Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
11:45, ngày 02-11-2022
TCCS - Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực kinh tế khác xa thời kỳ cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp, nên cần phải được nghiên cứu, tiếp tục đổi mới. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực kinh tế để vừa bảo đảm tôn trọng các quy luật kinh tế thị trường, vừa phát huy đầy đủ, vai trò, chức năng quản lý của Nhà nước và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa là những vấn đề lớn cần quan tâm và giải quyết.
Đặc trưng của phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực kinh tế
Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực kinh tế (hay phương thức lãnh đạo kinh tế của Đảng) là sự thể hiện (hay vận dụng) phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội nói chung vào lĩnh vực kinh tế. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực kinh tế thực hiện đầy đủ nội dung, yêu cầu của phương thức lãnh đạo của Đảng nói chung, đồng thời phải phù hợp với tính đặc thù của lĩnh vực kinh tế, kiến tạo những đặc trưng (hay đặc thù) cho phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực này(1).
Một là, nền kinh tế mà chúng ta đang xây dựng, phát triển là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Bởi vậy, yêu cầu đầu tiên đối với phương thức lãnh đạo kinh tế của Đảng là các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng lãnh đạo lĩnh vực kinh tế phải được thể chế hóa thành luật pháp, cơ chế, chính sách của Nhà nước một cách chính xác, kịp thời, công khai, minh bạch để mọi người, mọi chủ thể kinh tế và cả cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước tuân thủ, thực hiện. Đây là đặc trưng, là yếu tố quan trọng hàng đầu trong phương thức lãnh đạo kinh tế của Đảng. Đảng lãnh đạo kinh tế thông qua Nhà nước, bằng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Thực hiện luật pháp, chính sách của Nhà nước là thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng. Cán bộ, tổ chức đảng và cả cán bộ, công chức, cơ quan nhà nước không được can thiệp trực tiếp bằng mệnh lệnh hành chính vào hoạt động của các chủ thể sản xuất, kinh doanh.
Hai là, kinh tế là nền tảng của xã hội, có vai trò quan trọng đối với sự ổn định và phát triển của đất nước, của đời sống nhân dân, uy tín, vị thế của đất nước trên thế giới; quan hệ kinh tế là cơ sở hạ tầng của kiến trúc thượng tầng chính trị, văn hóa, tinh thần của xã hội. Đảng cầm quyền ở mọi quốc gia đều đặc biệt quan tâm tới lãnh đạo lĩnh vực kinh tế; cùng với đề ra chủ trương, định hướng cho phát triển kinh tế, đảng cầm quyền đưa đảng viên chủ chốt của đảng vào nắm giữ các vị trí lãnh đạo, quản lý các ngành, sắp xếp lại tổ chức bộ máy quản lý kinh tế để thực hiện chủ trương, đường lối của mình; chỉ khi kinh tế phát triển mới giữ vững được địa vị cầm quyền, vai trò lãnh đạo. Do đó, đặc trưng thứ hai trong phương thức quản lý kinh tế của Đảng là cùng với việc đề ra chủ trương, đường lối, Đảng cần phải quan tâm tới tổ chức thực hiện. Để tổ chức thực hiện, Đảng phải có tổ chức đảng và có những đảng viên ưu tú giữ các vị trí lãnh đạo chủ chốt trong các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế để thể chế hóa và tổ chức thực hiện được chủ trương, đường lối phát triển kinh tế của Đảng.
Ba là, kinh tế là lĩnh vực trực tiếp quản lý, nắm giữ, sử dụng những nguồn lực, tài sản to lớn của đất nước, của xã hội; là lĩnh vực mà vì lợi nhuận, các doanh nghiệp có thể làm ăn gian dối, vi phạm pháp luật, làm tổn hại đến chất lượng sản phẩm, lợi ích của người tiêu dùng, của Nhà nước và xã hội. Kinh tế cũng là lĩnh vực có nhiều cơ hội, nhiều cám dỗ để những người lãnh đạo, quản lý nhà nước có liên quan phát sinh lòng tham, suy thoái đạo đức, lạm dụng chức vụ, quyền hạn mưu lợi cá nhân, sách nhiễu, tham ô, tham nhũng, làm giàu bất chính. Do đó, đặc trưng thứ ba trong phương thức lãnh đạo lĩnh vực kinh tế của Đảng là Đảng cần phải đặc biệt quan tâm tới công tác kiểm tra, giám sát, ngăn ngừa và xử lý sai phạm trong lĩnh vực kinh tế, những sai phạm của doanh nghiệp, cũng như của các cơ quan, cán bộ, công chức quản lý kinh tế nhà nước, nhất là trong lĩnh vực quản lý tài chính, tài sản của Nhà nước, đất đai, dự án đầu tư công, doanh nghiệp nhà nước..., làm sao để các doanh nghiệp, cán bộ, công chức quản lý kinh tế “không thể, không dám, không muốn” tham nhũng, tiêu cực.
Bốn là, kinh tế là lĩnh vực có quan hệ chặt chẽ, hằng ngày, hằng giờ với mọi người, mọi gia đình. Mỗi người đều quan tâm đến tình hình kinh tế ở những góc độ khác nhau liên quan đến mình, với tư cách nhà đầu tư, người quản lý hay người lao động, người tiêu dùng. Bởi vậy, đặc trưng thứ tư trong phương thức lãnh đạo lĩnh vực kinh tế của Đảng là vai trò hết sức quan trọng của công tác thông tin, tuyên truyền.
Những hạn chế và vấn đề đặt ra cần tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực kinh tế
Một là, phương thức Đảng lãnh đạo lĩnh vực kinh tế bằng Cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn.
Từ Cương lĩnh, nghị quyết đại hội Đảng, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách hằng năm, các nghị quyết chuyên đề, chỉ thị, kết luận về các vấn đề kinh tế, có thể thấy rằng, số lượng các văn bản chỉ đạo của Đảng là khá nhiều, gây khó cho đảng viên, cán bộ trong tổ chức học tập, quán triệt có chất lượng. Các cơ quan chức năng của Nhà nước cũng khó khăn trong việc thể chế hóa, triển khai thực hiện được kịp thời, đầy đủ các quan điểm, nội dung mà các nghị quyết của Đảng đề ra.
Nhiều nội dung, nhiệm vụ nghị quyết của Đảng đề ra, nhưng còn thiếu quan tâm đến nguồn lực, kinh phí thực hiện, nên tính khả thi trong hiện thực hóa chưa cao.
Thông qua Đảng đoàn Quốc hội, Ban Cán sự đảng Chính phủ, ban cán sự đảng trong các bộ, ngành, cơ quan trung ương, việc thể chế hóa các chủ trương, quan điểm của Đảng thành luật pháp, chính sách được quan tâm đẩy mạnh. Đây là những đổi mới đem lại kết quả tích cực, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, vẫn còn những vấn đề, như chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm của các đảng đoàn, ban cán sự đảng và mối quan hệ giữa đảng đoàn, ban cán sự đảng với lãnh đạo cơ quan (Đảng đoàn Quốc hội với lãnh đạo Quốc hội, Ban Cán sự đảng Chính phủ với lãnh đạo Chính phủ, ban cán sự đảng bộ với lãnh đạo bộ) thế nào cho phù hợp, hợp lý để cũng những cán bộ ấy, khi ở những vị trí, vai trò khác nhau, khi là ban cán sự đảng, đảng đoàn, khi là lãnh đạo Chính phủ, lãnh đạo bộ, lãnh đạo Quốc hội, làm đúng vai trò, vị trí của mình, bảo đảm vai trò lãnh đạo chính trị của Đảng, đồng thời phát huy đầy đủ vai trò của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; để không trùng lắp, “làm nhầm” công việc của nhau.
Tình trạng không “đúng vai, thuộc bài”, Đảng “lấn sân”, bao biện làm thay, hay buông lỏng lãnh đạo đối với chính quyền còn thường xảy ra ở các địa phương, từ tỉnh, thành phố, quận, huyện đến xã, phường, thị trấn, mặc dù ở mỗi cấp, cấp ủy, lãnh đạo chính quyền các cấp đều có quy định về chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và trách nhiệm, có quy chế hoạt động và các quy chế hoạt động này đã nhiều lần được sửa đổi, bổ sung để đáp ứng tốt hơn yêu cầu của thực tiễn. Tình trạng cấp ủy bao biện, làm thay chính quyền, quyết định những dự án đầu tư, những nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh cụ thể, không đúng vai trò, chức năng, làm phát sinh mâu thuẫn trong nội bộ hay buông lỏng lãnh đạo để chính quyền “tự tung, tự tác”, cán bộ, công chức lạm dụng chức vụ, quyền hạn để trục lợi, tham nhũng, tiêu cực diễn ra kéo dài ở không ít địa phương. Điều này, ngoài nguyên nhân do năng lực, phẩm chất của cán bộ, có nguyên nhân là “ranh giới” giữa lãnh đạo của cấp ủy và quản lý của cơ quan chính quyền chưa được xác định rõ; đã có nhiều cố gắng để làm rõ “ranh giới” này, nhưng vẫn còn lúng túng.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò làm nòng cốt của kinh tế nhà nước, công cụ vật chất góp phần bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô nên vai trò lãnh đạo của Đảng rất quan trọng. Mặc dù Đảng đã có nhiều văn bản chỉ đạo đổi mới hoạt động của tổ chức đảng trong doanh nghiệp nhà nước, nhưng vẫn có không ít tổ chức đảng yếu kém, không thực hiện được vai trò lãnh đạo của mình; tính chiến đấu, tinh thần tự phê bình, phê bình yếu, buông lỏng quản lý đảng viên; thậm chí có tổ chức cơ sở đảng ở doanh nghiệp tê liệt sức chiến đấu, để xảy ra nhiều vụ, việc tiêu cực, lạm dụng chức quyền, vi phạm pháp luật, tham nhũng, lãng phí, làm thất thoát lớn tài sản nhà nước, cán bộ lãnh đạo, quản lý bị xử lý kỷ luật, truy tố. Trong nhiều doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tuy đã có tổ chức cơ sở đảng, nhưng còn lúng túng trong hoạt động, nội dung hoạt động và sinh hoạt đảng còn nghèo nàn, vai trò của tổ chức đảng mờ nhạt cả đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, cũng như đối với việc tuyên truyền, vận động, giáo dục chính trị, tư tưởng và bảo vệ lợi ích của người lao động.
Hai là, phương thức Đảng lãnh đạo lĩnh vực kinh tế bằng công tác tổ chức, giới thiệu đảng viên ưu tú để bầu, bổ nhiệm vào vị trí lãnh đạo các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế, các tổ chức kinh tế để lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên trong các cơ quan và tổ chức này. Trong những năm qua, phương thức lãnh đạo này có nhiều đổi mới, đem lại những kết quả tích cực. Tuy nhiên, tổ chức bộ máy các cơ quan Đảng và Nhà nước còn cồng kềnh làm tăng thêm khả năng cả hai phía cấp ủy hay cơ quan nhà nước vượt quá vai trò, chức năng của mình, dẫn tới cấp ủy bao biện, làm thay hay buông lỏng lãnh đạo, còn cơ quan quản lý nhà nước thụ động, dựa dẫm, ỷ lại hay có mặt thoát ly sự lãnh đạo của Đảng. Việc thành lập đảng bộ tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước có các doanh nghiệp thành viên nằm phân tán ở nhiều tỉnh, thành phố trong cả nước làm cho đảng bộ các doanh nghiệp thành viên thoát ly khỏi sự lãnh đạo, kiểm tra, giám sát của đảng bộ địa phương, nơi diễn ra chủ yếu các hoạt động sản xuất, kinh doanh, sinh sống của cán bộ, đảng viên, công nhân viên, người lao động của doanh nghiệp; còn đảng ủy tập đoàn, tổng công ty không thể nắm sát được những phức tạp diễn ra trong sản xuất, kinh doanh và cuộc sống hằng ngày của người lao động trong các doanh nghiệp thành viên. Việc thành lập Đảng bộ Khối Doanh nghiệp Trung ương bao gồm đảng bộ của tất cả các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước ở các ngành, lĩnh vực khác nhau, có điều kiện lãnh đạo tập trung, thống nhất các doanh nghiệp, nhưng khó có thể sâu sát trước tính đa dạng của thành viên, nên nhiều hoạt động chủ yếu mang tính hành chính, đảng vụ.
Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ của cả hệ thống chính trị, trong đó có các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế và các doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên, vẫn còn không ít trường hợp “đúng quy trình, nhưng không đúng người”; có những trường hợp cán bộ được bổ nhiệm, đề bạt “thần tốc”. Năng lực không được đánh giá toàn diện theo nhiều yếu tố, như thái độ, kỹ năng, kiến thức mà nhiều khi qua bằng cấp, giấy chứng nhận, các chương trình đào tạo đã tham gia; phẩm chất được đánh giá theo chủ quan của số ít người có thẩm quyền; còn thành tích, cống hiến, đóng góp cho xã hội, cho đất nước, thước đo của năng lực, phẩm chất của cán bộ trong thực tế, tạo nên uy tín của cán bộ đối với tập thể, với cộng đồng không được chú ý, coi trọng.
Ba là, phương thức Đảng lãnh đạo kinh tế bằng kiểm tra, giám sát và hành động nêu gương của đảng viên. Trong những năm qua, phương thức lãnh đạo kinh tế của Đảng bằng công tác kiểm tra, giám sát và vai trò nêu gương của đảng viên được coi trọng, tăng cường và có nhiều đổi mới, đưa đến nhiều kết quả tích cực. Tuy nhiên, nhiều tổ chức đảng, cấp ủy còn buông lỏng việc quản lý đảng viên, buông lỏng công tác kiểm tra, giám sát; nhất là khi người đứng đầu, thành viên lãnh đạo chủ chốt trong cấp ủy năng lực yếu, không hoàn thành nhiệm vụ, suy thoái đạo đức, vi phạm pháp luật, tham nhũng, lãng phí. Khi đó, cấp ủy, tổ chức đảng mất sức chiến đấu, sinh hoạt tự phê bình, phê bình trở thành hình thức, hoạt động kiểm tra, giám sát hầu như bị vô hiệu hóa. Chính vì vậy, có nhiều vụ, việc tiêu cực, vi phạm Điều lệ, quy định của Đảng, luật pháp, chính sách của Nhà nước, tham nhũng, lãng phí, làm thất thoát tài sản của Nhà nước, gây hậu quả nghiêm trọng, nhưng các tổ chức đảng, cơ quan nhà nước ở đó đều không tự phát hiện ra. Vụ, việc chỉ được phát hiện do liên quan đến vụ, việc khác đang hay đã được xử lý, do đơn, thư tố cáo của nhân dân, thông tin từ báo chí hay do thanh tra, kiểm tra của cấp ủy, cơ quan nhà nước cấp trên.
Trong khi đó, vai trò giám sát của nhân dân, của báo chí đối với hoạt động của tổ chức đảng, đảng viên, cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước ngày càng được khẳng định, nhưng chưa được thể chế hóa đầy đủ thành luật pháp, chính sách, quy định và hướng dẫn cụ thể, nên việc phát huy vai trò còn hạn chế. Một số cán bộ trong cơ quan kiểm tra, giám sát của Đảng, thanh tra của Nhà nước hạn chế về năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, thiếu chủ động, tích cực trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao, suy thoái về đạo đức, lối sống, lạm dụng chức vụ, quyền hạn làm sai lệch hồ sơ, kết luận thanh tra, kiểm tra, nhận hối lộ để bao che cho những cán bộ có sai phạm.
Một số định hướng tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực kinh tế hiện nay
Thứ nhất, cần nâng cao và thống nhất nhận thức về ý nghĩa, tầm quan trọng của việc đổi mới phương thức lãnh đạo lĩnh vực kinh tế của Đảng để có quyết tâm, kế hoạch tích cực thực hiện; phải tập trung khắc phục những hạn chế, vướng mắc hiện nay trong phương thức lãnh đạo kinh tế của Đảng, nhất là những vấn đề cấp thiết do thực tiễn đặt ra, những hạn chế, yếu kém đã kéo dài nhiều năm; việc đổi mới cần được thực hiện tích cực nhưng phải có cơ sở, căn cứ khoa học, thực tiễn, không chủ quan, duy ý chí; việc đổi mới phải đạt yêu cầu để các cấp ủy, tổ chức đảng và các cơ quan, tổ chức quản lý kinh tế của Nhà nước thực hiện đúng chức năng, thẩm quyền, trách nhiệm của mình, “đúng vai, thuộc bài”, “dọc ngang thông suốt”, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn mới. Đồng thời, việc đổi mới phương thức lãnh đạo lĩnh vực kinh tế của Đảng trong giai đoạn hiện nay cần ứng dụng, sử dụng các phương pháp, công cụ, công nghệ hiện đại, nhất là công nghệ số phục vụ cho hoạt động lãnh đạo của cấp ủy.
Thứ hai, định hướng đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực kinh tế bằng Cương lĩnh, nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng.
Điểm mấu chốt là cần phân biệt rõ vai trò, chức năng lãnh đạo của Đảng với vai trò, chức năng quản lý của Nhà nước. Với vai trò của Đảng cầm quyền, lãnh đạo chính trị, đại hội Đảng toàn quốc, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương thông qua Cương lĩnh, nghị quyết, chỉ thị, kết luận, đưa ra các quan điểm, chủ trương, mục tiêu, nhiệm vụ lớn về phát triển kinh tế, định hướng cho Nhà nước thể chế hóa thành luật pháp, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, định mức, tiêu chuẩn kỹ thuật,... của kinh tế đất nước trong từng giai đoạn. Đảng không làm thay Nhà nước. Do đó, việc đổi mới cần bám sát tinh thần của Cương lĩnh là Đảng lãnh đạo bằng “định hướng chính sách và chủ trương lớn”, tức không sa vào những “định hướng chính sách và chủ trương quá cụ thể” dễ lấn sân với Nhà nước, nhất là khi xác định chiến lược, kế hoạch 5 năm và hằng năm, định mức, tiêu chuẩn kỹ thuật. Cần đổi mới cách Trung ương ra nghị quyết chuyên đề về các vấn đề kinh tế. Nội dung nghị quyết của Trung ương cũng không đi sâu, quá chi tiết vào những giải pháp cụ thể cho vấn đề đặt ra, mà chỉ đưa ra các quan điểm, chủ trương, mục tiêu, nhiệm vụ, định hướng giải pháp lớn đối với các ngành, lĩnh vực, các vùng, các thành phần kinh tế.
Tiếp tục phân định rõ chức năng, thẩm quyền, trách nhiệm của Đảng đoàn Quốc hội, Ban Cán sự đảng Chính phủ, các ban cán sự đảng các bộ, cơ quan ngang bộ với lãnh đạo Quốc hội, lãnh đạo Chính phủ và lãnh đạo các bộ, cơ quan ngang bộ trong lĩnh vực kinh tế. Đảng đoàn Quốc hội, Ban Cán sự đảng Chính phủ, các ban cán sự đảng bộ chịu trách nhiệm trước Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư việc lãnh đạo, thể chế hóa đúng đắn, kịp thời các đường lối, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, nhiệm vụ lớn và kế hoạch tổ chức thực hiện do Trung ương đề ra, phát huy đúng vai trò của Quốc hội, Chính phủ, các bộ theo quy định của pháp luật; đồng thời, lãnh đạo Quốc hội, Chính phủ, các bộ tổ chức thực hiện nghiêm túc có kết quả. Trong lãnh đạo tổ chức thực hiện, phương thức lãnh đạo của đảng đoàn, ban cán sự đảng là giám sát, kiểm tra, đôn đốc các đảng viên ở vị trí lãnh đạo Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chính phủ, các bộ để các cơ quan này xem xét, giải quyết vấn đề theo đúng chức năng, thẩm quyền do luật pháp quy định. Ban cán sự đảng, đảng đoàn không quyết định những vấn đề cụ thể thuộc thẩm quyền của các cơ quan nhà nước.
Tiếp tục phân định rõ vai trò, chức năng lãnh đạo của cấp ủy với vai trò, chức năng quản lý nhà nước về kinh tế của chính quyền địa phương. Đồng thời, cấp ủy kiểm tra, giám sát, đôn đốc tổ chức đảng và đảng viên, nhất là đảng viên giữ các vị trí lãnh đạo chủ chốt trong các cơ quan chính quyền tổ chức thực hiện các chủ trương, quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ do tổ chức đảng, cấp ủy địa phương đề ra, cũng như việc thực hiện luật pháp, chính sách, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế đất nước của Trung ương. Cấp ủy không giải quyết, quyết định những vấn đề thuộc thẩm quyền của chính quyền theo quy định của pháp luật.
Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, hoạt động của tổ chức đảng trong doanh nghiệp, phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp để thực hiện và phát huy vai trò hạt nhân chính trị ở cơ sở của tổ chức đảng.
Thứ ba, định hướng tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo lĩnh vực kinh tế của Đảng thông qua tổ chức đảng và đảng viên, bằng công tác tổ chức, cán bộ trong các cơ quan quản lý kinh tế, đơn vị kinh tế nhà nước.
Tiếp tục nghiên cứu, sắp xếp lại, tinh gọn tổ chức bộ máy quản lý nhà nước ở Trung ương đối với lĩnh vực kinh tế. Sắp xếp lại tổ chức đảng phù hợp với tổ chức hệ thống các cơ quan nhà nước mới từ Trung ương đến địa phương. Xem xét lại việc tổ chức đảng bộ toàn tập đoàn kinh tế, tổng công ty và Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương theo hướng gắn đảng bộ các doanh nghiệp thành viên với đảng bộ địa phương nơi doanh nghiệp hoạt động, đồng thời vẫn chịu sự lãnh đạo của tập đoàn, tổng công ty về thực hiện nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh và công tác cán bộ, đối với những cán bộ thuộc diện tập đoàn, tổng công ty quản lý (tương tự như các đảng bộ công an, quân sự, đảng bộ cục thuế, kho bạc ở các tỉnh, thành phố vừa chịu sự lãnh đạo của đảng bộ tỉnh, thành phố, vừa chịu sự lãnh đạo ngành dọc của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, các quân khu, Tổng cục Thuế, Bộ Tài chính...). Đặc điểm lớn nhất, quan trọng nhất của Đảng cầm quyền là đưa đảng viên của Đảng vào nắm giữ các vị trí lãnh đạo chủ chốt của bộ máy nhà nước. Vì vậy, phải lựa chọn được những người thật sự có năng lực, phẩm chất, uy tín, có tính đảng cao, trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, của nhân dân, để nắm giữ các vị trí lãnh đạo chủ chốt của bộ máy nhà nước ở các cấp.
Khi đánh giá, lựa chọn để quy hoạch, giới thiệu bầu, bổ nhiệm cán bộ vào vị trí lãnh đạo các cơ quan đảng, nhà nước, cấp ủy và các cơ quan tham mưu giúp việc cấp ủy, nhất là cơ quan tổ chức, cần phải xem xét đầy đủ cả về phẩm chất và năng lực, đức và tài, cả quá trình công tác, thành tích, cống hiến của cán bộ cho cơ quan, đơn vị, cho ngành, địa phương, tạo nên uy tín của cán bộ, trên cơ sở có thông tin đa chiều, được tập hợp từ nhiều kênh, nhiều nguồn. Quản lý chặt chẽ cán bộ, đảng viên, phát hiện và loại bỏ kịp thời những cán bộ, đảng viên suy thoái tư tưởng, đạo đức, lối sống, vi phạm kỷ luật đảng, pháp luật của Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến uy tín của Đảng, Nhà nước.
Thứ tư, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo lĩnh vực kinh tế của Đảng bằng kiểm tra, giám sát và gương mẫu của đảng viên.
Cấp ủy, người đứng đầu cấp ủy cần nhận thức và xác định, kiểm tra, giám sát là trách nhiệm, nhiệm vụ hàng đầu của cơ quan lãnh đạo, của người lãnh đạo. Hoạt động của mọi tổ chức đảng, đảng viên đều phải có sự kiểm tra, giám sát; mọi lĩnh vực, mọi công việc có sự lãnh đạo của Đảng đều phải được kiểm tra, giám sát; đặc biệt lĩnh vực kinh tế là lĩnh vực rộng lớn, phức tạp, có nhiều cám dỗ, làm cho cán bộ, đảng viên có chức, có quyền dễ dẫn đến sai phạm, do vậy, hoạt động kiểm tra, giám sát lại càng cần thiết và quan trọng. Mọi tổ chức đảng, đảng viên hoạt động trong lĩnh vực kinh tế đều phải tự giác, tự kiểm tra, giám sát mình, chịu sự kiểm tra, giám sát của tổ chức đảng, sự kiểm tra, giám sát của nhân dân.
Sau đại hội đảng bộ, trên cơ sở mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế của đảng bộ trong cả nhiệm kỳ đã được đại hội thông qua, cấp ủy cần xây dựng kế hoạch kiểm tra, giám sát của cấp ủy đối với lĩnh vực kinh tế trong cả nhiệm kỳ, có phân chia cho từng năm, từng quý, bao gồm kiểm tra, giám sát thường kỳ, đột xuất, vừa bảo đảm tính toàn diện, vừa có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào những lĩnh vực, địa bàn quan trọng hay có nhiều vấn đề đang đặt ra; phân công người phụ trách, tổ chức thực hiện, ban hành quy chế, hướng dẫn công tác kiểm tra, giám sát; hằng năm, có đánh giá kết quả thực hiện, điều chỉnh, bổ sung kế hoạch cho phù hợp với thực tiễn.
Tiếp tục đổi mới hoạt động kiểm tra, giám sát trong Đảng, cần cụ thể hóa, thể chế hóa, quy chế hóa vai trò giám sát của nhân dân, của các cơ quan báo chí đối với tổ chức đảng, cấp ủy, cán bộ, đảng viên. Cần có quy định cụ thể về việc cấp ủy, tổ chức đảng cung cấp cho nhân dân, các cơ quan báo chí thông tin về chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật, chính sách kinh tế của Nhà nước, về hoạt động và kết quả hoạt động của cấp ủy, tổ chức đảng, của cán bộ, đảng viên, nhất là của người đứng đầu, cán bộ lãnh đạo, quản lý trong lĩnh vực kinh tế; cần có quy định và hướng dẫn cụ thể về nội dung, phương thức giám sát, về việc công bố và sử dụng kết quả giám sát, về hiệu lực, giá trị ràng buộc của các đề xuất, kiến nghị sau khi giám sát... Là Đảng cầm quyền, tổ chức đảng, cấp ủy trong các cơ quan nhà nước cần quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo việc đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động giám sát của Quốc hội (bao gồm cả các ủy ban, các đoàn đại biểu, các đại biểu Quốc hội), của các cơ quan tư pháp, của Thanh tra Chính phủ đối với lĩnh vực kinh tế.
Mọi cấp ủy, tổ chức đảng, mọi cán bộ, đảng viên cần quán triệt sâu sắc về sự cần thiết, ý nghĩa quan trọng của sự gương mẫu, nêu gương của người cán bộ, đảng viên để tự giác, chủ động phấn đấu thực hiện. Các cấp ủy, tổ chức đảng cần tăng cường giáo dục, tuyên truyền, vận động, động viên, cổ vũ, xây dựng các tiêu chí, tiêu chuẩn, hình mẫu người cán bộ, đảng viên gương mẫu trên các lĩnh vực, các vị trí công tác, gương mẫu trong chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, luật pháp, chính sách của Nhà nước, gương mẫu đi đầu trong đổi mới sáng tạo, sáng kiến cải tiến, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất, kinh doanh, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, gương mẫu trong tác phong, lối sống khiêm tốn, giản dị, nếp sống lành mạnh, xây dựng gia đình văn hóa, đấu tranh với các hành vi sai trái, tiêu cực... Thực hiện những điều này một cách kiên trì, bền bỉ sẽ trở thành phong trào trong Đảng và lan tỏa ra toàn dân, toàn xã hội./.
----------------------
(1) Đặc trưng hay đặc thù với ý nghĩa là tiêu biểu, quan trọng, cần nhấn mạnh hơn trong lĩnh vực kinh tế so với các lĩnh vực khác, không phải với ý nghĩa là riêng có của lĩnh vực kinh tế, không có trong các lĩnh vực khác.