Kết quả trong công tác xây dựng tổ chức đảng, phát triển đảng viên của Đảng bộ tỉnh Quảng Trị nhiệm kỳ 2020 - 2025; phương hướng nhiệm kỳ mới

Nguyễn Đăng Quang
Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh Quảng Trị
08:46, ngày 29-06-2025

TCCS - Trong nhiệm kỳ 2020 - 2025, công tác xây dựng tổ chức đảng và phát triển đảng viên của Đảng bộ tỉnh Quảng Trị đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần nâng cao sức chiến đấu của tổ chức đảng. Với bài học kinh nghiệm đã có, khi Đảng bộ Quảng Trị, Quảng Bình được sáp nhập với quy mô, dư địa lớn hơn, Đảng bộ tỉnh tiếp tục đề ra phương hướng, giải pháp trọng tâm xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên vững mạnh, đáp ứng yêu cầu phát triển trong giai đoạn cách mạng mới.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm làm việc với Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Trị, ngày 16-10-2024_Ảnh: TTXVN  

Kết quả đạt được

Quảng Trị là tỉnh thuộc vùng Bắc Trung Bộ, hiện có diện tích tự nhiên 4.739,8 km2, dân số gần 650 nghìn người, chiếm 1,44% diện tích và 0,76% dân số cả nước. Toàn tỉnh hiện có 10 đơn vị hành chính cấp huyện(1) với 119 xã, phường, thị trấn; 799 thôn, tổ dân phố. Đảng bộ tỉnh có 14 đảng bộ trực thuộc (10 đảng bộ huyện, thị xã, thành phố; 1 đảng bộ khối; 3 đảng bộ lực lượng vũ trang); 608 tổ chức cơ sở đảng (250 đảng bộ cơ sở, 358 chi bộ cơ sở); 9 đảng bộ bộ phận và 2.191 chi bộ trực thuộc với 49.549 đảng viên (chiếm 7,57% dân số) toàn tỉnh. Kể từ ngày 1-7-2025, sau khi sáp nhập hai tỉnh, tỉnh Quảng Trị có diện tích tự nhiên 12.700km2, dân số 1,86 triệu người, có 78 đơn vị hành chính cấp xã.

Nhiệm kỳ 2020 - 2025, Đảng bộ tỉnh Quảng Trị tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII trong bối cảnh thế giới chịu tác động nặng nề của đại dịch COVID-19, cục diện quốc tế diễn biến phức tạp, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư diễn ra nhanh, tác động mạnh mẽ, biến đổi khí hậu ngày càng phức tạp, kinh tế toàn cầu suy giảm và bất ổn. Tình hình đất nước chịu tác động của nhiều yếu tố bất lợi từ bên ngoài.

Trong bối cảnh đó, Đảng bộ tỉnh Quảng Trị đã bám sát, quán triệt, thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Trị lần thứ XVII, chủ trương, chính sách mới của Đảng và Nhà nước, cụ thể hóa bằng nghị quyết, kết luận, chương trình hành động với quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp cụ thể. Bên cạnh chú trọng khai thác hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của tỉnh, đẩy mạnh thu hút đầu tư thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; xây dựng và phát triển văn hóa, con người Quảng Trị, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc; xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Quảng Trị luôn đặc biệt coi trọng công tác xây dựng Đảng, triển khai thực hiện toàn diện, đồng bộ với quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt và đạt được kết quả nổi bật.

Quán triệt quan điểm Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Trị lần thứ XVII đã xác định: “Tập trung củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng; xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh; kiện toàn các tổ chức cơ sở đảng, yếu kém; xử lý nghiêm những tổ chức cơ sở đảng vi phạm. Tiếp tục kiện toàn tổ chức cơ sở đảng phù hợp với tiến trình sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng ở cơ sở”.

Trên cơ sở đó, tỉnh Quảng Trị đã triển khai thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở được tổ chức theo hướng tinh gọn; chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của cơ quan, đơn vị được điều chỉnh, bổ sung, cơ bản khắc phục tình trạng chồng chéo, trùng lắp. Thực hiện chủ trương sắp xếp tổ chức bộ máy, quản lý biên chế, tinh giản biên chế, gắn với nâng cao chất lượng, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, đơn vị đạt được nhiều kết quả quan trọng(2). Mục tiêu, chỉ tiêu về hợp nhất, sáp nhập, giải thể các cơ quan, đơn vị; nhất thể hóa chức danh cơ bản theo đúng kế hoạch đề ra. Việc sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, thực hiện thí điểm một số mô hình tổ chức mới đã góp phần giảm đầu mối, giảm cấp trung gian, giảm số lượng cán bộ lãnh đạo, giảm biên chế và giảm chi thường xuyên. Công tác quản lý và sử dụng biên chế ngày càng chặt chẽ, đồng bộ, thống nhất, đúng quy trình, quy định; tinh giản biên chế cơ bản thực hiện theo lộ trình đã phê duyệt gắn với cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức theo vị trí việc làm(3).

Công tác xây dựng đội ngũ cán bộ được đặc biệt quan tâm. Các khâu trong công tác cán bộ được thực hiện chặt chẽ, đúng quy định, khoa học, dân chủ; cụ thể hóa và xây dựng hệ thống văn bản của tỉnh Quảng Trị(4) với nhiều nội dung đổi mới và mang tính chiến lược, tạo chuyển biến tích cực về năng lực và ý thức trách nhiệm của đội ngũ cán bộ các cấp. Thực hiện nghiêm túc chủ trương bố trí cán bộ không phải người địa phương, góp phần đào tạo cán bộ và tăng cường cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các sở, ngành, lĩnh vực(5). Kiểm soát quyền lực, phòng, chống tiêu cực trong công tác cán bộ và quy định về từ nhiệm, miễn nhiệm, xử lý trách nhiệm cán bộ được triển khai thực hiện đồng bộ. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được chú trọng thực hiện. Chính sách đối với cán bộ được thực hiện kịp thời. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ được thực hiện chặt chẽ, đúng quy định, phục vụ yêu cầu công tác cán bộ và kết nạp Đảng.

Công tác xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của cấp ủy, tổ chức đảng và chất lượng đội ngũ đảng viên được quan tâm. Cấp ủy, tổ chức đảng tiếp tục thực hiện tốt việc cải tiến phương pháp, lề lối làm việc, đổi mới phương thức lãnh đạo của cấp ủy theo hướng phát huy dân chủ, bảo đảm khoa học, chủ động, quyết liệt, không có sự tuỳ tiện, bao biện, làm thay hoặc buông lỏng vai trò lãnh đạo của Đảng. Đánh giá và kết thúc hoạt động một số mô hình tổ chức đảng không hiệu quả như mô hình đảng bộ cơ quan chính quyền cấp huyện, mô hình đảng bộ bộ phận ở xã phường, thị trấn(6). Hoàn thành việc thành lập chi bộ quân sự ở xã, phường, thị trấn; thành lập tổ chức đảng sau sáp nhập đơn vị hành chính cấp xã, thôn, tổ dân phố, cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp, lực lượng vũ trang; xóa tình trạng chưa có  tổ chức đảng ở thôn, đồng thời tăng cường lãnh đạo, củng cố chi bộ ở thôn có ít đảng viên, tránh lặp lại tình trạng chưa có đảng viên, chưa có chi bộ.

Thực hiện kết luận, hướng dẫn của Trung ương về nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ(7), Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Trị đã sửa đổi và ban hành Quy định số 1028-QĐ/TU, ngày 5-4-2023, về “Đánh giá chất lượng sinh hoạt chi bộ” (thay thế Quy định số 31-QĐ/TU, ngày 17-7-2019); phân công địa bàn dự sinh hoạt chi bộ khu dân cư đối với Bí thư, Phó Bí thư, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy và Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh(8); đưa đảng viên thuộc Đảng bộ Bộ đội Biên phòng tỉnh về tham gia sinh hoạt tại chi bộ thôn, bản các xã, thị trấn biên giới. Sau khi có Hướng dẫn số 03-HD/TW, ngày 27-12-2022, của Ban Bí thư, về “Thí điểm sinh hoạt đảng trực tuyến ở đảng bộ cơ sở, chi bộ có tính chất đặc thù hoặc trong hoàn cảnh đặc biệt và sinh hoạt đảng theo tổ đảng ở chi bộ đông đảng viên”, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Trị đã triển khai, hướng dẫn tổ chức sinh hoạt đảng trực tuyến ở đảng bộ cơ sở, chi bộ có tính chất đặc thù hoặc trong hoàn cảnh đặc biệt và sinh hoạt đảng theo tổ đảng ở chi bộ đông đảng viên. Chỉ đạo thực hiện mô hình “chi bộ 4 tốt”, “đảng bộ cơ sở 4 tốt”, tạo khí thế mới trong thi đua xây dựng Đảng trong toàn Đảng bộ tỉnh.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Trị lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2020 - 2025, Nghị quyết số 03-NQ/TU, ngày 20-11-2014, của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Quảng Trị, “Về củng cố, phát triển tổ chức đảng và tăng cường kết nạp đảng viên trong các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh”; Chỉ thị số 05-CT/TU, ngày 7-5-2021, của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Quảng Trị, “Về đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên trong tình hình mới” và nghị quyết đại hội đảng bộ trực thuộc tỉnh ủy nhiệm kỳ 2020 - 2025, ban thường vụ cấp ủy cấp huyện xây dựng chương trình, kế hoạch khảo sát nắm tình hình; đề ra mục tiêu, nhiệm vụ và tiêu chuẩn kết nạp đảng viên, cải tiến nội dung, phương pháp để giáo dục, bồi dưỡng, tuyển chọn quần chúng ưu tú kết nạp vào Đảng; trong đó, chú trọng nhất là đối với thôn, bản ở xã miền núi, địa bàn khó khăn, chi bộ nông thôn, đặc biệt là chi bộ mới thành lập, ít đảng viên và thôn chưa có chi bộ, doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước, hội viên, đoàn viên ưu tú trong các tổ chức chính trị - xã hội, công nhân, người lao động trực tiếp, lực lượng dân quân tự vệ, công an viên và thanh niên trong độ tuổi nhập ngũ,... Các cấp ủy đã tích cực chỉ đạo, thực hiện chủ trương xóa tình trạng chưa có đảng viên, chưa có chi bộ ở thôn, đến nay, 100% số thôn, bản, khu phố có đảng viên và tổ chức đảng.

Ngoài các quy định, hướng dẫn của Trung ương, trong những năm qua, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Trị đã ban hành nhiều văn bản quan trọng về công tác phát triển đảng viên nhằm nâng cao sức chiến đấu của tổ chức đảng, trẻ hóa đội ngũ cán bộ(9). Các cơ quan tham mưu, giúp việc của Tỉnh ủy đã ban hành văn bản hướng dẫn để tổ chức thực hiện.

Thực hiện quy định, hướng dẫn của Trung ương, của tỉnh Quảng Trị, cấp uỷ đã tập trung lãnh đạo chi bộ trực thuộc nghiên cứu, nắm vững quy trình, thủ tục, các bước triển khai từ khâu giới thiệu tạo nguồn đến công tác bồi dưỡng, công tác thẩm tra hồ sơ, lý lịch, kết luận tiêu chuẩn chính trị để kết nạp đảng viên mới. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội xây dựng kế hoạch tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao nhận thức về Đảng, tổ chức nhiều hoạt động sôi nổi, phong trào thi đua yêu nước để thu hút, tập hợp đoàn viên, hội viên tham gia; chăm lo đào tạo, bồi dưỡng quần chúng ưu tú để xem xét giới thiệu kết nạp vào Đảng. Trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện mở lớp bồi dưỡng nhận thức về Đảng đối với quần chúng ưu tú.

Lễ kết nạp đảng viên cho học sinh ưu tú tuổi 18 của Chi bộ Trường Trung học phổ thông Vĩnh Định (huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị) năm 2025_Ảnh: baoquangtri.vn

Quần chúng ưu tú được kết nạp vào Đảng đã ý thức hơn về trách nhiệm, có sự trưởng thành hơn, tiếp tục rèn luyện, phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu của đảng viên trong học tập, rèn luyện, hoạt động phong trào và có nhiều đóng góp cho địa phương, cơ quan, đơn vị, trở thành tấm gương để quần chúng noi theo.

Mặc dù công tác đảng viên được cấp ủy các cấp hết sức coi trọng, tuy nhiên, do các nguyên nhân khách quan và chủ quan nên việc kết nạp đảng viên những năm gần đây gặp không ít khó khăn, giảm về số lượng. Nếu nhiệm kỳ 2015 - 2020, số đảng viên được kết nạp trong bình quân hằng năm trên 1.600 đảng viên/năm (chỉ tiêu từ 1.400 - 1.500 đảng viên/năm) thì 2 năm đầu tiên của nhiệm kỳ 2020 - 2025 (năm 2021, 2022) bình quân kết nạp được hơn 1.100 đảng viên/năm (chỉ tiêu trên 1.500 đảng viên); công tác tạo nguồn và phát triển đảng viên ở doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước, kết nạp đảng viên ở nông thôn, trong tôn giáo còn khó khăn; số lượng đảng viên kết nạp ở địa bàn khu dân cư, trong doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước, ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng đồng bào theo đạo có chiều hướng giảm. Hầu hết địa phương khu vực đồng bằng số lượng đảng viên kết nạp chưa tương xứng với quy mô dân số; đảng viên được kết nạp trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp chiếm tỷ lệ thấp; một số chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở xã, phường, thị trấn nhiều năm không phát triển được đảng viên. Số lượng đảng viên bị xóa tên trên địa bàn tỉnh ngày càng có xu hướng tăng, đây là vấn đề lớn đang đặt ra đối với cấp ủy cần quan tâm. Nhận thấy khó khăn này, trên cơ sở định hướng của Hội nghị Trung ương 5 khóa XIII, “Về tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong giai đoạn mới”, Ban Thường Tỉnh ủy Quảng Trị tập trung chỉ đạo đẩy mạnh phát triển đảng viên, trong đó có chủ trương phát triển đảng viên độ tuổi 18, nhờ vậy năm 2024 đã phát triển được 212 đảng viên từ nguồn học sinh trung học phổ thông, chiếm 14,6% tổng số đảng viên được kết nạp.

Bên cạnh kết quả đạt được, công tác tổ chức xây dựng đảng, phát triển đảng viên còn có một số hạn chế:

Một là, chất lượng sinh hoạt của một số tổ chức đảng, nhất là ở cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp có chuyển biến, nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu, nội dung sinh hoạt còn trùng lặp với sinh hoạt chuyên môn; việc đánh giá chất lượng sinh hoạt chi bộ triển khai còn chậm, có chi bộ vi phạm chế độ sinh hoạt đảng bị xử lý kỷ luật. Công tác tạo nguồn phát triển đảng viên chưa đồng đều ở địa phương, đơn vị, một số nơi còn gặp khó khăn nhất là ở khu vực nông thôn và trong doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước, trong đồng bào theo đạo. Tỷ lệ kết nạp đảng viên ở một số đảng bộ trực thuộc và của tỉnh chưa đạt 50% kế hoạch đề ra. Công tác quản lý đảng viên ở một số chi, đảng bộ chưa chặt chẽ nhất là đảng viên đi làm ăn xa, lao động trong khu công nghiệp, xuất khẩu lao động…

Hai là, việc xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp có nơi còn chưa đáp ứng yêu cầu, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, nhất là cán bộ cấp cơ sở, vùng đồng bào dân tộc thiểu số có nơi còn yếu. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo tỉnh trong thời gian qua được kiện toàn, nhưng ngày càng bị già hóa, tạo nên sự “dồn toa” trong công tác cán bộ, không có điều kiện để bố trí cán bộ trẻ.

Nguyên nhân của hạn chế là do trong tổ chức sinh hoạt chi bộ, nhận thức của một số cấp ủy, người đứng đầu về sinh hoạt chi bộ và nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộchưa đáp ứng yêu cầu. Đối với cơ quan, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp, hầu hết chi ủy viên, bí thư chi bộ kiêm nhiệm nên ít dành thời gian và cho công tác xây dựng Đảng; trong công tác phát triển đảng viên, nhận thức của không ít đoàn viên thanh niên, hội viên các tổ chức chính trị - xã hội ở cơ sở về việc kết nạp vào Đảngchưa đầy đủ, thiếu ý chí phấn đấu. Một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng, vi phạm nguyên tắc, quy định của Đảng. Năng lực chuyên môn của một số cán bộ, đảng viên ở cơ sở chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ được giao, chưa thể hiện tính tiền phong, gương mẫu, chưa phát huy được vai trò lãnh đạo ở địa phương, đơn vị. Công tác lãnh đạo thực hiện công tác cán bộ có nơi chưa quyết liệt; chưa quan tâm đúng mức công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Năng lực, trình độ cán bộ, công chức tham mưu về công tác cán bộ có nơi còn thiếu kinh nghiệm thực tiễn, chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Một số cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực… Các vấn đề trên đã trực tiếp tác động đến tư tưởng đạo đức, lối sống, tâm tư, nguyện vọng của cán bộ, đảng viên.

Một số nhiệm vụ giải pháp trọng tâm trong thời gian tới

Nhiệm vụ xuyên suốt từ nay đến hết nhiệm kỳ là tiếp tục thực hiện toàn diện các mặt công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; về công tác dân vận, về đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng..., nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đồng thời triển khai lãnh đạo, chỉ đạo công tác chuẩn bị và tổ chức tốt đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Trị, nhiệm kỳ 2025 - 2030. Trên cơ sở kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Trị nhiệm kỳ 2020 - 2025, với quy mô, thuận lợi của Đảng bộ Quảng Trị sau sáp nhập, Đảng bộ tỉnh xác định phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp của công tác phát triển đảng viên nhiệm kỳ mới như sau:

Thứ nhất, tiếp tục đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị. Tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các Kết luận số 121-KL/TW, ngày 24-1-2025, “Về tổng kết Nghị quyết 18-NQ/TW, ngày 25-10-2017, của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, về “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”; Kết luận số 126-KL/TW, ngày 14-2-2025, của Bộ Chính trị, Ban Bí thư “Về một số nội dung, nhiệm vụ tiếp tục sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị năm 2025”; Kết luận số 127-KL/TW, ngày 28-2-2025, của Bộ Chính trị, Ban Bí thư “Về triển khai nghiên cứu, đề xuất tiếp tục sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị”; Kết luận số 128-KL/TW, ngày 7-3-2025, của Bộ Chính trị, “Về chủ trương công tác cán bộ”; Kết luận số 130-KL/TW, ngày 14-3-2025, của Bộ Chính trị, Ban Bí thư “Về chủ trương sắp xếp, tổ chức lại đơn vị hành chính các cấp và xây dựng mô hình tổ chức chính quyền 2 cấp”. Tiếp tục sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã giai đoạn 2025 - 2030 bảo đảm tinh gọn, phù hợp với đặc điểm tình hình của địa phương, phù hợp quy hoạch tổng thể đơn vị hành chính trên địa bàn tỉnh; hoàn thành mục tiêu theo lộ trình đề ra.

Thứ hai, chú trọng xây dựng Đảng về cán bộ; tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu. Tiếp tục bám sát quan điểm định hướng tại Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 19-5-2018, của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, “Về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín ngang tầm nhiệm vụ” để rà soát, cụ thể hóa, hoàn thiện quy định, hướng dẫn thực hiện đồng bộ, chặt chẽ các khâu trong công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền đồng thời với việc gắn trách nhiệm của tập thể lãnh đạo, nhất là người đứng đầu trong công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ. Thực hiện rà soát, bổ sung quy hoạch cán bộ; kịp thời kiện toàn, bố trí, luân chuyển, điều động, bổ nhiệm cán bộ, giới thiệu cán bộ ứng cử bảo đảm tiêu chuẩn, điều kiện, quy trình, quy định của Đảng; quan tâm cán bộ trẻ, cán bộ nữ; tiếp tục triển khai đề án, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ các cấp nhằm bảo đảm tiêu chuẩn chức danh.

Tiếp tục siết chặt kỷ luật, kỷ cương, kiểm soát quyền lực và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ; phát hiện, lựa chọn, thu hút, trọng dụng nhân tài; khuyến khích, bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, năng động, sáng tạo vì lợi ích chung; mạnh dạn đề bạt cán bộ nữ, cán bộ trẻ có triển vọng, cán bộ có phẩm chất, năng lực nổi trội, cán bộ trưởng thành từ thực tiễn; thay thế cán bộ thiếu trách nhiệm, năng lực yếu.

Thứ ba, tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên. Tập trung củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng; xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh; kiện toàn tổ chức cơ sở đảng, yếu kém; xử lý nghiêm tổ chức cơ sở đảng vi phạm. Tiếp tục kiện toàn tổ chức cơ sở đảng phù hợp với tiến trình sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng ở cơ sở. Đổi mới nội dung, phương pháp, tạo chuyển biến về chất lượng hoạt động của từng loại hình tổ chức cơ sở đảng, nhất là xã, thị trấn, thôn, tổ dân phố. Lãnh đạo tổ chức đảng xây dựng và thực hiện nghiêm túc quy chế làm việc của cấp ủy các cấp.

Thứ tư, đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên; chú trọng tạo nguồn phát triển đảng viên, nhất là phát triển đảng viên trong học sinh, trong viên chức, người lao động ngành y tế, giáo dục – các lĩnh vực còn dư địa. Quản lý chặt chẽ đảng viên, thường xuyên rà soát, sàng lọc đảng viên, đưa đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng. Thực hiện nghiêm túc công tác kiểm điểm, đánh giá, xếp loại chất lượng hằng năm đối với tổ chức đảng, đảng viên và tập thể, cá nhân cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Kiểm tra, giám sát việc thực hiện chỉ thị, quy định của Trung ương, của tỉnh về công tác tổ chức đảng, đảng viên; thực hiện hiệu quả mô hình “chi bộ bốn tốt”, “đảng bộ cơ sở bốn tốt”.

Thường xuyên làm tốt công tác khảo sát, đánh giá, phân tích đúng thực trạng chất lượng quần chúng là nguồn kết nạp đảng viên tại cơ quan, đơn vị; khảo sát mở rộng quần chúng tiêu biểu, nhưng cần làm rõ hơn về lịch sử chính trị, … làm cơ sở để tạo nguồn phát triển đảng viên mới. Tiến hành rà soát, nắm rõ lý lịch của quần chúng bảo đảm tiêu chuẩn, điều kiện quy định để giới thiệu tham gia lớp bồi dưỡng nhận thức về Đảng.

Coi trọng chất lượng, bảo đảm người kết nạp vào Đảng phải có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, có năng lực thực tiễn trong phong trào quần chúng. Việc xây dựng kế hoạch tạo nguồn phát triển đảng viên phải cụ thể, sát với tình hình thực tế; trước mắt, tập trung chỉ đạo khắc phục tình trạng trưởng thôn, khu phố, trưởng ban công tác mặt trận thôn, thôn đội trưởng, công an viên chưa là đảng viên; chú trọng tạo nguồn từ lực lượng đoàn thanh niên, nông dân, phụ nữ, công an, quân đội, bộ đội xuất ngũ, y tế, giáo dục, doanh nghiệp, học sinh, sinh viên ra trường… để kết nạp Đảng; khắc phục dứt điểm tình trạng chi bộ nhiều năm liền không kết nạp được đảng viên dù còn nguồn.

Thứ năm, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về quan điểm, nội dung, phương hướng, nhiệm vụ của công tác bảo vệ chính trị nội bộ. Chủ động thực hiện giải pháp phòng ngừa, đấu tranh hiệu quả với hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, tổ chức phản động, phần tử cơ hội, bất mãn chính trị. Bảo vệ Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, đường lối, chủ trương, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng; bảo vệ Hiến pháp và pháp luật; bảo vệ cán bộ, đảng viên về mặt chính trị; phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ, kỹ lưỡng công tác rà soát, thẩm định, thẩm tra và kết luận tiêu chuẩn chính trị phục vụ công tác cán bộ, công tác phát triển đảng viên. Nắm chắc lịch sử chính trị và chú trọng vấn đề chính trị hiện nay; lấy phòng ngừa là chính. Tăng cường nắm tình hình chính trị nội bộ, quản lý cán bộ, đảng viên liên quan đến yếu tố nước ngoài. Phối hợp chặt chẽ với công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, kịp thời phát hiện, xử lý cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật đảng, pháp luật của Nhà nước./.

-----------------------

(1) Bao gồm thành phố Đông Hà, thị xã Quảng Trị, 5 huyện đồng bằng: Vĩnh Linh, Gio Linh, Cam Lộ, Triệu Phong, Hải Lăng, 2 huyện miền núi: Hướng Hóa, ĐaKrông và huyện đảo Cồn Cỏ
(2) Qua sắp xếp, từ năm 2017 đến nay đã giảm 30/143 phòng chuyên môn thuộc sở, ngành, chiếm 20,9%; giảm 03/16 chi cục, chiếm 18%; giảm 16/72 phòng chuyên môn thuộc chi cục, chiếm 22,2%; đối với đơn vị sự nghiệp công lập đã giảm 182/664 đơn vị, chiếm 27,4%. Triển khai thực hiện Quy định số 137-QĐ/TW, ngày 1-12-2023, “Về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy, biên chế các cơ quan chuyên trách tham mưu, giúp việc tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương” và Quy định số 46-QĐ/TW, ngày 3-12-2021, của Ban Bí thư, “Về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy cơ quan chuyên trách tham mưu, giúp việc huyện ủy, quận ủy, thị ủy, thành ủy trực thuộc tỉnh ủy, thành ủy”.
Tỉnh đã sắp xếp 13 đơn vị hành chính cấp xã còn 7 xã, thị trấn, giảm 6 xã. Văn phòng Tỉnh ủy để phục vụ chung; trưởng ban dân vận cấp ủy đồng thời là chủ tịch ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp huyện; chủ nhiệm ủy ban kiểm tra cấp ủy đồng thời là chánh thanh tra; trưởng ban tổ chức cấp ủy đồng thời là trưởng phòng nội vụĐã tiến hành sáp nhập Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy và Ban Dân vận Tỉnh ủy và thành lập Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy; kết thúc hoạt động của các đảng đoàn và ban cán sự đảng, Ban Bảo vệ chăm sóc sức khỏe cán bộ tỉnh; kết thúc hoạt động Đảng ủy Khối Cơ quan và Doanh nghiệp tỉnh, thành lập 2 đảng bộ trực thuộc Tỉnh ủy (Đảng bộ Khối các cơ quan Đảng cấp tỉnh và Đảng bộ Ủy ban nhân dân tỉnh)
(3) Giai đoạn từ năm 2022 - 2024: Khối Đảng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội trong tỉnh đã thực hiện giảm 51 chỉ tiêu biên chế, trong đó giảm 31 biên chế công chức (chiếm 4,15% số biên chế được giao năm 2021, đạt 67,39% so với kế hoạch), giảm 20 biên chế sự nghiệp hưởng lương ngân sách nhà nước (chiếm 15,5% số biên chế được giao năm 2021, đạt 58,82% so với kế hoạch). Khối chính quyền đã thực hiện giảm 896 chỉ tiêu biên chế, trong đó giảm 7 biên chế công chức (chiếm 0,4% số biên chế được giao năm 2021, đạt 7,9% so với kế hoạch), giảm 889 biên chế sự nghiệp hưởng lương ngân sách nhà nước (chiếm 5,53% số biên chế được giao năm 2021, đạt 55,3% so với kế hoạch).
(4) Quy định về tuyển dụng công chức, viên chức cơ quan Đảng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội cấp tỉnh, cấp huyện; về công tác quy hoạch cán bộ; về đánh giá cán bộ diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý; về phân cấp quản lý cán bộ và bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử; về luân chuyển, điều động, biệt phái cán bộ; Quy định về miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ; Đề án luân chuyển cán bộ diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý giai đoạn 2023 - 2025; Kết luận về chủ trương bố trí công tác đối với cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý sau khi bị kỷ luật; Kế hoạch đào tạo mở lớp bồi dưỡng, cập nhật kiến thức cho cán bộ diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý và dự nguồn năm 2022...
(5) Bí thư cấp huyện không phải người địa phương có 6/9 đồng chí; chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện không phải người địa phương có 2/9 đồng chí
(6) Kết thúc hoạt động của 7 đảng bộ cơ sở cơ quan chính quyền, thành lập 108 chi bộ cơ sở trực thuộc cấp ủy cấp huyện, đảng bộ cơ sở cơ quan chính quyền cấp huyện; không tổ chức mô hình đảng bộ bộ phận ở xã, phường, thị trấn
(7) Kết luận số 18-KL/TW, ngày 22-9-2017, của Ban Bí thư, “Về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị số 10-CT/TW của Ban Bí thư khóa X, về “nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ” trong tình hình mới”; Hướng dẫn số 12-HD/BTCTW, ngày 6-7-2018, của Ban Tổ chức Trung ương, về “Một số vấn đề nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ”
(8) Hầu hết huyện ủy, thị ủy và thành ủy đã xây dựng kế hoạch, thành lập tổ chỉ đạo, tổ công tác, phân công cấp ủy viên cấp huyện, cấp ủy viên cơ sở và cán bộ là đảng viên về dự, theo dõi sinh hoạt hằng tháng với chi bộ ở khu dân cư, đồng thời gắn trách nhiệm với chất lượng hoạt động của chi bộ. Nhiều xã, phường, thị trấn đã thành lập tổ công tác về chỉ đạo tham dự sinh hoạt với chi bộ khu dân cư do đồng chí cấp uỷ viên cấp huyện chỉ đạo xã làm tổ trưởng
(9) Như Chỉ thị số 14-CT/TU, ngày 15-3-2013, về “Tăng cường công tác phát triển đảng viên ở địa bàn, lĩnh vực còn khó khăn và ít đảng viên”, Nghị quyết số 03-NQ/TU, ngày 20-11-2014, về “Củng cố, phát triển tổ chức đảng và tăng cường kết nạp đảng viên trong các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh”, Quyết định số 399-QĐ/TU, ngày 18-11-2016, ban hành “Đề án phát triển tổ chức đảng, đảng viên và các tổ chức chính trị - xã hội trong doanh nghiệp ngoài nhà nước trên địa bàn tỉnh Quảng Trị giai đoạn 2016 - 2020”, Chỉ thị số 05-CT/TU, ngày 7-5-2021,  “Về đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên trong tình hình mới”