Tỉnh Gia Lai đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị - Kết quả và bài học kinh nghiệm
TCCS - Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng là yêu cầu, đòi hỏi cấp thiết trong tình hình hiện nay nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Nhận thức rõ điều đó, thời gian qua, tỉnh Gia Lai tập trung thực hiện đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị và bước đầu đạt được một số kết quả quan trọng, đồng thời cũng còn không ít hạn chế, vướng mắc cần tập trung khắc phục, tháo gỡ trong thời gian tới.
Những kết quả đạt được trong đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
Gia Lai là tỉnh phía Bắc Tây Nguyên, có diện tích tự nhiên 15.510km2; dân số hơn 1,5 triệu người, với 44 dân tộc cùng sinh sống, trong đó, tỷ lệ đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) chiếm 46,23% (chủ yếu là người Gia-rai và Ba-na). Tỉnh Gia Lai có 17 đơn vị hành chính (1 thành phố, 2 thị xã và 14 huyện); 220 xã, phường, thị trấn với 1.576 thôn, làng, tổ dân phố. Tỉnh hiện có 21 đảng bộ trực thuộc (17 đảng bộ cấp huyện và 4 đảng bộ tương đương cấp huyện); 950 tổ chức cơ sở đảng, 3.488 chi bộ trực thuộc đảng bộ cơ sở và 1.576 chi bộ thôn, làng, tổ dân phố. Năm 2022, Đảng bộ tỉnh có 63.549 đảng viên.
Thời gian qua, tỉnh Gia Lai tập trung nâng cao chất lượng công tác xây dựng Đảng, đặc biệt chú trọng nhiệm vụ đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng theo chủ trương, đường lối của Trung ương và bước đầu đạt được một số kết quả đáng ghi nhận, thể hiện ở những lĩnh vực chủ yếu sau:
Thứ nhất, công tác lãnh đạo của cấp ủy đối với hoạt động của các tổ chức đảng trực thuộc ngày càng được chú trọng. Sau đại hội đảng bộ các cấp, Tỉnh ủy và cấp ủy các cấp cụ thể hóa các quy định, hướng dẫn của Trung ương về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức bộ máy; sửa đổi, bổ sung, ban hành quy chế, chương trình làm việc phù hợp, nhằm bảo đảm tổ chức thực hiện nhiệm vụ chặt chẽ, nghiêm túc. Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng (nhất là nguyên tắc “tập trung dân chủ”, “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”) được duy trì và thực hiện hiệu quả; phát huy tốt trách nhiệm tập thể cấp ủy, người lãnh đạo cấp ủy, góp phần khắc phục tình trạng làm thay, bao biện, không rõ trách nhiệm hoặc buông lỏng vai trò lãnh đạo. Thực hiện tốt mối quan hệ công tác giữa các đơn vị là ban thường vụ cấp ủy, hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân các cấp với các ban, ngành, tổ chức chính trị - xã hội.
Chất lượng hoạt động của cấp ủy, chính quyền và các tổ chức trong hệ thống chính trị ngày càng được nâng cao; các chi bộ, đảng bộ cơ sở phát huy tốt vai trò là hạt nhân chính trị ở cơ sở; năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu từng bước được nâng lên; đồng thời, các quy định, hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, mối quan hệ công tác, quy chế làm việc, phân công, phân cấp, phân quyền gắn với tăng cường kiểm tra, giám sát của cấp ủy cấp trên đối với cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc được cụ thể hóa.
Thứ hai, công tác lãnh đạo của cấp ủy đối với hoạt động của hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân các cấp và cơ quan tư pháp ở địa phương được tăng cường. Tỉnh ủy tập trung chỉ đạo Đảng đoàn Hội đồng nhân dân tỉnh, trong khi đó, Ban cán sự đảng Ủy ban nhân dân tỉnh tập trung lãnh đạo triển khai thực hiện nhiệm vụ theo đúng nguyên tắc, thẩm quyền quy định. Đồng thời, tăng cường đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hội đồng nhân dân cùng cấp, lãnh đạo hội đồng nhân dân thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình bảo đảm đúng quy định của pháp luật; kịp thời cho ý kiến định hướng về phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu, chính sách, nội dung kế hoạch về xây dựng chính quyền, phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh và những vấn đề quan trọng khác trước khi hội đồng nhân dân đưa ra thảo luận và quyết định.
Ủy ban nhân dân các cấp kịp thời cụ thể hóa các chủ trương, chính sách của Trung ương, của Tỉnh ủy, hội đồng nhân dân cùng cấp về phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh. Bộ máy chính quyền các cấp tiếp tục được củng cố, bảo đảm hoạt động hiệu lực, hiệu quả; rà soát, sắp xếp, kiện toàn các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp, thôn, làng, tổ dân phố và đơn vị hành chính cấp xã, bảo đảm thu gọn đầu mối, giảm bớt khâu trung gian, thực hiện quản lý đa ngành, đa lĩnh vực gắn với tinh giản biên chế. Hoạt động của ủy ban nhân dân các cấp bảo đảm quản lý thống nhất và có sự phân công nhiệm vụ cụ thể theo hướng công khai, minh bạch, phát huy vai trò, trách nhiệm của từng cá nhân trong quản lý, điều hành, tổ chức thực hiện. Các cơ quan chuyên môn cấp tỉnh, cấp huyện được sắp xếp, bố trí lại theo đúng quy định, không còn tình trạng dôi dư cấp phó (số lượng cấp phó bình quân/đơn vị sự nghiệp bảo đảm không quá 2 người); một số trường học cấp huyện sau khi sáp nhập cũng được sắp xếp, bố trí lại số cấp phó dôi dư, không còn tình trạng số lượng cấp phó vượt quy định(1).
Tỉnh ủy chỉ đạo cấp ủy của các cơ quan tư pháp tiếp tục quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm túc, đồng bộ các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về cải cách tư pháp(2), thống nhất những định hướng lớn trong lãnh đạo thực hiện các chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng đối với hoạt động của các cơ quan tư pháp; lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ và tiến trình cải cách tư pháp ở địa phương; thường xuyên kiểm tra công tác kiểm sát, xét xử bảo đảm đúng đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Thông qua tổ chức giao ban công tác nội chính định kỳ, Tỉnh ủy lãnh đạo, chỉ đạo các cấp ủy cơ quan tư pháp kịp thời khắc phục những hạn chế, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đề ra các giải pháp nhằm thực hiện tốt công tác tư pháp; cấp ủy cấp huyện tập trung lãnh đạo công tác kiểm sát, tòa án nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hành quyền công tố, kiểm soát hoạt động tư pháp, giải quyết và xét xử các loại tội phạm, công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trên địa bàn.
Thứ ba, chú trọng công tác lãnh đạo của cấp ủy đối với hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.
Lãnh đạo, chỉ đạo nhằm đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, tạo điều kiện thuận lợi để Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội hoạt động, tham gia góp ý xây dựng Đảng, chính quyền, thực hiện nhiệm vụ giám sát và phản biện xã hội; từng bước đổi mới nội dung, phương thức hoạt động phù hợp với vai trò, chức năng, nhiệm vụ và tôn chỉ, mục đích hoạt động của từng tổ chức. Sự phối hợp công tác giữa Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội với cấp ủy, các cơ quan nhà nước ngày càng chặt chẽ, đi vào thực chất, tạo điều kiện thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị được giao. Công tác giám sát, phản biện xã hội, tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền được triển khai đồng bộ từ tỉnh đến cơ sở dựa trên nội dung, cách thức phù hợp, bảo đảm đúng quy trình, quy định. Công tác đối thoại giữa người đứng đầu cấp ủy, chính quyền với các tầng lớp nhân dân được quan tâm thực hiện và đạt nhiều kết quả thiết thực. Hoạt động của các hội quần chúng có nhiều chuyển biến, nhiều phong trào thi đua yêu nước được cấp hội tích cực tham gia, hưởng ứng; công tác xây dựng, củng cố tổ chức hội được quan tâm, đội ngũ cán bộ các cấp hội cơ bản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.
Thứ tư, công tác đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trên một số lĩnh vực cụ thể đạt được nhiều kết quả quan trọng.
Về công tác tổ chức, cán bộ: Tỉnh ủy Gia Lai lãnh đạo trực tiếp, toàn diện công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ gắn với phát huy quyền hạn, trách nhiệm các tổ chức và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị về công tác cán bộ. Công tác xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp có chuyển biến tích cực, từng bước khắc phục được tình trạng thiếu hụt trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, bảo đảm tính kế thừa, phát triển giữa các thế hệ cán bộ, giữ vững và phát huy tinh thần đoàn kết nội bộ; xây dựng nguồn cán bộ trẻ nhằm đào tạo, bồi dưỡng lâu dài, bảo đảm công tác triển khai tổ chức thực hiện nhiệm vụ, đáp ứng yêu cầu công việc; ban hành đồng bộ hệ thống các văn bản quy định, hướng dẫn về công tác tổ chức, cán bộ để triển khai thực hiện trong hệ thống chính trị và kịp thời bổ sung, sửa đổi khi có văn bản mới của Trung ương(3).
Về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng: Chú trọng đổi mới công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng, xem đây là một trong những giải pháp quan trọng góp phần đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Chỉ đạo tổ chức quán triệt các quy định của Đảng về công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật; các cấp ủy, tổ chức đảng kịp thời tổ chức học tập, quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm Nghị quyết số 14-NQ/TW, ngày 30-7-2007, của Hội nghị Trung ương 5 khóa X, “Về tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng”. Đẩy mạnh tuyên truyền công tác kiểm tra, giám sát của Đảng thông qua việc ban hành các kế hoạch tuyên truyền, các quy định về việc cung cấp thông tin cho báo chí; phối hợp với Tạp chí Kiểm tra, Cơ quan Ủy ban Kiểm tra Trung ương viết bài tuyên truyền về công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng đăng trên Tạp chí Kiểm tra. Qua đó, góp phần nâng cao nhận thức và hành động của tổ chức đảng, đảng viên về vị trí, vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác kiểm tra, giám sát; nắm vững và tự giác chấp hành tốt nguyên tắc, phương châm của công tác kiểm tra, giám sát của Đảng.
Về công tác tuyên truyền, vận động, thuyết phục, nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu: Tỉnh ủy Gia Lai luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời, thường xuyên, liên tục các cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên nhằm nâng cao nhận thức trong toàn Đảng bộ về ý nghĩa, vai trò, tầm quan trọng và sự cần thiết của việc tuyên truyền, học tập, nghiên cứu, thực hiện các nghị quyết; nâng cao nhận thức của cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên về đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nghị quyết của cấp ủy các cấp để thực hiện bảo đảm đúng quy định. Thành lập Ban Chỉ đạo 35 về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; chỉ đạo bám sát nhiệm vụ, thường xuyên theo dõi, ngăn chặn các thông tin xấu, độc trên internet; định hướng thông tin cho cán bộ, đảng viên và nhân dân có nhận thức đúng, tích cực đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, phản động, bảo vệ chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Quán triệt và cụ thể hóa các quy định của Trung ương về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh ban hành Quy định số 1614-QĐi/TU, ngày 3-9-2019, “Về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh và cán bộ lãnh đạo các ngành, các cấp”. Chỉ đạo công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ của người đứng đầu, nhất là đồng chí bí thư cấp ủy, thủ trưởng các cơ quan, đơn vị bằng các quy chế, quy định cụ thể(4), có sự giám sát của nhân dân, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, nhằm kịp thời nắm bắt tình hình; tăng cường công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và giải quyết những vấn đề bức xúc, nổi cộm, xử lý nghiêm các sai phạm. Chỉ đạo xuất bản Sổ tay Các quy định của Đảng về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là lãnh đạo chủ chốt các cấp làm tài liệu giúp các cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên thuận tiện trong triển khai thực hiện các quy định của Đảng về trách nhiệm nêu gương, đưa việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII, “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” và Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15-5-2016, của Bộ Chính trị, “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” đi vào nền nếp, có hiệu quả. Phát huy vai trò của người đứng đầu trong việc nêu cao ý thức gương mẫu bằng những hành động thiết thực, đồng thời khắc phục hạn chế, khuyết điểm sau kiểm điểm theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII. Cấp ủy các cấp quan tâm đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục và vận động nhân dân; coi trọng tuyên truyền qua các phương tiện thông tin đại chúng, các điển hình, gương người tốt việc tốt, đẩy mạnh hoạt động của đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên.
Về phong cách, lề lối làm việc và cải cách hành chính trong Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội: Tỉnh ủy đề ra nhiều chủ trương, giải pháp đổi mới phương thức lãnh đạo của cấp ủy trong hệ thống chính trị, vừa bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, vừa tập trung cho những ngành, lĩnh vực, địa bàn trọng điểm và coi trọng hơn công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết các nghị quyết, chỉ thị; đồng thời, phát huy vai trò, trách nhiệm, tính năng động, sáng tạo của các tổ chức trong hệ thống chính trị. Chú trọng lãnh đạo thực hiện công tác cải cách thủ tục hành chính trong Đảng theo hướng giảm bớt thủ tục, văn bản, hội họp, tăng cường đi cơ sở, làm việc trực tiếp với các tổ chức cơ sở đảng, cơ quan, đơn vị, địa phương để kịp thời chỉ đạo giải quyết những vấn đề nổi cộm, bức xúc phát sinh. Cơ sở vật chất, trang thiết bị được quan tâm đầu tư; phòng hội nghị trực tuyến Tỉnh ủy có chất lượng cao, công nghệ tiên tiến, kết nối trực tiếp với hệ thống hội nghị trực tuyến của Trung ương và các huyện, thị xã, thành phố trong tỉnh; trung tâm tích hợp dữ liệu Tỉnh ủy đáp ứng yêu cầu sử dụng, phù hợp với mô hình kiến trúc hệ thống trong các cơ quan đảng theo quy định của Trung ương(5).
Cấp ủy các cấp quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo đổi mới phong cách, lề lối làm việc gắn với thực hiện nhiệm vụ chính trị, giải quyết hiệu quả các vấn đề bức xúc ở địa phương. Tổ chức tiếp xúc, đối thoại, lắng nghe ý kiến phản ánh của cán bộ, đảng viên và nhân dân; kịp thời tiếp thu, giải quyết những bức xúc, kiến nghị chính đáng. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thực hiện nghiêm chế độ thông tin, báo cáo; quan tâm, đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, từ đó bổ sung, hoàn thiện các chủ trương, chính sách phù hợp với tình hình thực tế ở cơ quan, đơn vị, địa phương.
Những kết quả trong nhiệm vụ đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị đã góp phần quan trọng trong việc củng cố và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo sự đồng thuận xã hội, thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, bảo đảm quốc phòng - an ninh, nâng cao đời sống của nhân dân; lòng tin của nhân dân đối với Đảng được nâng lên, mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, chính quyền với nhân dân được tăng cường, củng cố.
Một số khó khăn, hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt được, trong công tác xây dựng Đảng, đặc biệt là trong thực hiện nhiệm vụ đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng ở tỉnh Gia Lai còn một số hạn chế, vướng mắc chủ yếu sau:
Một là, việc học tập, quán triệt, tổ chức thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương và của tỉnh có lúc, có nơi còn chậm, chưa sôi nổi; công tác điều tra, nắm bắt, dự báo, định hướng tư tưởng, tâm trạng, dư luận xã hội nhiều khi chưa kịp thời, còn bị động trước một số vấn đề bức xúc, nổi cộm phát sinh.
Hai là, một số cấp ủy chậm đổi mới phương thức lãnh đạo, chưa bắt kịp với tốc độ đổi mới kinh tế và hội nhập quốc tế; chưa thật sự phát huy tốt vai trò của tổ chức đảng, đảng viên, cấp ủy viên được phân công công tác tại cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Có nghị quyết ban hành còn chung chung, tính khả thi chưa cao, chưa sâu sát với tình hình thực tế; phương thức lãnh đạo của một số cấp ủy, nhất là trong doanh nghiệp còn lúng túng, hiệu quả chưa cao.
Ba là, hoạt động của hội đồng nhân dân các cấp ở một số địa phương vẫn còn hạn chế, như: Công tác ban hành nghị quyết có nơi chưa tuân thủ đầy đủ quy trình, thủ tục; việc tổ chức hoạt động chất vấn tại phiên họp thường trực hội đồng nhân dân còn chậm và chưa thường xuyên. Hoạt động giám sát của đại biểu, tổ đại biểu hội đồng nhân dân chưa quyết liệt; công tác theo dõi, đôn đốc giải quyết kiến nghị sau giám sát có lúc chưa thường xuyên, liên tục; hoạt động thảo luận và chất vấn tại một số kỳ họp vẫn còn tình trạng né tránh, ngại va chạm. Hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của chính quyền một số nơi chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới; công tác cải cách hành chính và thủ tục hành chính ở từng lĩnh vực cụ thể còn nhiều bất cập, chưa đồng bộ. Hiệu quả hoạt động của UBND tỉnh và một số sở, ngành còn nhiều hạn chế, để xảy ra một số sai phạm lớn khiến nhiều cán bộ chủ chốt của chính quyền tỉnh bị xử lý kỷ luật.
Bốn là, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội ở một số đơn vị chậm đổi mới nội dung, phương thức hoạt động; chất lượng giám sát và phản biện xã hội, góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền còn hạn chế; tỷ lệ tập hợp quần chúng vào tổ chức của một số tổ chức còn thấp. Công tác phối hợp giữa Mặt trận Tổ quốc với các tổ chức thành viên và cấp ủy, chính quyền các cấp có lúc, có việc chưa chặt chẽ, thiếu đồng bộ. Một số cấp ủy, ủy ban kiểm tra chậm ban hành các văn bản thuộc thẩm quyền về lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát; xác định nội dung, đối tượng kiểm tra, giám sát thiếu trọng tâm, trọng điểm dẫn đến việc thực hiện nhiệm vụ còn một số hạn chế. Việc theo dõi hoạt động của cấp ủy, ủy ban kiểm tra cấp dưới có lúc còn chưa kịp thời, sâu sát; chưa phát huy đầy đủ vai trò, trách nhiệm của các tổ chức đảng trong hệ thống chính trị và nhân dân đối với công tác kiểm tra, giám sát.
Một số kinh nghiệm và giải pháp
Từ những kết quả đạt được và hạn chế, vướng mắc trong đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng ở tỉnh Gia Lai, có thể rút ra một số kinh nghiệm cũng như giải pháp vận dụng trong thời gian tới như sau:
Thứ nhất, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng phải đặt trong tổng thể nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng; tiến hành đồng bộ với đổi mới các mặt của công tác xây dựng Đảng với đổi mới tổ chức và hoạt động của cả hệ thống chính trị, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; đồng bộ với đổi mới kinh tế, xây dựng và hoàn thiện bộ máy chính quyền; thích ứng với yêu cầu đòi hỏi của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Đảng bộ tỉnh Gia Lai cần kiên trì, xuất phát từ thực tiễn, đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân, kịp thời tổng kết thực tiễn, các mô hình, phương thức lãnh đạo mới để rút kinh nghiệm tiếp tục triển khai thực hiện đồng bộ, toàn diện, được sự đồng thuận của nhân dân. Đổi mới song phải bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, toàn diện, trực tiếp về mọi mặt của Đảng.
Thứ hai, chú trọng quán triệt nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về vị trí, vai trò của nhiệm vụ đổi mới phương thức lãnh đạo Đảng trong thời kỳ mới. Trong triển khai thực hiện các chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, mỗi tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể và mỗi cán bộ, đảng viên phải thực sự gương mẫu; việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng phải được tiến hành ở các cấp ủy, tổ chức đảng trong toàn Đảng và tiến hành thận trọng, chặt chẽ, vừa kế thừa những thành quả và kinh nghiệm đã đạt được, vừa đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế.
Trước mắt, cần tiến hành cơ cấu, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ các cấp, các ngành theo vị trí việc làm, khung năng lực, bảo đảm đúng người, đúng việc, giảm số lượng, nâng cao chất lượng, hợp lý về cơ cấu. Đồng thời, tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác đánh giá cán bộ theo hướng xuyên suốt, liên tục, đa chiều, theo tiêu chí cụ thể, bằng sản phẩm; từ đó, gắn đánh giá cá nhân với tập thể và kết quả thực hiện nhiệm vụ của địa phương, cơ quan, đơn vị, đáp ứng yêu cầu nhanh chóng đổi mới phương thức lãnh đạo, bắt kịp với tốc độ đổi mới kinh tế và hội nhập quốc tế.
Thứ ba, thường xuyên củng cố, kiện toàn cấp ủy nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của cấp ủy, tổ chức đảng; chăm lo xây dựng cấp ủy vững mạnh, lựa chọn cấp ủy viên đúng tiêu chuẩn, phù hợp với đặc điểm, yêu cầu nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị, địa phương. Các cấp ủy, tổ chức đảng phải bám sát chức năng, nhiệm vụ các loại hình theo quy định để xây dựng quy chế hoạt động, làm việc, phối hợp,... thường xuyên rà soát, sửa đổi, bổ sung quy chế làm việc theo đúng chức năng, nhiệm vụ gắn với đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Thời gian tới, tỉnh Gia Lai cần tiếp tục thực hiện học tập, bồi dưỡng lý luận chính trị và cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên, nhất là đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý. Đẩy mạnh thực hiện Kết luận số 01-KL/TW ngày 18-5-2021 của Bộ Chính trị “Về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, của Bộ Chính trị, “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”” gắn với thực hiện Nghị quyết, Kết luận Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, XII, XIII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Thứ tư, đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Ðảng ở cơ sở, trọng tâm là nâng cao chất lượng ban hành, tổ chức thực hiện có hiệu quả các nghị quyết, chương trình, kế hoạch công tác hằng năm của cấp ủy, tổ chức đảng phù hợp với tình hình thực tiễn của cơ quan, đơn vị, địa phương, doanh nghiệp; phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, điều hành của chính quyền nhưng cần lãnh đạo sát sao hơn nữa hoạt động của chính quyền, tránh để tình trạng một số lãnh đạo chính quyền xem nhẹ, làm ngơ trước sự lãnh đạo của cấp ủy, để xảy ra sai phạm, vi phạm pháp luật; thường xuyên đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và tổ chức chính trị - xã hội các cấp, nhất là phát huy vai trò, trách nhiệm nêu gương của người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng và sự gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Nghiên cứu, mở rộng các hình thức lấy ý kiến đánh giá sự hài lòng của người dân đối với từng đối tượng cán bộ lãnh đạo trong hệ thống chính trị. Bên cạnh đó, tiếp tục triển khai công tác tiếp nhận và xử lý những ý kiến phản ánh, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của nhân dân, nhất là của người có uy tín trong cộng đồng dân cư gửi đến cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu địa phương, cơ quan, đơn vị và qua các phương tiện thông tin đại chúng với các hình thức phù hợp, hiệu quả.
Thứ năm, tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát, kỷ luật đảng; công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện Điều lệ Đảng, quy định, hướng dẫn của Trung ương phải được thực hiện thường xuyên, đúng quy định; công tác tự phê bình và phê bình, kiểm điểm, đánh giá xếp loại chất lượng tổ chức đảng, đảng viên hằng năm phải được thực hiện nghiêm túc; kịp thời chấn chỉnh những hạn chế, vướng mắc và động viên, khen thưởng những tập thể điển hình, cá nhân làm tốt. Đặc biệt, sau khi Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng, tiêu cực tỉnh Gia Lai được thành lập, cần nhanh chóng nêu cao tinh thần trách nhiệm trong công việc, góp phần đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực ở từng địa phương, đơn vị. Từ đó, xây dựng Đảng bộ tỉnh ngày càng trong sạch, vững mạnh./.
------------------
(1) Tính đến cuối năm 2021, toàn tỉnh có 19 sở, ban, ngành và đơn vị tương đương trực thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh; 4 đơn vị sự nghiệp trực thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh; 143 đơn vị sự nghiệp trực thuộc các sở và tương đương (bao gồm cả đơn vị sự nghiệp trực thuộc Ban Quản lý Khu Kinh tế tỉnh); 17 ủy ban nhân dân cấp huyện, 761 đơn vị sự nghiệp trực thuộc ủy ban nhân dân cấp huyện. Hội đồng nhân dân tỉnh có 5 ban (Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân tỉnh, Ban Kinh tế và ngân sách, Ban Văn hóa - xã hội, Ban Pháp chế, Ban Dân tộc); hội đồng nhân dân cấp huyện có 3 ban (Ban Pháp chế, Ban Kinh tế - xã hội, Ban Dân tộc) theo đúng quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương (riêng Hội đồng nhân dân thị xã An Khê, thị xã A-yun Pa và thành phố Pleiku không có Ban Dân tộc).
(2) Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 2-6-2005, của Bộ Chính trị, “Về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”; Kết luận số 92-KL/TW, ngày 12-3-2014, của Bộ Chính trị, “Về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 2-6-2005 của Bộ Chính trị khóa IX về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”; Chỉ thị số 26-CT/TW, ngày 9-11-2018, của Bộ Chính trị, “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật trong công tác điều tra, xử lý các vụ án, vụ việc”,...
(3) Tính riêng từ sau Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI (nhiệm kỳ 2020 - 2025) đến nay, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã sửa đổi, bổ sung và ban hành các văn bản, như: Quy định số 359-QĐ/TU, ngày 29-10-2021, “Về quy định tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp”; Quy định số 457-QĐ/TU, ngày 25-1-2022, “Về phân cấp quản lý cán bộ và bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử”; Quy định số 501-QĐ/TU, ngày 29-3-2022, “Về công tác quy hoạch cán bộ”; Nghị quyết số 02-NQ/TU, ngày 28-6-2021, của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, “Về tập trung xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tỉnh Gia Lai đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”.
(4) Ban Thường vụ Tỉnh ủy ban hành các văn bản, như: Quyết định số 553-QĐ/TU, ngày 14-3-2017, “Về việc ban hành Quy chế tiếp xúc, đối thoại trực tiếp của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp với nhân dân trên địa bàn tỉnh”; Quyết định số 554-QĐ/TU, ngày 14-3-2017, “Về việc ban hành Quy định trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền trong việc tiếp thu ý kiến đóng góp xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền”; Quy định số 1515-QĐi/TU, ngày 13-8-2019, “Về trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy trong việc tiếp dân, đối thoại trực tiếp với dân và xử lý những phản ánh, kiến nghị của dân trên địa bàn tỉnh”,...
(5) Hệ thống mạng thông tin diện rộng của các cơ quan đảng cấp tỉnh được tổ chức kết nối đến các huyện ủy, thị ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc tỉnh ủy; các cơ quan chuyên trách tham mưu, giúp việc tỉnh ủy bằng đường truyền số liệu chuyên dùng. Hệ thống thông tin điều hành tác nghiệp Lotus Notes của các cơ quan đảng cấp tỉnh hoạt động thông suốt, ổn định; gửi, nhận văn bản thông suốt với các cơ quan đảng trong tỉnh, các cơ quan Trung ương và các tỉnh ủy, thành ủy trong cả nước. Năm 2018, Tỉnh ủy triển khai cài đặt, nâng cấp Hệ thống thông tin điều hành tác nghiệp lên Lotus Notes 8.5.3 giao diện trang web có tích hợp chữ ký số và giải pháp bảo mật của Ban Cơ yếu Chính phủ và triển khai đến các cơ quan chuyên trách tham mưu, giúp việc tỉnh ủy, huyện ủy, thị ủy, thành ủy, đảng ủy khối các cơ quan và doanh nghiệp tỉnh.
Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị  (17/07/2022)
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị - Những vấn đề lý luận và thực tiễn  (24/06/2022)
Tỉnh Gia Lai tập trung nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới  (28/02/2022)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- Bảo đảm an ninh con người của chính quyền đô thị: Kinh nghiệm của một số quốc gia và hàm ý chính sách đối với Việt Nam
- Phát huy vai trò trụ cột của đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân trong phối hợp xây dựng nền ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, thực hiện hiệu quả mục tiêu đối ngoại của đất nước
- Tăng cường công tác dân vận nhằm thực hiện hiệu quả chính sách xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới
-
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên