Để sớm hoàn thành mục tiêu công nghiệp hóa ở Quảng Ninh

Hồng Nga
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
23:53, ngày 19-10-2023

TCCS - Nghị quyết đại hội đảng bộ tỉnh Quảng Ninh khóa XV đã xác định: đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi phương thức phát triển từ “nâu” sang “xanh”; giải quyết đồng bộ và có hiệu quả các mâu thuẫn, thách thức nhằm đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hóa - hiện đại hóa - đô thị hóa; kết hợp chặt chẽ công nghiệp, dịch vụ, nông nghiệp; phát triển công nghiệp xanh, công nghiệp sạch, công nghệ cao, công nghệ thông minh, thân thiện với môi trường. Ngành công nghiệp của Quảng Ninh trong thời gian qua đã từng bước phát huy tiềm năng, thế mạnh, phát triển đúng định hướng, đạt được mục tiêu, kế hoạch đã đề ra.

Dây chuyền sản xuất ti vi thuộc dự án S-Việt Nam của Tập đoàn Foxconn tại Khu công nghiệp Đông Mai, thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh _ Ảnh: quangninh.gov.vn

1. Công nghiệp chế biến, chế tạo là ngành trực tiếp tạo ra nền tảng vật chất cho nền kinh tế và xã hội, sản xuất ra của cải vật chất chủ yếu cho quốc gia; và cũng là ngành có mối liên hệ, gắn kết chặt chẽ, mật thiết nhất với hai khu vực kinh tế còn lại là nông nghiệp và dịch vụ.

Công nghiệp chế biến, chế tạo cung cấp một nền tảng quan trọng cho việc học hỏi và phát triển kỹ năng, đổi mới sáng tạo, gắn liền với hoạt động nghiên cứu phát triển. Các nước công nghiệp phát triển cũng chính là nơi sản sinh ra những ý tưởng và phát minh mới, những ngành công nghiệp quan trọng đối với tương lai kinh tế của đất nước, bao gồm các vật liệu tiên tiến, công nghệ sinh học, công nghệ nano và các thiết bị cơ khí chính xác. Công nghiệp chế biến, chế tạo là một bộ phận của khu vực công nghiệp - xây dựng, là những ngành tham gia vào việc biến đổi hàng hóa, nguyên liệu hoặc các chất liệu khác nhau thành những sản phẩm mới. Quá trình biến đổi này có thể là vật lý, hóa học hoặc cơ học để chế biến, sản xuất hàng hóa phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Đó là những hoạt động kinh tế với quy mô sản xuất lớn, được sự hỗ trợ mạnh mẽ của tiến bộ công nghệ, khoa học và kỹ thuật nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng được yêu cầu của quá trình phát triển.

Có thể thấy, không giống với các phân ngành công nghiệp khác, công nghiệp chế biến, chế tạo là ngành trực tiếp tạo ra nền tảng vật chất cho nền kinh tế và xã hội, sản xuất ra của cải vật chất chủ yếu cho quốc gia; và cũng là ngành có mối liên hệ, gắn kết chặt chẽ, mật thiết nhất với hai khu vực kinh tế còn lại là nông nghiệp và dịch vụ. Trong các phân ngành công nghiệp, công nghiệp chế biến chế tạo đóng vai trò chủ đạo, tạo ra giá trị gia tăng lớn nhất cho khu vực công nghiệp và tác động lan tỏa tổng thể đến chất lượng tăng trưởng kinh tế. Quy mô, tốc độ phát triển của ngành ảnh hưởng tới quy mô, chiều hướng và tốc độ phát triển chung của toàn bộ nền kinh tế. Đồng thời, cơ cấu của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo có ảnh hưởng lớn tới cơ cấu chung kinh tế của một quốc gia. Tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo càng lớn, quy mô và tốc độ tăng trưởng kinh tế càng cao thì đóng góp vào tăng trưởng kinh tế của ngành này càng lớn.

Ở các nước công nghiệp, dù là nước đã phát triển từ lâu hay mới nổi, trong suốt 20 năm qua, công nghiệp chế biến, chế tạo vẫn luôn đóng góp khoảng 20% trong GDP. Với Việt Nam, bình quân trong giai đoạn 2011 - 2020, công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm tỷ trọng 14,9% GDP của toàn nền kinh tế.

Hoạt động công nghiệp chế biến, đặc biệt là công nghiệp chế biến sâu các sản phẩm thô từ nguyên liệu trong nước cho phép ngành chế biến, chế tạo có thể thực hiện liên kết chuỗi, gồm nhiều hoạt động công nghiệp chế biến trong nội bộ nền kinh tế, nâng cao giá trị gia tăng của các sản phẩm nội địa. Từ đó tăng tính kết nối liên ngành, liên vùng trong nước và mở rộng hơn là tăng cường liên quốc gia, liên khu vực và quốc tế. Điều này làm cho ngành chế biến, chế tạo tạo ra tác động tổng hợp với sức mạnh lan tỏa phụ thuộc vào hệ số liên kết đối với nguyên liệu đầu vào và sản phẩm đầu ra trong luồng giao dịch sản phẩm của các hoạt động kinh tế liên tỉnh, liên vùng và liên quốc gia.

Bất cứ ngành sản xuất nào cũng cần có tư liệu sản xuất, ví dụ như ngành nông nghiệp cần đến các công cụ sản xuất nông nghiệp, ngành dịch vụ cần những tư liệu để phân loại, bảo quản, đóng gói, phân phối các sản phẩm vật chất và dịch vụ. Với chức năng đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đã tạo ra những tư liệu sản xuất để vận hành các ngành, nghề sản xuất, dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân. Vai trò cung cấp sản phẩm tiêu dùng cho người dân ngày càng quan trọng với giá trị sử dụng các sản phẩm tiêu dùng cho đời sống ngày càng phong phú, đa dạng. Nếu như các sản phẩm công nghiệp chế biến, chế tạo trong thời kỳ trước chỉ tập trung vào giá trị sử dụng hay công dụng của sản phẩm thì ngày nay các sản phẩm đó đã đáp ứng được yêu cầu về hiệu quả sử dụng (tiết kiệm năng lượng, nhiên liệu, thời gian sử dụng lâu), đặc biệt là khả năng tái chế sau quá trình sử dụng, giảm thiểu các tác động bất lợi tới môi trường.

Công nghiệp chế biến, chế tạo cung cấp một nền tảng quan trọng cho việc học hỏi và phát triển kỹ năng, đổi mới sáng tạo, gắn liền với hoạt động nghiên cứu phát triển. Các nước công nghiệp phát triển cũng chính là nơi sản sinh ra những ý tưởng và phát minh mới, những ngành công nghiệp quan trọng đối với tương lai kinh tế của đất nước, bao gồm các vật liệu tiên tiến, công nghệ sinh học, công nghệ nano và các thiết bị cơ khí chính xác. Sự ra đời của các công nghệ mang tính đột phá cũng đều xuất phát từ các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, là nền tảng của các cuộc cách mạng công nghiệp. Thế giới ngày nay đã trải qua bốn cuộc cách mạng công nghiệp, mỗi cuộc cách mạng đều được khởi xướng từ sự thay đổi có tính đột phá về công nghệ sản xuất. Nếu như các phát minh liên quan đến cơ khí chế tạo là nền tảng cho cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất và hai, thì những phát minh về điện tử, cơ điện tử là nền tảng cho cuộc cách mạng thứ ba và tư gần đây.

2. Nằm ở phía Đông Bắc của Việt Nam, tỉnh Quảng Ninh được ví như “một Việt Nam thu nhỏ”, có vị trí chiến lược về chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh và đối ngoại (địa phương duy nhất trong cả nước có đường biên giới trên bộ và trên biển với Trung Quốc); là trung tâm năng lượng của cả nước với trữ lượng than 3,6 tỷ tấn (mỗi năm cho khai thác trên 45 triệu tấn), 7 nhà máy nhiệt điện với tổng công suất 5.640MW chiếm 16% tổng sản lượng điện cả nước, là nơi hình thành ngành công nghiệp đầu tiên và cái nôi của giai cấp công nhân Việt Nam với truyền thống cách mạng “Kỷ luật và Đồng tâm”; nơi hội tụ, giao thoa, thống nhất trong đa dạng của nền văn minh sông Hồng; nơi hội tụ bản sắc văn hóa con người Quảng Ninh với ý chí tự lực, tự cường được chuyển hóa thành ý chí, quyết tâm, khát vọng mãnh liệt về phát triển.

Trong các giai đoạn phát triển gần đây, ngành công nghiệp và xây dựng luôn là ngành có tốc độ tăng trưởng cao hơn nền kinh tế và đóng góp lớn nhất trong tăng trưởng kinh tế của tỉnh. Để ngành công nghiệp, dịch vụ tiếp tục phát triển bền vững, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV (nhiệm kỳ 2020 - 2025) đã đề ra mục tiêu đến hết năm 2025, cơ cấu kinh tế của tỉnh đạt: Công nghiệp - xây dựng chiếm 49 - 50%; dịch vụ, thuế sản phẩm 46 - 47%; nông, lâm nghiệp, thủy sản 3 - 5%. Hiện thực hoá mục tiêu đề ra, tỉnh đã thực hiện đồng bộ các giải pháp, trong đó chú trọng phát triển ngành công nghiệp theo chiều sâu, nâng cao năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp; tận dụng khai thác thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, chuyên sâu một số ngành công nghiệp nền tảng, chiến lược, có lợi thế cạnh tranh. Về thương mại, tiếp tục phát huy lợi thế thương mại của tỉnh để phát triển nhanh, bền vững, chuyển đổi hoạt động xuất nhập khẩu theo hướng chính ngạch phù hợp với thông lệ quốc tế. Đồng thời, nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong chuyển đổi cơ cấu kinh tế; đổi mới mạnh mẽ khoa học và công nghệ, tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với mọi hoạt động công nghiệp - thương mại trên địa bàn tỉnh.

Tỷ trọng ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong cơ cấu GRDP: năm 2021 đạt 11,3% (tăng 1,5% so với năm 2020, năm 2020 chiếm 9,8%), năm 2022 đạt 11,5% (tăng 0,2% so với năm 2021 và tăng 1,7% so với năm 2020); 09 tháng đầu năm 2023, đạt 11,6% (tăng 0,1% so với thời điểm hết năm 2022). Sau 03 năm thực hiện Nghị quyết, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đang dần tiến tới mục tiêu đã đề ra (mục tiêu đề ra: đến năm 2025, công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm 15% trong GRDP, tương đương mức tăng 1,04 điểm phần trăm/năm).

Tốc độ tăng trưởng ngành công nghiệp chế biến, chế tạo: năm 2021 tăng 30,73% (gần gấp đôi so với 17% của năm 2020), năm 2022 tăng 16,54%, 9 tháng đầu năm 2023 tăng 11,77%; bình quân 03 năm tốc độ tăng trưởng đạt 19,68%. Sau 3 năm thực hiện Nghị quyết, tốc độ tăng trưởng bình quân ngành công nghiệp chế biến, chế tạo cao hơn so với mức bình quân đã đề ra theo Nghị quyết số 01/NQ-TU, là 17%/năm.

Thu hút vốn đầu tư ngành công nghiệp chế biến, chế tạo: 2 tháng cuối năm 2020 và năm 2021 đạt 31.700 tỷ đồng, năm 2022 đạt 12.860 tỷ đồng, 9 tháng đầu năm 2023 đạt 60.300 tỷ đồng. Sau 3 năm tổng vốn đầu tư đã thu hút trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt xấp xỉ 105.000 tỷ đồng, trong đó nguồn vốn FDI đạt trên 2.347 triệu USD (sau 3 năm, thu hút vốn đầu tư đạt 210% mục tiêu đã đề ra là 50.000 tỷ đồng đến năm 2025, bình quân 10.000 tỷ đồng/năm). Như vậy, thu hút vốn đầu tư đã bảo đảm mục tiêu nghị quyết đã đề ra.

Tổng số lao động ngành công nghiệp chế biến, chế tạo: năm 2021 là trên 101.100 người (tăng thêm 11.786 người so với năm 2020), năm 2022 đạt trên 110.300 người (tăng thêm 9.200 người so với năm 2021), 9 tháng đầu năm 2023 đạt trên 113.200 người (tăng thêm 2.900 người so với thời điểm cuối năm 2022). Như vậy, sau 3 năm tổng số lao động ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trên địa bàn tỉnh tăng trên 23.886 người (đạt 117% so với mục tiêu, bình quân tăng thêm 6.000 lao động/năm). Như vậy, số lao động tăng thêm bảo đảm mục tiêu nghị quyết đã đề ra.

Cùng với đó tiếp tục quan tâm đẩy mạnh cải cách hành chính một cách quyết liệt, đồng bộ; nâng cao chất lượng môi trường đầu tư kinh doanh bảo đảm cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, minh bạch, hấp dẫn, thông thoáng, giúp giảm thiểu chi phí về thời gian và kinh phí của tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư. Tỉnh cũng tích cực hỗ trợ doanh nghiệp thúc đẩy sản xuất kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh trong chuỗi giá trị; củng cố niềm tin vào thị trường cho người tiêu dùng, doanh nghiệp và nhà đầu tư; bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhà đầu tư, doanh nghiệp vào tỉnh; bảo đảm hài hòa lợi ích giữa nhà nước, nhà đầu tư, người lao động và người dân.

Tuy nhiên, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tại Quảng Ninh phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của địa phương. Đa số dự án có quy mô vốn nhỏ, số dự án có công nghệ tiên tiến, hàm lượng chất xám, giá trị gia tăng cao chiếm tỷ lệ còn ít, chưa phát triển đột phá công nghiệp sạch, công nghệ cao; hiệu quả sản xuất kinh doanh của một số dự án đầu tư chưa cao, chưa có những doanh nghiệp công nghiệp lớn, thương hiệu mạnh tham gia sâu vào chuỗi cung ứng và chuỗi giá trị trong nước cũng như toàn cầu. Công nghiệp chế biến, chế tạo chưa đóng vai trò động lực cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững của tỉnh trong thời gian qua; tỷ trọng đóng góp trong GRDP và thu ngân sách địa phương còn nhỏ. Hiệu quả của khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong công nghiệp chế biến, chế tạo còn thấp, phần lớn là các dự án còn thâm dụng lao động, tiêu hao nhiều năng lượng, giá trị gia tăng thấp.

Nhận thức được những tồn tại trong việc phát triển ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, thời gian qua tỉnh Quảng Ninh cũng đã có nhiều giải pháp quyết liệt trong chỉ đạo, quản lý, kiểm soát chặt chẽ để phát triển hợp lý ngành công nghiệp chế biến, chế tạo qua việc điều chỉnh chính sách về khoa học công nghệ đối với doanh nghiệp công nghiệp, tạo cơ chế hỗ trợ thúc đẩy các doanh nghiệp chế biến, chế tạo đang gặp khó khăn; thu hút những dự án có quy mô lớn, có tiềm lực tài chính mạnh, có công nghệ hiện đại từ đó tạo động lực để kích thích nền công nghiệp hỗ trợ. Bên cạnh đó các ngành công nghiệp hỗ trợ cũng đã cơ bản xây dựng được cơ chế chính sách ưu đãi cụ thể để hình thành và phát triển các cụm công nghiệp hỗ trợ phục vụ phát triển công nghiệp cốt lõi tại các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh; đã tham mữu, đề xuất nhiều chính sách phân bổ nguồn lực đủ lớn để hỗ trợ các doanh nghiệp nâng cao trình độ công nghệ, quản lý đáp ứng chuẩn mực quốc tế; xây dựng các chương trình kết nối kinh doanh, liên kết giữa doanh nghiệp hỗ trợ trên địa bàn với các công ty sản xuất, lắp ráp trong nước và nước ngoài…

3. Ở Quảng Ninh, nghị quyết đầu tiên của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XV, nhiệm kỳ 2020 - 2025 đã lựa chọn phát triển công nghiệp chế biến, chế tạo làm mũi đột phá trong thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa và một trong 3 trụ cột chính trong ngành công nghiệp của tỉnh. Trong đó, tỉnh Quảng Ninh coi đây là chủ trương, quyết sách đúng đắn để tạo bứt phá, lợi thế cạnh tranh cho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo phù hợp với sự phát triển trong nước và thế giới. Nghị quyết đã tạo ra sự đột phá, mở ra hướng phát triển toàn diện cho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo của tỉnh Quảng Ninh.

Phát triển nhanh, bền vững ngành công nghiệp chế biến, chế tạo có trọng tâm, trọng điểm dựa trên tiềm năng khác biệt, cơ hội nổi trội, lợi thế cạnh tranh của tỉnh và từng địa phương gắn với các chiến lược, quy hoạch; đặc biệt là tận dụng tối đa các cơ chế, chính sách ưu đãi đối với các khu công nghiệp, khu kinh tế để thu hút có chọn lọc các nhà đầu tư, các dự án công nghiệp chế biến, chế tạo theo phương châm lấy chất lượng, hiệu quả, công nghệ và bảo vệ môi trường là tiêu chí đánh giá chủ yểu. Ưu tiên các dự án có công nghệ tiên tiến, công nghệ mới, công nghệ cao, công nghệ sạch, quản trị hiện đại, có giá trị gia tăng cao, đóng góp lớn cho tăng trưởng và thu ngân sách nhà nước.

Phát triển công nghiệp chế biến, chế tạo phải gắn với đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hóa - hiện đại hóa - đô thị hóa; kết họp chặt chẽ giữa công nghiệp, dịch vụ và nông nghiệp; thúc đẩy phát triển doanh nghiệp và phát triển mạnh khu vực kinh tế tư nhân, khởi nghiệp sáng tạo, phát triển sản phẩm chủ lực và xây dựng thương hiệu của tỉnh, tạo sự liên kết giữa các thành phần kinh tê. Tạo việc làm, thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, lao động kỹ năng tay nghề cao; đẩy mạnh chuyển giao, ứng dụng khoa học và công nghệ, tăng tỷ trọng đóng góp của các nhân tố tổng hợp (TFP); huy động, phân bổ, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đầu tư phát triển; sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên thiên nhiên.

Nâng cao hiệu quả thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong công nghiệp chế biến, chế tạo là động lực dẫn dắt, gắn kết với phát triển mạnh doanh nghiệp công nghiệp chế biến, chế tạo trong nước vững mạnh là nền tảng. Tập trung vào các ngành, các công đoạn tạo ra giá trị gia tăng cao, thu hút các nhà đầu tư, các dự án phát triển bền vững, chú trọng chất lượng và hiệu quả kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường, định hướng thu hút vào ngành công nghiệp ô tô, công nghiệp điện tử, công nghệ thông tin, các sản phẩm công nghiệp công nghệ cao có nhu cầu lớn trên thị trường, công nghiệp y dược, công nghiệp thời trang, công nghiệp chế biến sâu các sản phẩm nông - lâm - thủy sản; công nghiệp hỗ trợ phục vụ các ngành công nghiệp, nông nghiệp, kinh tế biển, dịch vụ,... gắn với chuỗi cung, chuỗi giá trị trong nước, khu vực và quốc tế.

Tỉnh Quảng Ninh cũng đã chú trọng phát triển khu công nghiệp theo mô hình “3 trong 1” đó là: Khu công nghiệp - Khu đô thị - Khu dịch vụ với hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội đồng bộ, hiện đại, dịch vụ tiện ích khác biệt tạo môi trường làm việc và môi trường sống văn minh, an toàn, tạo việc làm, tăng thu nhập cho công nhân, người lao động gắn với nâng cao chất lượng sống của nhân dân.

Tỉnh đã khai thác, tận dụng tối đa tiềm năng, lợi thế phát triển của hành lang kinh tế, hành lang đô thị gắn với hành lang giao thông của hai tuyến phía Tây và phía Đông của tỉnh đang ngày càng hoàn thiện đồng bộ và hiện đại, đã tận dụng tối đa ưu thế của các loại hình giao thông, thị trường; cơ chế, chính sách ưu đãi của các khu công nghiệp, khu kinh tế để nhanh chóng hình thành các cụm liên kết vùng, liên kết ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tập trung. Trọng tâm là phát triển và phát huy hiệu quả của các khu công nghiệp nằm trong Khu kinh tế cửa khẩu Móng Cái, Khu kinh tế Vân Đồn, Khu kinh tế ven biển Quảng Yên...

Cùng với đó, công tác cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh tiếp tục được quan tâm. Việc giải quyết thủ tục hành chính phục vụ cho các dự án đầu tư không ngừng được cải thiện theo đúng Nghị quyết số 05-NQ/TU, ngày 09-4-2021, của Tỉnh ủy, “Về đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh giai đoạn 2021 - 2025, định hưởng đến năm 2030. Kết quả, chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) Quảng Ninh giữ vị trí Quán quân 6 năm liên tiếp (2016 - 2022); Chỉ số hài lòng về sự phục vụ hành chính (SIPAS) đứng thứ nhất toàn quốc 3 năm liên tiếp (2019 - 2021), Chỉ số cải cách hành chính (PAR Index) năm 2021 đứng thứ 2 cả nước.

Trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, lao động có kỹ năng gắn với tăng nhanh quy mô và nâng cao chất lượng dân số, tỉnh tiếp tục hoàn thiện Đề án Phát triển giáo dục, đào tạo, nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2025, định hướng dến năm 2030, Đề án Nâng cao chất lượng dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục phổ thông giai đoạn 2021 - 2025; Đề án phát triển nhà ở công nhân, lao động ngành than, khu công nghiệp, thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, lao động có kỹ năng về làm việc, sinh sống tại Quảng Ninh. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng và phát triển đội ngũ doanh nhân có trình độ chuyên môn cao, kỹ năng quản trị hiện đại, có đạo đức kinh doanh; xây dựng đội ngũ công nhân có tác phong công nghiệp, ý thức tổ chức kỷ luật, tay nghề cao, có năng lực tiếp thu và sáng tạo công nghệ mới, lao động đạt năng suất, chất lượng, hiệu quả cao. Tỉnh đã xây dựng cơ chế, chính sách thu hút, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao tại trường Đại học Hạ Long, Trường Cao đẳng nghề Việt - Hàn và các cơ sở đào tạo nghề chất lượng cao đáp ứng nhu cầu phát triển công nghiệp chế biến, chế tạo gắn với tăng quy mô và chất lượng dân số giai đoạn 2021 - 2025.

Tăng cường xúc tiến đầu tư thông qua hợp tác với các nhà đầu tư lớn, các cơ quan ngoại giao, các đơn vị tư vấn nước ngoài, các tập đoàn lớn, đa quốc gia nhằm khai thác hiệu quả từ các kênh thu hút đầu tư cả trong và ngoài nước; bảo đảm nguyên tắc các bên cùng có lợi và tuân thủ pháp luật.

Triển khai có hiệu quả các chính sách hồ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp FDI với doanh nghiệp trong nước. Tạo điều kiện thu hút thành lập các trung tâm đổi mới sáng tạo nhằm phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp; tạo lập môi trường khởi nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo, nhất là triển khai các đề án, chương trình hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, doanh nghiệp số. Có cơ chế, chính sách khuyến khích thu hút đầu tư phát triển ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong các lĩnh vực và nông, lâm, thủy sản,…

Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh thông thoáng, thuận lợi phát triển công nghiệp chế biến, chế tạo. Đẩy mạnh ứng dụng, chuyển giao tiến bộ khoa học - công nghệ; chú trọng liên kết vùng và hợp tác quốc tế phát triển công nghiệp chế biến, chế tạo.

Chú trọng phối hợp, liên kết chặt chẽ giữa các địa phương trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, vùng đồng bằng sông Hồng trong quá trình xúc tiến đầu tư, huy động và phân bổ nguồn lực, đẩy nhanh tốc độ xây dựng và hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; tận dụng ưu thế của mỗi địa phương trong đào tạo, phát triển, thu hút, sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao, bảo đảm an ninh trật tự, bảo vệ môi trường; thúc đẩy cụm liên kết ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giúp các doanh nghiệp tiếp cận các yếu tố đầu vào, thông tin, công nghệ, nguồn nhân lực, tăng năng lực cạnh tranh, tạo ra giá trị gia tăng và tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu./.