) (tr. 44)
Những sự kiện trong nước đáng chú ý trong tuần (từ ngày 31-12-2012 đến 06-01-2013)  (07/01/2013)
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm, làm việc tại tỉnh Lào Cai  (06/01/2013)
Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc thăm chiến sỹ cảnh sát biển  (06/01/2013)
Ngày 7-1 không thể xóa nhòa trong lịch sử đất nước Cam-pu-chia  (06/01/2013)
Mốc son trong quan hệ Việt Nam - Cam-pu-chia  (06/01/2013)
Nội các mới của Ai Cập tuyên thệ nhậm chức  (06/01/2013)
- Hoàn thiện pháp luật về tổ chức, hoạt động của chính quyền đô thị, đáp ứng yêu cầu quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả ở Việt Nam
- Vai trò của các quốc gia tầm trung trong hệ thống quốc tế và gợi mở cho Việt Nam trong mục tiêu khẳng định vị thế quốc gia trong bối cảnh mới
- Tự quản trong cộng đồng xã hội đối với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (kỳ 1)
- Thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội trong tình hình mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về chỉnh huấn cán bộ, đảng viên và một số giải pháp trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên