Bảo vệ giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay

Trung tá Nguyễn Văn Hoàng
Chính trị viên phó Ban Chỉ huy Quân sự thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định
09:14, ngày 31-07-2024

TCCS - Trong mọi giai đoạn của cách mạng Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh đã khẳng định giá trị trường tồn, là một bộ phận quan trọng cấu thành nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng, là ngọn cờ dẫn dắt cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Do đó, việc bảo vệ giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh là một trong những nhiệm vụ quan trọng, có ý nghĩa cấp thiết trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Bác Hồ với nữ chiến sĩ thi đua miền Bắc_Ảnh: Tư liệu

1- Giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh được khẳng định qua các cơ sở lý luận và thực tiễn sau:

Thứ nhất, tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta đi đến thắng lợi.

Tư tưởng của Người là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân; nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; phát triển kinh tế, văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; đạo đức cách mạng “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”; chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên “vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ trung thành của nhân dân”… Cả cuộc đời hoạt động cách mạng, Người không chỉ luôn phấn đấu thực hiện, mà còn giáo dục, dìu dắt các thế hệ cách mạng và người dân Việt Nam về tư tưởng đó. Chính vì vậy, Người là hiện thân của chủ nghĩa nhân văn cao cả, suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, mang lại độc lập, tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc cho nhân dân. Người là biểu tượng sáng ngời của tình đoàn kết quốc tế, một chiến sĩ quả cảm không ngừng đấu tranh cho hòa bình và tiến bộ xã hội... Tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành giá trị văn hóa có ảnh hưởng mạnh mẽ trên thế giới; là tài sản tinh thần vô cùng quý báu của dân tộc ta trên con đường hội nhập và phát triển. Dù thế giới biến đổi không ngừng và có nhiều thay đổi phức tạp, khó lường, nhưng giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh luôn trường tồn cùng với sự phát triển tiến bộ của nhân loại và dân tộc Việt Nam.

Thứ hai, tư tưởng Hồ Chí Minh góp phần phát triển, làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong điều kiện cách mạng Việt Nam.

Chủ tịch Hồ Chí Minh học tập, tiếp thu và vận dụng lý luận Mác - Lê-nin một cách sáng tạo trên nền của một nhân cách vĩ đại, với trí tuệ uyên bác và luôn lấy thực tiễn Việt Nam làm điểm xuất phát. Những vấn đề lý luận và thực tiễn của cách mạng Việt Nam đã được Người luận giải trên cơ sở gắn lý luận với thực tiễn, xuất phát từ đòi hỏi của dân tộc với sự phát triển của thời đại. Người luôn nắm vững cái cốt lõi, “linh hồn sống” của chủ nghĩa Mác - Lê-nin là “phương pháp làm việc biện chứng”. Trên tinh thần và cách tiếp cận đó, hệ thống các quan điểm của Người về dân tộc, cách mạng giải phóng dân tộc, về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, về xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, xây dựng Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) của dân, do dân, vì dân, xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất (nay là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam), xây dựng văn hóa, đạo đức, con người mới, về quân sự, ngoại giao… đều phản ánh sự kế thừa, phát triển sáng tạo lý luận Mác - Lê-nin gắn với điều kiện lịch sử, văn hóa và con người Việt Nam.

Ngoài ra, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về các vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam còn là tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, và “quyền lực cao nhất thuộc về nhân dân”. Điều đó cho thấy giá trị tư tưởng của Người thông qua các luận điểm về quyền sống tự do, độc lập - một trong những giá trị vĩnh hằng trong quyền tự nhiên của con người và cũng là quyền căn bản của mỗi quốc gia, dân tộc trên thế giới. Bên cạnh đó, các luận điểm mang dấu ấn sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tự lực cánh sinh, về phát huy sức mạnh toàn dân tộc, về xây dựng nền văn hóa mới, giáo dục mới, con người mới, gắn với thể chế chính trị mới; xây dựng quân đội nhân dân và nền ngoại giao nhân dân dựa trên nội lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại… cũng là sự bổ sung, phát triển và làm phong phú lý luận Mác - Lê-nin gắn với thực tiễn Việt Nam.

Thứ ba, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng quan trọng để Đảng ta hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách thực hiện các mục tiêu của cách mạng.

Quá trình cách mạng Việt Nam 94 năm qua đã chứng minh, tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã trở thành ngọn cờ soi đường cho cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi. Mặc dù đến Đại hội VII của Đảng, lần đầu tiên, Đảng ta trang trọng ghi vào Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991): Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, song trên thực tế, cùng với học thuyết Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành “nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam” cho Đảng ta ngay từ khi Đảng mới ra đời vào mùa Xuân năm 1930, với những văn kiện đầu tiên của Đảng mang đậm dấu ấn tư tưởng Hồ Chí Minh. Và trong suốt quá trình xây dựng, trưởng thành, phát triển của Đảng, hệ thống các quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với lý luận Mác - Lê-nin đã trở thành kim chỉ nam cho hành động của Đảng ta.

Với vai trò, uy tín và tầm ảnh hưởng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh trở thành lãnh tụ tiêu biểu cho khát vọng được sống trong hòa bình, độc lập, tự do của toàn dân tộc. Tư tưởng của Người về các vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam không chỉ chứa đựng giá trị nhân văn cao đẹp, mà còn hàm chứa tư duy lý luận khoa học. Cùng với lý luận Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành tư tưởng cốt lõi của Đảng ta để xác định đường lối chiến lược, sách lược trong chỉ đạo cách mạng, nhằm đấu tranh giành độc lập dân tộc, bảo vệ và giữ vững chính quyền cách mạng, quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội trên tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân.

Trong tình hình mới, tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục soi sáng sự nghiệp đổi mới đất nước, nhằm thực hiện thành công tầm nhìn chiến lược của Đảng được xác định tại Đại hội XIII: “Đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao”(1).

Thực tế cho thấy, hệ thống quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về mục tiêu, con đường, phương pháp đấu tranh trong cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ xã hội mới ở Việt Nam là cơ sở cho đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong 94 năm qua. Đồng thời, những thành tựu đã đạt được về mọi mặt ở Việt Nam là không thể phủ nhận, điều đó không chỉ phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản, mà còn phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp và giải phóng con người.

Khẳng định giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã nhấn mạnh: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là linh hồn, ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong suốt hơn nửa thế kỷ qua. Cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng ta, nhân dân ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh mãi mãi soi sáng con đường cách mạng Việt Nam, con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội của toàn dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam"(2).

Thứ tư, tư tưởng Hồ Chí Minh được hiện thực hóa đã cổ vũ, huy động sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, làm nên những thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam.

Một trong những đóng góp nổi bật của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với dân tộc, là đã tìm ra con đường duy nhất đúng cho cách mạng Việt Nam - con đường “cách mạng vô sản”. Tiếp theo đó là phương pháp để thức tỉnh nhân dân Việt Nam - những người bị áp bức tàn bạo dưới chế độ thực dân. Ngay từ rất sớm, Người đã nhận thức đúng sự chuyển biến của thời đại, gắn cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa với cách mạng vô sản. Thông qua các quan điểm và hoạt động thực tiễn, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã vạch ra đường lối chiến lược, sách lược và phương pháp cách mạng đúng đắn cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc Việt Nam.

Nhờ sự hiện thực hóa tư tưởng Hồ Chí Minh vào phong trào cách mạng Việt Nam, nhân dân ta đã được thức tỉnh, nâng cao ý chí độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường và đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, hoàn thành thắng lợi sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Văn kiện Đại hội IX của Đảng đã khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta”(3). Đại hội XI của Đảng tiếp tục khẳng định giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh “là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”(4).

Trong 38 năm đổi mới đất nước dưới ánh sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đất nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển; đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, cơ bản xóa được đói, giảm được nghèo theo định hướng phát triển bền vững. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố, tăng cường. Độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững, an ninh chính trị, trật tự, an toàn và an sinh xã hội được bảo đảm. Vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của đất nước đã tăng lên rất nhiều, tạo tiền đề để nước ta tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn theo con đường lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội XIII của Đảng đánh giá: “Nhìn lại 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa. Đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay(5).

Thành phố Hồ Chí Minh sau gần 40 năm đổi mới_Nguồn: nhiepanhdoisong.vn

2- Để bảo vệ các giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay, cần triển khai đồng bộ, hiệu quả các giải pháp làm cho tư tưởng Hồ Chí Minh ngày càng thấm sâu vào đời sống xã hội. Đây là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, cũng như của mọi chủ thể trong hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong đó, cần tập trung quán triệt và thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các giải pháp chủ yếu sau:

Một là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của toàn dân về giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh.

Đây là định hướng quan trọng, là tiền đề tạo ra sự chuyển biến từ nhận thức đến hành động của các chủ thể. Bởi vì, nhận thức hướng dẫn hành động, nhận thức đúng thì hành động đúng và nhận thức đúng sẽ không vấp phải những sai lầm, khuyết điểm, thậm chí thất bại trong hoạt động thực tiễn. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng căn dặn: “Tư tưởng đúng thì hành động mới khỏi sai lạc và mới làm tròn nhiệm vụ cách mạng được”(6). Theo đó, cần tăng cường giáo dục, tuyên truyền, làm cho cấp ủy các cấp, cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là người đứng đầu, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và các tầng lớp nhân dân nhận thức sâu sắc, toàn diện về các nội dung khẳng định giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh trong tiến trình cách mạng Việt Nam, như Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã nhấn mạnh: “Thế giới đã và sẽ còn đổi thay, nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn sống mãi trong kho tàng văn hóa của nhân loại(7).

Ngoài ra, tiếp tục đổi mới công tác giáo dục chính trị, tư tưởng trong toàn bộ hệ thống chính trị, bởi như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Không có lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học thì không thể có lập trường giai cấp vững vàng. Vì vậy, các cô, các chú phải chịu khó học tập lý luận Mác - Lê-nin, học tập đường lối, chính sách của Đảng; đồng thời phải học tập văn hóa, kỹ thuật và nghiệp vụ”(8). Để nâng cao hiệu quả của công tác giáo dục chính trị, các cơ sở đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc dân, nhất là các nhà trường giảng dạy về lý luận chính trị cần thực hiện nghiêm Kết luận số 94-KL/TW, ngày 28-3-2014, của Ban Bí thư, “Về việc tiếp tục đổi mới việc học tập lý luận chính trị trong hệ thống giáo dục quốc dân”; Chỉ thị số 23-CT/TW, ngày 9-2-2018, của Ban Bí thư, “Về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả học tập, nghiên cứu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới”; các quan điểm trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng về công tác tư tưởng, lý luận.

Chỉ thị số 23-CT/TW, ngày 9-2-2018, của Ban Bí thư chỉ rõ: Đổi mới mạnh mẽ về nội dung, phương pháp học tập, nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh theo hướng phù hợp với từng đối tượng, phát huy tính tự giác, tinh thần trách nhiệm, thường xuyên tự học tập, tự nghiên cứu để nâng cao trình độ, bản lĩnh chính trị và phương pháp công tác của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là thế hệ trẻ. Tiếp tục đổi mới nội dung giáo trình theo hướng giảng dạy, truyền thụ đầy đủ những nội dung cơ bản, cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cập nhật những học thuyết đương đại, vận dụng sáng tạo, tăng cường liên hệ thực tiễn. Đổi mới phương pháp giảng dạy lý luận chính trị, ứng dụng các phương pháp hiện đại, hấp dẫn người học, tạo hứng thú tìm tòi, nghiên cứu. Đổi mới hình thức, phương pháp kiểm tra, đánh giá thực chất kết quả học tập lý luận chính trị theo hướng thực chất. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong học tập lý luận chính trị.

Tiếp tục nghiên cứu xây dựng Chương trình học tập theo hướng phân biệt rõ cấp học và đối tượng học; đồng thời tăng cường, bảo đảm tính liên thông trong đào tạo các trình độ lý luận chính trị, phân cấp rõ ràng, hạn chế tối đa sự chồng chéo, trùng lặp trong hệ thống các cơ sở đào tạo lý luận chính trị để nâng cao hiệu quả việc học tập, đào tạo, bồi dưỡng và tránh lãng phí về thời gian, kinh phí. Tiếp tục đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị phù hợp với nhu cầu quy hoạch, đào tạo, sử dụng cán bộ.

Theo đó, cần đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ nội dung, chương trình, giáo trình, tài liệu và phương pháp giảng dạy lý luận chính trị trong hệ thống các học viện, nhà trường; tập trung truyền thụ đầy đủ những nội dung cơ bản, cốt lõi, cũng như giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh, cập nhật những nội dung, giá trị mới, phù hợp với sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay, làm cơ sở định hướng cho việc vận dụng trong thực tiễn. Đặc biệt, cần chú trọng việc giáo dục lý luận chính trị cho thế hệ trẻ trong các nhà trường, đổi mới, nâng cao tính hấp dẫn của việc dạy và học các bộ môn khoa học Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, làm cho người học nhận thức đúng đắn, đầy đủ, sâu sắc về bản chất khoa học, cách mạng, nhân văn và các giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh.

Hai là, tích cực, chủ động, nhạy bén trong đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch hòng phủ nhận giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh.

Để thực hiện tốt nội dung này, cần quán triệt, thực hiện nghiêm Chỉ thị số 34-CT/TW, ngày 17-4-2009, của Ban Bí thư Trung ương Đảng, “Về tăng cường cuộc đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa”; Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 22-10-2018, của Bộ Chính trị, “Về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”; quan điểm của Đại hội XIII của Đảng. Trên cơ sở đó, các cấp, các ngành, nhất là cơ quan báo chí, tuyên truyền, học viện, nhà trường, viện nghiên cứu cần chủ động, tích cực đấu tranh, phê phán các quan điểm sai trái, thù địch, vạch trần thủ đoạn xuyên tạc, phủ nhận giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh, đối lập giữa chủ nghĩa Mác - Lê-nin với tư tưởng Hồ Chí Minh, tuyệt đối hóa tư tưởng Hồ Chí Minh hoặc chủ nghĩa Mác - Lê-nin; thổi phồng những sơ hở, yếu kém trong công tác lãnh đạo, quản lý kinh tế - xã hội, nhằm kích động tâm lý bất mãn, chống đối, chia rẽ nội bộ, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc để phủ nhận giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh.

Các cấp, các ngành phải tích cực, chủ động thực hiện các biện pháp xử lý kịp thời những bức xúc, tăng cường sự đồng thuận xã hội, sự nhất trí trong nội bộ, củng cố và nâng cao niềm tin vào giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời, tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18-5-2021, của Bộ Chính trị khóa XIII, đi đôi với tăng cường quản lý chặt chẽ báo chí, xuất bản, internet, mạng xã hội theo đúng quy định của pháp luật; tăng cường thông tin đối ngoại và thông tin nội bộ, nhằm nâng cao tính thuyết phục, tính chiến đấu của công tác tư tưởng, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

Ba là, tiếp tục đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn.

Trong quá trình tìm đến chân lý cách mạng, ngay từ năm 1924, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã nhấn mạnh: “Dù sao thì cũng không thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được”(9). Do vậy, để tiếp tục khẳng định giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh hiện nay, phải tích cực nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để bổ sung, phát triển và tìm ra các giá trị mới của tư tưởng Hồ Chí Minh cả về lý luận và thực tiễn. Vì thế, trước hết phải nghiên cứu, vận dụng và phát huy giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh theo đúng tinh thần mác-xít nhằm cải tạo thực tiễn; tiếp tục kế thừa, bổ sung và phát triển quan điểm, luận điểm toàn diện và sâu sắc của Người trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội của đất nước.

Để thực hiện tốt các nội dung trên, đòi hỏi phải phát huy dân chủ trong nghiên cứu lý luận chính trị trên cơ sở quán triệt và thực hiện tốt Quy định số 285-QĐ/TW, của Bộ Chính trị khóa XI, về dân chủ trong nghiên cứu lý luận chính trị ở trong các học viện, nhà trường, viện nghiên cứu. Thông qua đó, bảo đảm nâng cao chất lượng kết quả nghiên cứu khoa học, nhằm góp phần bổ sung, phát triển sáng tạo, nâng tầm lý luận Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với yêu cầu thực tiễn của sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay.

Bốn là, phát huy vai trò, trách nhiệm của lực lượng chuyên trách trong đấu tranh bảo vệ giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh.

Chất lượng và hiệu quả của công tác lý luận, của việc bảo vệ, vận dụng, phát huy giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh phụ thuộc rất lớn vào đội ngũ cán bộ lý luận và lực lượng chuyên trách. Hơn ai hết, đội ngũ này phải là lực lượng thật sự kiên định về lập trường tư tưởng, có bản lĩnh chính trị vững vàng, am hiểu sâu sắc chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng. Do đó, việc xây dựng đội ngũ cán bộ lý luận, lực lượng chuyên trách, nhất là cán bộ chuyên sâu về chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ là yêu cầu cấp thiết hiện nay. Theo đó, công tác đào tạo, bồi dưỡng trong các học viện, nhà trường về nội dung, giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh cần được chú trọng, đổi mới; đồng thời, làm tốt việc lựa chọn, bồi dưỡng, sử dụng những người có tâm huyết, có trình độ cao, năng lực, phong cách công tác tốt để làm công tác giảng dạy, nghiên cứu lý luận.

Ngoài ra, cần thường xuyên kiện toàn tổ chức lực lượng chuyên trách, nhất là cán bộ tuyên giáo và lực lượng đấu tranh trên không gian mạng, phát huy vai trò của ban chỉ đạo 35 các cấp, lực lượng chuyên sâu, lực lượng 47 trong quân đội... để nâng cao hiệu quả đấu tranh trực diện với các quan điểm sai trái trên internet và các phương tiện truyền thông xã hội. Thường xuyên quan tâm, động viên và phát huy hiệu quả các trang website, blog cá nhân, nhóm của lực lượng nòng cốt và ứng dụng có hiệu quả công nghệ thông tin để nâng cao chất lượng tuyên truyền, giáo dục, đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa. Thực hiện tốt các biện pháp kỹ thuật để kịp thời ngăn chặn, lọc thông tin, không để các thế lực thù địch lợi dụng internet, các phương tiện truyền thông xã hội để xuyên tạc, phủ nhận giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh, cũng như nền tảng tư tưởng của Đảng ta./.

----------------------

(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 112
(2) Đại tướng Võ Nguyên Giáp (Chủ biên): Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr. 99
(3) Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 633
(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 88
(5) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 103 - 104
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 6, tr. 360
(7) Xem: Đại tướng Võ Nguyên Giáp, trong cuốn sách Thế giới còn đổi thay, nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh sống mãi, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2008, tr. 912
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 113
(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 1, tr. 509