TCCS - Hiện nay, quá trình chuyển đổi số ở nước ta có tác động toàn diện, mạnh mẽ đến sự phát triển của mọi lĩnh vực, từ kinh tế, chính trị, xã hội, đến quốc phòng - an ninh..., đặc biệt, vấn đề ứng dụng khoa học - công nghệ nhằm đổi mới căn bản, toàn diện hoạt động quản lý, điều hành của Nhà nước trong phát triển kinh tế ngày càng đóng vai trò then chốt. Bám sát chủ trương, chính sách của Trung ương, thời gian qua, tỉnh Gia Lai tập trung đẩy mạnh quá trình chuyển đổi số và đạt được nhiều kết quả tích cực, góp phần đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế của địa phương.

Kỹ thuật viên xử lý thông tin, hình ảnh qua camera tại Trung tâm điều hành đô thị thông minh thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai_Nguồn: baogialai.com.vn

Những kết quả đạt được

Để thích ứng với tình hình mới, đồng thời tận dụng hiệu quả cơ hội từ quá trình chuyển đổi số mang lại, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách chủ động ứng dụng các thành tựu của khoa học - kỹ thuật hiện đại(1); hướng tới đổi mới hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, phương thức sống, làm việc của người dân trên nguyên tắc phát triển môi trường số an toàn, nhân văn, rộng khắp(2); đồng thời tạo bước đột phá trong phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất để đưa dân tộc ta vươn mình trong kỷ nguyên của tiến bộ, văn minh, hiện đại(3). Đại hội XIII của Đảng cũng chủ trương “phát triển hạ tầng thông tin, viễn thông, tạo nền tảng chuyển đổi số quốc gia, từng bước phát triển kinh tế số, xã hội số”(4). Trước những nhiệm vụ đặt ra của thời cuộc, đồng thời dựa trên chỉ đạo, hướng dẫn của Đảng và Nhà nước, chính quyền và nhân dân tỉnh Gia Lai không ngừng nỗ lực thực hiện nhiệm vụ chuyển đổi số một cách chủ động, toàn diện trên nhiều lĩnh vực, đến nay đã đạt được những kết quả nổi bật, được thể hiện ở một số nội dung chính sau:

Thứ nhất, về chính quyền số và dữ liệu số.

Tính đến tháng 4-2024, 100% số cơ quan hành chính tỉnh Gia Lai có mạng nội bộ, kết nối mạng diện rộng (WAN) và internet băng thông rộng; hạ tầng dịch vụ bưu chính, viễn thông phát triển cả về số lượng và chất luợng. Tỉnh đã hoàn thành đăng ký địa chỉ IPv6 và số hiệu mạng (ASN) cho các hệ thống thông tin, như Cổng Thông tin điện tử, Cổng Dịch vụ công (DVC)(5),… Bên cạnh đó, hệ thống hội nghị truyền hình được triển khai đồng bộ từ cấp tỉnh đến tất cả ủy ban nhân dân (UBND) tại 255 điểm cầu hội nghị truyền hình (của Tỉnh ủy Gia Lai; Đảng ủy Khối Các cơ quan và doanh nghiệp tỉnh; Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh; các sở, ban, ngành; các huyện ủy; UBND cấp huyện, xã)(6). Trung tâm tích hợp dữ liệu được kết nối với cơ sở dữ liệu (CSDL) quốc gia về dân cư; hệ thống thông tin dùng chung tiếp tục được duy trì, vận hành, khai thác sử dụng phát huy hiệu quả tích cực(7). Tất cả thủ tục hành chính được cung cấp trên cổng DVC (phân hệ của Hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính), trong đó có 856 dịch vụ công trực tuyến (DVCTT) toàn trình và 995 DVCTT một phần; tích hợp 759/1.205 DVCTT lên cổng DVC quốc gia (tỷ lệ 49%). Tỷ lệ thanh toán trực tuyến trên cổng DVC quốc gia, cổng DVC của tỉnh so với tổng số giao dịch thanh toán của DVC đạt 6,09%(8).

Thứ hai, về kinh tế số và chuyển đổi số ở một số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh.

Tính đến tháng 4-2024, 100% số doanh nghiệp của tỉnh đã sử dụng hóa đơn điện tử. Đặc biệt, tỷ lệ doanh nghiệp nhỏ và vừa sử dụng nền tảng số chiếm khoảng 30%; được cung cấp thông tin, tiếp cận các nền tảng chuyển đổi số trên 90%; sử dụng hợp đồng điện tử, doanh nghiệp có đủ điều kiện sử dụng hợp đồng điện tử đạt 35%. Mặt khác, năm 2023, chỉ số thương mại điện tử của tỉnh đạt 13,6 điểm, xếp thứ 38/63 tỉnh, thành phố (tăng 2 bậc so với năm 2022, 6 bậc so với năm 2021) và xếp thứ 3/5 tỉnh vùng Tây Nguyên (sau các tỉnh Lâm Đồng và Đắk Lắk). Bên cạnh đó, 100% các siêu thị, trung tâm mua sắm, các đơn vị cung cấp dịch vụ điện, nước, viễn thông,… triển khai thanh toán không dùng tiền mặt; 100% số doanh nghiệp thực hiện khai thuế điện tử; hơn 20% các doanh nghiệp có giao dịch thương mại điện tử.

Trong lĩnh vực nông nghiệp, tỉnh đã sử dụng hiệu quả các phần mềm do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn triển khai, như phần mềm CSDL mùa vụ trồng rừng phục vụ sản xuất; quản lý dữ liệu bảo vệ thực vật; CSDL về quản lý mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói trên địa bàn tỉnh; CSDL quản lý chất lượng an toàn thực phẩm đối với nông sản, lâm sản, thủy sản; dữ liệu phục vụ phân tích và dự báo thị trường nông sản; hệ thống báo cáo dịch bệnh trực tuyến (VAHIS); cập nhật và bổ sung các CSDL dùng chung lĩnh vực lâm nghiệp,... Trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, tỉnh triển khai hiệu quả các ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) của Bộ Tài chính hoặc do Sở Tài chính quản lý, như CSDL quốc gia về giá trên địa bàn, phần mềm quản lý tài sản công, hệ thống quản lý tài chính đơn vị hành chính sự nghiệp,... Bên cạnh đó, tăng cường tuyên truyền, hướng dẫn và triển khai các giải pháp thúc đẩy việc thanh toán không dùng tiền mặt, nhất là trong các cơ sở giáo dục, y tế; khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp nộp hồ sơ đăng ký kinh doanh qua mạng (online). Kết quả tỷ lệ hồ sơ giải quyết online đạt 100%, hạn chế việc doanh nghiệp tiếp xúc trực tiếp với cán bộ thụ lý giải quyết hồ sơ, tạo thuận lợi, giảm thời gian và chi phí di chuyển cho doanh nghiệp.

Thứ ba, về xã hội số và chuyển đổi số ở một số lĩnh vực xã hội.

Tính đến tháng 4-2024, 100% số xã, phường, thị trấn có điểm bưu chính có nhân viên phục vụ; mạng lưới cáp quang được mở rộng đến trung tâm 100% xã, 1.472/1.576 thôn, làng, tổ dân phố (đạt 93,4%); tỷ lệ người dân sử dụng mạng internet hơn 68%; số lượng người dân sử dụng điện thoại di động, thiết bị thông minh đạt khoảng 65,6% dân số trưởng thành và từng bước tiếp cận, sử dụng các dịch vụ số phục vụ đời sống(9). Đối với giáo dục - đào tạo, chính quyền tỉnh tiếp tục khai thác sử dụng các hệ thống thông tin, phần mềm, CSDL của ngành trong dạy, học và công tác quản lý; tuyển sinh đầu cấp qua DVCTT tại các cấp học; triển khai cung cấp dịch vụ tra cứu kết quả thi tốt nghiệp trung học phổ thông qua ứng dụng Zalo, tạo thuận lợi cho thí sinh tra cứu, giảm tải áp lực đối với các hệ thống công bố kết quả thi. Thực hiện mô hình “Trường học thông minh” ở 7 cơ sở giáo dục trên địa bàn thành phố Pleiku và thí điểm hệ thống E-leaming tại Trường Trung học phổ thông chuyên Hùng Vương theo Đề án “Xây dựng thành phố Pleiku theo hướng đô thị thông minh giai đoạn 2020 - 2025, định hướng đến năm 2030” và mô hình “Trường học không tiền mặt”(10).

Một số hạn chế, khó khăn

Một là, chỉ số chuyển đổi số cấp tỉnh còn khá thấp và có sự tụt hạng 2 năm liền(11); trình độ, kỹ năng ứng dụng công nghệ thông tin của người dân trên địa bàn còn nhiều hạn chế so với mặt bằng chung cả nước, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Tỷ lệ người dân có thiết bị máy tính, máy tính bảng, điện thoại thông minh, hộ gia đình kết nối internet, thiết bị bảo đảm kết nối, sử dụng các nền tảng số còn thấp và chậm được cải thiện. Mặt khác, chất lượng, hiệu quả trong cung cấp, sử dụng dịch vụ công trực tuyến còn hạn chế, kết quả đạt được chưa theo yêu cầu đề ra; một số chỉ tiêu, nhiệm vụ thực hiện chuyển đổi số của Trung ương chưa có hướng dẫn khiến các đơn vị, địa phương thiếu cơ sở đánh giá kết quả (như các chỉ tiêu đóng góp của kinh tế số vào Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP); năng suất lao động tăng hằng năm,...).

Hai là, hạ tầng số, các nền tảng số vẫn đang trong quá trình hoàn thiện, chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra; đặc biệt, các nền tảng số phục vụ giáo dục, đào tạo, chăm sóc sức khỏe và an sinh xã hội còn thiếu, hạn chế. Nhiều CSDL triển khai chậm; việc kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan, đơn vị có nhiều rào cản, vướng mắc, hiệu quả phát huy chưa cao; các CSDL lớn chưa được xây dựng, chưa cung cấp dữ liệu mở cho người dân và doanh nghiệp gây khó khăn trong khai thác, sử dụng. Vấn đề an toàn, an ninh mạng nhiều nơi chưa được quan tâm đúng mức và đáp ứng yêu cầu đặt ra. Chất lượng, hiệu quả trong cung cấp, sử dụng DVCTT còn khiêm tốn, kết quả chưa đạt theo yêu cầu đề ra, hiệu quả phát huy chưa cao(12).

Ba là, số lượng doanh nghiệp, hợp tác xã và người dân tham gia chuyển đổi số còn ít; các sản phẩm nông sản vùng sâu, vùng xa kết nối trực tiếp với sàn thương mại điện tử chưa nhiều; việc triển khai các chương trình về hỗ trợ doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa còn hạn chế. Mặt khác, doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghệ thông tin trên địa bàn rất ít, chủ yếu kinh doanh thiết bị công nghệ thông tin, viễn thông; chưa có doanh nghiệp công nghệ số đủ năng lực, kinh nghiệm tham gia, thúc đẩy chuyển đổi số của địa phương. Hoạt động chuyển đổi số trong sản xuất, kinh doanh trong các doanh nghiệp vẫn còn chậm, nhiều hạn chế, thiếu hiệu quả; một số doanh nghiệp, hợp tác xã và hộ sản xuất chưa đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số.

Những nhiệm vụ, giải pháp thời gian tới

Thứ nhất, phải xác định quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế đồng nghĩa với đổi mới tầm nhìn chiến lược, dài hạn về phương thức để bảo đảm tăng trưởng nhanh và bền vững. Theo đó, thay đổi cách thức tăng trưởng kinh tế (TTKT) theo chiều rộng (chủ yếu dựa vào tăng vốn, lao động giá rẻ, khai thác tài nguyên thiên nhiên) sang tập trung vào năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) thông qua sử dụng hiệu quả các nguồn lực, tiến bộ khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo (theo chiều sâu - nền tảng bảo đảm cho TTKT nhanh và bền vững). Mặt khác, chú trọng đổi mới cách thức sử dụng GDP theo hướng hiệu quả, bảo đảm tốc độ tăng tích lũy tài sản lớn hơn tốc độ tăng tiêu dùng cuối cùng; thúc đẩy xuất khẩu của khu vực kinh tế trong nước và mở rộng thị trường nội địa. Cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của nền kinh tế, tham gia một cách chủ động, hiệu quả vào chuỗi giá trị gia tăng toàn cầu, từ đó, thúc đẩy phân bổ và sử dụng nguồn lực xã hội theo cơ chế thị trường vào các ngành, sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, hướng tới mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.

Đặc biệt, nhìn từ vấn đề thể chế kinh tế, phải tập trung hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách kinh tế; cải thiện môi trường kinh doanh; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong phát triển kinh tế, mở rộng thị trường, kiểm soát tham nhũng,… Hoàn thiện thể chế kinh tế sẽ giúp cho khu vực doanh nghiệp, hộ gia đình tiếp cận cơ hội và nguồn lực một cách dễ dàng, thuận lợi hơn, góp phần thúc đẩy năng lực đổi mới sáng tạo của các chủ thể khác trong nền kinh tế, đồng thời tạo ra những thể chế cho sự vận hành của chính mình.

Thứ hai, xây dựng cơ chế, chính sách về chuyển đổi số của tỉnh theo hướng toàn diện, hiệu quả, gắn với khai khác và phát huy tiềm năng, lợi thế; đồng thời tạo môi trường, điều kiện thuận lợi thúc đẩy hoạt động khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, tích cực thu hút các doanh nghiệp số đầu tư vào tỉnh. Mặt khác, bố trí các nguồn tài chính nhà nước thực hiện chuyển đổi số; tranh thủ các nguồn lực cũng như sự hỗ trợ của Trung ương. Cùng với đó, tập trung đào tạo, bồi dưỡng, thu hút nguồn nhân lực công nghệ thông tin chất lượng cao sẵn sàng tham gia vào quá trình chuyển đổi số của tỉnh; đẩy mạnh hợp tác với các trường đại học, cao đẳng để đào tạo nguồn nhân lực, xây dựng và tổ chức đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu cho cán bộ công nghệ thông tin để trở thành các chuyên gia nòng cốt tham mưu cho cấp ủy, chính quyền các cấp về quá trình chuyển đổi số.

Thứ ba, thúc đẩy quá trình xây dựng chính quyền số gắn với cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng. Phát triển hạ tầng mạng đáp ứng nhu cầu triển khai chính quyền số tại tỉnh theo hướng ưu tiên thuê dịch vụ, kết nối và sử dụng hiệu quả mạng truyền số liệu chuyên dùng của các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Khai thác, ứng dụng hiệu quả các công nghệ số mới, như Điện toán đám mây (cloud computing), dữ liệu lớn (big data), di động (mobility), internet vạn vật (IoT), trí tuệ nhân tạo (AI), chuỗi khối (blockchain), mạng xã hội,... trong xây dựng, triển khai các ứng dụng, dịch vụ chính quyền số tại tỉnh nhằm tiết kiệm thời gian, chi phí vận hành hệ thống thông tin, tiến tới tự động hóa, thông minh hóa, tối ưu hóa các quy trình xử lý công việc.

Người dân làng Phung, xã Biển Hồ, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai giới thiệu sản phẩm truyền thống lên các nền tảng thương mại điện tử_Nguồn: baogialai.com.vn

Thứ tư, phát triển kinh tế số, cơ cấu lại một số ngành kinh tế gắn với chuyển đổi số. Thúc đẩy phát triển kinh tế số với trọng tâm là phát triển doanh nghiệp ứng dụng công nghệ số; chuyển đổi số để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và nền kinh tế. Xây dựng và phát triển thị trường thương mại điện tử lành mạnh, có tính cạnh tranh và phát triển bền vững; khuyến khích, hỗ trợ, tạo điều kiện cho các hộ kinh doanh, doanh nghiệp tham gia, giao dịch, kinh doanh qua các sàn thương mại điện tử. Hình thành, phát triển các chuỗi giá trị nông sản, du lịch, tiểu thủ công nghiệp trực tuyến, bảo đảm kết nối cung - cầu thông qua khai thác, sử dụng các nền tảng số. Bên cạnh đó, huy động tổng thể các nguồn lực để thực hiện chuyển đổi số gắn với cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng; lồng ghép nguồn lực thực hiện từ các chương trình, đề án có liên quan; huy động nguồn lực từ khu vực tư nhân thông qua các chính sách khuyến khích, thu hút đầu tư, tài trợ cho thực hiện chuyển đổi số.

Bên cạnh đó, nghiên cứu và ứng dụng phát triển nông nghiệp theo hướng công nghệ cao và bền vững, nông nghiệp thông minh; xây dựng các hệ thống dữ liệu lớn của ngành, như đất đai, quản lý bảo vệ rừng, tưới tiêu, cây trồng, vật nuôi, thủy sản, tăng tỷ trọng của nông nghiệp công nghệ số trong nền kinh tế,...; thúc đẩy chuyển đổi số trong phát triển, khai thác hệ thống kho, bến, bãi phục vụ vận tải và logistics,... Trong lĩnh vực công nghiệp và năng lượng, chú trọng nghiên cứu, xây dựng các trụ cột quan trọng, như chiến lược và cơ cấu tổ chức thông minh, nhà máy thông minh, vận hành thông minh, tạo ra các sản phẩm thông minh, phát triển kỹ năng số cho người lao động,... Ưu tiên tập trung chuyển đổi số cho công nghiệp năng lượng tái tạo (điện năng lượng mặt trời, điện gió, điện sinh khối,...) hướng đến tối đa hóa và tự động hóa các mạng lưới cung ứng điện hiệu quả, thông minh,...

Thứ năm, phát triển xã hội số, thúc đẩy chuyển đổi số ở các lĩnh vực giáo dục và đào tạo, y tế. Tập trung vào chuyển đổi kỹ năng, cung cấp các khóa học đại trà trực tuyến; hợp tác với các tổ chức, doanh nghiệp số lớn trong nước và quốc tế để đào tạo, tập huấn, nâng cao kiến thức, kỹ năng về công nghệ số và chuyển đổi số, hình thành văn hóa số cho người đứng đầu các cơ quan, tổ chức, giám đốc điều hành các doanh nghiệp, người lao động tại các doanh nghiệp trong khu công nghiệp. Triển khai áp dụng mô hình giáo dục tích hợp khoa học - công nghệ - kỹ thuật - toán học và kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin, bảo đảm an toàn thông tin tại các cấp học. Thực hiện đào tạo, tập huấn hướng nghiệp để học sinh có các kỹ năng sẵn sàng cho môi trường số. Huy động nguồn lực, tập trung phát triển nền tảng hỗ trợ dạy và học từ xa, ứng dụng triệt để công nghệ số trong công tác quản lý, giảng dạy và học tập. Đối với ngành y tế, phát triển nền tảng hỗ trợ khám, chữa bệnh từ xa để hỗ trợ người dân trong khám, chữa bệnh, giúp giảm tải các cơ sở y tế, hạn chế tiếp xúc đông người. Xây dựng và từng bước hình thành hệ thống chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh dựa trên các công nghệ số; sử dụng thanh toán điện tử; hồ sơ bệnh án điện tử tiến tới không sử dụng bệnh án giấy; hình thành các bệnh viện thông minh; từng bước thử nghiệm sáng kiến “Mỗi người dân có một bác sĩ riêng”(13) với mục tiêu mỗi người dân có một hồ sơ số về sức khỏe cá nhân; tạo điều kiện cho khám, chữa bệnh từ xa và sử dụng đơn thuốc điện tử nhằm bảo đảm người dân có thể tiếp xúc bác sĩ nhanh, hiệu quả, giảm chi phí và thời gian vận chuyển bệnh nhân./.

------------------------

(1) Nghị quyết số 52-NQ/TW, ngày 27-9-2019, của Bộ Chính trị, “Về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”; Quyết định số 749/QĐ-TTg, ngày 3-6-2020, của Thủ tướng Chính phủ, “Về phê duyệt chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến 2030”; Quyết định số 348/QĐ-TTg, ngày 6-4-2023, của Thủ tướng Chính phủ, “Về phê duyệt Chiến lược chuyển đổi số báo chí đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”,…
(2) Xem: Quyết định số 749/QĐ-TTg, ngày 3-6-2020, của Thủ tướng Chính phủ, “Về phê duyệt chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến 2030”
(3) Xem: Tô Lâm: “Chuyển đổi số - Động lực quan trọng phát triển lực lượng sản xuất, hoàn thiện quan hệ sản xuất, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới”, Tạp chí Cộng sản, số 1.045 (tháng 9-2024), tr. 7
(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 115
(5) Xem: Báo cáo số 434-BC/BCSĐ, ngày 28-11-2023, của Ban Cán sự Đảng UBND tỉnh Gia Lai, về “Kết quả thực hiện Nghị quyết số 04-NQ/TU của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Gia Lai (khóa XVI) về chuyển đổi số tỉnh Gia Lai đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 và Chương trình hành động của UBND tỉnh thực hiện Nghị quyết số 04-NQ/TU”
(6) Xem: Báo cáo số 113/BC-STTTT, ngày 23-4-2024, của Ủy ban nhân dân tỉnh Gia Lai, về “Kết quả chuyển đổi số của tỉnh Gia Lai phục vụ Hội nghị trực tuyến Phiên họp lần thứ 8 của Úy ban Quốc gia về chuyến đối số”
(7) Trong năm 2023 và quý I-2024 có hơn 2 triệu lượt văn bản điện tử được gửi, nhận liên thông 4 cấp trên địa bàn tỉnh; số lượng đơn vị sử dụng hệ thống quản lý văn bản và điều hành hiện nay là hơn 800 đơn vị, trong đó nhiều đơn vị, tổ chức Đảng, đoàn thể cũng triển khai, sử dụng (như Liên đoàn Lao động tỉnh, Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh, Tỉnh đoàn, Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ, Văn phòng Tỉnh uỷ,...)
(8) Xem: Báo cáo số 113/BC-STTTT, ngày 23-4-2024, của Ủy ban nhân dân tỉnh Gia Lai, về “Kết quả chuyển đổi số của tỉnh Gia Lai phục vụ Hội nghị trực tuyến Phiên họp lần thứ 8 của Úy ban Quốc gia về chuyến đối số”
(9) Xem: Báo cáo số 113/BC-STTTT, ngày 23-4-2024, của Ủy ban nhân dân tỉnh Gia Lai, về “Kết quả chuyển đổi số của tỉnh Gia Lai phục vụ Hội nghị trực tuyến Phiên họp lần thứ 8 của Úy ban Quốc gia về chuyến đổi số”
(10) Bên cạnh đó, Ủy ban nhân dân tỉnh đã chỉ đạo thành lập và tập huấn cho 1.604 tổ công nghệ số cộng đồng (ở cấp thôn, làng, tổ dân phố) với 5.007 thành viên làm nòng cốt để hỗ trợ người dân tiếp cận, nâng cao các kỹ năng số
(11) Tỉnh Gia Lai xếp hạng 62/63 tỉnh, thành trong cả nước (chính quyền số: 61/63; kinh tế số: 61/63; xã hội số: 62/63), giảm 23 bậc so xếp hạng năm 2021 (hạng 39/63) và 43 bậc năm 2020 (hạng 19/63)
(12) Xem: Báo cáo số 434-BC/BCSĐ, ngày 28-11-2023, của Ban cán sự Đảng UBND tỉnh Gia Lai, về “Kết quả thực hiện Nghị quyết số 04-NQ/TU của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Gia Lai (khóa XVI) về chuyển đổi số tỉnh Gia Lai đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 và Chương trình hành động của UBND tỉnh thực hiện Nghị quyết số 04-NQ/TU”
(13) Xem: Hiền Minh: “Mỗi người dân sẽ có một bác sĩ riêng”, Báo Điện tử Chính phủ, ngày 29-12-2020, https://baochinhphu.vn/moi-nguoi-dan-se-co-mot-bac-si-rieng-102285122.htm