Tạo mối liên kết trong quy hoạch kinh tế - xã hội Hà Nội nhìn từ vấn đề thể chế
TCCS - Hiện nay, việc lập quy hoạch tuy được thực hiện từ trên xuống nhưng trong thực tế thường gắn với cách nhìn chủ quan của từng tỉnh, thành phố. Điều này thể hiện mong muốn và ý chí của các nhà quy hoạch ở địa phương nhiều hơn là từ thực tiễn phát triển sôi động của các yếu tố kinh tế - xã hội. Trong điều kiện hội nhập quốc tế sâu rộng, việc định vị và xác định rõ tiềm năng, lợi thế gắn với tầm nhìn chiến lược được thể hiện trong quy hoạch của tỉnh, thành phố phải đặt trong mối liên kết chung của vùng và của đất nước, coi đó là cơ sở quan trọng giúp xác định ngành, lĩnh vực phù hợp nhằm tận dụng lợi thế cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tạo sự phát triển đột phá.
Một số quan điểm chung về công tác quy hoạch
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh, xây dựng quy hoạch, tổ chức không gian lãnh thổ quốc gia một cách hợp lý, phát huy tốt nhất các lợi thế đặc thù của mỗi vùng, địa phương và tăng cường tính liên kết nội vùng và liên vùng để tham gia vào các chuỗi giá trị toàn cầu, tạo không gian phát triển mới. Khai thác tốt hơn thế mạnh của các vùng về kết cấu hạ tầng, điều kiện tự nhiên, vị trí địa kinh tế - chính trị, nguồn nhân lực trong bối cảnh và yêu cầu phát triển mới. Phát triển tổng thể, mang tính hữu cơ, liên kết chặt chẽ giữa các địa phương trong vùng thành một thể thống nhất.
Theo đó, năm 2022, Bộ Chính trị đã ban hành 6 nghị quyết về phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh 6 vùng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, gồm: Vùng Trung du, miền núi phía Bắc; vùng đồng bằng sông Hồng; vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung; vùng Tây Nguyên; vùng Đông Nam Bộ; vùng đồng bằng sông Cửu Long. Điểm chung của 6 nghị quyết về phát triển các vùng lần này đã nêu yêu cầu phải phù hợp với các chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, bảo đảm thống nhất với quy hoạch quốc gia, phù hợp với Chiến lược phát triển bền vững, Chiến lược tăng trưởng xanh quốc gia, thích ứng với biến đổi khí hậu...
Về định hướng, theo Nghị quyết số 30-NQ/TW, ngày 23-11-2022, của Bộ Chính trị, “Về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” thì vùng đồng bằng sông Hồng là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của cả nước; nơi lưu giữ nhiều giá trị văn hóa, lịch sử đặc sắc của dân tộc. Khai thác tối đa tiềm năng, lợi thế vượt trội để phát triển nhanh, bền vững vùng đồng bằng sông Hồng thực sự là vùng động lực phát triển hàng đầu, có vai trò định hướng, dẫn dắt quá trình cơ cấu lại nền kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng của đất nước.
Vùng kinh tế - xã hội đồng bằng sông Hồng (trong đó có Thủ đô Hà Nội và vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ) là vùng kinh tế lớn của đất nước với không gian kinh tế liên hoàn, gắn kết với nhau, bổ trợ cho nhau nhằm phát huy tiềm năng, lợi thế so sánh của từng tỉnh, thành phố trong vùng. Trên cơ sở đó, khắc phục sự phân tán, chồng chéo, trùng lắp trong phân bổ lực lượng sản xuất; phát huy tối đa lợi thế của toàn vùng để phát triển, và từ đó, tác động trở lại thúc đẩy sự phát triển đối với từng tỉnh, thành phố trong vùng. Việc phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng đồng bằng sông Hồng tác động trực tiếp và to lớn đến quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đến sự ổn định và phát triển đất nước.
Nghị quyết số 06-NQ/TW, ngày 24-1-2022, của Bộ Chính trị, “Về quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” đã định hướng chỉ đạo, quy hoạch đô thị và phát triển kết cấu hạ tầng các đô thị phải đi trước một bước và tạo ra nguồn lực chủ yếu cho phát triển đô thị… Đây là các văn bản quan trọng, thể hiện định hướng lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực quy hoạch, quản lý đô thị, tạo cơ sở pháp lý cho công tác quy hoạch, phát triển đô thị và nông thôn và định hướng hoàn thiện các quy định quản lý đối với lĩnh vực này.
Quy hoạch kinh tế - xã hội Hà Nội nhìn từ góc độ thể chế
Theo định hướng Quy hoạch chung Thủ đô Hà Nội đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050, quy mô dân số đến năm 2020 khoảng 7,3 triệu đến 7,9 triệu người, nhưng thực tế đến năm 2020, quy mô dân số đã đạt 8,24 triệu người. Dự báo đến năm 2030, quy mô đạt khoảng 11,4 triệu đến 11,9 triệu người; đến năm 2045 khoảng 13,7 triệu đến 14,6 triệu người. Ngoài ra, việc tạo lập khu vực “hành lang xanh” với tỷ lệ 70% quỹ đất toàn thành phố đã tạo nên những giới hạn của sự phát triển đô thị… “Do đó, việc nghiên cứu, điều chỉnh tổng thể Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô để phù hợp với tình hình thực tiễn của thành phố và định hướng phát triển kinh tế - xã hội của trước mắt và lâu dài là rất cần thiết”(1).
Trung ương và thành phố Hà Nội đã ban hành nhiều văn bản nhằm khắc phục các hạn chế trước đó, góp phần bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, minh bạch, khả thi, đầy đủ và hiệu quả của hệ thống pháp luật về quy hoạch, làm cho hệ thống văn bản pháp luật của nước ta tiến gần hơn với hệ thống pháp luật về quy hoạch đô thị, quy hoạch xây dựng tiên tiến trên thế giới. Các quy định pháp luật về quy hoạch Thủ đô đã thực sự đi vào cuộc sống và phát huy tác dụng tích cực trong thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đầu tư xây dựng, phát triển đô thị, tạo lập môi trường sống, đáp ứng nhu cầu của nhân dân.
Tuy nhiên, quá trình tổ chức triển khai thực hiện các quy định pháp luật về quy hoạch đô thị, quy hoạch xây dựng cũng phát sinh những hạn chế, bất cập cần được nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện cho đồng bộ, phù hợp với thực tiễn, đáp ứng yêu cầu phát triển, hội nhập kinh tế quốc tế, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc và tạo thuận lợi hơn nữa cho phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về quy hoạch và đẩy mạnh phân cấp, phân quyền trong tổ chức thực hiện. Thể chế về quy hoạch Thủ đô chưa tạo được đột phá lớn về phát triển kinh tế, nhất là phát triển bền vững theo chiều sâu; tình trạng ô nhiễm môi trường, tắc nghẽn giao thông, quá tải về hạ tầng đô thị chưa được cải thiện; tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công tuy cao hơn mức bình quân chung cả nước nhưng chưa đạt yêu cầu; an ninh trật tự, tình trạng cháy nổ vẫn tiềm ẩn nhiều vấn đề phức tạp...
Một số khuyến nghị
Thời gian tới, để quy hoạch Thủ đô thực sự đi vào cuộc sống, góp phần thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế - xã hội, cần tiếp tục hoàn thiện thể chế theo hướng sau:
Thứ nhất, rà soát các văn bản luật, văn bản dưới luật bảo đảm tính hợp pháp, hợp lý, đồng bộ, khả thi trong quy hoạch nói chung, quy hoạch Thủ đô Hà Nội nói riêng. Hoàn thiện thể chế phát triển Thủ đô, phân cấp, phân quyền tối đa, phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ phát triển Thủ đô. Phát hiện những nội dung quy định chưa rõ, những điểm mâu thuẫn và có phương án điều chỉnh hợp lý.
Thứ hai, tiếp tục ban hành các văn bản hướng dẫn, cụ thể hóa hệ thống thể chế về quy hoạch, quy hoạch Thủ đô Hà Nội. Thể chế quy hoạch Thủ đô phải thể hiện được tư duy đổi mới, tầm nhìn đột phá, chiến lược, dài hạn, phát huy được tiềm năng, lợi thế cạnh tranh, đồng thời giải quyết được các mâu thuẫn, hạn chế.
Thứ ba, khắc phục sự phân tán về thể chế (hoặc thiếu hệ thống phân cấp và phân công rõ ràng về vai trò và trách nhiệm), cả trong các cơ quan ở Trung ương và giữa Trung ương với địa phương, dẫn đến chậm trễ và thiếu hiệu quả trong việc xây dựng và thực thi chính sách.
Thứ tư, đẩy mạnh mối quan hệ phối hợp, hợp tác, liên kết giữa các tỉnh, thành phố trong vùng nói riêng và cả nước nói chung để cùng phát triển. Bám sát các nguyên tắc và lĩnh vực trọng tâm phối hợp theo Nghị định số 91/2021/NĐ-CP, ngày 21-10-2021, của Chính phủ, về “Quy định về cơ chế phối hợp giữa các tỉnh, thành phố trong vùng Thủ đô để thi hành các quy định của pháp luật về Thủ đô”. Các địa phương cần tăng cường hợp tác, trao đổi; cùng nhau nghiên cứu xây dựng các kế hoạch, chương trình, dự án hợp tác phát triển để trình cấp có thẩm quyền phê duyệt trên cơ sở phát huy tốt lợi thế của từng tỉnh, thành phố./.
--------------
(1) Quy hoạch Hà Nội - tự hào chặng đường lịch sử, ngày 12-6-2024, https://hanoimoi.vn/quy-hoach-ha-noi-tu-hao-chang-duong-lich-su-448033.html
Quy hoạch Hà Nội góp phần thúc đẩy sự phát triển liên kết vùng  (04/09/2024)
Nâng cao chất lượng, hiệu quả các hoạt động văn hóa thành phố Hà Nội trong thời kỳ mới  (02/09/2024)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- Bảo đảm an ninh con người của chính quyền đô thị: Kinh nghiệm của một số quốc gia và hàm ý chính sách đối với Việt Nam
- Phát huy vai trò trụ cột của đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân trong phối hợp xây dựng nền ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, thực hiện hiệu quả mục tiêu đối ngoại của đất nước
- Tăng cường công tác dân vận nhằm thực hiện hiệu quả chính sách xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới
-
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên