TCCS - Với quan điểm, cách tiếp cận khác nhau, các nước trên thế giới đã xây dựng chính sách phát triển kinh tế - xã hội bằng hệ thống mục tiêu, giải pháp để khi thực hiện tạo nên những động lực quan trọng, góp phần phát triển thịnh vượng hơn. Tại một số nước ở Bắc Âu, có nhiều chính sách phát triển kinh tế - xã hội đem lại thành tựu to lớn, do đó, việc tìm hiểu về quan điểm, cách tiếp cận và kinh nghiệm từ các nước này có giá trị tham chiếu cho Việt Nam khi hoạch định chính sách là việc làm cần thiết trong bối cảnh hiện nay.

Tầm quan trọng của việc xây dựng và ban hành chính sách

Chính sách được hiểu là chủ trương, định hướng, giải pháp của nhà nước ban hành để thực hiện giải quyết những khó khăn, thách thức và đòi hỏi từ thực tiễn nhằm đạt được mục tiêu nhất định, nên chính sách mang tính quyết định đối với sự phát triển mọi lĩnh vực. Do vậy, việc nghiên cứu, xác định và ban hành chính sách phù hợp, đáp ứng xu thế phát triển đối với một quốc gia mang ý nghĩa rất quan trọng, bởi muốn đạt được tốc độ phát triển nhanh theo hướng bền vững phải xây dựng được hệ thống chính sách, để khi thực thi sẽ bảo đảm tăng trưởng nhanh, tránh tụt hậu, đạt yếu tố bền vững, hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường chính tại quốc gia đó. Tuy nhiên, việc xây dựng chính sách phát triển kinh tế - xã hội đối với mỗi quốc gia không chỉ do yêu cầu khách quan của nền kinh tế, mà còn bị quy định bởi chế độ chính trị - xã hội và những điều kiện cụ thể. Thực tiễn các quốc gia trên thế giới nói chung và các nước Bắc Âu nói riêng đều cho thấy, để đạt được tốc độ phát triển nhanh, bền vững, ngoài sự đổi mới tư duy về thể chế, cơ chế, thì việc xây dựng chính sách phát triển kinh tế - xã hội giữ một vị trí đặc biệt quan trọng, mang tính quyết định.

Để xây dựng được hệ thống chính sách phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết tốt những vấn đề đặt ra từ thực tiễn, trong quá trình thực hiện, các nhà tạo lập chính sách không chỉ thực hiện đầy đủ những nguyên tắc cơ bản khi xây dựng chính sách, mà phải tôn trọng, tuân thủ triệt để hiến pháp, pháp luật; gắn pháp luật trong chính sách, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cộng đồng, không trái với đạo đức xã hội và đạo đức chính sách. Để chính sách phát triển kinh tế - xã hội mới khi ban hành bảo đảm phù hợp, đáp ứng xu thế phát triển, đòi hỏi các nhà tạo lập chính sách phải nghiên cứu, đánh giá một cách khách quan về chính sách phát triển kinh tế - xã hội đang thực hiện trên những phương diện cơ bản, đó là: Làm rõ khiếm khuyết, hạn chế của chính sách đó; phân tích thế mạnh, tính thời đại để bổ sung, hoàn thiện cho chính sách mới mang tính đột phá khi triển khai vào thực tiễn... là yêu cầu, điều kiện bắt buộc khi xây dựng chính sách mới. Ngược lại, nếu không nhận diện, loại bỏ cái lỗi thời, hạn chế của chính sách cũ hoặc đang thực hiện, sẽ không xác định trúng vấn đề để bổ sung tính mới và chính sách phát triển mới sẽ khó đem lại hiệu quả tốt.

Do vậy, chính sách phát triển kinh tế - xã hội mới phải tạo ra sự tăng trưởng mang tính đột phá đối với ngành, lĩnh vực; truyền cảm hứng cho các chủ thể; là cơ sở hình thành các mô hình thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội ở phạm vi rộng hơn; đồng thời, kiểm nghiệm tính đúng đắn của chủ trương, chính sách và cung cấp luận cứ để bổ sung, hoàn thiện thể chế, cơ chế phù hợp với sự đòi hỏi trước xu thế phát triển mới.

Các nước Bắc Âu có hệ thống y tế, bảo hiểm phổ cập và bao trùm hàng đầu thế giới_Ảnh: Tư liệu

Những chính sách tiêu biểu của một số nước Bắc Âu

Các nước Bắc Âu(1) được biết đến là những quốc gia giàu có, thịnh vượng bậc nhất thế giới. Khi nghiên cứu về sự thành công của họ cho thấy, chính phủ các nước luôn kiên trì theo đuổi chính sách phát triển bền vững trên quan điểm cơ bản, đó là: 1- Xác định chuyển đổi số một cách mạnh mẽ để xây dựng xã hội dân chủ, minh bạch hơn; 2- Xem phát triển kinh tế tuần hoàn là giải pháp quan trọng để đạt được mục tiêu phát triển bền vững; 3- Xây dựng hệ thống phúc lợi xã hội với nền giáo dục tiên tiến, phát triển dựa trên sự nhân văn, bình đẳng; chú trọng tăng trưởng kinh tế gắn với công bằng xã hội… Những thành tựu to lớn của một số nước Bắc Âu đã, đang có giá trị tham khảo hữu ích cho nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam.

Thứ nhất, xác định phát triển chuyển đổi số một cách mạnh mẽ để xây dựng xã hội dân chủ, minh bạch hơn. Đại diện cho sự thành công trong chuyển đổi số phải nhắc đến Na Uy và Estonia đạt mức độ phổ cập rất cao, tại các nước này 100% dịch vụ công được số hóa, trên 90% người dân sử dụng.

Cách đây khoảng 70 năm trở về trước, Na Uy đã triển khai các dịch vụ đăng ký, định danh qua hệ thống điện tử; đến năm 2000, sử dụng công nghệ số để nâng cao hiệu quả thủ tục hành chính và quản trị xã hội. Trước sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin và đòi hỏi từ thực tiễn, năm 2008, Cơ quan chuyển đổi số Na Uy được thành lập để tham vấn cơ chế, chính sách cho Chính phủ nhằm tối ưu hóa chuyển đổi số trong phát triển kinh tế - xã hội. Để hoàn thành sứ mệnh, cơ quan này luôn nỗ lực tìm giải pháp để khi áp dụng vào thực tiễn, hoạt động thủ tục hành chính ngày càng đơn giản, người dân và doanh nghiệp tham gia thực hiện đạt hiệu quả cao nhất. Với quan niệm công nghệ số là công nghệ kiến tạo và hỗ trợ, chuyển đổi số của Na Uy tiếp cận theo ba cấp độ khác nhau: 1- Hình thành, phát triển các loại dịch vụ hoàn toàn mới ở tất cả các ngành; 2- Tận dụng quá trình số hóa để đẩy mạnh tự động hóa các ngành có thể tiết kiệm và cắt giảm chi phí; 3- Phát triển số hóa để bảo đảm an toàn cho các giá trị xã hội; tăng cường quản lý chặt chẽ, bảo mật thông tin. Chính vì thế, hiện nay Na Uy là quốc gia có tỉ lệ người dân và doanh nghiệp tham gia chuyển đổi số rất cao (khoảng 92%), 100% người dân được tiếp cận mạng băng thông rộng; chuyển đổi số làm cho xã hội của Na Uy dân chủ, minh bạch, nền kinh tế ngày càng phát triển thịnh vượng hơn, đây là một trong những lý do đem đến sự tín nhiệm rất cao của người dân và doanh nghiệp đối với Chính phủ (trên 80%).

Bài học kinh nghiệm được đúc kết là: 1- Cơ quan chuyển đổi số Na Uy xây dựng các mẫu dùng chung không chỉ cho người dân và doanh nghiệp trong nước tiếp cận một cách dễ dàng nhất, mà các nước trong khối liên minh châu Âu (EU) cũng có thể dùng chung; 2- Để bảo đảm tính công khai, minh bạch, từ năm 2009, Na Uy đã xây dựng đạo luật minh bạch thông tin; xem trọng bảo mật thông tin cho mỗi người dân và doanh nghiệp để tăng cường lòng tin của họ đối với chuyển đổi số; 3- Có chế tài xử phạt đối với những cơ quan, đơn vị, người dân và doanh nghiệp không tuân thủ tham gia vào quá trình chuyển đổi số; 4- Trong hệ sinh thái chuyển đổi số, mỗi logo đại diện cho một dịch vụ công tiêu biểu; mỗi dịch vụ được cơ quan, đơn vị khác nhau sử dụng nhưng luôn bảo đảm sự đồng bộ; 5- Quá trình số hóa luôn có sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà nước và khu vực tư nhân, trong đó, nhà nước đóng vai trò kiến tạo, định hướng, đầu tư nguồn lực, còn doanh nghiệp chủ động xây dựng giải pháp số để ứng dụng.

Dù không giàu có như Na Uy, nhưng Estonia cũng là một trong những quốc gia đi đầu về chuyển đổi số và có nền kinh tế số thâm nhập vào tất cả mọi khía cạnh đời sống kinh tế - xã hội. Thành lập năm 1991 sau khi tách ra từ Liên Xô (cũ), dù phải đối mặt với nhiều khó khăn, Chính phủ Estonia sớm thể hiện tầm nhìn, tư duy đổi mới để xác định công nghệ thông tin là tương lai của đất nước và thế hệ trẻ có vai trò rất quan trọng trong chuyển đổi số. Năm 1996, Estonia tiến hành bước đi đầu tiên trong chuyển đổi số, đó là thực hiện “Chương trình quốc gia về tin hóa các trường học” (Tiger Leap - Bước nhảy của hổ); mục tiêu chính của chương trình là sử dụng công nghệ thông tin vào quá trình dạy và học, kết nối tất cả các trường học thông qua internet. Tiếp theo, Estonia chú trọng ưu tiên phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin; phát triển phần mềm học tập, phòng học tập ảo; phát triển hạ tầng công nghệ thông tin, thúc đẩy hợp tác của tất cả các bên liên quan (nhà nước, cộng đồng địa phương, trường học, phụ huynh và tổ chức khác); thực hiện phổ cập công nghệ thông tin cho toàn dân và phát triển nguồn nhân lực số luôn là ưu tiên hàng đầu. Đặc biệt, Estonia xem trọng xây dựng niềm tin của người dân vào chính phủ số, là bước đi nền tảng để thực hiện số hóa trong quản trị nhà nước. Một điểm đáng ghi nhận nữa là dự án E-Residency (định danh điện tử xuyên quốc gia) của Estonia đã tạo điều kiện cho mọi người trên thế giới có thể đăng ký cư trú điện tử để trở thành công dân số của Estonia; dự án này không chỉ cho phép mọi người trên thế giới điều hành doanh nghiệp trực tuyến, mà còn huy động nguồn lực từ khắp nơi trên thế giới xây dựng phát triển Estonia.

Với nhiều giải pháp hữu hiệu, từng bước vươn lên trở thành quốc gia số hoá thành công nhất thế giới, cách xây dựng chuyển đổi số của Estonia là nguồn cảm hứng cho nhiều quốc gia trên thế giới học tập. Bài học kinh nghiệm chuyển đổi số của Estonia là: 1- Chủ động đổi mới tư duy, tầm nhìn và sớm nhận diện rõ vai trò, tầm quan trọng của công ghệ thông tin đối với sự phát triển kinh tế - xã hội; 2- Xây dựng chiến lược phát triển chuyển đổi số nhất quán, trong đó, xem yếu tố con người mang tính chất quyết định, nên thực hiện tốt việc phổ cập công nghệ thông tin trong toàn dân; 3- Chính phủ luôn cầu thị để liên tục đổi mới, xây dựng niềm tin của người dân với chính phủ số bằng mục tiêu lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm.

Thứ hai, một số nước Bắc Âu thể hiện rõ quan điểm và xác định tăng trưởng xanh là giải pháp trọng tâm thúc đẩy kinh tế - xã hội ngày càng phát triển bền vững, thịnh vượng hơn. Để thúc đẩy tăng trưởng xanh, mỗi nước trên thế giới có cách tiếp cận khác nhau, nhưng chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực: phát triển nông nghiệp, nông thôn; phát triển năng lượng sạch, tái tạo; sử dụng hiệu quả tài nguyên, sản xuất và tiêu dùng bền vững; giảm phát thải khí nhà kính và thích ứng với biến đổi khí hậu... Cách đây hơn 30 năm, vào thập niên 90 của thế kỷ XX, một số nước Bắc Âu như Phần Lan, Na Uy đã lựa chọn, tiên phong đầu tư mạnh cho tăng trưởng xanh thông qua chính sách thuế xanh bảo vệ môi trường. Nhìn chung, việc tiếp cận và xây dựng thuế xanh, thuế liên quan đến môi trường ở Phần Lan và Na Uy đạt nhiều thành tựu đáng nghi nhận: 1- Thực hiện áp dụng một số loại thuế mới liên quan đến môi trường, nhất là những sản phẩm gây hại đến môi trường. Năm 1990, Phần Lan là nước đầu tiên áp dụng đánh thuế vào phát thải CO2(2) đối với nhiên liệu (xăng, dầu, khí đốt, điện...); đến năm 1991, Na Uy áp dụng thuế carbon trong lĩnh vực dầu, khoáng sản; 2- Thực hiện tái cấu trúc một số loại thuế để đưa các yếu tố mới vào trong thuế đó, ví dụ như thuế khí phát thải trên các sản phẩm năng lượng; 3- Từng bước giảm dần hoặc loại bỏ một số ưu đãi thuế và trợ cấp có khả năng gây hại cho môi trường.

Những năm gần đây, nhằm thúc đẩy tăng trưởng xanh lên tiêu chí cao hơn, một số nước tại Bắc Âu đã tiến hành những bước đi như: Với kế hoạch hành động về khí hậu đối với việc chuyển đổi xã hội, Chính phủ Na Uy(3) cam kết giảm ít nhất 50% khí thải vào năm 2030, trở thành quốc gia có lượng khí thải thấp vào năm 2050, điển hình là thủ đô Oslo của Na Uy đã áp dụng một chiến lược khí hậu đầy tham vọng với mục tiêu cắt giảm 95% lượng khí thải CO2 vào năm 2030. Giải pháp Chính phủ Na Uy thực hiện là: Việc mua sắm công phải lựa chọn các vật liệu thân thiện với môi trường, hỗ trợ tài chính cho phát triển công nghệ mới và sáng kiến xanh; khuyến khích tìm kiếm và sử dụng các loại nhiên liệu bền vững thay thế nhiên liệu hóa thạch trong giao thông vận tải, nhất là sử dụng nhiên liệu sinh học, yêu cầu không phát thải CO2 đối với ô tô chở khách, xe tải nhỏ từ năm 2022, đối với xe buýt địa phương vào năm 2025; đẩy mạnh nhập khẩu và mở rộng sản xuất trong nước đối với ethanol, dầu diesel sinh học; khuyến khích người dân sử dụng các sản phẩm và phương tiện di chuyển không phát thải. Ban hành chính sách tăng thuế khí phát thải CO2 đối với tất cả các ngành nghề. Mới đây, Chính phủ Phần Lan đã công bố kế hoạch loại bỏ than đá trước năm 2030, hướng tới sản xuất hoàn toàn năng lượng sạch, không chứa khí phát thải vào năm 2050 và nhận được sự đồng tình, ủng hộ của các nhà khoa học và người dân, bởi than đá chỉ chiếm 8% trong tổng sản lượng điện sản xuất hàng năm, trong khi nguồn cấp điện chính của Phần Lan là từ điện hạt nhân và thủy điện. Để thực hiện kế hoạch này, Phần Lan dự kiến sẽ ban hành lệnh cấm toàn diện đối với than đá, đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất năng lượng; thay vào đó, tận dụng nguồn năng lượng tái tạo để sản xuất điện cho công nghiệp nhằm đạt mục tiêu chung về khí hậu và năng lượng dài hạn.

Kinh nghiệm thúc đẩy tăng trưởng xanh ở các nước này là: 1- Làm cho mọi người dân hiểu một cách đầy đủ về bản chất, lợi ích của tăng trưởng xanh… để thấy chính phủ và các cơ quan chức năng luôn nỗ lực nhằm đạt được sự phát triển bền vững, mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho toàn xã hội; 2- Phát huy tối đa mô hình hợp tác công - tư trong xây dựng, phát triển tăng trưởng xanh; 3- Xác định đúng những hoạt động sản xuất, kinh doanh và thói quen của người tiêu dùng tác động xấu đến môi trường để thực hiện chính sách trợ cấp, hỗ trợ công nghệ, khuyến khích chuyển đổi sang các hoạt động xanh; 4- Tăng cường cung cấp năng lượng sạch, giá cả hợp lý, an toàn; bảo tồn, phục hồi các hệ sinh thái và đa dạng sinh học; 5- Kịp thời xây dựng, ban hành chế tài, quy định khắt khe bảo vệ môi trường, nhất là các loại thuế, phí.

Thứ ba, hệ thống chính sách phúc lợi xã hội vận động theo mô hình phổ quát hay còn gọi là dân chủ - xã hội, nghĩa là, chính sách phúc lợi xã hội nơi đây luôn đặt yếu tố phát triển con người, chăm sóc sức khỏe người dân lên hàng đầu, mọi cá nhân đều được hưởng phúc lợi mà không phụ thuộc vào việc người đó đóng góp nhiều hay ít. Về cơ bản, sự phát triển của hệ thống chính sách phúc lợi xã hội ở một số nước Bắc Âu được tiếp cận, xây dựng dựa trên hai trụ cột chính là dịch vụ công và an sinh xã hội thể hiện qua hai mức độ: 1- Mức độ bình đẳng cao, là tất cả mọi người đều được thụ hưởng nền giáo dục miễn phí và nhận được sự phân phối thu nhập tương đối công bằng; cơ hội trong tiếp cận việc làm bình đẳng vì chính phủ bảo đảm việc làm thông qua các chính sách thị trường lao động tích cực; 2- Mức độ phổ quát cao, là mọi công dân đều được bảo đảm các lợi ích, tiếp cận đầy đủ dịch vụ an sinh xã hội dù thu nhập cao hay thấp, giàu hay nghèo, có việc làm hay không có việc làm.

Điểm nổi bật là chính sách giáo dục sự thân thiện, mang tính nhân văn cao và rất tiên tiến. Nền giáo dục ở các nước Bắc Âu(4) được miễn phí hoặc trợ cấp cao, nhà nước không chỉ dành một phần ngân sách lớn đầu tư cho giáo dục (khoảng 3% - 8% GDP), khuyến khích người dân học tập suốt đời, mà còn miễn 100% học phí giai đoạn học phổ thông và hỗ trợ học phí học đại học. Công tác chăm sóc trẻ em rất được quan tâm thông qua các chính sách hỗ trợ của nhà nước như miễn, giảm thuế hoặc trợ cấp bổ sung kéo dài một đến vài năm đối với những người đang nuôi con vị thành niên; nhà nước dành tới 2% - 3% GDP cho chăm sóc trẻ em, xây dựng hệ thống nhà trẻ, trung tâm chăm sóc trẻ nhỏ... giúp các cha mẹ yên tâm tham gia thị trường lao động, nên tỷ lệ nhập học của học sinh đến tuổi đi học ở các nước này thuộc nhóm cao nhất thế giới.

Bắc Âu có một nền giáo dục công lập tốt bậc nhất thế giới_Ảnh: Tư liệu

Phần Lan là một trong những nước có nền giáo dục đứng hàng đầu thế giới, cách tiếp cận để xây dựng chính sách giáo dục rất riêng, dựa trên các yếu tố cơ bản: 1- Quan điểm xuyên suốt về chính sách giáo dục được xây dựng trên cơ sở nâng cao giá trị nhân văn trong nhà trường, phát huy vai trò người giáo viên một cách có hệ thống, nhất quán trong toàn xã hội; 2- Nền giáo dục phát triển trên nguyên tắc “học tập suốt đời”, “giáo dục miễn phí”; 3- Tìm kiếm sự quân bình, bảo đảm mỗi cá nhân đều có cơ hội nhận được một nền giáo dục công lập tốt nhất, không theo đuổi thành tích cá nhân; 4- Tạo dựng môi trường an toàn, lành mạnh và thân thiện trong học tập; học sinh, sinh viên được làm việc theo nhóm, hợp tác theo tinh thần đồng đội; phương pháp giảng dạy dựa trên sự kiện và hiện tượng; 5- Thúc đẩy hợp tác giữa các trường học, các tổ chức phi chính phủ và cộng đồng địa phương để phát triển giáo dục cộng đồng.

Bài học kinh nghiệm là: 1- Xây dựng môi trường giáo dục đề cao sự công bằng, dân chủ, hợp tác và lòng tin. Các nội dung này đã được cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật, như hiến pháp và chương trình giáo dục cốt lõi; 2- Chú trọng xây dựng hệ thống văn bản pháp quy chặt chẽ để ngăn chặn tối đa các tình huống bạo lực học đường nhằm xây dựng môi trường giáo dục an toàn, thân thiện. Ngoài những đạo luật chung, mỗi cấp học lại có quy định, chính sách riêng nhằm tạo ra một môi trường không phân biệt đối xử, dành cho trẻ sự quan tâm tốt nhất, bảo đảm quyền phát triển đầy đủ về thể chất và kiến thức của trẻ; 3- Sự độc đáo của mô hình giáo dục ở Phần Lan là giáo viên không giao bài tập về nhà cho học sinh mỗi ngày, không kiểm tra bài thường xuyên, mà giáo viên sẽ lắng nghe, đối xử với học sinh với tư cách là người có tư duy độc lập; 4- Xây dựng các nhóm dịch vụ hỗ trợ trường học với nhiều chuyên gia thuộc các lĩnh vực khác nhau, như giáo dục, y tế, tâm lý, xã hội tại các trường học, giúp học sinh trải nghiệm, dễ hòa nhập, ngăn ngừa các vấn đề phát sinh.

Na Uy là đất nước được nhắc tới với một hệ thống phúc lợi xã hội điển hình, được xây dựng dựa trên quan điểm phát triển bền vững, phải bắt kịp với sự phát triển, nhưng rất xem trọng sự cân bằng giữa tăng trưởng kinh tế và bảo đảm phúc lợi xã hội. Vì vậy, hệ thống chính sách phúc lợi xã hội của Na Uy mang tính phổ quát, toàn diện, nhân văn với mục tiêu bảo đảm chất lượng cuộc sống cao, trong đó, tập trung vào các khía cạnh chế độ phúc lợi xã hội hiện có đối với người lao động, quyền của người lao động (quyền hưởng và quyền tham gia); luôn xem sự bình đẳng trong lợi ích nên tránh được mẫu thuẫn, xung đột trong xã hội, nhất là giữa chủ doanh nghiệp và người lao động, bởi mức chênh lệch lương thưởng giữa người lao động và chủ doanh nghiệp ở Na Uy không cao. Do vậy, các dịch vụ công được hỗ trợ miễn phí hoặc mức trợ cấp cao, cụ thể: Nhà nước dành ngân sách lớn đầu tư (miễn phí, hỗ trợ) cho giáo dục để khuyến khích người dân học tập suốt đời; hệ thống y tế, bảo hiểm phổ cập và bao trùm; áp dụng chính sách trợ giá đối với các phương tiện vận tải đường sắt và xe buýt nội đô.

Bài học kinh nghiệm là: 1- Chính phủ luôn lắng nghe ý kiến liên quan đến lợi ích chính đáng từ người dân, xem đó là sự bảo đảm ổn định xã hội; người dân không chỉ tích cực tham gia dịch vụ công, mà luôn chủ động góp ý nếu thấy chính sách không còn phù hợp, nên khi các quy định pháp luật được ban hành, việc thực thi pháp luật nghiêm là điều tất yếu; 2- Nguyên tắc cơ bản khi xây dựng hệ thống chính sách phúc lợi xã hội ở Na Uy là xem các lĩnh vực bảo hiểm, bảo hiểm nghề nghiệp, thất nghiệp, lương hưu là nền tảng của an sinh xã hội; 3- Mối quan hệ lao động giữa chủ doanh nghiệp và người lao động luôn bảo đảm hài hòa, dựa trên sự bình đẳng, hợp tác và thỏa hiệp.

Một số gợi ý tham chiếu cho Việt Nam trong xây dựng chính sách phát triển kinh tế - xã hội

Thông qua việc nghiên cứu quan điểm, cách tiếp cận trong xây dựng chính sách phát triển kinh tế - xã hội ở một số nước Bắc Âu, có thể rút ra một số gợi ý tham chiếu cho Việt Nam trong quá trình hoạch định, thực thi chính sách phát triển kinh tế - xã hội trước bối cảnh mới.

Một là, về chuyển đổi số: do sự tác động mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, để quản trị Nhà nước hiệu lực, hiệu quả, Việt Nam tiến hành chuyển đổi số là xu hướng tất yếu. Để bảo đảm chuyển đổi số thành công, từ kinh nghiệm các nước, Việt Nam cần khẩn trương hoàn thiện thể chế, cơ chế phục vụ phát triển dữ liệu về dân cư, kết nối, chia sẻ dữ liệu nói riêng và chuyển đổi số quốc gia nói chung; sửa đổi các luật, văn bản hướng dẫn liên quan đến Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2023 và nghiên cứu xây dựng chiến lược phát triển thương mại điện tử nhằm quản lý, phát triển các nền tảng thương mại điện tử trong nước, xuyên biên giới, bảo đảm tính cạnh tranh và ngăn chặn có hiệu quả các hành vi bán hàng giả, hàng không rõ nguồn gốc xuất xứ; sớm xây dựng, ban hành các luật liên quan (Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân, Luật Dữ liệu và Luật Giao dịch điện tử).

Quá trình triển khai thực hiện, Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương cần huy động sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị đẩy nhanh đơn giản hóa, tái cấu trúc quy trình thủ tục hành chính để nâng cao số lượng, chất lượng dịch vụ công cung cấp cho người dân; xây dựng các mẫu dùng chung cho người dân và doanh nghiệp tiếp cận một cách dễ dàng nhất. Đồng thời, lắng nghe phản ánh từ người dân và doanh nghiệp; xem người dân và doanh nghiệp là chủ thể, là trung tâm trong chuyển đổi số; chú trọng đẩy mạnh truyền thông chính sách, tạo đồng thuận xã hội, minh bạch hóa để củng cố niềm tin nhằm tăng cường sự tham gia của người dân và doanh nghiệp trên tinh thần dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng.

Hai là, đối với tăng trưởng xanh: tại Hội nghị thượng đỉnh về biến đổi khí hậu - COP26, diễn ra từ ngày 31-10 đến 12-11-2021, Việt Nam đã cam kết đến năm 2050 sẽ đạt mức phát thải ròng bằng 0 (Net Zero), đây là không chỉ mục tiêu mạnh mẽ, một quyết tâm chính trị vì lợi ích quốc gia mang tính thời đại, mà còn thể hiện sự vươn lên của nền kinh tế. Tăng trưởng xanh đối với Việt Nam vẫn còn mới mẻ, nhiều thách thức, nhưng với kinh nghiệm từ các nước và do nhu cầu đầu tư các dự án xanh ngày càng tăng đang gây áp lực buộc Việt Nam phải thúc đẩy nhanh chóng hơn đối với việc thực hiện một số nội dung sau.

Việt Nam sớm xây dựng, ban hành kế hoạch huy động, quản lý nguồn đầu tư và tài chính cho tăng trưởng xanh một cách toàn diện nhằm bảo đảm các mục tiêu tăng trưởng xanh được thực hiện một cách tốt nhất các nguồn lực sẵn có. Xây dựng cơ chế, chính sách ưu tiên, hỗ trợ các dự án xanh để tăng tốc trong thu hút đầu tư dự án xanh, nhất là những dự án đòi hỏi mức đầu tư ban đầu cao do quy mô, độ phức tạp của công nghệ mới; căn cứ hướng dẫn của Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu - UNFCC và Ngân hàng Thế giới để xây dựng, sớm ban hành hệ thống và tiêu chuẩn đo đạc, báo cáo và thẩm tra theo tiêu chí chung của thế giới.

Ban Chỉ đạo Quốc gia về tăng trưởng xanh tiếp tục nghiên cứu, đề xuất với Thủ tướng Chính phủ về phương hướng, giải pháp để giải quyết những vấn đề quan trọng, liên ngành về tăng trưởng xanh; đẩy mạnh công tác phối hợp để đôn đốc, giám sát các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ khẩn trương cụ thể hóa các mục tiêu cụ thể với lộ trình rõ ràng cho nhóm các ngành, lĩnh vực xanh quan trọng và phức tạp đề cập trong Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050(5). Tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển giao công nghệ xanh, cung cấp các chương trình đào tạo, xây dựng năng lực để thu hẹp khoảng cách về công nghệ, thúc đẩy đổi mới, sáng tạo. Phát huy vai trò của cả hệ thống chính trị và cơ quan thông tấn, báo chí đẩy mạnh công tác tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức cho cấp ủy, chính quyền, cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân và doanh nghiệp về tầm quan trọng, sự cần thiết của việc chuyển đổi xanh, tăng trưởng xanh đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong xu thế phát triển mới.

Ba là, phát triển hệ thống phúc lợi xã hội. Kinh nghiệm từ các quốc gia cho thấy, phát triển phúc lợi xã hội không thể tách rời trình độ phát triển kinh tế, vì khi nền kinh tế có sự tích lũy còn hạn chế thì hệ thống phúc lợi khó có thể vận hành như kỳ vọng. Đối với Việt Nam, phát triển con người là một chính sách lớn, có vị trí trung tâm trong tổng thể chính sách quốc gia, phải được đặt trong mối quan hệ với các chính sách phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và môi trường.

Để thực hiện tốt quan điểm giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, Việt Nam cần tính đến việc giảm bớt tính áp đặt của chương trình giáo dục và đào tạo, tăng cường đổi mới phương pháp dạy, đánh giá người học; lấy khung năng lực của người học làm trung tâm nhằm khuyến khích phát triển nhân cách người học. Quan tâm bảo đảm công bằng xã hội trong giáo dục, trong đó, chú trọng giải quyết những bất hợp lý về chính sách, cơ chế dẫn đến thiếu công bằng trong giáo dục và đào tạo giữa thành thị và nông thôn; giảm dần chênh lệch về điều kiện học tập và chất lượng giáo dục giữa các khu vực; thực hiện tốt hơn nữa đối với chính sách học bổng, học phí, tín dụng học tập và các giải pháp hỗ trợ khác, nhất là đối với con em nông dân, công nhân nghèo và các đối tượng chính sách để thực hiện tốt mục tiêu đào tạo nhân lực, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài.

Việt Nam cần quan tâm giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội thông qua hệ thống chính sách xã hội, theo đó, Nhà nước có thể sử dụng hệ thống phúc lợi xã hội để điều tiết quá trình phân phối nhằm bảo đảm công bằng xã hội. Đẩy mạnh và da dạng hóa hình thức xã hội hóa hoạt động phúc lợi xã hội, xem khu vực tư nhân là một lực lượng nòng cốt tạo ra nguồn quỹ phúc lợi xã hội và tạo điều kiện để người dân được tự do lựa chọn hình thức bảo đảm cuộc sống cho chính họ./.

--------------------------------

(1) Bài viết chủ yếu nghiên cứu ở các nước: Phần Lan, Na Uy và Estonia
(2) CO2 là một loại khí thải phát sinh từ các hoạt động của con người, chẳng hạn như đốt cháy nhiên liệu hóa thạch, chăn nuôi gia súc, phân hủy rác thải và khai thác rừng, có ảnh hưởng xấu đến môi trường bằng cách gây ra hiệu ứng nhà kính
(3) Xem: Thương vụ Việt Nam tại Thụy Điển: “Chương trình giảm phát thải của Na Uy đến năm 2050”, https://vietnordic.com/2021/06/chuong-trinh-giam-phat-thai-cua-na-uy-den-nam-2050/
(4) Xem: Phạm Thị Thu Lan: “Hệ thống phúc lợi xã hội ở các nước Bắc Âu và một số gợi ý đối với Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản điện tử, truy cập: https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/the-gioi-van-de-su-kien/-/2018/816503/he-thong-phuc-loi-xa-hoi-o-cac-nuoc-bac-au-va-mot-so-goi-y-doi-voi-viet-nam.aspx
(5) Theo: Quyết định số 1658-QĐ-TTg, ngày 1-10-2021, của Thủ tướng Chính phủ, “Phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến 2050”