Quảng Ninh tập trung thu hút đầu tư nước ngoài, đáp ứng nhu cầu phát triển bền vững
TCCS -Những năm qua, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài ở tỉnh Quảng Ninh ngày càng sôi động. Nhiều tập đoàn đa quốc gia, doanh nghiệp lớn với công nghệ hiện đại đầu tư vào tỉnh; quy mô vốn và chất lượng dự án tăng góp phần tạo công ăn việc làm, thu nhập cho người lao động; nâng cao trình độ năng lực sản xuất; tăng thu ngân sách và giúp ổn định kinh tế vĩ mô; thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng. Những đóng góp đó giúp nâng cao vị thế, uy tín của tỉnh Quảng Ninh với các địa phương trong nước và trên thị trường quốc tế.
Những kết quả đạt được trong thu hút đầu tư nước ngoài
Nằm trong định hướng chung của cả nước, phương châm thu hút FDI của tỉnh Quảng Ninh là “đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ hợp tác”. Trong thời gian qua, Quảng Ninh đã thu hút được vốn đầu tư từ 21 quốc gia và vùng lãnh thổ khác nhau trên thế giới đến đầu tư tại Quảng Ninh. Trong đó Trung Quốc đứng đầu với số vốn đăng ký trên 4,7 tỷ USD chiếm trên 37% vốn đầu tư toàn tỉnh khối FDI; Nhật Bản giữ vị trí đứng thứ hai với số vốn đăng ký khoảng2,4 tỷ USD chiếm 20,52% vốn đầu tư toàn tỉnh khối FDI; Mỹ đứng thứ ba với vốn đầu tư đăng ký trên 2,3 tỷ USD chiếm 19,8%…; tiếp theo là các dự án khác do các nhà đầu tư đến từ Singapore, Indonesia, Canada, Hàn Quốc đăng ký… Cơ cấu đầu tư nước ngoài theo đối tác cho thấy, các dự án FDI vào Quảng Ninh chủ yếu là từ khu vục châu Á. Có 138/169 dự án FDI toàn tỉnh là dự án có quy mô nhỏ lẻ, hiệu quả và sức ảnh hưởng không cao, chiếm khoảng81% tổng vốn đầu tư. Có 31 dự án có suất vốn đầu tư trên 50 triệu USD trở lên và đầu tư diện tích đất trên 100ha trở lên tập trung vào các lĩnh vực công nghiệp, chế biến, chế tạo tại các khu công nghiệp, khu kinh tế, với tổng vốn đầu tư trên 8,0 tỷ USD, chiếm 70% tổng vốn đầu tư toàn tỉnh.
Tỷ lệ vốn FDI theo ngành nghề chứng tỏ lĩnh vực FDI đang đi đúng hướng góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội chung toàn tỉnh. Các nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào 16/21 ngành nghề, trong đó: Lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo dẫn đầu với tổng số 92 dự án vốn đăng ký trên 4,9 tỷ USD, chiếm 43% tổng vốn đầu tư đăng ký; tiếp theo là ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước với 5 dự án với tổng mức đầu tư đạt khoảng 4,2 tỷ USD, chiếm 36% tổng vốn đầu tư đăng ký; số vốn đầu tư còn lại đầu tư trong lĩnh vực du lịch, dịch vụ, nông, lâm, ngư nghiệp, cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải, kinh doanh bất động sản và các lĩnh vực khác. Lĩnh vực nông nghiệp, thủy sản chiếm tỷ trọng nhỏ, với 6 dự án với tổng vốn đạt 80 triệu USD.
Tỉnh Quảng Ninh có 13 huyện, thị xã trải dài trên tổng diện tích trên 6.000km2. Các dự án FDI đã được cấp phép trên 9 huyện thị xã tại địa bàn tỉnh (trong đó các huyện Ba Chẽ, Cô Tô, Đầm Hà, Tiên Yên không có dự án FDI), tập trung chủ yếu vào các huyện, thành phố, như Hạ Long, Móng Cái, Cẩm Phả, Quảng Yên, Uông Bí, Vân Đồn. Hầu hết các dự án tập trung vào địa bàn thành phố Hạ Long với 57 dự án với tổng số vốn đầu tư hơn 1,8 tỷ USD chiếm 16% tổng vốn. Hạ Long có nhiều ưu thế thu hút FDI như hệ thống kết cấu hạ tầng của địa phương được nâng cấp hoàn thiện, cảng nước sâu Cái Lân đi vào hoạt động có thể đón được tàu có trọng tải đến 50.000 DWT, cầu Bãi Cháy nối đôi bờ Cửa Lục, Khu công nghiệp Cái Lân nằm tại vị trí thuận tiện giao thông. Hạ Long có lợi thế phát triển du lịch khi có vịnh Hạ Long được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới. Trong những năm gần đây, thị xã Quảng Yên có nhiều dự án lớn đầu tư vào công nghiệp, công nghiệp chế biến, chế tạo, xây dựng, bất động sản, góp phần đa dạng hóa các ngành nghề kinh tế trên địa bàn với 49 dự án, tổng mức đầu tư đạt trên 3,4 tỷ USD tập trung tại các Khu công nghiệp Đông Mai, Khu công nghiệp Sông Khoai với hạ tầng hoàn thiện đồng bộ cũng là điểm thu hút các nhà đầu tư. Tiếp theo là thành phố Móng Cái có 19 dự án với trên 638 triệu USD, chủ yếu các dự án tập trung về du lịch dịch vụ, kinh doanh bất động sản. Móng Cái có tiềm năng phát triển kinh tế cửa khẩu và cảng biển. Móng Cái tiếp giáp với khu kinh tế mở Đông Hưng (tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc). Cảng biển Vạn Gia có thể đón tàu 1 vạn tấn là cảng chuyển tải xuất nhập khẩu giữa hai nước Việt Nam - Trung Quốc. Móng Cái có đảo Trà Cổ - Bình Ngọc cách trung tâm 10km, bãi biển dài 15 km phát triển du lịch. Các dự án đều tập trung vào lĩnh vực du lịch, dịch vụ, trong đó có những khách sạn và trung tâm mua sắm lớn, kinh doanh các dịch vụ vui chơi giải trí cho khách trong và ngoài nước, gian hàng cho thuê, cửa hàng miễn thuế như Lợi Lai, Vinh Cơ, Đông Thăng, Vĩnh Thuận, Hồng Vận.... Còn lại là địa bàn Cẩm Phả, Đông Triều, Hải Hà, Quảng Yên.
Có thể nói, FDI có vai trò quan trọng trong việc nâng cao trình độ khoa học - công nghệ. Để tăng sức cạnh tranh trên thị trường, nâng cao hiệu quả đầu tư, các nhà đầu tư về nguyên tắc đều phải trang bị các loại máy móc thiết bị kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, phương pháp quản lý hiện đại. Kinh nghiệm trên thế giớicho thấy, đầu tư FDI là một trong những giải pháp nhanh nhất để nâng cao trình độ kỹ thuật, công nghệ, quản lý, sớm tiếp cận với những thành tựu khoa học mới trong hoạt động sản xuất - kinh doanh. Khu vực FDI góp phần thúc đẩy chuyển giao công nghệ tiên tiến vào Quảng Ninh, phát triển một số ngành kinh tế quan trọng của tỉnh như công nghiệp chế biến thực phẩm (dầu thực vật, sản xuất bột mỳ), năng lượng, điện khí,... Đặc biệt, Quảng Ninh thu hút được các dự án FDI đều thuộc lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo, có mục tiêu hoạt động phù hợp với định hướng ngành nghề, lĩnh vực ưu tiên thu hút của tỉnh đề ra tại Nghị quyết số 01-NQ/TU, ngày 16-11-2020, của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, góp phần đẩy mạnh việc hình thành chuỗi các dự án sản xuất, lắp ráp thiết bị điện tử, điện, sản xuất công nghiệp dệt may trên địa bàn tỉnh.
FDI còn gián tiếp tạo việc làm thông qua việc hình thành các doanh nghiệp vệ tinh cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho các doanh nghiệp FDI khác. Sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp có vốn FDI với các doanh nghiệp trong nước trên thị trường lao động là nhân tố thúc đẩy lực lượng lao động tự nâng cao trình độ một cách tích cực và có hiệu quả hơn, góp phần hình thành nhanh đội ngũ lao động có trình độ, có tác phong công nghiệp hiện đại. Năm 2020,trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, khu vực FDI có khoảng 35.000 người lao động trực tiếp và gián tiếp, trong đó có hàng vạn công nhân lành nghề, kỹ sư và cán bộ quản lý có trình độ cao. Đến năm 2023, số lao động trong khu vực FDI đã tăng lên 45.000 lao động. Tính đến thời điểm hiện tại, trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh có 169 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt khoảng 11,67 tỷ USD. Trong đó, có 109 dự án thực hiện tại địa bàn các khu công nghiệp, khu kinh tế với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt trên 5,44 tỷ USD, 60 dự án thực hiện ngoài khu công nghiệp, khu kinh tế với tổng vốn đầu tư đạt gần 6,23 tỷ USD. Từ năm 2020 đến nay, thu hút FDI trên địa bàn tỉnh đạt khoảng 4,7 tỷ USD. Đến ngày 30-9-2023, tỉnh Quảng Ninh đứng thứ 9 trên cả nước về thu hút đầu tư FDI.
Một số hạn chế và định hướng trong thời gian tới
Tuy đạt được những kết quả quan trọng, nhưng hoạt động FDI tại Quảng Ninh còn những mặt hạn chế, phát sinh mới. Thể chế, chính sách về đầu tư nước ngoài chưa theo kịp yêu cầu phát triển. Chính sách ưu đãi còn dàn trải, thiếu nhất quán, không ổn định. Môi trường đầu tư kinh doanh, năng lực cạnh tranh tuy đã được cải thiện, song vẫn còn hạn chế; chất lượng, hiệu quả thu hút và quản lý đầu tư nước ngoài chưa cao. Hạ tầng kinh tế - xã hội, nguồn nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng yêu cầu, còn thiếu các thiết chế văn hóa - xã hội thiết yếu. Cơ chế và năng lực xử lý tranh chấp hiệu lực, hiệu quả chưa cao. Hệ thống tổ chức bộ máy và năng lực thu hút, quản lý đầu tư nước ngoài còn bất cập, phân tán, chưa đáp ứng được yêu cầu, thiếu tính chủ động và tính chuyên nghiệp. Số lượng dự án quy mô nhỏ, công nghệ thấp, phân bố không đều, tỷ lệ vốn thực hiện trên vốn đăng ký còn thấp. Tỷ trọng đóng góp cho ngân sách nhà nước không đồng đều, có xu hướng giảm. Liên kết, tương tác với các khu vực khác của nền kinh tế thiếu chặt chẽ, hiệu ứng lan tỏa về năng suất và công nghệ chưa cao, tỷ lệ nội địa hóa còn thấp. Việc phát triển tổ chức và phát huy vai trò của các tổ chức đảng, công đoàn, các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp trong khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài còn khó khăn.
Để bảo đảm công tác thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian tới xứng với tiềm năng thế mạnh, tỉnh Quảng Ninh đề ra các quan điểm chỉ đạo cho hoạt động thu hút FDI trong thời gian tới như sau:
Trước hết, cần khẳng định rằng khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế tỉnh Quảng Ninh, được khuyến khích, tạo điều kiện phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh với các khu vực kinh tế khác. Chính quyền, các cơ quan ban ngành của tỉnh tôn trọng, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng hợp pháp của nhà đầu tư; bảo đảm hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, nhà đầu tư và người lao động trong doanh nghiệp.
Song song đó, cần thống nhất cao trong nhận thức và việc tổ chức phối hợp thực hiện công tác quản lý đầu tư nước ngoài trên địa bàn, góp phần để đầu tư nước ngoài vào tỉnh được thực hiện đúng định hướng, bảo đảm mục tiêu, tuân thủ theo các quy định hiện hành của pháp luật, phát huy được hiệu quả đầu tư. Chủ động thu hút, hợp tác đầu tư nước ngoài có chọn lọc, lấy chất lượng, hiệu quả và bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu là tiêu chí đánh giá chủ yếu. Ưu tiên các dự án có công nghệ tiên tiến, công nghệ cao, công nghệ sạch, thân thiện với môi trường, tiết kiệm tài nguyên, có tác động lan tỏa, kết nối chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu, bảo đảm đầu ra tiêu thụ nhanh chóng và hiệu quả.
Tỉnh cần chú trọng ưu tiên nguồn lực đầu tư phát triển hạ tầng và giải phóng mặt bằng, tạo quỹ đất sạch phục vụ thu hút đầu tư, trong đó ưu tiên phát triển hạ tầng và hoàn thành giải phóng mặt bằng các khu, cụm công nghiệp, hạ tầng giao thông có tính chất kết nối giữa các điểm đầu tư với vùng nguyên liệu. Đa phương hóa, đa dạng hóa đối tác, hình thức đầu tư, đan xen lợi ích trong hợp tác đầu tư nước ngoài và kết nối hữu cơ với khu vực kinh tế trong nước, phù hợp với định hướng cơ cấu lại nền kinh tế và mục tiêu phát triển bền vững; bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng - an ninh, an sinh, trật tự an toàn xã hội và nâng cao tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế. Thực hiện nghiêm pháp luật về đầu tư và pháp luật khác có liên quan đối với hoạt động đầu tư nước ngoài, chủ động phòng tránh không để phát sinh khiếu kiện, tranh chấp quốc tế. Xử lý nghiêm tình trạng thực hiện thể chế, chính sách thiếu thống nhất giữa trung ương và địa phương, giữa các địa phương. Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện, nâng cao hiệu quả công tác xúc tiến đầu tư; Tăng cường sự phối hợp, liên kết giữa trung ương với địa phương, giữa các vùng, giữa cơ quan quản lý nhà nước với các hiệp hội nghề nghiệp trong công tác xúc tiến đầu tư
Cuối cùng, cần đẩy mạnh thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021 - 2030, Chương trình cắt giảm, đơn giản hóa quy định kinh doanh giai đoạn 2020-2025, Quyết định số 06/QĐ-TTg, ngày 6-1-2022, của Thủ tướng Chính phủ về phát triển dữ liệu dân cư, định danh và xác thực điện tử, gắn với thực hiện quyết liệt, có hiệu quả Nghị quyết số 05-NQ/TU, ngày 9-4-2021, của Tỉnh ủy về đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh, Nghị quyết số 09-NQ/TU, ngày 5-2-2022, của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về chuyển đổi số toàn diện và thực hiện các giải pháp đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh gắn với chuyển đổi số tỉnh Quảng Ninh; quyết tâm giữ vững vị trí nhóm đầu cả nước về 4 chỉ số PCI, PAR Index, PAPI, SIPAS./.
Quảng Ninh: nhiều giải pháp cụ thể, tạo động lực thực hiện thành công Chương trình xây dựng nông thôn mới  (02/11/2023)
Quảng Ninh: Biểu dương 60 đảng viên trẻ làm kinh giỏi  (31/10/2023)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- Bảo đảm an ninh con người của chính quyền đô thị: Kinh nghiệm của một số quốc gia và hàm ý chính sách đối với Việt Nam
- Phát huy vai trò trụ cột của đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân trong phối hợp xây dựng nền ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, thực hiện hiệu quả mục tiêu đối ngoại của đất nước
- Tăng cường công tác dân vận nhằm thực hiện hiệu quả chính sách xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển