Phát huy sức mạnh của nhân dân trong xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa - Một số vấn đề mới đặt ra hiện nay
08:10, ngày 08-01-2024
TCCS - Trong suốt quá trình xây dựng, trưởng thành và lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn quán triệt tư tưởng “nước lấy dân làm gốc”, xác định cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Nghị quyết số 43-NQ/TW, ngày 24-11-2023, của Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII, “Về tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”, nhấn mạnh: “Trước yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phấn đấu đưa nước ta trở thành nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045 đòi hỏi phải đẩy mạnh, phát huy cao độ truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc”.
Phát huy sức mạnh của nhân dân trong xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa - Cơ sở lý luận và thực tiễn
Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và kế thừa bài học kinh nghiệm về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định, nhân dân là chủ thể của cách mạng, có khả năng sáng tạo vô tận và sức mạnh to lớn. Người chỉ rõ: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”(1), “có lực lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy làm cũng được. Không có, thì việc gì làm cũng không xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”(2); “Sự đồng tâm của đồng bào ta đúc thành một bức tường đồng xung quanh Tổ quốc. Dù địch hung tàn, xảo quyệt đến mức nào, đụng đầu nhằm bức tường đó, chúng cũng phải thất bại”(3). Trong lịch sử, Nguyễn Trãi, nhà văn hóa lớn thế kỷ XV từng khẳng định: Sức dân như nước, nước có thể đẩy thuyền, cũng có thể lật thuyền. Còn Tả tướng quốc triều đại nhà Hồ, Hồ Nguyên Trừng đã nói, không sợ đánh giặc, chỉ sợ lòng dân không theo. Tất cả điều đó nói lên vai trò, tầm quan trọng của nhân dân trong tiến trình phát triển của dân tộc là rất to lớn, có nhân dân là có tất cả.
“Nhân dân” theo quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh có nội hàm rất rộng, bao gồm mọi người dân Việt Nam yêu nước - một lực lượng đông đảo, có sức mạnh to lớn. Sức mạnh của nhân dân là sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đó là sức mạnh về vật chất, tinh thần, kết tinh từ sức mạnh của mỗi người dân, ở mỗi thành phần dân tộc, tôn giáo, giai cấp, tầng lớp xã hội. Nhân dân là lực lượng đông đảo, nhưng nếu mỗi người đứng riêng rẽ, thì không thể tạo thành sức mạnh; chỉ khi được giác ngộ, được quy tụ trong một khối thống nhất về ý chí và hành động thì mới tạo thành sức mạnh to lớn. Vì vậy, chăm lo xây dựng, không ngừng củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc là điều kiện quan trọng hàng đầu để phát huy sức mạnh to lớn của nhân dân.
Sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội là những công việc hết sức hệ trọng, chưa có tiền lệ và vô cùng khó khăn, gian khổ, đòi hỏi sự hy sinh, cống hiến to lớn về mọi mặt của cả dân tộc. Sự nghiệp lâu dài, khó khăn, gian khổ đó chỉ có thể thành công khi Đảng ta quy tụ, tập hợp và phát huy được sức mạnh của các tầng lớp nhân dân, tạo nên lực lượng hùng hậu, có sức mạnh “muôn người như một”. Việc quy tụ, tập hợp và phát huy sức mạnh của nhân dân đòi hỏi có phương thức, hình thức phù hợp, trên cơ sở kết hợp hài hòa lợi ích thiết thực của nhân dân; trong đó, Đảng là hạt nhân quy tụ, đoàn kết quần chúng nhân dân.
Thực tiễn sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước đã minh chứng, nhờ có đường lối cách mạng đúng đắn, tất cả vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân; có đội ngũ cán bộ, đảng viên thực sự là công bộc của nhân dân, tận tụy, hy sinh vì nhân dân, được nhân dân tin theo, mà Đảng ta đã tập hợp, quy tụ, phát huy được sức mạnh to lớn của nhân dân cả về lực lượng và của cải, vật chất và tinh thần, để làm nên thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy Điện Biên, chấn động địa cầu” năm 1954 và Đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Đó là sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, muôn triệu người như một, quyết chí, đồng lòng đứng lên đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi chế độ áp bức, bóc lột của thực dân, phong kiến. Sự tham gia tích cực, không quản hy sinh, gian khổ, không chịu khuất phục trước bất cứ thế lực xâm lược, áp bức nào của nhân dân bắt nguồn từ truyền thống quý báu được hun đúc từ hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc; đến thời hiện đại trở thành niềm tin to lớn của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, để phát huy sức mạnh của nhân dân, Đảng ta xác định, lấy mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng; bảo đảm công bằng và bình đẳng xã hội, chăm lo lợi ích thiết thực, chính đáng, hợp pháp của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân; kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích toàn xã hội,... coi đây là các yếu tố quan trọng để củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đồng thời, Đảng lãnh đạo phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối phù hợp, hiệu quả; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế ở mỗi cấp, mỗi ngành, trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội. Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng để phát triển đất nước. Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau giữa các dân tộc, tạo điều kiện thuận lợi để các dân tộc phát triển, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam; kiên quyết chống tư tưởng kỳ thị và chia rẽ dân tộc. Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân theo quy định của pháp luật; đấu tranh và xử lý nghiêm mọi hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm quyền tự do, dân chủ, tự do tín ngưỡng, tôn giáo và lợi dụng “dân chủ”, “tín ngưỡng, tôn giáo” làm tổn hại đến lợi ích của quốc gia - dân tộc và lợi ích của nhân dân. Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng; nâng cao uy tín, vị thế của đất nước; vì lợi ích quốc gia - dân tộc; sẵn sàng là bạn, đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Với chủ trương, giải pháp đồng bộ, Đảng đã phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh toàn dân tộc với sức mạnh thời đại, đưa nước ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện, trước hết là đổi mới về kinh tế, tạo bước phát triển vượt bậc. Nhờ đó, “Đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(4). Hiện nay, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 193 quốc gia, vùng lãnh thổ, trong đó có 3 nước quan hệ đặc biệt, 6 nước đối tác chiến lược toàn diện, 13 nước đối tác chiến lược và 12 nước đối tác toàn diện(5). Đây là động lực, nguồn lực quan trọng, là cơ sở, niềm tin để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt qua khó khăn, thách thức, tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới toàn diện, đồng bộ; phát triển đất nước nhanh và bền vững.
Đối với Quân đội nhân dân Việt Nam, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, gắn bó máu thịt với nhân dân, dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, trong gần 80 năm qua, lực lượng quân đội luôn thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ là đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, ở bất cứ nơi đâu, với tinh thần vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân, toàn thể cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam đều sẵn sàng hy sinh, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ để chiến đấu, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bảo vệ nhân dân; làm nòng cốt và cùng nhân dân phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, thảm họa môi trường, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn, chủ động, tích cực tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc,... làm sáng thêm phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” trong thời kỳ mới; qua đó, góp phần nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, vào quân đội, là cơ sở quan trọng để quy tụ, tập hợp và phát huy sức mạnh của nhân dân.
Thời gian tới, mục tiêu phát triển đất nước được Đảng ta xác định là: “Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao”(6). Đây là nhiệm vụ rất to lớn, vẻ vang, song cũng rất nặng nề, phức tạp, đòi hỏi Đảng, Nhà nước ta không chỉ có đường lối đúng đắn, chiến lược, kế hoạch, giải pháp đồng bộ, nâng cao sự quyết tâm của các cấp, ngành, lực lượng và cả hệ thống chính trị, mà còn phải phát huy được sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Tuy nhiên, trong điều kiện mới, việc phát huy sức mạnh của nhân dân trong thực hiện nhiệm vụ cách mạng đang đối diện với nhiều vấn đề mới.
Thứ nhất, một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân có biểu hiện giảm sút niềm tin vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, sức mạnh của lực lượng vũ trang. Hiện nay, do tác động của nhiều yếu tố, nhất là tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường; sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một số cán bộ, đảng viên, tình trạng tham nhũng, tiêu cực chưa được ngăn chặn triệt để, sự chống phá của các thế lực thù địch,... nên một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân có thái độ bàng quan đối với vận mệnh của đất nước, sự phát triển của dân tộc. Biểu hiện rõ nhất là nhận thức sai lệch về mục tiêu lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; thiếu sự đồng thuận với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; thậm chí có người “trở cờ”, phản bội, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phủ nhận chủ nghĩa xã hội, nói xấu lãnh tụ của Đảng, đòi thực hiện “đa nguyên, đa đảng”, đưa đất nước phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa. Còn tồn tại một bộ phận nhân dân nhận thức chưa đúng, bất bình, bức xúc, không tin vào cán bộ, chính quyền cơ sở, thậm chí có hành vi chống đối gay gắt, tạo “điểm nóng” về trật tự, an toàn xã hội ở địa phương.
Thứ hai, hiện tượng đề cao quá mức lợi ích vật chất, lợi ích của cá nhân làm ảnh hưởng tiêu cực tới khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Cần khẳng định, mưu cầu về một cuộc sống đầy đủ là nhu cầu chính đáng của nhân dân, nhất là trong điều kiện đất nước hòa bình, kinh tế - xã hội phát triển, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân và bộ đội ngày càng được nâng cao. Đảng ta luôn đặt nhiệm vụ phát triển toàn diện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân là nhiệm vụ quan trọng qua mọi kỳ đại hội và đã từng bước đạt được những kết quả tích cực, đáng ghi nhận. Tuy nhiên, thực tiễn đang đặt ra yêu cầu cần giải quyết hài hòa, hợp lý vấn đề lợi ích, phù hợp với điều kiện phát triển của đất nước và toàn Đảng, toàn dân cần tiếp tục nỗ lực hơn nữa để đạt được mục tiêu. Nhưng cũng chính vì thế, khi một bộ phận trong dân cư còn tư tưởng đề cao quá mức lợi ích của mình, không quan tâm đến lợi ích chung, không cảm thông với khó khăn của đất nước, thì đã làm ảnh hưởng xấu đến sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc và sự nghiệp chung.
Thứ ba, việc thực hiện dân chủ trực tiếp của nhân dân còn một số hạn chế. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của phát triển. Thực hiện tốt dân chủ sẽ góp phần giải phóng toàn diện năng lực của mỗi cá nhân, mỗi tổ chức; qua đó, phát huy cao độ sự đóng góp về trí lực, tinh thần, vật chất cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đảng, Nhà nước ta đã ban hành cơ chế, chính sách, pháp luật để thực hiện dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy nhiên, hiện nay ở một số địa phương, nhất là cấp cơ sở, việc thực thi dân chủ, nhất là dân chủ trực tiếp còn nhiều hạn chế, còn biểu hiện hình thức, thiếu dân chủ, tình trạng quan liêu, cửa quyền còn xảy ra,... gây bức xúc trong nhân dân, tác động tiêu cực tới phát huy sức mạnh của quần chúng nhân dân.
Thứ tư, hiệu quả tập hợp, vận động nhân dân có lúc, có nơi còn chưa cao. Như chúng ta đã biết, nếu các phong trào, cuộc vận động đáp ứng nguyện vọng thiết thực của nhân dân thì sẽ thu hút được sự tham gia tích cực của đông đảo nhân dân. Nhìn lại việc tổ chức các phong trào: “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”, “Cả nước đoàn kết, chung sức, đồng lòng thi đua phòng, chống và chiến thắng đại dịch COVID-19”,... có thể thấy, Đảng và Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội đã huy động được sự tham gia tích cực, đóng góp to lớn của nhân dân; nhờ đó, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, tạo diện mạo mới của các vùng nông thôn; kịp thời ngăn chặn, đẩy lùi dịch bệnh, ổn định cuộc sống. Tuy nhiên, thời gian qua, hoạt động của các tổ chức, đoàn thể nhân dân ở một số nơi, vào một số thời điểm chưa đạt hiệu quả cao, chưa thỏa mãn nhu cầu chính đáng của nhân dân; vì vậy, cần nhanh chóng khắc phục hạn chế này, để phát huy tốt hơn nữa các phong trào hành động của quần chúng nhân dân.
Tiếp tục phát huy sức mạnh của nhân dân, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới trong xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
Một là, khơi dậy lòng tự hào dân tộc, củng cố niềm tin, lý tưởng cách mạng, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc của các tầng lớp nhân dân.
Trước hết, cần thực hiện tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, làm cho nhân dân thấy được giá trị, ý nghĩa của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường đúng đắn duy nhất, phù hợp với xu thế thời đại; bảo đảm cho đất nước được độc lập, phát triển, nhân dân được ấm no, tự do, hạnh phúc. Đẩy mạnh tuyên truyền về thành tựu của công cuộc đổi mới, khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước là nhân tố quan trọng hàng đầu bảo đảm cho sự thành công của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cùng với đó, làm cho các tầng lớp nhân dân thấy được vai trò, sức mạnh của tinh thần đoàn kết, cộng đồng trách nhiệm, chung sức, đồng lòng vượt qua mọi khó khăn, thử thách; chỉ có đoàn kết, thống nhất mới tạo sức mạnh để thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, bảo đảm lợi ích của mỗi cá nhân. Việc tuyên truyền, giáo dục cần được thực hiện thường xuyên, thông qua nhiều hình thức, phương pháp, phù hợp với đối tượng; trong đó, chú trọng tuyên truyền, giáo dục thế hệ trẻ - chủ nhân tương lai của đất nước - về trách nhiệm và nghĩa vụ của mình. Từ đó, củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”(7) trong các tầng lớp nhân dân.
Hai là, bảo đảm hài hòa lợi ích của các tầng lớp nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Trong những năm qua, kinh tế - xã hội nước ta tiếp tục phát triển, GDP bình quân đầu người được tăng lên, các lĩnh vực xã hội có nhiều thay đổi, đời sống vật chất, tinh thần của các tầng lớp nhân dân được cải thiện rõ rệt, nhu cầu và các quan hệ lợi ích trong xã hội, cũng như lợi ích của các giai tầng, thành phần, lực lượng xã hội được đáp ứng và giải quyết ngày càng hài hòa, thỏa đáng. Các vấn đề xã hội, như lao động, việc làm, tệ nạn xã hội, việc thực hiện công bằng và bình đẳng xã hội,... được quan tâm giải quyết tốt hơn. Đó là nhân tố tích cực, tạo cơ sở vững chắc để tập hợp, quy tụ, phát huy sức mạnh của nhân dân.
Tuy nhiên, ở nhiều vùng, miền, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, tình hình kinh tế - xã hội vẫn còn nhiều khó khăn, đói nghèo, tái mù chữ vẫn là thách thức lớn. Bên cạnh đó, tình trạng phân hóa giàu - nghèo ngày càng gia tăng, chứa đựng những dấu hiệu phân tầng xã hội ngày càng rõ rệt, làm cho các lợi ích thiết thực nhất của nhân dân không được bảo đảm đầy đủ, nảy sinh những phức tạp trong quan hệ cộng đồng, gia tăng nguy cơ mất ổn định về chính trị - xã hội, phá vỡ sự liên kết, gắn bó giữa các giai tầng, thành phần, lực lượng trong xã hội. Tác động tiêu cực từ mặt trái của kinh tế thị trường, như tính thực dụng, ích kỷ, đặt lợi ích kinh tế lên trên hết,... làm cho nhiều giá trị xã hội bị đảo lộn, dẫn đến tính cộng đồng bị xem nhẹ, khối đại đoàn kết toàn dân tộc thiếu sự gắn kết; vì vậy, đòi hỏi Đảng, Nhà nước, các cấp, ngành, từng cơ quan, đơn vị có chủ trương, chính sách, giải pháp bảo đảm hài hòa lợi ích hợp pháp, chính đáng của các tầng lớp nhân dân, cả về vật chất và tinh thần. Nêu cao tinh thần, trách nhiệm của mỗi người vì sự nghiệp chung, vì mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đặt lợi ích tập thể, lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết, trước hết. Tiếp tục thực hiện tốt chủ trương mỗi bước tăng trưởng kinh tế phải gắn với bảo đảm tốt hơn tiến bộ, công bằng xã hội; đẩy mạnh chủ trương, chính sách xóa đói, giảm nghèo, an sinh xã hội, văn hóa, giáo dục, đào tạo, y tế,... nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, nhằm hạn chế ở mức thấp nhất sự gia tăng khoảng cách giàu - nghèo giữa các bộ phận, tầng lớp nhân dân, bảo đảm công bằng, bình đẳng trong xã hội.
Ba là, phát huy vai trò của dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện tốt quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường thực hiện dân chủ trực tiếp của nhân dân.
Đảng, Nhà nước tiếp tục cụ thể hóa, hoàn thiện thể chế thực hành dân chủ, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, mọi công dân có thể trực tiếp thể hiện ý chí và nguyện vọng của mình một cách bình đẳng, tham gia trực tiếp, tích cực và chủ động vào các hoạt động của Nhà nước trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại,... Phát huy vai trò tích cực của nhân dân tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, xây dựng đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức ngày càng vững mạnh,... Trong từng hoạt động, lĩnh vực thực hiện tốt phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Thực hiện dân chủ đi liền với bảo đảm kỷ cương, kỷ luật; xử lý kịp thời, nghiêm minh tổ chức, cá nhân lợi dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền” để gây rối nội bộ, làm mất ổn định chính trị - xã hội, hoặc vi phạm dân chủ, làm phương hại đến quyền làm chủ của nhân dân.
Bốn là, nâng cao vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và hiệu quả của các phong trào thi đua yêu nước.
Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật về thành lập, hoạt động của các hội, bảo đảm các hội hoạt động đúng tôn chỉ, mục đích theo pháp luật, nhất là hoạt động giúp đỡ nhau trong cuộc sống, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức hội, đội ngũ hội viên; tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cùng với đó, cần tiếp tục đổi mới, nâng cao vị trí, vai trò, chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, bảo đảm thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ là trung tâm tập hợp, quy tụ và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Hướng hoạt động nhiều hơn về cơ sở, đến từng hộ dân, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn; chú trọng bồi dưỡng và hướng dẫn người có uy tín trong cộng đồng tham gia đóng góp cho phong trào chung; phát huy những mặt tốt của các hình thức cộng đồng truyền thống, như làng, bản, dòng họ, gia đình; kịp thời uốn nắn những biểu hiện cục bộ, lệch lạc. Đồng thời, có cơ chế, chính sách phù hợp để các đoàn thể nhân dân phản ánh trung thực tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân; tích cực tham gia xây dựng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tăng cường vai trò giám sát đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước, việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ và tu dưỡng của đại biểu dân cử, cán bộ, đảng viên, công chức, góp phần xây dựng và bảo vệ tổ chức đảng và chính quyền trong sạch, vững mạnh. Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động, bảo đảm thiết thực, sát với đặc điểm, yêu cầu, nhiệm vụ từng cấp, ngành, nhu cầu của nhân dân; qua đó, tạo phong trào hành động cách mạng sâu rộng, phong phú để thu hút sự tham gia đông đảo của các tầng lớp nhân dân.
Năm là, tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.
Các tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là ở cơ sở, cần gần dân, bám sát tâm tư, nguyện vọng hợp pháp, chính đáng của nhân dân; tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm các nghị quyết, quy định về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; đồng thời, quyết liệt đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí, biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”,...
Chú trọng, tăng cường xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, đặt nhiệm vụ phục vụ nhân dân lên trên hết, giải quyết đúng đắn và nhanh chóng các công việc có liên quan trực tiếp đến đời sống của nhân dân. Giáo dục cán bộ, đảng viên, công chức xây dựng và thực hành phong cách “trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân”, “nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”; có thái độ chân thành, tôn trọng nhân dân, hướng dẫn và giúp đỡ nhân dân; thực hiện phương thức dân chủ trong lãnh đạo và quản lý, điều hành, kiên quyết khắc phục lối làm việc mệnh lệnh, hành chính đơn thuần.
Sáu là, kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn, hoạt động chống phá khối đại đoàn kết toàn dân tộc của các thế lực thù địch.
Hiện nay, các thế lực thù địch triệt để lợi dụng vấn đề “tự do tư tưởng”, “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo”; hạn chế, khuyết điểm của một số cán bộ, đảng viên để xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nói xấu lãnh tụ; kích động nhân dân tụ tập khiếu kiện đông người, phản đối chính quyền,... hòng gây mất ổn định chính trị, tạo sự đối lập, chia rẽ mối quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng, giữa dân tộc đa số với dân tộc thiểu số, giữa đồng bào theo các tôn giáo khác nhau. Vì vậy, cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị cần nhận thức sâu sắc nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”, âm mưu, thủ đoạn chống phá khối đại đoàn kết toàn dân tộc của các thế lực thù địch. Đây là nhiệm vụ cấp bách, thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Trong quá trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ này, cần nắm vững quan điểm chỉ đạo của Đảng, thực hiện tốt phương châm: Chủ động, khôn khéo, kiên quyết; kết hợp giữa “xây” và “chống”, lấy “xây” là chính, “chống” là thường xuyên. Trước hết, phát huy vai trò của đội ngũ cán bộ, đảng viên, cơ quan truyền thông, báo chí để tập trung đấu tranh phản bác những luận điệu sai trái của các thế lực thù địch, những nhận thức lệch lạc, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng ở từng cơ quan, đơn vị. Cấp ủy, chính quyền, các tổ chức, lực lượng, nhất là lực lượng vũ trang cần nắm chắc đặc điểm tình hình trên từng địa bàn, chú trọng địa bàn chiến lược, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, kịp thời phát hiện, đấu tranh với mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; xử lý kiên quyết, khôn khéo các tình huống, không để hình thành “điểm nóng” kéo dài. Đồng thời, phát huy sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của hệ thống chính trị, đẩy mạnh xây dựng tiềm lực đất nước vững mạnh, thực hiện tốt chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta, tranh thủ sự ủng hộ của bạn bè quốc tế,... để làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị./.
--------------------------
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 10, tr. 453
(2), (3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 335, 179
(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 103 - 104
(5) Xem: Vũ Trọng Lâm: “Tư tưởng nhất quán, xuyên suốt về đường lối đối ngoại, ngoại giao Việt Nam”, Tạp chí Mặt trận điện tử, ngày 22-11-2023, https://tapchimattran.vn/thuc-tien/tu-tuong-nhat-quan-xuyen-suot-ve-duong-loi-doi-ngoai-ngoai-giao-viet-nam-55585.html; ngày 27-11-2023, Việt Nam và Nhật Bản đã thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện vì hòa bình và thịnh vượng tại châu Á và trên thế giới
(6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 112
(7) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 110