Vai trò của truyền thông chính sách công trong xây dựng Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số

TS Nguyễn Thị Tuyết Minh
Viện Báo chí - Truyền thông, Học viện Báo chí và Tuyên truyền
00:17, ngày 17-09-2025

TCCS - Trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, chuyển đổi số quốc gia là một cuộc cách mạng sâu sắc, toàn diện, trong đó xây dựng Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số là nhiệm vụ trọng tâm. Việc đổi mới, nâng cao hiệu quả truyền thông chính sách công trên nền tảng công nghệ số, lấy người dân làm trung tâm có vai trò quan trọng, góp phần tạo đồng thuận xã hội, phát huy sức mạnh toàn dân, hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Đoàn viên thanh niên hỗ trợ, hướng dẫn người dân dùng các thiết bị thông minh, truy cập internet an toàn và thực hiện dịch vụ công trực tuyến_Ảnh: TTXVN

Chuyển đổi số và truyền thông chính sách công trong kỷ nguyên mới

Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định, đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử sau gần 40 năm đổi mới đã tạo tiền đề vật chất và tinh thần vững chắc, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta quyết tâm thực hiện khát vọng xây dựng một nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc, phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, có thu nhập cao, sánh vai với các cường quốc năm châu. Để hiện thực hóa tầm nhìn chiến lược đó, Đảng ta xác định cần thực hiện những nhiệm vụ trọng tâm mang tính đột phá, trong đó nổi bật là hai cuộc cách mạng lớn diễn ra đồng thời, gắn bó chiến lược, tương hỗ chặt chẽ với nhau, đó là: Tinh gọn bộ máy và đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.

Đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị theo hướng tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả là đòi hỏi tất yếu khách quan, nhiệm vụ cơ bản và cấp bách được nêu rõ trong Nghị quyết số 18-NQ/TW, của Hội nghị Trung ương 6 khóa XII và tiếp tục được nhấn mạnh tại các hội nghị Trung ương khóa XIII của Đảng. Thực tiễn cho thấy, bộ máy cồng kềnh với nhiều tầng nấc trung gian, chức năng, nhiệm vụ chồng chéo không chỉ làm tăng gánh nặng cho ngân sách nhà nước, mà còn là rào cản kìm hãm sự phát triển. Việc sắp xếp lại tổ chức bộ máy, giảm tầng nấc trung gian, làm rõ chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, đơn vị là bước đi quan trọng để tạo ra hệ thống quản trị quốc gia linh hoạt, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới.

Song song với cuộc cách mạng về tổ chức bộ máy, chuyển đổi số quốc gia được xác định là một trong những giải pháp đột phá hàng đầu, động lực quan trọng để phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất trong kỷ nguyên mới. Lần đầu tiên các khái niệm chuyển đổi số, kinh tế số, xã hội số được đưa vào văn kiện Đại hội XIII của Đảng, xác định là một trong ba trụ cột để thực hiện phát triển nhanh và bền vững, góp phần tạo bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Nghị quyết số 57-NQ/TW, của Bộ Chính trị đã khẳng định, phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là cuộc cách mạng sâu sắc, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, trong đó Nhà nước giữ vai trò dẫn dắt, thúc đẩy và tạo điều kiện thuận lợi nhất. Mục tiêu của chuyển đổi số không chỉ dừng lại ở việc hiện đại hóa công cụ làm việc, mà là thay đổi toàn diện về cách sống, cách làm việc và phương thức sản xuất dựa trên công nghệ số, với mục tiêu cuối cùng là xây dựng thành công Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số.

Trong bối cảnh đó, truyền thông chính sách công đóng vai trò và sứ mệnh mới, mang tính tất yếu và là một thành tố hữu cơ không thể tách rời của quá trình chuyển đổi. Nếu như trước đây, truyền thông chính sách có phần nghiêng về phổ biến, tuyên truyền một chiều, thì trong thế giới số hiện nay, người dân ngày càng có vai trò chủ thể tích cực. Truyền thông chính sách phải trở thành công cụ quản trị quốc gia hiện đại, phương thức tương tác hai chiều hiệu quả giữa Nhà nước và công dân.

Vai trò mới của truyền thông chính sách công trong kỷ nguyên số thể hiện ở ba khía cạnh then chốt. Thứ nhất, đó là công cụ kiến tạo sự đồng thuận xã hội, đưa chủ trương, nghị quyết của Đảng vào cuộc sống một cách hiệu quả. Chính sách dù đúng đắn đến đâu, nếu không được người dân thấu hiểu, đồng tình, ủng hộ thì cũng khó để thực hiện thành công trong thực tiễn. Truyền thông hiệu quả sẽ giúp người dân nhận thức rõ lợi ích của việc sắp xếp, tinh gọn bộ máy, các dịch vụ công số, từ đó chủ động tham gia và giám sát quá trình thực hiện. Thứ hai, truyền thông chính sách là kênh tương tác, phản biện và hoàn thiện thể chế quan trọng. Thông qua nền tảng số, Nhà nước có thể lắng nghe ý kiến, tiếp thu sáng kiến từ người dân và doanh nghiệp một cách nhanh chóng, minh bạch, từ đó điều chỉnh chính sách cho phù hợp thực tiễn. Thứ ba, đây là yếu tố bảo đảm cho sự vận hành thông suốt của Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số. Truyền thông phải có nhiệm vụ hướng dẫn, nâng cao kỹ năng số cho người dân, giúp họ dễ dàng tiếp cận và sử dụng các dịch vụ công trực tuyến, tham gia vào các hoạt động kinh tế - xã hội trên môi trường số một cách an toàn và hiệu quả.

Trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, việc đổi mới và nâng cao hiệu quả truyền thông chính sách công trên nền tảng số không còn là một lựa chọn, mà đã trở thành yêu cầu bắt buộc, yếu tố then chốt để thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược: Tinh gọn bộ máy và xây dựng thành công Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số.

Những vấn đề đặt ra đối với truyền thông chính sách công trong bối cảnh hiện nay

Thành tựu từ công cuộc chuyển đổi số quốc gia và việc ứng dụng công nghệ số vào hoạt động của các cơ quan nhà nước đã tạo nền tảng quan trọng cho việc đổi mới công tác truyền thông chính sách công. Nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu quốc gia (NDXP) ngày càng phát huy hiệu quả, với 388 điểm kết nối giữa các hệ thống và cơ sở dữ liệu của 95 cơ quan, đơn vị, thực hiện khoảng 2,29 triệu giao dịch mỗi ngày. Vị thế của Việt Nam trên bản đồ Chính phủ điện tử thế giới cũng được cải thiện đáng kể. Theo Báo cáo của Liên hợp quốc năm 2024, chỉ số phát triển Chính phủ điện tử (EGDI) của Việt Nam xếp hạng thứ 71/193 quốc gia, tăng 15 bậc so với năm 2022 và lần đầu tiên được xếp vào nhóm các nước có chỉ số ở mức “Rất cao”. Việc gửi, nhận văn bản điện tử trên Trục liên thông văn bản quốc gia đã trở thành hoạt động thường xuyên, với hơn 12,2 triệu văn bản trong năm 2024, góp phần tiết kiệm thời gian và chi phí hành chính(1).

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực, công tác truyền thông chính sách công trong bối cảnh chuyển đổi số vẫn đang đối mặt với một số thách thức sau:

Tư duy và phương thức truyền thông chưa theo kịp yêu cầu của kỷ nguyên số. Công tác truyền thông chính sách ở nhiều nơi vẫn mang nặng tính một chiều, từ trên xuống, tập trung vào việc phổ biến những gì cơ quan quản lý đã ban hành thay vì truyền thông, đối thoại về những vấn đề mà người dân và doanh nghiệp quan tâm(2). Cách tiếp cận này chưa thực sự lấy người dân làm trung tâm, chưa tạo ra được sự tương tác, đối thoại để lắng nghe, tiếp thu và giải trình các ý kiến phản hồi. Việc xây dựng và triển khai các chiến dịch truyền thông còn rời rạc, thiếu tính chiến lược và tính chuyên nghiệp, dẫn đến thông điệp chính sách bị phân mảnh, khó tiếp cận và không đủ sức thuyết phục trong môi trường thông tin đa dạng, phức tạp như hiện nay.

Hạ tầng công nghệ, nền tảng dữ liệu còn phân mảnh, thiếu liên thông, đồng bộ. Đây là một trong những rào cản lớn. Mặc dù đã có nhiều nỗ lực, tình trạng “silo thông tin”, cát cứ dữ liệu vẫn tồn tại ở nhiều bộ, ngành, địa phương. Mỗi cơ quan xây dựng một hệ thống riêng, thiếu chuẩn chung, gây khó khăn cho việc kết nối, chia sẻ và khai thác dữ liệu phục vụ cho một chiến lược truyền thông thống nhất(3). Người dân, doanh nghiệp khi muốn tìm hiểu về một chính sách liên ngành phải truy cập vào nhiều cổng thông tin khác nhau, thông tin và trải nghiệm không đồng nhất. Thực trạng bộ máy còn cồng kềnh, chức năng nhiệm vụ chồng chéo càng làm cho vấn đề này thêm trầm trọng, khiến việc xác định đầu mối chịu trách nhiệm thông tin và phối hợp truyền thông trở nên khó khăn(4).

Năng lực số và kỹ năng truyền thông trong kỷ nguyên số của đội ngũ cán bộ, công chức chưa đồng đều. Để vận hành hệ thống truyền thông chính sách hiện đại, đội ngũ cán bộ cần có sự nhạy bén về chính trị, am hiểu sâu sắc chính sách kết hợp với kỹ năng công nghệ, phân tích dữ liệu, xử lý khủng hoảng truyền thông trên không gian mạng. Tuy nhiên, một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức, nhất là ở cấp cơ sở vẫn chưa được đào tạo bài bản các kỹ năng này. Tình trạng hành chính hóa trong hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội cũng ảnh hưởng đến tính linh hoạt, sáng tạo trong công tác truyền thông. Việc tinh giản biên chế ở một số nơi mới dừng lại ở việc giảm cơ học, chưa thực sự chắt lọc, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu mới.

Thách thức về an toàn, an ninh thông tin trên không gian mạng. Sự phát triển của internet và các phương tiện truyền thông xã hội với tốc độ lan truyền thông tin nhanh chóng, vừa là cơ hội vừa là thách thức lớn trong bối cảnh hiện nay. Các thế lực thù địch, phản động lợi dụng các phương tiện truyền thông xã hội để tung tin giả, xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, gây nhiễu loạn thông tin, làm suy giảm lòng tin của nhân dân. Bên cạnh đó, việc xây dựng các cơ sở dữ liệu lớn, đặc biệt là cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư đặt ra yêu cầu cấp thiết về bảo mật thông tin cá nhân. Người dân cần được bảo đảm rằng dữ liệu của họ được Nhà nước bảo vệ an toàn, không bị lạm dụng. Bất kỳ sự cố nào về an ninh mạng cũng có thể gây ra khủng hoảng niềm tin, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quá trình xây dựng Chính phủ số.

Hành lang pháp lý, thể chế cho chuyển đổi số và truyền thông chính sách trên môi trường số chưa hoàn thiện, chưa theo kịp thực tiễn. Việt Nam vẫn chưa có văn bản quy phạm pháp luật chung điều chỉnh việc chuyển đổi số trong cơ quan nhà nước, Chính phủ điện tử, Chính phủ số. Các quy định hiện hành còn nằm rải rác ở nhiều luật chuyên ngành khác nhau. Việc thiếu một khung pháp lý tổng thể, đồng bộ gây khó khăn cho việc triển khai, đặc biệt là trong các vấn đề như chia sẻ dữ liệu, định danh và xác thực điện tử, bảo vệ dữ liệu cá nhân hay quy định rõ trách nhiệm truyền thông của các cơ quan nhà nước. Việc chậm hoàn thiện thể chế có thể làm chậm quá trình chuyển đổi số và nỗ lực đổi mới công tác truyền thông chính sách của nước ta.

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả truyền thông chính sách công, thúc đẩy vận hành Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số

Để vượt qua những thách thức đã nhận diện, đưa truyền thông chính sách công trở thành động lực cho phát triển, cần triển khai đồng bộ, quyết liệt, hiệu quả một số giải pháp sau:

Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện thể chế, xây dựng chiến lược truyền thông chính sách công đồng bộ, thống nhất trong tổng thể chiến lược chuyển đổi số quốc gia. Thể chế, chính sách phải đi trước một bước để dẫn dắt và kiến tạo phát triển. Dù đã có nhiều văn bản chỉ đạo nhưng vẫn cần nghiên cứu, xây dựng và ban hành một văn bản quy phạm pháp luật ở tầm luật, như Luật Chính phủ điện tử hoặc Luật Chuyển đổi số, để tạo hành lang pháp lý chung, thống nhất, khắc phục sự chồng chéo, phân mảnh(5). Trong đó, cần có những quy định cụ thể về trách nhiệm, quyền hạn và cơ chế phối hợp trong công tác truyền thông chính sách của các cơ quan nhà nước; về quản lý, chia sẻ, khai thác dữ liệu số và bảo vệ thông tin cá nhân của công dân.

Xây dựng một chiến lược quốc gia về truyền thông chính sách công trong kỷ nguyên số. Chiến lược cần được tích hợp ngay từ đầu vào quá trình hoạch định chính sách chứ không phải là công đoạn sau cùng. Cần xác định rõ mục tiêu, thông điệp chủ đạo, đối tượng, kênh truyền thông và các chỉ số đo lường hiệu quả cho từng nhóm chính sách lớn, bảo đảm tính nhất quán từ trung ương đến địa phương(6). Việc này đòi hỏi vai trò điều phối của các cơ quan chức năng, đặc biệt là Ban Chỉ đạo Trung ương về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, để bảo đảm các nỗ lực truyền thông không bị rời rạc, cục bộ mà tạo thành sức mạnh tổng hợp, phục vụ hiệu quả cho các mục tiêu phát triển chung của đất nước(7).

Thứ hai, phát triển các nền tảng công nghệ số tích hợp lấy người dân làm trung tâm, ưu tiên trải nghiệm trên thiết bị di động. Để phá vỡ các “silo thông tin”, cần xây dựng một kiến trúc Chính phủ điện tử dựa trên nền tảng quản lý thông tin tích hợp. Nền tảng này cho phép quản lý, liên thông và chia sẻ dữ liệu giữa các bộ, ngành, địa phương, tạo ra một nguồn dữ liệu duy nhất và đáng tin cậy(8). Từ đó, hình thành các cổng dịch vụ công và hệ thống thông tin thực sự là “một cửa” duy nhất cho người dân, nơi họ có thể tiếp cận mọi thông tin và dịch vụ cần thiết mà không cần biết cơ quan nào đang xử lý ở phía sau.

Đặc biệt, cần quán triệt quan điểm người dân là trung tâm của chuyển đổi số, thiết bị di động thông minh là phương tiện chính của người dân trong thế giới số. Các nền tảng và ứng dụng phải được thiết kế theo hướng ưu tiên cho thiết bị di động. Phát triển các ứng dụng di động cho các dịch vụ công thiết yếu, như y tế, giáo dục, an sinh xã hội, đăng ký kinh doanh…, giúp người dân có thể tương tác với chính quyền mọi lúc, mọi nơi một cách thuận tiện nhất. Việc này cũng góp phần thu hẹp khoảng cách số, đưa dịch vụ công đến gần hơn với người dân, nhất là ở vùng sâu, vùng xa.

Thứ ba, đổi mới toàn diện nội dung và phương thức truyền thông, chú trọng tăng cường tương tác hai chiều và sự tham gia của người dân. Cần chuyển đổi căn bản từ phương thức truyền thông một chiều, mang tính phổ biến, áp đặt sang phương thức đối thoại, tương tác, lắng nghe và giải trình. Thay vì chỉ thông báo về chính sách, các cơ quan nhà nước cần tích cực sử dụng công nghệ số để tổ chức tham vấn, lấy ý kiến người dân ngay từ khâu dự thảo. Tận dụng các phương tiện truyền thông xã hội, diễn đàn trực tuyến, ứng dụng di động để tạo các kênh phản hồi chính thức, nơi người dân có thể đóng góp ý kiến, nêu khó khăn, vướng mắc và được các cơ quan chức năng giải đáp kịp thời, công khai.

Bên cạnh đó, việc áp dụng các công nghệ phân tích dữ liệu lớn (Big Data Analytics) và trí tuệ nhân tạo (AI) sẽ giúp các cơ quan nhà nước nắm bắt, phân tích các luồng dư luận xã hội, tâm tư, nguyện vọng của người dân một cách nhanh chóng, chính xác. Từ đó dự báo các vấn đề tiềm ẩn, chủ động xây dựng các kịch bản truyền thông và điều chỉnh thông điệp chính sách một cách linh hoạt, phù hợp, giúp nâng cao hiệu quả và tính thuyết phục của công tác truyền thông, xử lý khủng hoảng truyền thông có thể xảy ra.

Thứ tư, đẩy mạnh Chính phủ mở, dữ liệu mở để kiến tạo niềm tin, thúc đẩy sự minh bạch và đồng sáng tạo. Minh bạch là nền tảng của niềm tin. Một trong những giải pháp hữu hiệu nhất để chống lại tin giả, tin sai lệch chính là chủ động cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ và kịp thời từ phía các cơ quan nhà nước. Việc tiếp tục rà soát, công khai và cung cấp dữ liệu mở của các cơ quan nhà nước (trừ các dữ liệu thuộc phạm vi bí mật, an ninh quốc gia hoặc thông tin cá nhân) là một hướng đi tất yếu, yêu cầu quan trọng trong quá trình chuyển đổi số và tăng cường minh bạch thông tin.

Việc mở dữ liệu không chỉ giúp người dân và doanh nghiệp giám sát hoạt động của chính quyền một cách hiệu quả, mà còn mở ra một nguồn tài nguyên quý giá cho đổi mới, sáng tạo. Các doanh nghiệp công nghệ, nhà nghiên cứu và người dân có thể sử dụng nguồn dữ liệu này để phát triển các ứng dụng, dịch vụ mới tiện ích cho xã hội, góp phần thúc đẩy kinh tế số. Đây là cách huy động trí tuệ và nguồn lực toàn xã hội vào công cuộc phát triển đất nước.

Thứ năm, chú trọng phát triển nguồn nhân lực số và tăng cường cơ chế hợp tác công - tư. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ năng lực và phẩm chất, đáp ứng yêu cầu của kỷ nguyên số là yếu tố quyết định để thực hiện thành công các giải pháp trên. Cần đổi mới mạnh mẽ chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, tập trung vào các kỹ năng mới, như phân tích dữ liệu, truyền thông đa phương tiện, quản trị phương tiện truyền thông xã hội, an toàn thông tin và xử lý khủng hoảng truyền thông. Có cơ chế tuyển dụng, đãi ngộ và đánh giá cán bộ dựa trên hiệu quả công việc thực tế, loại bỏ những người không đáp ứng yêu cầu, “không để cơ quan nhà nước là “vùng trú ẩn an toàn” cho cán bộ yếu kém”(9).

Bên cạnh nguồn lực nội tại, việc huy động nguồn lực từ xã hội, đặc biệt là từ khu vực tư nhân có ý nghĩa đột phá. Cần hoàn thiện và triển khai hiệu quả cơ chế hợp tác công - tư trong lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông. Nhà nước giữ vai trò kiến tạo, định hướng, ban hành thể chế; các doanh nghiệp công nghệ hàng đầu tham gia đầu tư, phát triển và vận hành các nền tảng hạ tầng số, ứng dụng Chính phủ số và các chiến dịch truyền thông quy mô lớn. Mô hình này không chỉ giúp giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước, mà còn tận dụng được năng lực công nghệ, sự năng động, sáng tạo và kinh nghiệm quản lý của khu vực tư nhân, đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số quốc gia./.

------------------------

(1), (5), (7) Xem: Hà Lê Thành Trung: “Chuyển đổi số đáp ứng yêu cầu sắp xếp, tinh gọn bộ máy trong hệ thống chính trị”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 23-6-2025,

https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/nghien-cu/-/2018/1097302/chuyen-doi-so-dap-ung-yeu-cau-sap-xep%2C-tinh-gon-bo-may-trong-he-thong-chinh-tri.aspx

(2) (6) Xem: Nguyễn Thị Ngọc Hoa: “Truyền thông chính sách trong bối cảnh chuyển đổi số ở Việt Nam nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 544 (6-2023).

(3), (8) Mark J. Barrenechea & Tom Jenkins: E - Government or Out of Government (Tạm dịch: Chính phủ điện tử hay ngoài chính phủ), Open Text Corporation, Waterloo, Ontario, Canada, 2014, tr. 39, tr. 59

(4) Xem: PGS, TS Lê Minh Thông: “Xây dựng tổ chức bộ máy hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả đáp ứng yêu cầu của kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 28-1-2025,

https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/chinh-tri-xay-dung-dang/-/2018/1050202/xay-dung-to-chuc-bo-may-he-thong-chinh-tri-tinh-gon%2C-hoat-dong-hieu-luc%2C-hieu-qua-dap-ung-yeu-cau-cua-ky-nguyen-moi---ky-nguyen-vuon-minh-cua-dan-toc-viet-nam.aspx

(9) Tô Lâm: “Phát huy cao độ tinh thần trách nhiệm, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo với quyết tâm cao nhất để hoàn thành sớm việc tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị; góp phần tăng tốc, bứt phá vượt các mục tiêu, nhiệm vụ của năm 2024, 2025 và cả nhiệm kỳ Đại hội XIII; chuẩn bị thật tốt đại hội đảng các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng”, Tạp chí Cộng sản, số 1051 (12-2024), tr. 7