Vấn đề đạo đức trong xây dựng Đảng hiện nay

Tạ Ngọc Tấn GS, TS, Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương
21:54, ngày 02-09-2017

TCCS - Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về ý nghĩa, tầm quan trọng sống còn của vấn đề đạo đức trong xây dựng Đảng, Đảng ta luôn xác định đạo đức là một trong những vấn đề quan trọng nhất đối với cán bộ, đảng viên trong yêu cầu thường xuyên nâng cao nhận thức tư tưởng, giáo dục, rèn luyện, đề ra nhiều biện pháp kiểm tra, giám sát để giúp cán bộ, đảng viên học tập, rèn luyện về lý tưởng, lối sống, cách làm việc, thái độ trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân.

Trong diễn văn đọc tại Lễ kỷ niệm lần thứ 30 ngày thành lập Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết một cách khái quát lịch sử vẻ vang của Đảng trong 30 năm đấu tranh, phấn đấu vì độc lập, tự do cho dân tộc, vì ấm no, hạnh phúc cho nhân dân: “Đảng ta là đạo đức, là văn minh, là thống nhất, độc lập, là hòa bình ấm no”. Tính “đạo đức” xuất phát từ bản chất của Đảng cũng được khẳng định ngay trong “Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam” do Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi thảo vào dịp Đại hội thành lập Đảng năm 1930: “Ai tin theo chủ nghĩa cộng sản, chương trình Đảng và Quốc tế Cộng sản, hăng hái đấu tranh và dám hy sinh phục tùng mệnh lệnh Đảng và đóng kinh phí, chịu phấn đấu trong một bộ phận Đảng thời được vào Đảng”(1). Theo văn kiện này, đảng viên là người tự nguyện tham gia đội ngũ của Đảng vì lý tưởng nhân văn cao cả, vì mục đích giành độc lập, tự do cho dân tộc, tiến tới xây dựng một chế độ tốt đẹp nhằm mang lại tiến bộ và hạnh phúc cho nhân dân. Vì lý tưởng ấy, người đảng viên “hăng hái đấu tranh, dám hy sinh” và hoàn toàn không mưu cầu lợi ích cho cá nhân. Chất lý tưởng ấy xuất phát từ lòng yêu nước, tự hào dân tộc, ý thức trách nhiệm công dân, lý tưởng phấn đấu vì chủ nghĩa cộng sản, trở thành nền tảng cho “đạo đức” của Đảng, tạo nên niềm tin của nhân dân với Đảng, tạo nên sức mạnh của Đảng.

Trong thời kỳ đấu tranh chống đế quốc, thực dân, phong kiến, lớp lớp đảng viên tiếp bước nhau, sẵn sàng chấp nhận gian khổ, hy sinh, gắn bó mật thiết, đồng cam cộng khổ với nhân dân mà chiến đấu. Đó là thể hiện sinh động nhất, sáng rõ nhất đạo đức cách mạng. Họ chính là những đại diện xứng đáng nhất, những tấm gương tiêu biểu nhất cho đạo đức của Đảng. Và chính chất đạo đức ấy làm cho “Đảng ta thật là vĩ đại”, làm cho các tầng lớp nhân dân, đồng bào các dân tộc từ khắp mọi miền đất nước đi theo Đảng với niềm tin son sắt, gọi Đảng Cộng sản Việt Nam là “Đảng ta”. Tình yêu ấy, niềm tin ấy không thể chỉ tuyên truyền là có mà phải bắt nguồn từ chính đạo đức của cán bộ, đảng viên, từ sự thống nhất trung thực giữa lời nói và việc làm, sự hy sinh quên mình, sự đồng tâm nhất trí của toàn bộ đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng vì sự nghiệp cách mạng cao cả. Chất đạo đức ấy tạo nền tảng vững chắc làm nên trí tuệ, sức mạnh của Đảng, làm nên sự vĩ đại của Đảng, giúp Đảng tập hợp đông đảo nhân dân thành lực lượng cách mạng vô địch, lập nên những chiến công hiển hách, những thành tựu to lớn.

Vì ý nghĩa sống còn của phẩm chất đạo đức đối với Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh dành sự quan tâm đặc biệt cho việc nhận thức đúng và thực hiện thường xuyên, bền bỉ việc giáo dục, xây dựng đạo đức của cán bộ, đảng viên trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, mọi thời kỳ lịch sử. Năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh hoàn thành tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” - tác phẩm quan trọng, có ý nghĩa chỉ đạo kịp thời, sâu sát, thiết thực đối với công tác tổ chức cán bộ, giáo dục, rèn luyện đảng viên, công tác xây dựng Đảng và phát triển các tổ chức cách mạng. Trong tác phẩm này Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành phần III để nói về Tư cách và đạo đức cách mạng. Ngay mở đầu, Người viết: “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng”(2). Người cũng chỉ ra một loạt bệnh đã phát sinh trong cán bộ, đảng viên. Đó là những bệnh trái ngược với đạo đức cách mạng, như tham lam, lười biếng, kiêu ngạo, hiếu danh, thiếu kỷ luật, óc hẹp hòi, óc địa phương, óc lãnh tụ, hữu danh vô thực, quan liêu, bàn giấy, xa dân, ham danh vị, chủ quan, hình thức, ích kỷ, hủ hóa, hay nói chữ, lụp chụp cẩu thả,... Người cho rằng nguồn gốc chung của tất cả những thứ bệnh đó là do “chủ nghĩa cá nhân” mà ra: “Chủ nghĩa cá nhân là một thứ vi trùng rất độc, do nó mà sinh ra các thứ bệnh rất nguy hiểm”(3). Muốn chữa tất cả những thứ bệnh nguy hiểm đó, trước hết, người cán bộ, đảng viên phải chữa được căn bệnh của mọi căn bệnh là chủ nghĩa cá nhân. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu mỗi cán bộ đảng viên muốn trở thành người cách mạng chân chính thì phải thực hiện “chí công, vô tư”, phải rèn luyện theo 5 đức tính tốt là Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm. Đó chính là đạo đức cách mạng, không phải vì danh vọng cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc. Người viết: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”(4).

Vào dịp kỷ niệm thành lập Đảng năm 1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”. Thêm một lần nữa, Người chỉ ra bản chất của những sai lầm, khuyết điểm, của tình trạng một số đảng viên thấp kém về đạo đức, phẩm chất chính là chủ nghĩa cá nhân. Nói cách khác, đó là những người mang nặng chủ nghĩa cá nhân, việc gì cũng nghĩ đến lợi ích riêng của mình trước hết. Người yêu cầu: “Mỗi cán bộ, đảng viên phải đặt lợi ích của cách mạng, của Đảng, của nhân dân lên trên hết, trước hết. Phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng, bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần đoàn kết, tính tổ chức và tính kỷ luật”(5). Yêu cầu ấy cũng chính là yêu cầu về chuẩn mực đạo đức đối với cán bộ, đảng viên của Đảng.

Đảng đã lãnh đạo nhân dân thực hiện công cuộc đổi mới thu được những “thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử”. Tuy nhiên, cùng với những thành tựu to lớn không thể phủ nhận, thực tiễn công tác xây dựng Đảng cũng cho thấy vấn đề suy thoái về đạo đức của “một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên” ngày càng trở nên bức xúc, nóng bỏng. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (lần 2), khóa VIII chỉ rõ: “... trong Đảng đang bộc lộ một số yếu kém: sự suy thoái về tư tưởng chính trị; tình trạng tham nhũng, quan liêu, lãng phí của một bộ phận cán bộ, đảng viên có chiều hướng phát triển nghiêm trọng hơn”(6).

Nghị quyết số 12-NQ/TW, Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” tiếp tục gióng lên tiếng chuông báo động đầy trách nhiệm về những hạn chế, yếu kém trong công tác xây dựng Đảng, trong đó đặc biệt là vấn đề suy thoái về đạo đức. Nghị quyết nhấn mạnh: “Bên cạnh kết quả đạt được, công tác xây dựng Đảng vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém, thậm chí có những yếu kém, khuyết điểm kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ chậm được khắc phục, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng; nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ”. Những hạn chế, yếu kém trong xây dựng Đảng được chỉ ra cụ thể là: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc...”(7).

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII (tháng 10-2016) tiếp tục nhấn mạnh công tác xây dựng Đảng với thái độ nghiêm khắc, nhìn thẳng vào sự thật. Kiểm điểm lại tình hình thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII nhận định “đã tạo ra những chuyển biến tích cực trong hệ thống chính trị”, tuy nhiên “một số việc chưa đạt mục tiêu”. Tình hình đó dẫn đến thực tế là: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung vào số đảng viên có chức vụ trong bộ máy nhà nước”(8). Có thể nói, chưa bao giờ công tác xây dựng Đảng, đặc biệt là yêu cầu ngăn chặn, đẩy lùi những hiện tượng tiêu cực trong cán bộ, đảng viên lại được Đảng đặt ra cấp bách và khẩn thiết như thế. Đó cũng là thể hiện cho một thái độ đúng đắn, nghiêm khắc, dám và biết nhìn thẳng vào sự thật, một tinh thần chiến đấu không khoan nhượng nhằm bảo vệ sự trong sạch của Đảng. Ở đây, một lần nữa, đạo đức lại được đặt ra như một vấn đề cơ bản của công tác xây dựng Đảng, nguồn gốc tạo nên sức mạnh của Đảng.

Để xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII chỉ ra 4 nhóm nhiệm vụ và giải pháp, bao gồm: 1- Về công tác chính trị tư tưởng, tự phê bình và phê bình; 2- Về cơ chế, chính sách; 3- Về kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; 4- Về phát huy vai trò của nhân dân và Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội(9). Đây là một hệ thống toàn diện các nhiệm vụ, giải pháp về giáo dục, rèn luyện, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên, xây dựng cơ chế, chính sách nhằm làm rõ trách nhiệm của từng vị trí công tác, cơ chế vận hành của hệ thống Đảng, tăng cường công tác kiểm tra, kỷ luật của Đảng, giám sát của nhân dân và các đoàn thể xã hội. Riêng công tác xây dựng Đảng về đạo đức, để thực hiện theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, và Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII cần chú ý một số vấn đề sau:

Thứ nhất, cần nhận thức về sự thay đổi một cách căn bản môi trường xã hội, điều kiện sống và những yếu tố tác động vào quá trình hình thành, duy trì ổn định nhân cách, đạo đức của cán bộ, đảng viên trong điều kiện hiện nay. Nếu như trước đây, trong thời kỳ cách mạng dân tộc, dân chủ, đấu tranh giải phóng đất nước, vào Đảng là chấp nhận hy sinh, gian khổ vì lý tưởng cách mạng, thì nay trong điều kiện Đảng cầm quyền, vào Đảng còn có cơ hội cho sự thăng tiến về địa vị xã hội. Nếu như trước đây, kẻ thù của dân tộc cũng như của mỗi cán bộ, đảng viên là đế quốc, thực dân xâm lược, rất dễ nhận diện, có chiến tuyến xác định rõ ràng, thì nay, kẻ thù của cán bộ, đảng viên là sự cám dỗ về quyền lực, lợi ích, những thứ không có hình hài cụ thể, không xác định về ranh giới, mức độ. Đặc biệt, nếu như trước đây, cán bộ, đảng viên với người dân có cùng một kẻ thù, có chung mục đích đánh giặc, cứu nước, vì thế có chung một chiến hào đấu tranh, thì nay, một bộ phận cán bộ, đảng viên là người quản lý, được ngân sách nhà nước bảo đảm cuộc sống và người dân là người bị quản lý, phải tự chịu trách nhiệm về cuộc sống của mình. Mặt khác, về bản chất, cán bộ, đảng viên có chức, có quyền bên cạnh việc phải chịu sức ép rất nặng nề bởi những mối quan hệ vô cùng phức tạp của cơ chế kinh tế thị trường thì cũng luôn gắn liền với quyền lực và lợi ích.

Thứ hai, sự thay đổi về môi trường xã hội, điều kiện sống tất yếu dẫn đến sự lạc hậu, kém hiệu quả của một số nội dung, phương pháp cũ của công tác xây dựng Đảng về đạo đức, đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu, xem xét, xây dựng một cách đồng bộ những nội dung, phương pháp phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh mới. Cùng với nội dung giáo dục về nhận thức chính trị, lý tưởng sống, ý thức trách nhiệm của người cộng sản trong sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước, phấn đấu cho mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, rất cần thiết phải trang bị cho cán bộ, đảng viên những hiểu biết về môi trường xã hội, các quan hệ lợi ích trong nền kinh tế thị trường, những vấn đề chính trị, văn hóa có tính chất toàn cầu. Tạo điều kiện cho mỗi cán bộ, đảng viên có được tri thức toàn diện để từ đó xác định rõ vị trí, vai trò, trách nhiệm của mình, tự ý thức được những chuẩn mực đạo đức mà mình phải phấn đấu để đạt tới. Để đáp ứng yêu cầu đó, cần thiết phải hình thành định hướng chung về nội dung giáo dục đạo đức không chỉ trong nội bộ Đảng, mà còn trong toàn xã hội, trong đó rất quan trọng là phải bắt đầu từ nội dung, chương trình giáo dục phổ thông đến các phương tiện báo chí, truyền thông xã hội.

Thứ ba, thực thi đồng bộ các giải pháp về tổ chức, cán bộ trong Đảng, về kỷ luật, kỷ cương trong hệ thống chính trị, về kiểm tra, giám sát của nhân dân và các đoàn thể chính trị, xã hội. Đó chính là tạo lập một môi trường tích cực để nuôi dưỡng, bảo vệ các giá trị đạo đức trong Đảng, trong xã hội, chống lại những hành vi biểu hiện tiêu cực, quan liêu và tham nhũng. Vấn đề đầu tiên có ý nghĩa sống còn là tổ chức bộ máy, cơ chế vận hành và sự tác động qua lại giữa các bộ phận cấu thành hệ thống chính trị với ý nghĩa vừa điều chỉnh hoạt động bảo đảm hiệu lực, hiệu quả, vừa giám sát quyền lực trong bộ máy. Yêu cầu có tính nguyên tắc là xác định rõ ràng, chặt chẽ mục đích, yêu cầu, quyền hạn của từng bộ phận, cơ quan, từng cá nhân nắm giữ quyền lực; các cơ chế, điều kiện cho việc hoàn thành chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm pháp lý của mỗi vị trí công tác. Nếu không giải quyết tốt khâu quan trọng này thì không thể nói đến môi trường tích cực cho việc xây dựng và duy trì các chuẩn mực đạo đức. Sự hợp lý, khoa học về bộ máy, sự rõ ràng, minh bạch về quyền và trách nhiệm trong toàn bộ hệ thống chính trị là cơ sở quan trọng để đánh giá và hướng cán bộ, đảng viên đến những chuẩn mực đạo đức tích cực, hạn chế, ngăn ngừa phát sinh tiêu cực về đạo đức của cán bộ, đảng viên.

Thứ tư, việc xây dựng và thực hiện các chuẩn mực đạo đức trong xây dựng Đảng không thể tách rời các điều kiện về đánh giá, sử dụng, loại trừ các phần tử thoái hóa, biến chất ra khỏi đội ngũ của Đảng, về chế độ đãi ngộ đối với cán bộ, đảng viên,... Việc đánh giá, sử dụng cán bộ, đảng viên không đúng dẫn đến sự mất đoàn kết nội bộ, giảm thiểu hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, sự mất lòng tin của dân đối với Đảng và chế độ. Việc để những phần tử cơ hội chui vào hệ thống chính trị và những phần tử thoái hóa, biến chất giữ các vị trí quan trọng trong bộ máy quyền lực; chế độ đãi ngộ không tương xứng với trách nhiệm công việc và các điều kiện xã hội cũng là một trong những nguyên nhân đẩy cán bộ, đảng viên vào những hành vi tiêu cực, tham nhũng.

Thứ năm, xây dựng đạo đức không thể chỉ dựa vào tinh thần tự giác của cán bộ, đảng viên. Việc giáo dục, rèn luyện và thực hiện các chuẩn mực đạo đức trong xây dựng Đảng chỉ có hiệu quả khi thiết lập được chế độ “kỷ luật thép” trong Đảng và hệ thống chính trị. Chế độ “kỷ luật thép” ấy được xây dựng trên cơ sở ý thức đầy đủ về vai trò, vị trí của Đảng đối với dân tộc, nhân dân, vinh dự và trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên khi gánh vác các chức trách nhiệm vụ trong hệ thống quyền lực của Đảng và Nhà nước. Chế độ “kỷ luật thép” của Đảng phải bảo đảm vừa răn đe, đề phòng, hạn chế sự vi phạm kỷ luật, vừa xử lý nghiêm khắc những hành vi, hiện tượng vi phạm đạo đức của Đảng. Trong hòa bình xây dựng, dưới tác động của cơ chế thị trường, những cám dỗ lợi ích còn phức tạp, nguy hiểm hơn nên càng phải xây dựng và thực hiện chế độ “kỷ luật thép” của Đảng.

Thứ sáu, thực hiện dân chủ thực chất trong Đảng và trong xã hội. Đây là giải pháp và điều kiện không thể thiếu để giáo dục, rèn luyện đạo đức cho cán bộ, đảng viên. Chế độ ta là chế độ dân chủ. Mọi quyền lực của chế độ đều thuộc về nhân dân. Đảng lãnh đạo nhân dân để thực hiện các mục tiêu cách mạng, nhưng nhân dân không chỉ là lực lượng của cách mạng, là mục đích phục vụ của Đảng, mà còn là cơ sở chính trị của Đảng, là yếu tố quan trọng không thể thiếu trong xây dựng Đảng nói chung, cũng như việc xây dựng Đảng về đạo đức nói riêng./.

--------------------------------------

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 3, tr. 5

(2), (3), (4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 289, 295, 292

(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 547

(6) Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu (lần 2) Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, tr. 24

(7) Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2012, tr. 22

(8) Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 22

(9) Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Sđd, tr. 36 - 48