Đối ngoại với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa: Thành tựu và bài học kinh nghiệm
TCCS - Lịch sử ra đời và phát triển của đối ngoại Việt Nam gắn liền với những mốc son trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hành trình gần 50 năm sau giải phóng, đối ngoại đã đồng hành cùng đất nước vượt qua nhiều thách thức to lớn. Việc nhìn lại thực tiễn hoạt động trong các giai đoạn lịch sử sẽ góp phần đánh giá đóng góp và vai trò quan trọng của đối ngoại trong bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, qua đó rút ra bài học và định hướng cho tương lai.
Sự phát triển tư duy lý luận của Đảng về bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa và vận dụng trong công tác đối ngoại
Trong thời kỳ đấu tranh giành độc lập dân tộc, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc là đấu tranh chống kẻ thù xâm lược, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Công cuộc bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ này được thực hiện chủ yếu bằng biện pháp đấu tranh với các lực lượng vũ trang là nòng cốt, trong khi ngoại giao song hành trên bàn đàm phán. Có thể nói, hoạt động đối ngoại của Việt Nam đã có những quyết sách đúng đắn, bước đi chủ động, thấm nhuần tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Dĩ bất biến ứng vạn biến”. Đối ngoại Việt Nam đồng hành cùng các lực lượng, đóng góp quan trọng trong các cuộc đàm phán nhằm tạo ra những giai đoạn trì hoãn chiến lược (Hiệp định Sơ bộ ngày 6-3-1946, Tạm ước 14-9-1946), để kéo dài thời gian tranh thủ xây dựng lực lượng cho cuộc kháng chiến. Khi tiến công quân sự đạt được thắng lợi trên chiến trường, đối ngoại tận dụng lợi thế để đẩy mạnh đấu tranh, mang lại thắng lợi vẻ vang (Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954, Hiệp định Pa-ri năm 1973), từng bước giành quyền tự do, độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, vị thế quốc gia được ghi nhận trên trường quốc tế.
Trong các giai đoạn sau, Đảng Cộng sản Việt Nam đã kế thừa và phát triển nội hàm bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trên cơ sở kinh nghiệm của cha ông. Kinh nghiệm “giữ nước từ khi nước chưa nguy”, chiến tranh nhân dân đã trở thành nghệ thuật của chiến lược bảo vệ Tổ quốc. Thượng tướng Trần Quang Khải (1241 - 1294), nhà chính trị, quân sự thời Trần, từng nói: “Thái bình tu trí lực. Vạn cổ thử giang san” (Thái bình nên tu dưỡng trí lực, vận lực. Đất nước vững nghìn thu). Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn (1232 - 1300) nhấn mạnh: “Thượng hữu bình thời, tu dưỡng dân lực, kỳ kế sâu nhạ bổn chánh hĩ. Thử thượng sách dữ quốc gia giả dã” (Thời bình, phải khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc. Đó là thượng sách giữ nước). Vua Lê Thái Tổ (1385 - 1433) căn dặn con cháu, muôn dân trăm họ: “Biên phòng hảo vị trù phương lược. Xã tắc ung tu kế cửu an” (Biên phòng cần có phương án, chiến lược tốt. Đất nước phải có kế lâu dài). Cùng với đó, cha ông ta đã thực hiện nhiều chính sách làm cho “quốc phú, binh cường”, khi đất nước thanh bình thì khuyến khích nhân dân tích cực tham gia lao động, sản xuất, phát triển kinh tế, chuẩn bị tốt các điều kiện, có lực lượng đánh giặc, bảo vệ đất nước khi lâm nguy. Tinh hoa của cha ông để lại là di sản vô cùng quý báu được Đảng ta gìn giữ, tiếp thu và phát triển.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) xác định nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc là “bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững hòa bình, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta”(1).
Sự phát triển tư duy lý luận về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa cũng song hành với sự phát triển nhận thức về vấn đề an ninh, bao gồm cả an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống. Vấn đề an ninh phi truyền thống không biệt lập với an ninh truyền thống bởi hai vấn đề này luôn đan xen nhau và có thể chuyển hóa lẫn nhau. Đại hội VIII (năm 1996) của Đảng đã sớm nhận thấy: “Cộng đồng thế giới đứng trước nhiều vấn đề có tính toàn cầu (bảo vệ môi trường, hạn chế sự bùng nổ về dân số, phòng ngừa và đẩy lùi những bệnh tật hiểm nghèo...), không một quốc gia riêng lẻ nào có thể tự giải quyết, mà cần phải có sự hợp tác đa phương”(2). Đại hội IX (năm 2001) của Đảng tiếp tục khẳng định và bổ sung vấn đề chống tội phạm xuyên quốc gia vào nội dung này. Đại hội X (năm 2006) của Đảng bổ sung và phát triển: “Nhiều vấn đề toàn cầu bức xúc đòi hỏi các quốc gia và các tổ chức phối hợp giải quyết: khoảng cách chênh lệch giữa các nhóm nước giàu và nước nghèo ngày càng lớn; sự gia tăng dân số cùng với các luồng dân di cư; tình trạng khan hiếm nguồn năng lượng, cạn kiệt tài nguyên, môi trường tự nhiên bị hủy hoại; khí hậu diễn biến ngày càng xấu, kèm theo những thiên tai khủng khiếp; các dịch bệnh lớn, các tội phạm xuyên quốc gia có chiều hướng tăng”(3). Tại Đại hội XI (năm 2011), Đảng ta chính thức sử dụng khái niệm an ninh phi truyền thống với những vấn đề được chỉ ra, như chống khủng bố, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu, hạn chế sự bùng nổ về dân số, phòng ngừa và đẩy lùi những dịch bệnh hiểm nghèo(4).
Đến Hội nghị Trung ương 8 khóa XI (ngày 25-10-2013), lần đầu tiên mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa được Đảng ta xác định rõ với các nội dung: bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; giữ vững ổn định chính trị - xã hội, môi trường hòa bình để phát triển đất nước theo mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”(5). Nghị quyết Đại hội XII (năm 2016) của Đảng định hướng về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc với nội dung mới: “Có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; chủ động phòng ngừa, phát hiện sớm và triệt tiêu các nhân tố bất lợi, nhất là các nhân tố bên trong có thể gây ra đột biến”(6). Văn kiện Đại hội XIII (năm 2021) của Đảng bổ sung và làm rõ hơn nhiệm vụ bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đó là: “bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa và lợi ích quốc gia - dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, an ninh con người; xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”(7).
Có thể thấy, mục tiêu, yêu cầu và nhiệm vụ của quốc phòng - an ninh được Đảng ta khẳng định nhất quán, xuyên suốt, nhưng có sự bổ sung rõ hơn, toàn diện hơn cả về nội hàm và phạm vi bảo vệ. Mục tiêu bảo vệ Tổ quốc không đơn thuần là để ứng phó với chiến tranh, mà quan trọng và thiết yếu hơn là tạo ra sức mạnh để giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình, nhằm xây dựng, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “chủ động phòng ngừa” là chính. Ứng phó kịp thời, hiệu quả với các đe dọa an ninh phi truyền thống, nhất là nhiệm vụ cứu nạn, cứu hộ, phòng, chống thiên tai, dịch bệnh. Có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa. Nỗ lực phấn đấu để ngăn ngừa xung đột, chiến tranh và giải quyết các tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế”(8). Điều này cho thấy tầm nhìn tổng thể, toàn diện của Đảng ta trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Cùng với mục tiêu và nguyên tắc bảo đảm an ninh quốc gia, các biện pháp để thực hiện bảo đảm an ninh quốc gia cũng cần được xem xét một cách toàn diện.
Quan điểm của Đảng về bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay thể hiện sự kế thừa và phát triển quan điểm trước đó, đồng thời có một số điểm mới quan trọng, bảo đảm sự tiếp cận tổng thể và toàn diện hơn, như việc đặt quốc phòng - an ninh trong mối liên hệ chặt chẽ và tương tác với các lĩnh vực kinh tế, văn hóa - xã hội và đối ngoại.
Theo đó, công cuộc bảo vệ Tổ quốc cần huy động sự tham gia của tất cả lực lượng, phát huy vai trò và sức mạnh tổng hợp trên mọi lĩnh vực. Các phương thức, biện pháp bảo vệ Tổ quốc từ kinh tế, chính trị - ngoại giao, văn hóa - xã hội đến quốc phòng - an ninh cần được sử dụng một cách linh hoạt, mềm dẻo và có sự phối hợp chặt chẽ với nhau. Sự gắn kết và tương tác giữa các yếu tố sẽ tạo nên sức mạnh tổng hợp, toàn diện để bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và độc lập dân tộc. Chính tính chất đan xen và tương hỗ này đã khiến nhiệm vụ của đối ngoại luôn có sự gắn bó mật thiết với các lĩnh vực khác, như quốc phòng - an ninh, kinh tế - thương mại - đầu tư, văn hóa - xã hội. Đây là mối quan hệ tác động qua lại và bổ trợ cho nhau.
Tuy nhiên, trong từng giai đoạn lịch sử, công cuộc bảo vệ đất nước cũng đối mặt với nguy cơ và thách thức đặc thù. Trước bối cảnh đó, đường lối đối ngoại của Việt Nam luôn thể hiện sự linh hoạt, sáng tạo trong hoạch định và triển khai phương thức, giải pháp phù hợp. Nhờ sự ứng biến nhạy bén và hiệu quả, đối ngoại Việt Nam đã có bước chuyển mình và phát triển không ngừng qua các thời kỳ, đóng góp thiết thực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Một số thành tựu đối ngoại nổi bật trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
Qua các giai đoạn, đối ngoại Việt Nam đã góp phần quan trọng vào việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, phá thế bao vây, cấm vận trong bối cảnh đất nước gặp nhiều khó khăn. Đồng thời, Việt Nam cũng chủ động mở rộng quan hệ với nhiều quốc gia trên thế giới, qua đó tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia và củng cố vị thế của đất nước.
Bên cạnh việc hóa giải khó khăn, thách thức, đối ngoại Việt Nam đã đóng góp quan trọng vào việc xây dựng nhận thức mới về mối quan hệ biện chứng giữa an ninh và phát triển. Trong bối cảnh quốc tế và trong nước vô cùng phức tạp vào cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ XX, công tác đối ngoại đã đề xuất nhiều nội dung quan trọng trong đường lối và chính sách đối ngoại, như nhấn mạnh xu thế đấu tranh và hợp tác, cùng tồn tại hòa bình ngày càng phát triển... trên thế giới đang hình thành một thị trường, trong đó hai hệ thống kinh tế đối lập đấu tranh quyết liệt với nhau; mặt khác, sự hợp tác kinh tế là yêu cầu phát triển tất yếu của cả hai hệ thống; lợi ích cao nhất của Đảng và nhân dân ta là phải củng cố và giữ vững hòa bình để tập trung sức lực xây dựng và phát triển kinh tế; cần có quan điểm mới về an ninh và phát triển trong thời đại ngày nay để khẳng định mạnh mẽ phương hướng ưu tiên tập trung cho sự nghiệp giữ vững hòa bình và phát triển kinh tế. Các cơ quan trong lĩnh vực đối ngoại cũng tham gia soạn thảo nhiều văn bản pháp quy khác của Nhà nước, trong đó có các văn bản pháp quy liên quan đến quan hệ kinh tế đối ngoại.
Bước sang thập niên 90 của thế kỷ XX, trước những biến động lớn trên thế giới, đối ngoại Việt Nam đã chuyển mình mạnh mẽ để góp phần nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia và vị thế quốc tế, kiến tạo môi trường hòa bình, ổn định để phát triển. Trên nền tảng quan hệ được cải thiện với các nước lớn, Việt Nam đã nhanh chóng thiết lập và mở rộng quan hệ với các nước láng giềng, khu vực và trên thế giới, đồng thời từng bước tham gia các tổ chức, diễn đàn khu vực và quốc tế quan trọng, như Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Tổ chức Thương mại thế giới (WTO),... Trong giai đoạn này, đối ngoại đã có những bước phát triển mạnh mẽ về tư duy, thể hiện qua việc mở rộng khái niệm “đối tác, đối tượng”, chuyển từ “đổi mới để hội nhập” sang “hội nhập để phát triển”, xử lý hài hòa mối quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh trong từng mối quan hệ song phương cũng như trên các vấn đề quốc tế.
Đối ngoại Việt Nam phối hợp ngày càng chặt chẽ, hiệu quả với quốc phòng - an ninh để bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Những nỗ lực ngoại giao kiên định, linh hoạt của Việt Nam đã góp phần kiểm soát, ngăn ngừa xung đột, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển. Việc hoàn thành phân giới, cắm mốc trên đất liền đối với Trung Quốc, Lào, Cam-pu-chia cũng là một trong những thành tựu nổi bật của công tác biên giới trong thời kỳ này.
Ngày nay, trong tiến trình hội nhập quốc tế, công tác đối ngoại đã góp phần lớn vào việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội, bảo vệ đất nước “từ sớm, từ xa”, tối đa hóa lợi ích quốc gia - dân tộc, phục vụ phát triển kinh tế, mở rộng thị trường, thu hút công nghệ để đưa đất nước ngày càng phát triển. Việc thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, vì lợi ích quốc gia - dân tộc, đối ngoại đã khơi thông, mở rộng và đưa quan hệ của Việt Nam với nhiều đối tác ngày càng đi vào chiều sâu. Từ Ðại hội XI (năm 2011), Đảng ta đã nâng tầm từ hội nhập kinh tế sang “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế” một cách toàn diện. Tư duy đối ngoại đa phương cũng có bước chuyển quan trọng với Chỉ thị 25-CT/TW, ngày 8-8-2018, của Ban Bí thư, “Về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030”, từ “tham dự” sang “chủ động tham gia” và phát huy vai trò “nòng cốt”, dẫn dắt của Việt Nam. Công tác đối ngoại được triển khai ngày càng đồng bộ giữa các “binh chủng” đối ngoại với các định hướng công tác, phối hợp trong Chỉ thị số 04-CT/TW, ngày 6-7-2011, của Bộ Chính trị, “Về tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại nhân dân trong tình hình mới” và Chỉ thị số 32-CT/TW, ngày 18-2-2019, của Bộ Chính trị, “Về tăng cường và nâng cao hiệu quả quan hệ đối ngoại đảng trong tình hình mới”...
Nỗ lực của công tác đối ngoại cùng các ban, bộ, ngành đã góp phần tạo dựng cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế chưa từng có cho đất nước. Từ chỗ phải phấn đấu để “thêm bạn, bớt thù”, hiện nay Việt Nam ở vị thế “làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”, như tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Từ chỗ bị bao vây, cấm vận, chỉ có quan hệ với khoảng 30 nền kinh tế, Việt Nam đã có quan hệ kinh tế - thương mại với 230 nước và vùng lãnh thổ, tham gia hơn 500 hiệp định thương mại song phương và đa phương trên nhiều lĩnh vực, tiếp cận thị trường gần 60 nền kinh tế, chiếm gần 90% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) thế giới(9). Việt Nam ngày càng tham gia sâu vào các định chế quản trị đa phương, đóng góp vào thúc đẩy xu thế hòa bình, ổn định của khu vực và trên thế giới. Việt Nam trở thành đối tác tin cậy, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, thể hiện qua việc đảm nhiệm thành công vai trò Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Chủ tịch ASEAN, nước Chủ nhà APEC và nhiều sự kiện ngoại giao quan trọng.
Việt Nam cũng tạo được thế đan xen lợi ích với các nước lớn, các nước tầm trung quan trọng. Đến nay, Việt Nam đã xây dựng và nâng cấp quan hệ đối tác chiến lược, đối tác chiến lược toàn diện với 18 nước. Mới đây, Việt Nam được bầu làm thành viên Hội đồng Chấp hành của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) nhiệm kỳ 2021 - 2025, Hội đồng Thống đốc Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA), Hội đồng Khai thác bưu chính của Liên minh Bưu chính thế giới (UPU), Ủy ban Luật pháp quốc tế (ILC) nhiệm kỳ 2023 - 2027, Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023 - 2025...
Bài học kinh nghiệm và định hướng, giải pháp cho đối ngoại Việt Nam trong thời gian tới
Từ thực tiễn công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm cho đối ngoại Việt Nam trong thời gian tới.
Một là, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là hai mặt có mối quan hệ biện chứng không thể tách rời. Một trong những phương thức hữu hiệu nhất để bảo vệ đất nước là xây dựng nội lực của đất nước đủ sức mạnh răn đe, phòng ngừa và ngăn chặn “từ sớm, từ xa” mọi nguy cơ xung đột, chiến tranh. Muốn vậy, việc xây dựng một nền tảng quốc phòng - an ninh, kinh tế - xã hội vững mạnh, ổn định chính trị và đoàn kết toàn dân là điều kiện tiên quyết tạo nên sức mạnh tổng hợp quốc gia, nâng cao nội lực quốc gia để chủ động ứng phó với mọi thách thức.
Hai là, cân bằng quan hệ với các nước lớn, coi trọng quan hệ với các nước láng giềng. Lịch sử đã minh chứng, chính sách và sự tương tác giữa các cường quốc thường chi phối cục diện quan hệ quốc tế. Trong quá khứ, Việt Nam từng có thời điểm rơi vào thế bị động, phụ thuộc vào một số nước lớn. Rút kinh nghiệm từ điều đó, trong quan hệ với các nước lớn hiện nay, Việt Nam cần thực thi một chính sách cân bằng, linh hoạt và độc lập, dựa trên nguyên tắc bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc, giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền và an ninh quốc gia. Song song quan hệ với các nước lớn, việc xây dựng và củng cố quan hệ hữu nghị, hợp tác lâu dài, bền vững với các nước láng giềng vùng “phên dậu” là yêu cầu quan trọng. Môi trường an ninh khu vực láng giềng có tác động trực diện đến an ninh và phát triển của Việt Nam. Do đó, xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị với các nước láng giềng là giải pháp hữu hiệu góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia.
Ba là, tăng cường đa dạng hóa quan hệ, đan xen lợi ích để duy trì môi trường hòa bình, giảm thiểu các nguy cơ xung đột. Tăng cường đan xen, ràng buộc lợi ích với nhiều đối tác thông qua các thỏa thuận hợp tác song phương và đa phương là một trong những cơ sở quan trọng để kiến tạo và duy trì môi trường hòa bình, an ninh, ổn định. Đối với Việt Nam, chiến lược này vừa giúp hạn chế rủi ro đối đầu, vừa tạo dựng thế đan xen khiến các đối tác có lợi ích gắn bó lâu dài, sẵn sàng ủng hộ một Việt Nam phát triển, ổn định, thịnh vượng.
Bốn là, xây dựng lòng tin chiến lược và nhận thức đúng đắn của các nước khác về chính sách đối ngoại hòa hiếu và nguyên tắc quốc phòng “bốn không”(10) của Việt Nam là chìa khóa quan trọng để bảo vệ đất nước “từ sớm, từ xa”. Điều này đặc biệt có ý nghĩa khi nhìn lại lịch sử, Việt Nam từng phải trải qua những giai đoạn hết sức khó khăn, bị bao vây, cấm vận. Điều này cho thấy tầm quan trọng của việc xây dựng một hình ảnh tích cực, một sự hiểu biết đúng đắn từ cộng đồng quốc tế về đường lối, chính sách đối ngoại yêu chuộng hòa bình của Việt Nam cũng như lập trường nhất quán về bảo vệ chủ quyền bằng biện pháp hòa bình, không xâm phạm lãnh thổ nước khác.
Từ bài học kinh nghiệm quý báu trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng, có thể rút ra ba định hướng hữu ích cho đối ngoại Việt Nam.
Thứ nhất, lợi ích quốc gia - dân tộc là mục tiêu tối thượng của hoạt động đối ngoại. Bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc cần dựa trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi.
Thứ hai, kiên trì đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại kết hợp chặt chẽ với nguyên tắc “bốn không” trong chính sách quốc phòng để duy trì cân bằng quan hệ với các nước. Nhiệm vụ xuyên suốt trong hoạt động đối ngoại Việt Nam đó là luôn đặt đất nước vào vị trí có lợi nhất để ứng phó với mọi diễn biến biến động phức tạp của tình hình khu vực và thế giới. Đồng thời, kiên định khẳng định độc lập, tự chủ là không phụ thuộc vào ai, giữ vững ổn định, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế, vai trò của đất nước trên trường quốc tế.
Thứ ba, tiếp tục mở rộng các liên kết kinh tế thông qua thỏa thuận hợp tác song phương và đa phương, vừa để thu hút nguồn lực góp phần gia tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia, vừa tạo thế đan xen lợi ích với các nước, nhất là các nước lớn, qua đó làm giảm nguy cơ căng thẳng, tạo dựng môi trường hòa bình, ổn định, thuận lợi cho phát triển đất nước.
Trên cơ sở ba định hướng, đối ngoại Việt Nam có thể cân nhắc các vấn đề cơ bản sau:
Một là, bảo đảm sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối, toàn diện của Đảng và sự đoàn kết thống nhất triển khai trong toàn hệ thống chính trị. Sự lãnh đạo tập trung của Đảng, sự quản lý thống nhất của Nhà nước, sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành và toàn bộ hệ thống chính trị là điều kiện tiên quyết để thực hiện thành công sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Hai là, tiếp tục đẩy mạnh công tác nghiên cứu, dự báo, giao ban chia sẻ thông tin giữa đối ngoại với quốc phòng, an ninh để ứng phó linh hoạt trước thách thức an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống. Đây là ba binh chủng nòng cốt để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Việc chia sẻ thông tin, điều phối giữa đối ngoại, với quốc phòng và an ninh giúp các cơ quan, đơn vị có góc nhìn tổng thể, toàn diện về tình hình, từ đó đưa ra đánh giá, nhận định chính xác, kịp thời, góp phần nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”. Bên cạnh đó, cần tăng cường năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại trong cả ba binh chủng này.
Ba là, tích cực, chủ động tham gia những sáng kiến có lợi cho hòa bình và phát triển, nâng cao vị thế đất nước trên trường quốc tế. Không bỏ lỡ cơ hội đặt đất nước vào vị trí tối ưu trong cục diện quốc tế mới. Không để đất nước ở thế bị động, ngoài lề trong những vấn đề liên quan đến lợi ích sát sườn của Việt Nam. Tăng cường hợp tác, gắn kết với các nước trên thế giới, tạo sự ràng buộc đan xen lợi ích.
Bốn là, ủng hộ chủ nghĩa đa phương với vai trò trung tâm của Liên hợp quốc cũng như các tôn chỉ và nguyên tắc đã được nêu trong Hiến chương Liên hợp quốc. Thúc đẩy vai trò của ASEAN và các cơ chế hợp tác tiểu đa phương phù hợp với quan tâm và lợi ích của Việt Nam. Tích cực tham gia cơ chế, thể chế quốc tế, giải quyết tranh chấp, xung đột bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế. Mở rộng và phát huy hơn nữa vai trò các lực lượng của Việt Nam trong sứ mệnh tham gia gìn giữ hòa bình quốc tế. Xây dựng kế hoạch và nguồn lực dài hạn để đưa cán bộ Việt Nam tham gia các tổ chức quốc tế.
Năm là, vận dụng thế mạnh đặc thù của đối ngoại để bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”. Với ưu thế mạng lưới cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài rộng lớn; có quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện với hầu hết các nước có vai trò và vị trí quan trọng trên thế giới, đối ngoại Việt Nam có thể sớm nắm bắt được tình hình, dự báo và tham mưu cho Đảng, Nhà nước về nguy cơ có thể xảy ra. Trên cơ sở đó, các hoạt động trao đổi, đàm phán chính là mũi nhọn tiên phong để chia sẻ thông tin, quan điểm, xóa bỏ hiểu lầm, nghi kỵ, xây dựng lòng tin, từ đó tìm ra điểm chung giúp giảm thiểu mâu thuẫn, xung đột.
Sáu là, triển khai mạnh mẽ, toàn diện công tác về người Việt Nam ở nước ngoài, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc làm nền tảng vững chắc để bảo vệ Tổ quốc. Công tác kết nối cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài không chỉ giúp duy trì và phát huy truyền thống yêu nước, gắn bó với quê hương đất nước của bà con kiều bào, mà còn động viên bà con kiều bào chung tay đóng góp công sức, trí tuệ vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nhìn lại hành trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, có thể thấy đối ngoại Việt Nam dù trải qua không ít thăng trầm, thách thức, nhưng đã đạt nhiều thành tựu quan trọng và đúc rút được bài học kinh nghiệm quý báu. Đối ngoại Việt Nam đang trong quá trình hoàn thiện theo hướng toàn diện, hiện đại, chuyên nghiệp, nhằm thích ứng linh hoạt trước chuyển biến nhanh của tình hình thế giới, phấn đấu vì khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân./.
--------------------------
(1) Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 25
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 77
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 74
(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 69
(5) “Thông báo Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI)”, Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/hoi-nghi-bch-trung-uong/khoa-xi/thong-bao-hoi-nghi-lan-thu-8-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-xi-587
(6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr. 149
(7), (8) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 156, 156 - 157
(9) Nguyễn Hồng Sơn: “Phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong thu hút nguồn lực bên ngoài nhằm thực hiện các đột phá chiến lược, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 21-2-2024, https://www.tapchicongsan.org.vn/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/phat-huy-vai-tro-tien-phong-cua-doi-ngoai-trong-thu-hut-nguon-luc-ben-ngoai-nham-thuc-hien-cac-dot-pha-chien-luoc
(10) 1- Không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ để chống lại nước khác; 2- Không tham gia liên minh quân sự; 3- Không liên kết với nước này để chống nước kia; 4- Không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế
Đối ngoại đảng và quan hệ giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và các đảng chính trị ở Ấn Độ  (30/08/2024)
Trường phái đối ngoại, ngoại giao “cây tre Việt Nam” trong sự nghiệp đổi mới đất nước  (06/06/2024)
Đối ngoại nhân dân phát huy vai trò trụ cột trong nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam  (19/05/2024)
- Tổ hợp công nghiệp quốc phòng và gợi mở hướng nghiên cứu về mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng công nghệ cao ở Việt Nam
- Quan điểm và ứng xử của Trung Quốc trước tình hình thế giới mới
- Đóng góp của phụ nữ Việt Nam qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới
- Một số nội dung chủ yếu trong đường lối, chủ trương của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa liên quan đến chuyển đổi công nghiệp
- Mối quan hệ giữa già hóa dân số và tăng trưởng kinh tế: Kinh nghiệm của Nhật Bản và hàm ý chính sách đối với Việt Nam
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Kinh tế
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam