Kỳ 1: Dấu ấn trong lãnh đạo phát triển kinh tế của Đảng sau 40 năm đổi mới

TCCS - Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền, lãnh đạo toàn diện tất cả lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, trong đó lãnh đạo phát triển kinh tế đóng vai trò trung tâm, mang ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển đất nước. Sự lãnh đạo về kinh tế còn bảo đảm sự lãnh đạo về chính trị của Đảng. Trong gần 40 năm đổi mới, Đảng luôn xác định phát triển kinh tế - xã hội là nhiệm vụ trung tâm, bên cạnh nhiệm vụ then chốt là xây dựng Đảng. Từ Đại hội VI (năm 1986) - đại hội mở đầu quá trình đổi mới toàn diện đất nước đến nay - đã cho thấy quá trình đổi mới tư duy của Đảng về phát triển kinh tế của đất nước trên nhiều phương diện.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm Nhà máy đường của Công ty cổ phần đường Kon Tum _Ảnh: TTXVN

Quá trình đổi mới tư duy về phát triển kinh tế

Một là, đổi mới tư duy về kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế.

Đổi mới tư duy về kinh tế thể hiện trước hết là bước chuyển từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp sang kinh tế hàng hóa, phát triển sản xuất hàng hóa. Quá trình đổi mới cũng là quá trình xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, phương thức quản lý hành chính, mệnh lệnh để chuyển sang cơ chế thị trường, chú trọng hạch toán, tuân thủ quy luật giá trị và các quy luật của sản xuất hàng hóa.

Bên cạnh đó, tư duy về hội nhập kinh tế quốc tế, sau này phát triển thành hội nhập quốc tế cũng được đổi mới. Qua gần 40 năm tiến hành đổi mới, hiện nay Việt Nam đã hội nhập ngày càng sâu rộng vào thị trường thế giới, và thực tế cho thấy, hội nhập đã và đang tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế. Thành công của hội nhập cho thấy tính đúng đắn của chủ trương chủ động, tích cực hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước ta. Từ một nước bị bao vây, cấm vận, nhờ chính sách đối ngoại đúng đắn, giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế, Việt Nam đã nhanh chóng thiết lập quan hệ hợp tác với các nước và các tổ chức quốc tế, mở rộng quan hệ hợp tác với các đối tác chiến lược, ký kết và triển khai nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA), đặc biệt là các FTA thế hệ mới, như Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA),... Việt Nam đã chủ động tham gia và phát huy vai trò của mình tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Liên hợp quốc, các tổ chức quốc tế và khu vực quan trọng. Đánh giá về kết quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Hội nhập quốc tế và ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển có những bước tiến quan trọng về chủ trương, chính sách cũng như triển khai trên thực tiễn, cùng với quốc phòng và an ninh đã củng cố môi trường hòa bình, ổn định, góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nâng cao vị thế, vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế”(1).

Hai là, nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Việc chuyển sang kinh tế thị trường bắt đầu từ chủ trương phát triển sản xuất hàng hóa, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường. Đến Đại hội IX (4-2001), Đảng ta xác định nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Đây là bước chuyển quan trọng từ nhận thức kinh tế thị trường như một công cụ, một cơ chế quản lý, sang coi kinh tế thị trường như một hệ thống chỉnh thể, là cơ sở kinh tế của sự phát triển theo định hướng XHCN. Kế thừa tư duy của Đại hội IX, các đại hội tiếp theo, Đảng ta đã làm sáng tỏ thêm nội dung cơ bản của định hướng XHCN trong phát triển kinh tế thị trường ở nước ta.

Đại hội XIII tiếp tục thống nhất và nâng cao nhận thức về phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN. “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước”(2).

Đây là nền kinh tế có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh; trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố và phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Quan hệ phân phối bảo đảm công bằng và tạo động lực cho phát triển; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác.

Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Nhà nước, thị trường và xã hội có quan hệ chặt chẽ. Nhà nước xây dựng và hoàn thiện thể chế, bảo vệ quyền tài sản, quyền kinh doanh, giữ ổn định kinh tế vĩ mô, các cân đối lớn của nền kinh tế; tạo môi trường thuận lợi, công khai, minh bạch cho doanh nghiệp, tổ chức xã hội và thị trường hoạt động; điều tiết, định hướng, thúc đẩy kinh tế phát triển, gắn kết phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, đời sống nhân dân, bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng luật pháp, cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, các tiêu chuẩn, định mức và lực lượng kinh tế nhà nước phù hợp với các yêu cầu và quy luật của kinh tế thị trường. Thị trường đóng vai trò quyết định trong xác định giá cả hàng hóa, dịch vụ; tạo động lực huy động, phân bổ hiệu quả nguồn lực; điều tiết sản xuất và lưu thông; điều tiết hoạt động của doanh nghiệp, thanh lọc doanh nghiệp yếu kém. Tổ chức xã hội có vai trò tạo sự liên kết, phối hợp hoạt động, giải quyết những vấn đề phát sinh giữa các thành viên; đại diện và bảo vệ lợi ích của thành viên trong quan hệ với chủ thể, đối tác khác; cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho thành viên; phản ánh nguyện vọng, lợi ích của các tầng lớp nhân dân với Nhà nước và tham gia phản biện luật pháp, cơ chế, chính sách của Nhà nước, giám sát các cơ quan và đội ngũ cán bộ, công chức trong việc thực thi pháp luật.

Ba là, nhận thức về mô hình tăng trưởng kinh tế và công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Trước đổi mới, với tư duy mô hình tăng trưởng theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, công nghiệp hóa được tiến hành theo mô hình phát triển công nghiệp nặng, khép kín và hướng nội. Từ sau đổi mới, chúng ta từng bước thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ. Việc tiến hành công nghiệp hóa cũng khác về quan niệm và phương thức so với trước. Từ mức độ cụ thể hóa bước đầu về công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đi đến hình thành rõ hơn đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong giai đoạn mới, tiếp đến là hoàn thiện quan điểm và chủ trương về công nghiệp hóa, hiện đại hóa, gắn với các quá trình trong một tổng thể phát triển đất nước. Đến Đại hội XI, Đảng ta xác định chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, kết hợp mở rộng quy mô, đồng thời chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững, gắn đổi mới mô hình tăng trưởng với cơ cấu lại nền kinh tế. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng tiếp tục đề cập nội dung trên, nhưng nhấn mạnh mô hình tăng trưởng mới cần tận dụng tốt cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, dựa trên tiến bộ khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa được xác định gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên, môi trường; xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại, hiệu quả và bền vững, gắn kết chặt chẽ công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, “Về tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” xác định mục tiêu tổng quát: “Xây dựng nền công nghiệp quốc gia vững mạnh với năng lực sản xuất mới, tự chủ, khả năng thích ứng, chống chịu cao, từng bước làm chủ công nghệ lõi, công nghệ nền của các ngành công nghiệp nền tảng, công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn”(3).

Bốn là, nhận thức về vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước.

Chức năng của Nhà nước nói chung và chức năng kinh tế của Nhà nước nói riêng ở Việt Nam đã từng bước được xác định và thực hiện theo hướng phù hợp với quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường. Trên cơ sở tách bạch chức năng quản lý nhà nước về kinh tế, chức năng chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước và chức năng kinh doanh của doanh nghiệp, hoạt động điều tiết của Nhà nước đã từng bước được đổi mới từ can thiệp chủ yếu và trực tiếp bằng mệnh lệnh hành chính vào hoạt động sản xuất, kinh doanh, chuyển sang quản lý bằng pháp luật, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và các công cụ điều tiết vĩ mô khác. Nhà nước không còn trực tiếp thực hiện hoạt động sản xuất, kinh doanh như trước đây, mà tập trung vào các khâu tạo lập môi trường pháp lý, môi trường kinh tế; đầu tư phát triển các ngành kết cấu hạ tầng thiết yếu nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động của chủ thể kinh doanh, thực hiện điều tiết kinh tế vĩ mô thông qua các công cụ kế hoạch hóa định hướng, các chính sách kinh tế - xã hội dựa trên hoạt động của các quy luật thị trường. Phương thức điều tiết kinh tế của Nhà nước đã có tác động tích cực, không những nhanh chóng ứng phó với những bất ổn kinh tế trong và ngoài nước, bảo đảm môi trường kinh doanh tương đối ổn định, mà còn góp phần giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc, đặc biệt là về xóa đói, giảm nghèo trong điều kiện trình độ phát triển kinh tế chưa cao. Đại hội XIII của Đảng đã làm rõ mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội. Điểm mới nổi bật chính là trong quan hệ này bổ sung nhân tố xã hội. Trong đó cũng nêu rõ vai trò của Nhà nước, thị trường và xã hội trong mối quan hệ chung. Nhà nước thực hiện chức năng xây dựng và quản lý thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, cơ chế, chính sách, phân bổ nguồn lực phát triển theo cơ chế thị trường. Đổi mới mạnh mẽ phương thức quản lý nhà nước về kinh tế theo hướng chuyển giao những công việc Nhà nước không nhất thiết phải làm cho các tổ chức xã hội, chuyển đổi cung cấp trực tiếp dịch vụ công sang phương thức đặt hàng.

Bốc, xếp hàng hóa tại Cảng quốc tế Đà Nẵng_Nguồn: nhiepanhdoisong.vn

Những kết quả nổi bật sau gần 40 năm đổi mới

Thứ nhất, kinh tế phát triển ổn định, quy mô nền kinh tế tăng vượt bậc, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng hiện đại.

Tăng trưởng kinh tế đạt tốc độ cao. Giai đoạn đầu đổi mới (1986 - 1990), mức tăng trưởng GDP bình quân hằng năm chỉ đạt 4,4%. Giai đoạn 1996 - 2000, tốc độ tăng GDP đạt 7%. Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII đến nay, với sự điều hành quyết liệt và quyết tâm cao của Chính phủ, Việt Nam đã từng bước đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, kết quả biểu hiện ở tốc độ tăng GDP bình quân giai đoạn 2016 - 2019 đạt mức 6,8%, đạt mục tiêu tăng trưởng bình quân 6,5% đến 7% của kế hoạch 5 năm 2016 - 2020. Mặc dù các năm 2020, 2021, nền kinh tế chịu ảnh hưởng nặng nề của đại dịch COVID-19, nhưng vẫn tăng trưởng lần lượt là 2,91% và 2,58%, là một trong số rất ít các quốc gia có mức tăng trưởng dương trong khu vực và trên thế giới. Năm 2022, tăng trưởng GDP là 8,02% và năm 2023 là 5,05%, trong so sánh với tăng trưởng trung bình toàn cầu tương ứng hai năm đó là 3,4% và 2,9%(4). Quy mô nền kinh tế ngày càng cải thiện và luôn nhất quán chủ trương giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho đầu tư, kinh doanh. Sau gần 40 năm đổi mới, quy mô nền kinh tế Việt Nam tăng từ khoảng 4 tỷ USD khi bắt đầu đổi mới, lên hơn 430 tỷ USD  năm 2023.

Thực lực của nền kinh tế tăng lên; kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định; lạm phát được kiểm soát; tăng trưởng kinh tế được duy trì hợp lý và được đánh giá là thuộc nhóm nước có mức tăng trưởng khá cao trên thế giới. Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu với 90% dân số làm nông nghiệp, chúng ta đã xây dựng được cơ sở vật chất - kỹ thuật, hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước đáp ứng cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo ra môi trường thu hút nguồn lực xã hội cho phát triển.

Cơ cấu kinh tế của Việt Nam đã bước đầu chuyển dịch theo hướng hiện đại. Cơ cấu ngành kinh tế chuyển dịch theo hướng giảm khu vực nông nghiệp, tăng khu vực dịch vụ và công nghiệp(5). Cơ cấu thành phần kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế và đan xen nhiều hình thức sở hữu. Cơ cấu lao động có sự chuyển đổi tích cực gắn liền với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu có cải thiện đáng kể. Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng mạnh(6). Một số sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam có khối lượng, giá trị đứng vào “tốp” đầu của thế giới, như gạo, cà-phê, cao-su, hạt tiêu, hàng dệt may. Xuất khẩu chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng sản phẩm công nghiệp và giảm dần tỷ trọng sản phẩm nông nghiệp, giảm dần sản phẩm nguyên liệu thô... Hình thành các vùng kinh tế trọng điểm để làm động lực cho phát triển kinh tế vùng, miền và cả nước. Phát triển các khu kinh tế, khu công nghiệp tập trung nhằm thu hút vốn đầu tư phát triển, đồng thời hình thành các vùng chuyên môn hóa cây trồng, vật nuôi gắn với chế biến nông nghiệp.

Thứ hai, hình thành hệ thống chủ thể kinh doanh đa dạng, năng động của nền kinh tế thị trường.

Qua gần 40 năm đổi mới kinh tế cũng đã chứng kiến vai trò tích cực của các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế quốc dân, tự do kinh doanh và cạnh tranh theo quy định của pháp luật: Kinh tế nhà nước dần phát huy tốt hơn vai trò chủ đạo; hệ thống doanh nghiệp nhà nước từng bước được cơ cấu lại, cổ phần hóa, hoạt động theo Luật Doanh nghiệp và đang giảm mạnh về số lượng. Kinh tế tập thể bước đầu được đổi mới, các hình thức hợp tác kiểu mới được hình thành phù hợp hơn với cơ chế thị trường. Kinh tế tư nhân tăng nhanh về số lượng, từng bước nâng cao hiệu quả kinh doanh, giải quyết việc làm, đóng góp ngày càng lớn vào GDP(7). Kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được khuyến khích phát triển, doanh nghiệp FDI đã có những đóng góp quan trọng vào việc thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết việc làm và xuất khẩu(8).

Như vậy, bên cạnh các chủ thể sản xuất, kinh doanh chủ yếu trước đây là doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, đã từng bước hình thành và phát triển nhanh các chủ thể kinh doanh khác dựa trên sở hữu tư nhân và sở hữu nước ngoài, góp phần nhanh chóng hình thành hệ thống chủ thể ngày càng năng động của nền kinh tế thị trường. Những thay đổi lớn về cơ cấu chủ thể kinh doanh cũng như sự thay đổi của từng loại hình chủ thể kinh doanh được thực hiện theo hướng ngày càng thích nghi với môi trường sản xuất, kinh doanh mới của kinh tế thị trường.

Thứ ba, phát triển đồng bộ hệ thống các loại thị trường, hình thành thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN.

Sự phát triển nhanh chóng theo hướng đa dạng chủ thể kinh doanh đã tạo thuận lợi cho việc chuyển đổi nhanh chóng phương thức tương tác qua lại giữa các chủ thể kinh doanh từ kế hoạch hóa mệnh lệnh sang cùng hợp tác và cạnh tranh trên thị trường, tạo điều kiện cho sự hình thành và phát triển hệ thống thị trường ngày càng đồng bộ. Bên cạnh sự phát triển và thay đổi căn bản của thị trường hàng tiêu dùng và dịch vụ từ bao cấp sang hoạt động theo cơ chế thị trường, các thị trường yếu tố sản xuất dần được hình thành và phát triển theo yêu cầu phát triển sản xuất, kinh doanh, như thị trường tài chính, thị trường lao động, thị trường bất động sản, thị trường khoa học - công nghệ...

Thị trường hàng hóa, dịch vụ đã có bước phát triển và hoàn thiện về quy mô, cơ cấu hàng hóa - thị trường trong và ngoài nước, kết cấu hạ tầng thương mại, dịch vụ, cơ chế quản lý, mức độ cạnh tranh. Quy mô thị trường trong nước liên tục tăng. Tính chung trong những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng bình quân của thương mại bán lẻ luôn cao từ 2 - 3 lần so với tốc độ tăng trưởng bình quân của GDP cùng kỳ. Thị trường tài chính, tiền tệ phát triển khá mạnh và sôi động. Bên cạnh kênh huy động vốn từ ngân hàng, thị trường chứng khoán đã hình thành, góp phần đa dạng hóa nguồn vốn đầu tư. Đồng thời, hoạt động của thị trường bảo hiểm đã đóng góp tích cực vào việc ổn định sản xuất và đời sống dân cư, huy động vốn cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tỷ giá đồng tiền, giá ngoại tệ, giá vàng cơ bản giữ được ổn định. Thị trường bất động sản có bước phát triển nhất định, nhiều dự án khu nhà ở, khu đô thị mới với hệ thống hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội tương đối đồng bộ hình thành, góp phần đô thị hóa và dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước(9). Thị trường lao động được hình thành trên phạm vi cả nước. Nguồn cung lao động khá dồi dào và gia tăng với tốc độ nhanh. Quy mô lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên tăng từ 50,51 triệu người (cuối năm 2010) lên 52,4 triệu người (cuối năm 2023) và lao động có việc làm trong quý IV-2023 là 51,5 triệu người. Thị trường khoa học - công nghệ đang hình thành và phát triển, số lượng và giá trị giao dịch công nghệ có bước tiến đáng kể trong những năm gần đây. Thị trường một số loại dịch vụ công cơ bản, nhất là về y tế, giáo dục có bước phát triển mới, huy động được sự tham gia của nhiều nguồn lực ngoài ngân sách nhà nước. Thể chế, chính sách phát triển thị trường khoa học - công nghệ từng bước được hoàn thiện; nguồn cung hàng hóa đã tăng đáng kể, tốc độ tăng giá trị giao dịch bình quân hằng năm đạt 22%; kết quả nghiên cứu của các viện, trường, nhà khoa học dần trở thành hàng hóa được doanh nghiệp đón nhận; nhu cầu, năng lực tiếp nhận, hấp thụ và làm chủ công nghệ mới, tiên tiến của doanh nghiệp ngày càng được gia tăng và cải thiện; các tổ chức trung gian thị trường khoa học - công nghệ, sàn giao dịch công nghệ từng bước được hình thành và phát triển, công tác xúc tiến quảng bá, kết nối cung cầu sản phẩm khoa học - công nghệ tiếp tục được duy trì và đẩy mạnh.

Quan hệ kinh tế đối ngoại đã có bước phát triển nhanh, thúc đẩy các hoạt động xuất, nhập khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài, giúp cho nền kinh tế từng bước đổi mới công nghệ, nâng cao sức cạnh tranh. Sự hình thành và phát triển hệ thống thị trường đã từng bước tạo ra nền tảng quan trọng cho nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, đẩy nhanh quá trình chuyển đổi nền kinh tế sang kinh tế thị trường.

Cùng với đó, trong gần 40 năm đổi mới, đã ba lần sửa đổi và ban hành Hiến pháp, sửa đổi và ban hành nhiều bộ luật và luật. Việc ban hành Luật Đất đai năm 2024 cùng nhiều luật quan trọng khác góp phần hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN và thúc đẩy chuyển đổi mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế. Các văn bản quy phạm pháp luật này về cơ bản tạo cơ sở pháp lý hình thành và thúc đẩy việc xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN.

Ứng dụng công nghệ trong sản xuất công nghiệp_Nguồn: nhiepanhdoisong.vn

Thứ tư, quan hệ phân phối bảo đảm công bằng và tạo động lực cho phát triển.

Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Luôn gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển. Mỗi chính sách kinh tế đều hướng tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi chính sách xã hội tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói, giảm nghèo bền vững, chăm sóc người có công, người có hoàn cảnh khó khăn. Đây là một yêu cầu có tính nguyên tắc cho sự phát triển lành mạnh, bền vững, theo định hướng XHCN.

Trong gần 40 năm đổi mới, thành tựu xây dựng con người của nước ta còn được thể hiện qua Chỉ số phát triển con người (HDI) có xu hướng tăng đều và khá ổn định, cả về giá trị tuyệt đối cũng như thứ hạng. Năm 2022, chỉ số HDI của Việt Nam đạt mức 0,737, thuộc nhóm nước có HDI cao của thế giới, nhất là so với các nước có trình độ phát triển cao hơn. Chỉ số hạnh phúc của Việt Nam năm 2023 được xếp thứ 65/137 quốc gia được xếp hạng(10).

Theo kết quả Khảo sát mức sống dân cư năm 2021 của Tổng cục Thống kê, tỷ lệ hộ nghèo tiếp cận đa chiều năm 2022 của Việt Nam là 4,3%, giảm 0,5 điểm phần trăm so với năm 2020. Tỷ lệ hộ nghèo đã giảm liên tục trong giai đoạn 2016 - 2022, trung bình mỗi năm giảm khoảng 1 điểm phần trăm.

Thứ năm, kinh tế Việt Nam ngày càng tham gia sâu và khẳng định được vị trí trong chuỗi giá trị toàn cầu.

Gần 40 năm đổi mới cũng là một chặng đường hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức, theo nguyên tắc và chuẩn mực của thị trường toàn cầu. Việt Nam đã thiết lập được nhiều quan hệ đối tác chiến lược về kinh tế. Tích cực xây dựng Cộng đồng ASEAN và hoàn thiện thị trường trong nước đầy đủ hơn theo cam kết của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO); đàm phán, ký kết và thực hiện nhiều FTA song phương và đa phương thế hệ mới. Các yếu tố nền tảng cơ bản của kinh tế thị trường dần được hình thành và được nhiều nước thừa nhận.

Việc tham gia đàm phán, ký kết và thực hiện các hiệp định FTA có tác động tích cực tới phát triển kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm, phát triển nông nghiệp, nông thôn, giải quyết lao động, tạo việc làm...

Việc hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng và đa dạng đã tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế nước ta. Thị trường xuất khẩu của Việt Nam được mở rộng đến 230 quốc gia và vùng lãnh thổ, kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân trên 10%/năm. Năm 2022, xuất khẩu đạt khoảng 371,5 tỷ USD, tăng 10,5% so với năm 2021. Đây là lần đầu tiên kim ngạch xuất, nhập khẩu của Việt Nam lập kỷ lục mới, vượt mốc 730 tỷ USD (tốp 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại quốc tế). Môi trường kinh doanh ngày càng được cải thiện, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp chủ động hơn trong việc tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Một số sản phẩm của Việt Nam bước đầu khẳng định thương hiệu và có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. 

Thứ hạng của Việt Nam trong tất cả bảng xếp hạng quan trọng của quốc tế đều được cải thiện. Chỉ số về trình độ phát triển của thị trường Việt Nam tăng 12 bậc so với năm 2020, từ vị trí thứ 34 lên vị trí thứ 22. Các nhóm chỉ số về thương mại, đa dạng hóa và quy mô thị trường tăng từ vị trí thứ 49 lên vị trí thứ 15 - một sự thay đổi hết sức mạnh mẽ; hay chỉ số đa dạng hóa các ngành trong nước cũng xếp thứ hạng khá cao (9/134 nước)(11).

(Còn nữa)

------------------------

(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. II, tr. 59
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 128
(3) Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr. 120 - 121
(4) Báo cáo Triển vọng thế giới của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) năm 2023
(5) Tỷ trọng của khu vực nông - lâm - ngư nghiệp trong tổng sản phẩm xã hội năm 1990 là 38,74%, của khu vực công nghiệp và xây dựng là 22,67% và của khu vực dịch vụ là 38,59%; năm 2000, nông nghiệp còn 24,53%, công nghiệp 36,73%, dịch vụ 38,74%; năm 2010 nông nghiệp là 18,89%, công nghiệp 38,23%, dịch vụ 42,88% và đến năm 2022 nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 11,88%, khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 38,26%, khu vực dịch vụ chiếm 41,33%, thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 8,53%
(6) Năm 1990, tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam là 2,4 tỷ USD, năm 2000 là 14,5 tỷ USD, năm 2010 là 72,2 tỷ USD, năm 2022 là 371,85 tỷ USD
(7) Kinh tế tư nhân liên tục duy trì tốc độ tăng trưởng khá, chiếm tỷ trọng 40 - 43% GDP; thu hút khoảng 85% lực lượng lao động, góp phần quan trọng trong huy động nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng thu ngân sách nhà nước
(8) Sau gần 40 năm đổi mới, Việt Nam đã thu hút được xấp xỉ 400 tỷ USD vốn FDI với trên 70 nghìn dự án FDI. Dòng vốn FDI đã thực sự đóng góp quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội, như bổ sung nguồn vốn đầu tư còn thiếu hụt, đẩy mạnh xuất khẩu, chuyển giao công nghệ, phát triển nguồn nhân lực và tạo việc làm, tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước... Tính chung, khu vực FDI ở Việt Nam đóng góp khoảng 20% GDP, khoảng 25% tổng vốn đầu tư toàn xã hội và chiếm hơn 40% giá trị sản xuất công nghiệp, hơn 50% tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu và khoảng 30% tổng thu cho ngân sách quốc gia
(9) Hiện nay, cả nước ước tính đã và đang thực hiện trên 5.000 dự án với tổng vốn đầu tư hơn 4,5 triệu tỷ đồng, tăng hơn gấp 3 lần so với năm 2009, có hơn 100.000 doanh nghiệp xây dựng và 15.000 doanh nghiệp kinh doanh bất động sản cùng với hơn 1.000 sàn giao dịch bất động sản được thành lập
(10) Xem: Nguyễn Phú Trọng: “Tự hào và tin tưởng dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, quyết tâm xây dựng một nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh, văn minh, văn hiến và anh hùng”, Tạp chí Cộng sản, số 1030 (1-2024) tr. 11
(11) Vũ Thị Thu Hằng: “Đổi mới sáng tạo ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 18-10-2022, https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/nghien-cu/-/2018/826023/doi-moi-sang-tao-o-viet-nam-hien-nay.aspx