Tỉnh Kon Tum: Khơi thông mọi nguồn lực hướng tới hiện thực hóa khát vọng phát triển nhanh và bền vững
TCCS - Những năm qua, tỉnh Kon Tum đã đạt được nhiều kết quả quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên. Thời gian tới, tỉnh Kon Tum tiếp tục nỗ lực cụ thể hóa chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước bằng các nhiệm vụ cụ thể, linh hoạt, sáng tạo, phù hợp với điều kiện thực tiễn nhằm khơi thông và phát huy mọi nguồn lực, hướng tới hiện thực hóa mục tiêu phát triển nhanh và bền vững, sớm trở thành địa phương “thuộc nhóm phát triển khá của cả nước”(1).
Những kết quả đạt được
Kon Tum là tỉnh miền núi, biên giới phía Bắc Tây Nguyên, được thành lập lại vào tháng 8-1991 (tách ra từ tỉnh Gia Lai - Kon Tum), có diện tích tự nhiên khoảng 9,7 nghìn ki-lô-mét vuông (chiếm 3,1% diện tích cả nước)(2). Tỉnh có vị trí địa - chính trị quan trọng về quốc phòng - an ninh; thuộc khu vực Tam giác phát triển Việt Nam - Lào - Cam-pu-chia và nằm trên Hành lang Kinh tế Đông Tây; là cửa ngõ giao lưu kinh tế, văn hóa, xã hội với các tỉnh Đông Bắc Cam-pu-chia, Nam Lào, Thái Lan và Mi-an-ma thông qua Cửa khẩu quốc tế Bờ Y; kết nối liên vùng theo các quốc lộ 14, 40, 24,... Hiện nay, tỉnh có 10 đơn vị hành chính cấp huyện, 102 đơn vị hành chính cấp xã (13 xã thuộc vùng biên giới); dân số đạt khoảng 570 nghìn người với 43 dân tộc cùng sinh sống(3), trong đó đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) chiếm khoảng 54%, có 7 dân tộc thiểu số tại chỗ (Xơ-đăng, Ba-na, Gia-rai, B-râu, Rơ-mâm, Giẻ-Triêng, H-rê); khoảng 42% dân số theo các tôn giáo khác nhau.
Những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quan tâm của các ban, bộ, ngành Trung ương, Đảng bộ, chính quyền tỉnh Kon Tum lãnh đạo nhân dân thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị(4); đồng thời, triển khai chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, qua đó đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, cụ thể:
Thứ nhất, tình hình kinh tế của tỉnh có nhiều chuyển biến tích cực, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng giảm dần tỷ trọng các ngành nông, lâm, thủy sản; tổng sản phẩm xã hội trên địa bàn tỉnh (GRDP) tăng trưởng khá, bình quân đạt 8%/năm (giai đoạn 2021 - 2022); thu ngân sách nhà nước tăng đều qua các năm (3.659 tỷ đồng (năm 2021), 4.050 tỷ đồng (năm 2022)). Thu nhập bình quân đầu người tăng từ 43,2 triệu đồng (cuối năm 2020) lên 52.44 triệu đồng (cuối năm 2022), đạt 75% mục tiêu cuối nhiệm kỳ. Các ngành kinh tế trọng yếu có những bước chuyển biến tích cực, đột phá, cụ thể:
Một là, ngành nông nghiệp tiếp tục phát triển ổn định, cuối năm 2022, tổng giá trị nông nghiệp tăng thêm đạt khoảng 5.900 tỷ đồng (tăng 24,5% so với đầu nhiệm kỳ). Hoạt động ứng dụng công nghệ cao gắn với chế biến bước đầu đạt được kết quả nhất định; có sự chuyển biến từ nhỏ lẻ, manh mún sang dồn đổi, tích tụ đất, tổ chức lại sản xuất theo hình thức liên kết, nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm nông nghiệp; khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao Măng Đen (huyện Kon Plông) được thành lập; 2 vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tại huyện Kon Plông và huyện Đắk Hà được công nhận. Bên cạnh đó, tỉnh đã phê duyệt, ban hành danh mục 192 dự án kêu gọi, thu hút đầu tư, trong đó tập trung vào những dự án phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao quy mô lớn, như trồng - chế biến dược liệu, khu - vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, trang trại chăn nuôi kỹ thuật cao,... góp phần tạo ra các vùng chuyên canh cây nông nghiệp phục vụ chế biến (khoảng 29.200ha cà phê, 77.400ha cao su, 1.740ha sâm Ngọc Linh, 5.110ha cây dược liệu khác, 2.300ha cây mắc ca, 9.420ha cây ăn quả,...). Mặt khác, công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng theo hướng bền vững đạt một số kết quả tích cực, trồng được hơn 10.000ha rừng và 2,3 triệu cây phân tán (giai đoạn 2021 - 2022); công tác xây dựng nông thôn mới được chú trọng, tính đến tháng 4-2023, có 42 xã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới, 4 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao (tăng 19 xã so với đầu nhiệm kỳ).
Hai là, ngành công nghiệp tiếp tục phát triển, giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp - xây dựng đạt 9.361 tỷ đồng (năm 2022), tăng 45,3% so với đầu nhiệm kỳ. Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu có sản lượng tăng mạnh, như điện sản xuất ước đạt 3.300 triệu KWh (tăng 68,94% so với cùng kỳ năm trước), gỗ cưa hoặc xẻ đạt 42.500m3 (tăng 21,45% so với cùng kỳ năm trước),...; các ngành công nghiệp chế biến phát triển với sự tham gia từ nhiều loại hình kinh tế; tiềm năng, thế mạnh về năng lượng tái tạo, năng lượng sạch được khai thác hiệu quả(5),...
Ba là, ngành thương mại, dịch vụ phục hồi và phát triển nhanh sau khi dịch bệnh COVID-19 được kiểm soát, đến năm 2022, giá trị tăng thêm đạt 12.593 tỷ đồng (tăng 17,1% so với đầu nhiệm kỳ); cuối năm 2022, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 320,8 triệu USD (tăng 12,3% so với đầu nhiệm kỳ). Mặt khác, các hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch, thu hút đầu tư hạ tầng du lịch được tăng cường; một số khu, tuyến, điểm du lịch được đầu tư và đưa vào khai thác, nhất là Khu du lịch sinh thái quốc gia Măng Đen. Năm 2022, tổng lượng khách du lịch đến tỉnh Kon Tum đạt khoảng 1,1 triệu lượt khách (tăng gấp hơn 4,4 lần so với đầu nhiệm kỳ), tổng doanh thu ước đạt 265 tỷ đồng (gấp hơn 22 lần so với đầu nhiệm kỳ).
Bốn là, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được đẩy mạnh đầu tư xây dựng (đặc biệt là ở hai vùng kinh tế động lực là thành phố Kon Tum và huyện Kon Plông); rà soát, điều chỉnh, bổ sung các quy hoạch nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội (nhất là xây dựng Quy hoạch tỉnh Kon Tum giai đoạn 2021 - 2030 và Quy hoạch chung xây dựng Khu du lịch Măng Đen (huyện Kon Plông)) nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển trong bối cảnh mới; đồng thời, đẩy mạnh quy hoạch chung toàn bộ đô thị (tổng diện tích đất đô thị được công nhận và phân loại đạt 69.026ha(6).
Thứ hai, ban hành và triển khai thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TU, ngày 16-5-2022, của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, “Về cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh và tăng cường thu hút đầu tư trên địa bàn tỉnh đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”; qua đó, chủ động tiếp xúc, kêu gọi, theo dõi, làm việc với nhà đầu tư để kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ đầu tư trên địa bàn tỉnh. Theo Báo cáo xếp hạng PCI (Chỉ số Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh) do Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) công bố, tỉnh Kon Tum đạt 64,89 điểm, tăng 24 bậc so với năm 2021, xếp thứ 37/63 tỉnh, thành phố trên cả nước, đứng thứ 2 vùng Tây Nguyên(7). Mặt khác, các hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp cơ bản ổn định và được mở rộng(8). Bên cạnh đó, chất lượng nguồn nhân lực từng bước được nâng lên; từ đầu nhiệm kỳ đến nay, tỉnh đã đào tạo nghề cho khoảng 3.200 học viên và giải quyết việc làm cho hơn 13.500 người lao động; hệ thống trường, lớp học tiếp tục được củng cố, mở rộng, đến cuối năm 2022, có 189 trường được công nhận đạt chuẩn quốc gia(9).
Mặt khác, công tác phòng, chống dịch bệnh COVID-19 được thực hiện tốt, bảo đảm thích ứng an toàn, linh hoạt và kịp thời theo đúng quy định của cấp trên. Chất lượng khám, chữa bệnh được nâng cao, chú trọng đến sự an toàn và hài lòng của người bệnh. Hằng năm, tỷ lệ hộ nghèo giảm đều từ 4% trở lên, cuối năm 2022 giảm còn 10,68%, đạt mục tiêu Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh đề ra (giảm từ 3% - 4%/năm); an sinh xã hội và phúc lợi xã hội được bảo đảm. Bên cạnh đó, các giá trị bản sắc văn hóa, truyền thống của đồng bào các dân tộc thiểu số, các di tích cách mạng được khôi phục, bảo tồn và phát huy; hoạt động nghiên cứu khoa học - công nghệ được quan tâm đầu tư, góp phần giải quyết những vấn đề cơ bản về nghiên cứu dược liệu, sâm Ngọc Linh, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao,...
Thứ ba, công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị được chú trọng, năng lực lãnh đạo của cấp ủy các cấp, hiệu quả quản lý nhà nước của chính quyền địa phương được nâng lên. Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã thực hiện nghiêm Quy chế làm việc và các nguyên tắc lãnh đạo của Đảng; tổ chức nghiên cứu, học tập, quán triệt, tuyên truyền và triển khai thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng bảo đảm chất lượng, tiến độ theo yêu cầu của Trung ương; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, gắn với học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; qua đó, chất lượng giáo dục lý luận chính trị, tư tưởng, đạo đức cách mạng trong đội ngũ cán bộ, đảng viên tiếp tục được nâng lên. Mặt khác, thực hiện tốt công tác nắm bắt, định hướng dư luận xã hội, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Công tác phát triển đảng viên mới tiếp tục được chú trọng về chất lượng; từ đầu nhiệm kỳ đến nay, đã kết nạp được 2.126 đảng viên, nâng tổng số đảng viên toàn đảng bộ lên 31.315 đồng chí; đồng thời, công tác quy hoạch, điều động, bổ nhiệm, luân chuyển cán bộ được thực hiện chặt chẽ, đúng quy trình, quy định.
Công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật Đảng được cấp ủy các cấp quan tâm thực hiện. Việc thi hành kỷ luật đối với đảng viên bảo đảm nghiêm minh, đúng nguyên tắc, thẩm quyền; có tính giáo dục, răn đe, giúp cho đảng viên ý thức trong việc chấp hành kỷ luật, kỷ cương của Đảng. Mặt khác, công tác dân vận của cả hệ thống chính trị có nhiều chuyển biến tích cực với phương châm hướng mạnh về cơ sở; thực hiện nghiêm Quy chế dân chủ ở cơ sở, nhất là việc thực hiện dân chủ trong công tác thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định canh, tái định cư khi triển khai dự án đầu tư; tăng cường vận động, tập hợp quần chúng vào các tổ chức đoàn, hội (tỷ lệ tập hợp đoàn viên, hội viên đạt 81%).
Bên cạnh đó, nền quốc phòng - an ninh được giữ vững, ổn định; an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh được bảo đảm. Công tác đấu tranh ngăn chặn, xử lý các loại tội phạm được chỉ đạo thực hiện quyết liệt; công tác tiếp xúc, đối thoại với nhân dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo được thực hiện đầy đủ, đúng quy định, tỷ lệ giải quyết các vụ việc được nâng lên. Hoạt động đối ngoại tiếp tục được tăng cường, chủ động nắm bắt các định hướng, tham gia diễn đàn, hội nghị để tăng cường hợp tác quốc tế; triển khai ký kết các bản ghi nhớ hợp tác giữa tỉnh Kon Tum với một số tỉnh Nam Lào và Đông Bắc Cam-pu-chia trong giai đoạn mới.
Thứ tư, nhằm hiện thực hóa khát vọng đưa tỉnh Kon Tum phát triển ổn định, toàn diện, nhanh và bền vững; trở thành cực phát triển quan trọng của vùng Tây Nguyên với đa ngành, nghề, đa lĩnh vực,... thời gian tới, chính quyền tỉnh xác định nhiều nhiệm vụ trọng tâm cần thực hiện, như chuyển từ sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp; quản lý, bảo vệ, nâng cao chất lượng rừng gắn với sinh kế của người dân; tăng cường thu hút công nghiệp chế biến; phát huy tiềm năng, lợi thế về du lịch; đẩy mạnh phát triển đô thị, xây dựng nông thôn mới; lấy đầu tư nâng cấp, mở rộng kết cấu hạ tầng giao thông làm động lực để đẩy nhanh kết nối với các trung tâm kinh tế lớn, đồng thời tăng cường liên kết vùng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc; tăng cường hội nhập và phát triển; bảo vệ môi trường, ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu.
Về mục tiêu cụ thể, xác định đến năm 2030, tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân giai đoạn 2021 - 2025 đạt trên 10%/năm; giai đoạn 2026 - 2030 đạt trên 9,5%/năm; chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ(10). Trong tầm nhìn đến năm 2045, tỉnh Kon Tum trở thành cực phát triển quan trọng của vùng Tây Nguyên và hành lang kinh tế Đông - Tây với các nước Tiểu vùng sông Mê Công mở rộng (GMS), là điểm kết nối quan trọng trong ngã tư kinh tế Bắc - Nam, Đông - Tây với hệ thống kết cấu hạ tầng phát triển đồng bộ và hiện đại; có nền kinh tế phát triển, đáp ứng yêu cầu cao về an sinh xã hội; sử dụng hiệu quả tài nguyên và các nguồn lực tăng trưởng; có không gian sản xuất và sinh hoạt xã hội với định hướng xanh, thích nghi với biến đổi khí hậu; môi trường đầu tư năng động, chỉ số cạnh tranh đạt chuẩn quốc gia và khu vực(11).
Những nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm trong thời gian tới
Để đạt được mục tiêu đề ra, thời gian tới, tỉnh Kon Tum xác định cần tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh nhằm thu hút nhà đầu tư; phát huy mạnh mẽ tinh thần tự lực, tự cường bằng sức mạnh nội sinh, không trông chờ, ỷ lại; giữ vững bản lĩnh, kiên định, kiên trì những vấn đề nguyên tắc, đồng thời chủ động, tích cực, linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành phù hợp tình hình thực tế; trong đó, tập trung thực hiện tốt một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm sau:
Thứ nhất, tập trung huy động nguồn lực, tạo đột phá trong thu hút nguồn vốn khu vực tư nhân để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội trọng yếu, nhất là các dự án về phát triển đô thị - thương mại - dịch vụ có sức lan tỏa lớn tại các vùng kinh tế động lực (thành phố Kon Tum và huyện Kon Plông). Đẩy nhanh tiến độ thực hiện công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng, tái định cư và tập trung nguồn lực, khắc phục hạn chế, tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện các dự án trọng điểm và đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công. Mặt khác, triển khai quyết liệt, đồng bộ các giải pháp thu ngân sách gắn với cơ cấu, sắp xếp lại nhiệm vụ chi phù hợp, bảo đảm tiết kiệm, hiệu quả; tăng cường công tác quản lý về tài nguyên đất đai, khoáng sản và nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản công. Tổ chức triển khai thực hiện tốt các quy hoạch, kế hoạch, nhất là Quy hoạch tỉnh Kon Tum thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 và các đề án quy hoạch khác.
Bên cạnh đó, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện hiệu quả các nghị quyết trọng tâm của tỉnh về phát triển nông, lâm nghiệp, thủy sản; đẩy mạnh thực hiện cơ cấu lại ngành nông nghiệp theo hướng tiên tiến, hiện đại, công nghệ xanh, thân thiện với môi trường; đổi mới và phát triển hợp tác xã nông nghiệp, trang trại theo hướng chú trọng tổ chức sản xuất hàng hóa quy mô lớn, chất lượng cao. Tập trung thu hút đầu tư các cơ sở sơ chế, sản xuất, chế biến sâu các sản phẩm từ dược liệu, phấn đấu phát triển vùng dược liệu tỉnh Kon Tum thành vùng dược liệu trọng điểm quốc gia và trung tâm sản xuất dược liệu lớn của cả nước vào năm 2025. Tăng cường đầu tư phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản, dược liệu, công nghiệp cơ khí phục vụ nông nghiệp, nông thôn; phát triển các dự án thủy điện, điện gió, điện mặt trời theo đúng quy hoạch; phát triển kinh tế cửa khẩu, các khu, cụm công nghiệp, làng nghề truyền thống,... tạo điều kiện thu hút đầu tư phát triển kinh tế - xã hội vùng nông thôn. Mặt khác, tăng cường liên kết, phát triển du lịch, trọng tâm là du lịch văn hóa, du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, tâm linh, du lịch cộng đồng,... trên cơ sở bảo tồn, phát huy giá trị của các di tích lịch sử, bản sắc văn hoá của các dân tộc thiểu số để tạo ra các sản phẩm du lịch đặc trưng của tỉnh (phấn đấu đến năm 2025, xây dựng Khu du lịch sinh thái quốc gia Măng Đen (huyện Kon Plông) cơ bản đáp ứng các tiêu chí khu du lịch cấp quốc gia).
Thứ hai, thực hiện hiệu quả các đề án của tỉnh về nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo, từng bước kiện toàn mạng lưới trường, lớp, quy mô học sinh; đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, chú trọng nâng cao chất lượng giáo dục đối với học sinh là người đồng bào DTTS. Bên cạnh đó, nâng cao năng lực phòng, chống dịch bệnh; chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, nhất là chất lượng dịch vụ y tế ở tất cả các tuyến, mở rộng hoạt động khám, chữa bệnh từ xa; thực hiện đầy đủ, kịp thời chính sách an sinh xã hội và đối với người có công; đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về giảm nghèo; tập trung triển khai các chương trình, dự án để giải quyết việc làm ổn định cho người lao động, nhất là người đồng bào DTTS. Thực hiện tốt chính sách dân tộc, nhất là hỗ trợ định canh, định cư, đất ở, đất sản xuất, nhà ở đối với vùng đồng bào DTTS và hộ nghèo; triển khai đồng bộ, hiệu quả các chương trình mục tiêu quốc gia theo hướng bền vững, ưu tiên địa bàn đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào DTTS. Tiếp tục đầu tư đồng bộ gắn với sử dụng hiệu quả thiết chế văn hóa từ tỉnh đến cơ sở; khôi phục, bảo tồn, phát huy giá trị bản sắc văn hóa truyền thống đồng bào các DTTS, di tích lịch sử cách mạng gắn với phát huy các tuyến, điểm du lịch.
Thứ ba, tiếp tục lãnh đạo triển khai hiệu quả các nhiệm vụ bảo đảm quốc phòng - an ninh và giữ gìn trật tự xã hội trên địa bàn; nâng cao chất lượng công tác dự báo, bám địa bàn, nắm tình hình, kịp thời phát hiện, ngăn chặn, xử lý tốt các vấn đề về an ninh chính trị, trật tự xã hội ngay từ cơ sở. Thường xuyên truy quét, trấn áp, xử lý các loại tội phạm và hành vi vi phạm pháp luật, nhất là tội phạm về quản lý, bảo vệ rừng, buôn bán trái phép các chất ma túy, băng nhóm, tín dụng đen; chú trọng giải quyết kịp thời, đúng pháp luật những vụ việc khiếu nại, tố cáo ngay từ khi phát sinh, nhất là những vụ khiếu kiện nhiều người liên quan đến đất đai, tài nguyên, môi trường. Nâng cao trách nhiệm của tập thể lãnh đạo và người đứng đầu cấp ủy, chính quyền địa phương trong công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo, không để xảy ra khiếu nại, tố cáo đông người, vượt cấp; tăng cường quản lý thống nhất hoạt động đối ngoại. Mặt khác, đa dạng hóa hoạt động thông tin đối ngoại, quảng bá hình ảnh địa phương, tiềm năng, tăng cường thu hút đầu tư và thúc đẩy hội nhập quốc tế; phối hợp chặt chẽ với các tỉnh giáp biên của Lào và Cam-pu-chia trong công tác bảo vệ an ninh biên giới.
Thứ tư, tiếp tục triển khai kịp thời, chất lượng công tác tuyên truyền, nghiên cứu, quán triệt, sơ kết, tổng kết các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Trung ương và của tỉnh. Đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao bản lĩnh chính trị, bồi dưỡng đạo đức cách mạng, ý thức tổ chức kỷ luật, tính tiên phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên gắn với học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Thực hiện tốt công tác cán bộ, bảo đảm đội ngũ lãnh đạo ngang tầm nhiệm vụ, cơ cấu hợp lý và có tính kế thừa; chú trọng công tác phát triển đảng viên, nhất là đảng viên trong vùng đồng bào theo tôn giáo theo quy định. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Tổ chức thực hiện tốt nhiệm vụ kiểm tra, giám sát hằng năm bảo đảm sát với tình hình thực tế tại địa phương theo phương châm “giám sát phải mở rộng”, “kiểm tra có trọng tâm, trọng điểm” việc lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng; các lĩnh vực nhạy cảm, dễ phát sinh vi phạm, dư luận xã hội quan tâm; cán bộ, đảng viên có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tự diễn biến, tự chuyển hóa; vi phạm những điều đảng viên không được làm, trách nhiệm nêu gương; vi phạm việc thực hành tiết kiệm, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí. Kiên quyết thực hiện các giải pháp đồng bộ trong phòng, chống tham nhũng, tiêu cực gắn với phát huy vai trò của Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng, tiêu cực cấp tỉnh; đồng thời, tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội các cấp./.
----------------------
(1) Nghị quyết số 23-NQ/TW, ngày 6-10-2022, của Bộ Chính trị, “Về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”
(2), (3) Tổng cục Thống kê: Niên giám thống kê 2021, Nxb. Thống kê, Hà Nội, 2021, tr. 43, 90
(4) Ban hành Chương trình số 03-CTr/TU, ngày 12-11-2020, của Ban Chấp hành Đảng bộ, về “Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI, nhiệm kỳ 2020 - 2025”; Chương trình số 17-CTr/TU, ngày 14-7-2021, của Ban Chấp hành Đảng bộ, về “Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng”. Bên cạnh đó, tính từ đầu nhiệm kỳ đến nay, tỉnh đã ban hành 11 nghị quyết chuyên đề về phát triển nông nghiệp công nghệ cao, lâm nghiệp, dược liệu, du lịch, cải cách hành chính, chuyển đổi số, phát triển đô thị,... nhằm tập trung lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm, lĩnh vực đột phá; tiến hành đánh giá tình hình và ban hành các kết luận, nghị quyết để lãnh đạo thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp về kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị định kỳ 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng và hằng năm; tập trung thực hiện hiệu quả công tác phòng, chống dịch bệnh COVID-19,...
(5) Hiện nay có 28 dự án thủy điện đã được hoàn thành với tổng công suất 329,4MW; tiềm năng phát triển điện gió đạt khoảng 6.058MW; điện mặt trời đạt khoảng 11.140MW; có 8 cụm công nghiệp đang hoạt động với tổng diện tích là 303,7ha; tỷ lệ lấp đầy bình quân đạt 67%, trong đó thu hút được 41 doanh nghiệp, 426 cơ sở sản xuất đầu tư vào các cụm công nghiệp, tạo việc làm cho hơn 2.400 người lao động
(6) Đến nay, tỷ lệ đô thị hóa đạt 38,26%, hệ thống đô thị cơ bản bảo đảm chất lượng phù hợp với loại đô thị và cấp quản lý hành chính đô thị; đầu năm 2023, thành phố Kon Tum được Thủ tướng Chính phủ công nhận là đô thị loại II.
(7) Theo: Chỉ số Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI), ngày 13-4-2023, https://pcivietnam.vn/so-sanh-tinh?&city_id=98&cpi_cat_id=PCI_Score&cpi_year=0&comparing=1
(8) Từ đầu nhiệm kỳ đến nay, có 630 doanh nghiệp được thành lập mới (tổng vốn điều lệ khoảng 13.100 tỷ đồng); thu hút 68 dự án đầu tư với tổng vốn đăng ký đạt gần 18.237 tỷ đồng. Mặt khác, công tác cải cách hành chính đạt một số kết quả quan trọng; đến nay, tỷ lệ cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4 đạt 71,31%; tỷ lệ dịch vụ công được cung cấp, tích hợp trên Cổng Dịch vụ công quốc gia đạt 57,82%
(9) Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông quốc gia năm 2021 là 98,33%; năm 2022 là 97,69%; trong đó, học sinh đồng bào DTTS đạt 94,89%, trong đó học sinh dân tộc thiểu số học hệ giáo dục phổ thông là 97,69%, học sinh dân tộc thiểu số hệ giáo dục thường xuyên là 70,06%.
(10) Nghị quyết đề ra mục tiêu cụ thể: Đến năm 2025, tỷ trọng nông - lâm - thủy sản chiếm 19% - 20%, công nghiệp - xây dựng: 32% - 33%, thương mại - dịch vụ: 42% - 43%; tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội cả giai đoạn 2021 - 2025 đạt 118.000 tỷ đồng; GRDP bình quân đầu người/năm đạt 70 triệu đồng trở lên (tương đương trên 3.000 USD); thu ngân sách nhà nước tại địa bàn tăng bình quân 8,2%/năm và đạt trên 5.000 tỷ đồng vào năm 2025,...
(11) Bên cạnh việc thực hiện tốt Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI, Ban Thường vụ Tỉnh ủy cũng đã ban hành Chương trình số 50-CTr/TU, ngày 09-01-2023, về “Thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW, ngày 06-10-2022 của Bộ Chính trị “về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”” với tầm nhìn và mục tiêu dài hạn, giải pháp đột phá cùng quyết tâm cao nhằm đáp ứng kỳ vọng của nhân dân và của Trung ương đối với vùng Tây Nguyên nói chung và tỉnh Kon Tum nói riêng
Tăng cường liên kết, phối hợp giữa hai vùng Trung Bộ và Tây Nguyên trong thúc đẩy phát triển kinh tế hiện nay  (23/09/2023)
Tỉnh Kon Tum tăng cường công tác nội chính nhằm xây dựng, củng cố hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh  (05/09/2023)
Hệ thống cảng biển nước sâu Cái Mép-Thị Vải  (02/09/2023)
- Thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội trong tình hình mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về chỉnh huấn cán bộ, đảng viên và một số giải pháp trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay
- Tổ hợp công nghiệp quốc phòng và gợi mở hướng nghiên cứu về mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng công nghệ cao ở Việt Nam
- Tỉnh Quảng Trị tập trung lãnh đạo, chỉ đạo một số nhiệm vụ trọng tâm tổ chức đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng
- Tăng cường vai trò của tài chính vi mô cho phát triển “nông nghiệp, nông dân và nông thôn xanh” tại Việt Nam
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Kinh tế
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam