Đảng bộ Quốc hội trước yêu cầu đổi mới, bảo đảm thể chế hóa toàn diện, kịp thời, đúng đắn chủ trương của Đảng trong xây dựng và giám sát thực hiện pháp luật
10:45, ngày 30-09-2025
TCCS - Trước yêu cầu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, với phương châm “Đoàn kết - Dân chủ - Kỷ cương - Đột phá”, Đảng bộ Quốc hội đứng trước yêu cầu, nhiệm vụ đổi mới phương thức lãnh đạo để bảo đảm bám sát chủ trương, đường lối của Đảng về công tác lập pháp, giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Đòi hỏi việc thể chế hóa chủ trương, nghị quyết của Đảng thành pháp luật được tiến hành toàn diện, kịp thời, gắn với cơ chế giám sát chặt chẽ, qua đó nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Quốc hội.
Tổng Bí thư Tô Lâm và các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước xem triển lãm ảnh "Đảng bộ Quốc hội: Đoàn kết - Dân chủ - Kỷ cương - Đột phá" tại Đại hội đại biểu Đảng bộ Quốc hội lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030 _Ảnh: TTXVN
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất do cử tri bầu ra bằng hình thức phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Quốc hội có quyền quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, như làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp - luật cơ bản của Nhà nước, ban hành luật, nghị quyết, thực hiện hoạt động giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước, quyết định đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại, chủ quyền quốc gia. Hoạt động của Quốc hội tạo lập nền tảng chính trị - pháp lý bảo đảm sự thống nhất, hợp hiến và hợp pháp toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước.
Tổ chức và hoạt động của Quốc hội không ngừng được đổi mới qua các nhiệm kỳ Đại hội Đảng. Đặc biệt, trong nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng, Quốc hội có sự đổi mới một cách mạnh mẽ, toàn diện. Từ đầu nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV (2021-2026) đến tháng 1-2025, nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng tại Quốc hội được thực hiện thông qua vai trò của Đảng đoàn Quốc hội lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị và công tác tổ chức cán bộ. Thực hiện Kết luận số 121-KL/TW, ngày 24-1-2025, của Ban Chấp hành Trung ương, “Về tổng kết Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25-10-2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”; từ ngày 24-1-2025, cùng với việc quyết định thành lập Đảng bộ Quốc hội (theo Quyết định số 244-QĐ/TW của Bộ Chính trị), Đảng ủy Quốc hội thực hiện đầy đủ nội dung trong phương thức lãnh đạo của Đảng, bao gồm lãnh đạo bằng đường lối, chủ trương, chính sách, thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng thành pháp luật của Nhà nước; lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị và tổ chức bộ máy, cán bộ; lãnh đạo thông qua truyên truyền, vận động đại biểu Quốc hội, cán bộ, công chức, người lao động thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; kiểm tra, giám sát tổ chức đảng và đảng viên trong thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Kế thừa kết quả đã đạt được của Đảng đoàn Quốc hội, Đảng ủy Quốc hội lãnh đạo Quốc hội tiếp tục đẩy mạnh công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, pháp luật, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, giám sát tối cao, tạo tiền đề để đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Đảng ủy Quốc hội giữ vai trò hạt nhân chính trị, bảo đảm hoạt động của Quốc hội bám sát chủ trương, đường lối của Đảng. Đảng ủy Quốc hội có chức năng lãnh đạo, định hướng, tổ chức và dẫn dắt quá trình cụ thể hóa chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng thành Hiến pháp, pháp luật và quyết sách quan trọng của Nhà nước. Không chỉ dừng lại ở việc “luật hóa” nghị quyết, Đảng ủy Quốc hội trực tiếp lãnh đạo công tác giám sát tối cao, bảo đảm việc thực thi chính sách, pháp luật đi vào cuộc sống, đồng thời phát hiện những hạn chế trong hoạt động của bộ máy nhà nước. Nhờ vậy, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và tổ chức đảng trực thuộc Đảng bộ Quốc hội được hiện thực hóa ngày càng hiệu quả, góp phần củng cố sự thống nhất giữa đường lối chính trị và hành lang pháp lý, bảo đảm tính đúng đắn, hiệu lực và hiệu quả trong quản trị quốc gia.
Các đại biểu Quốc hội biểu quyết thông qua Luật Việc làm (sửa đổi) tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV _Ảnh: Tư liệu
Về phương thức lãnh đạo của Đảng bộ Quốc hội
Phương thức lãnh đạo của Đảng bộ Quốc hội được xác lập trên nguyên tắc căn bản của hệ thống chính trị Việt Nam: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ. Cụ thể, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, đường lối, nghị quyết, chủ trương, qua đó định hướng hoạt động của Quốc hội. Vai trò của Đảng bộ Quốc hội chính là hạt nhân bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ giữa đường lối chính trị với quá trình lập pháp và giám sát, để chủ trương của Đảng được thể chế hóa thành pháp luật và được triển khai trong thực tiễn. Điều này vừa khẳng định tính đúng đắn, khoa học của phương thức lãnh đạo, vừa bảo đảm nguyên tắc pháp quyền.
Đảng bộ Quốc hội là một trong bốn tổ chức Đảng trực thuộc Trung ương trong hệ thống chính trị nước ta. Khác với các tổ chức đảng ở các tỉnh, thành phố, Đảng bộ Quốc hội trực tiếp gắn với cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Đảng bộ Quốc hội không trực tiếp lãnh đạo quản lý nhà nước trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội ở địa phương, địa bàn, lãnh thổ, mà tập trung vào việc bảo đảm hoạt động lập pháp, giám sát và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước bám sát chủ trương, đường lối của Đảng. Đảng bộ Quốc hội định hướng, lãnh đạo để Quốc hội thể chế hóa kịp thời, đồng bộ chủ trương, nghị quyết của Đảng thành Hiến pháp, pháp luật; lãnh đạo để công tác giám sát tối cao thật sự hiệu lực, hiệu quả, góp phần kiểm soát quyền lực nhà nước. Đảng bộ Quốc hội giữ vai trò nòng cốt trong việc tổ chức, động viên và phát huy trí tuệ tập thể của đại biểu Quốc hội, tạo sự thống nhất giữa mục tiêu chính trị của Đảng và ý chí, nguyện vọng của nhân dân trong việc đề ra những quyết sách quan trọng. Nhờ đó, hoạt động của Quốc hội luôn bảo đảm đúng định hướng chính trị, gắn chặt với lợi ích của nhân dân và yêu cầu phát triển bền vững đất nước.
Phương thức lãnh đạo của Đảng bộ Quốc hội bám sát: định hướng, chủ trương lớn của Đảng không dừng lại ở việc triển khai nghị quyết, mà được Đảng bộ Quốc hội trực tiếp lãnh đạo để cụ thể hóa thành Hiến pháp và pháp luật. Như Hiến pháp năm 2013, thể hiện rõ quan điểm của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân, đề cao quyền con người, quyền công dân. Hay trong lĩnh vực tổ chức bộ máy, nhiều đạo luật quan trọng Quốc hội đã ban hành, như Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, góp phần hoàn thiện cơ chế phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Trong lĩnh vực kinh tế, Quốc hội đã thể chế hóa kịp thời chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng thông qua Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Đất đai, Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp..., tạo hành lang pháp lý cho hội nhập và phát triển bền vững. Đặc biệt, trong phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, Quốc hội đã ban hành Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí..., thể hiện quyết tâm chính trị của Đảng được cụ thể hóa thành công cụ pháp luật để siết chặt kỷ luật, kỷ cương. Thực tiễn này khẳng định phương thức lãnh đạo của Đảng bộ Quốc hội đã biến định hướng chính trị thành sức mạnh pháp lý có hiệu lực bắt buộc, qua đó gắn kết chặt chẽ giữa đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước và đời sống xã hội.
Ngoài kết quả đã đạt được, trong thực tiễn, việc thể hiện phương thức lãnh đạo của Đảng bộ Quốc hội cho thấy một số thách thức, hạn chế cần khắc phục. Thứ nhất, một số chủ trương, nghị quyết của Đảng chậm được thể chế hóa thành luật; nhiều văn bản pháp luật chưa theo kịp sự vận động nhanh chóng của đời sống kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế. Thứ hai, nhiều văn bản luật quy định quá chi tiết, lại đi sâu cả vào quản lý hành chính, gây khó khăn cho việc áp dụng. Thứ ba, chất lượng hoạt động giám sát của Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội chưa đồng đều, có lĩnh vực, chuyên đề giám sát tạo được chuyển biến rõ rệt, nhưng có lĩnh vực kết luận, kiến nghị về giám sát còn thiếu sức nặng, chưa buộc cơ quan chịu giám sát thay đổi. Thứ tư, sự phối hợp giữa các cơ quan trong hệ thống chính trị và giữa các ủy ban, giữa Đoàn đại biểu với cơ quan chuyên môn Quốc hội đôi khi chưa chặt chẽ, dẫn đến chồng chéo, trùng lặp. Thứ năm, việc thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao vào làm việc trong các cơ quan của Quốc hội và đại biểu Quốc hội chuyên trách về lâu dài sẽ khó khăn nếu không có cơ chế đặc biệt trong tuyển dụng, bố trí, sử dụng, đãi ngộ cán bộ. Thách thức, hạn chế này phản ánh thực tế phương thức lãnh đạo của Đảng bộ Quốc hội cần tiếp tục được đổi mới, khoa học và quyết liệt hơn theo hướng nâng cao năng lực nghiên cứu, dự báo, chỉ đạo công tác lập pháp để bảo đảm thể chế hóa kịp thời, đồng bộ, khả thi chủ trương của Đảng; tăng cường lãnh đạo các cơ quan của Quốc hội, chuyển từ phương thức lãnh đạo “ban hành nghị quyết, chỉ đạo chung” sang “giám sát, kiểm tra, gắn trách nhiệm người đứng đầu”, nâng cao tính dân chủ, công khai, tăng trách nhiệm giải trình, đồng thời gắn giám sát với cơ chế xử lý sau giám sát, qua đó nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi pháp luật và củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Phương thức lãnh đạo của Đảng bộ Quốc hội trước yêu cầu của tình hình mới
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trước yêu cầu mới nhằm để hoàn thiện sâu sắc hơn về phương diện lý luận xây dựng mô hình nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Trong đó nhấn mạnh đến các nội dung:
Một là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng bộ Quốc hội trước hết cần bám sát chủ trương, đường lối của Đảng, trong đó có công tác lập pháp, như “Bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, trực tiếp của Đảng trong công tác xây dựng pháp luật, tăng cường kiểm soát quyền lực; phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, lợi ích cục bộ; phòng ngừa, ngăn chặn mọi biểu hiện trục lợi, hướng lái chính sách”(1). “Thực hiện nghiêm kỷ cương, kỷ luật, các quy định về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, “lợi ích nhóm” trong xây dựng và thi hành pháp luật”(2). Tiếp tục đổi mới tư duy, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, trực tiếp của Đảng bộ Quốc hội trong công tác lập hiến, lập pháp, giám sát, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, hoạt động đối ngoại của Quốc hội, lấy hoàn thiện thể chế phát triển đất nước làm khâu đột phá, khuyến khích sáng tạo, giải phóng toàn bộ sức sản xuất, khơi thông mọi nguồn lực phát triển. Có nghĩa là, mọi chủ trương, nghị quyết của Đảng, từ phát triển kinh tế, xây dựng văn hóa, củng cố quốc phòng - an ninh đến công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, đều phải được rà soát kỹ lưỡng và chuyển hóa thành quy định pháp luật phù hợp. Cần xây dựng
một “bản đồ thể chế hóa” để xác định rõ từng chủ trương đã được cụ thể hóa đến đâu, còn thiếu vắng hay chậm trễ ở lĩnh vực nào, từ đó đề ra giải pháp khắc phục kịp thời. Cách làm này sẽ ngăn ngừa tình trạng “vùng trống pháp luật” - tức có chủ trương chính trị, nhưng không có hành lang pháp lý để thực hiện, hoặc có, nhưng thiếu đồng bộ, dẫn tới việc triển khai gặp khó khăn. Nhờ đó, quá trình lãnh đạo của Đảng bộ Quốc hội sẽ toàn diện hơn, bảo đảm mọi định hướng chiến lược của Đảng đều nhanh chóng đi vào cuộc sống.
Hai là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng bộ Quốc hội đòi hỏi bảo đảm tính kịp thời trong thể chế hóa. Thực tiễn cho thấy, có nghị quyết của Đảng đã ban hành, nhưng lại có độ “trễ” mới được cụ thể hóa thành luật hoặc chính sách, làm giảm hiệu lực lãnh đạo, chỉ đạo và bỏ lỡ thời cơ phát triển. Vì vậy, cần rút ngắn độ trễ từ nghị quyết của Đảng đến khi ban hành luật và đưa vào triển khai. Điều này giúp chính sách nhanh chóng đi vào cuộc sống, đáp ứng kịp thời yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và hội nhập quốc tế. Muốn vậy, Đảng bộ Quốc hội phải chủ động lãnh đạo các cơ quan của Quốc hội và phối hợp chặt chẽ với Chính phủ và các cơ quan, tổ chức liên quan trong công tác chuẩn bị, xây dựng dự án luật, đồng thời phát huy vai trò giám sát để bảo đảm tiến độ và chất lượng thể chế hóa.
Ba là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng bộ Quốc hội cần đặc biệt chú trọng bảo đảm tính đúng đắn trong hoạt động lập pháp. Nghĩa là, mọi đạo luật khi ban hành vừa phải bám sát và phản ánh chuẩn xác chủ trương, đường lối của Đảng, vừa phải phù hợp với điều kiện thực tiễn của đất nước, có tính khả thi cao. Do đó, quá trình thể chế hóa phải có sự hài hòa giữa tầm nhìn chiến lược và kỹ thuật lập pháp, tránh tình trạng “chính trị lấn sân” - khi luật chỉ nặng về khẩu hiệu, thiếu chi tiết để thực thi, hoặc quá sa vào quy định chi tiết, mà thiếu đi định hướng lớn và bản chất chính trị của vấn đề. Chỉ khi bảo đảm sự kết hợp cân bằng này, luật mới thực sự trở thành công cụ vừa thể hiện ý chí, đường lối của Đảng, vừa sát thực tiễn và tạo ra chuyển biến thực chất.
Đoàn Giám sát của Quốc hội về việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý thị trường bất động sản và phát triển nhà ở xã hội từ năm 2015 đến năm 2023 đã có buổi giám sát nhằm khảo sát một số dự án bất động sản, nhà ở xã hội đang gặp khó khăn trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh _Ảnh: TTXVN
Một số giải pháp đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng bộ Quốc hội
Thứ nhất, xây dựng cơ chế rà soát yêu cầu thể chế hóa và yêu cầu tăng cường giám sát thực hiện pháp luật trong hệ thống văn bản của Đảng. Một trong những giải pháp quan trọng trong đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng bộ Quốc hội là đổi mới việc xây dựng định hướng công tác lập pháp nhiệm kỳ Quốc hội. Theo đó, cần thiết lập cơ chế rà soát toàn bộ hệ thống nghị quyết, chủ trương của Đảng để xác định rõ nội dung nào đã được thể chế hóa thành luật, nội dung nào còn thiếu hoặc chậm. Trên cơ sở đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Quốc hội, Quốc hội sẽ xây dựng danh mục yêu cầu thể chế hóa, gắn với lộ trình, thời hạn cụ thể cho từng lĩnh vực, từng đạo luật. Cách làm này không chỉ giúp bảo đảm mọi chủ trương lớn của Đảng đều được triển khai với hành lang pháp lý tương ứng, mà còn khắc phục tình trạng “nợ đọng thể chế”, nghị quyết ban hành, nhưng chậm đi vào cuộc sống. Tạo cơ sở để Quốc hội và các cơ quan có liên quan chủ động trong chương trình xây dựng luật, tránh được sự bị động hoặc chạy theo yêu cầu ngắn hạn, phân tán.
Thứ hai, Đảng ủy Quốc hội và các cơ quan tham mưu, giúp việc cần phát huy cao độ tính Đảng trong quá trình xây dựng chương trình lập pháp. Nếu thiếu sự định hướng kịp thời của Đảng ủy và không phát huy vai trò của cơ quan tham mưu, giúp việc, chương trình lập pháp dễ rơi vào tình trạng bị động, chắp vá, chạy theo nhu cầu trước mắt mà thiếu tầm nhìn dài hạn. Bảo đảm định hướng rõ ưu tiên về lĩnh vực, thứ tự và thời gian ban hành, để bảo đảm chương trình lập pháp gắn chặt và nhất quán với nghị quyết, chủ trương lớn của Đảng. Bên cạnh đó, Đảng ủy Quốc hội làm đầu mối điều phối, tạo sự phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan của Quốc hội với cấp ủy của Chính phủ và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong quá trình chuẩn bị và đề xuất dự án luật. Cách làm này sẽ giúp chương trình lập pháp vừa có tính khoa học, đồng bộ, vừa bám sát chủ trương, đường lối của Đảng và đáp ứng yêu cầu thực tiễn của đất nước.
Thứ ba, Đảng ủy Quốc hội cần chủ động lãnh đạo tổ chức hoạt động giám sát chuyên đề tập trung vào việc thể chế hóa và thực thi theo các nghị quyết đột phá của Bộ Chính trị, có tầm quan trọng chiến lược của Đảng. Bởi vậy, các hoạt động giám sát chuyên đề cần có sự tham gia của cơ quan tham mưu, giúp việc của Đảng ủy Quốc hội, cần đi sâu vào việc đánh giá: nghị quyết nào đã được thể chế hóa đầy đủ, nghị quyết nào chưa được triển khai, luật nào khi thực hiện còn vướng mắc, bất cập... Qua đó, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội có căn cứ đưa ra kiến nghị xác đáng hoặc đề xuất sửa đổi, bổ sung luật, cơ chế tổ chức thi hành pháp luật. Cách làm này vừa giúp nâng cao hiệu quả giám sát tối cao của Quốc hội, vừa khẳng định vai trò lãnh đạo trực tiếp, thường xuyên của Đảng bộ Quốc hội trong việc bảo đảm sự thống nhất giữa chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Thứ tư, Đảng ủy Quốc hội phát huy vai trò lãnh đạo, định hướng để các cơ quan của Quốc hội chủ động rà soát, đánh giá, phát hiện “khoảng trống về thể chế”, từ đó kiến nghị sửa đổi, bổ sung điều khoản không còn phù hợp hoặc ban hành luật mới. Trong thực tiễn, có chủ trương lớn của Đảng chưa được cụ thể hóa thành quy định pháp luật, hoặc có vấn đề phát sinh mới từ thực tiễn mà hệ thống pháp luật hiện hành chưa điều chỉnh kịp thời. Nếu để tình trạng này kéo dài sẽ làm giảm hiệu lực của chủ trương, gây khó khăn cho quản lý nhà nước và ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người dân. Giải pháp vừa giúp nâng cao tính chủ động, tiên phong của Quốc hội trong hoạt động lập pháp, vừa bảo đảm cho đường lối, nghị quyết của Đảng được thể chế hóa đầy đủ, đồng bộ và sát với thực tiễn phát triển của đất nước.
Thứ năm, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng bộ Quốc hội đòi hỏi phân định rõ “tính chính trị” và “tính kỹ thuật” trong hoạt động lập pháp. Theo đó, Đảng ủy Quốc hội tập trung vào vai trò lãnh đạo, tức là sự định hướng chiến lược, lựa chọn ưu tiên lập pháp phù hợp với cương lĩnh, nghị quyết của Đảng và yêu cầu phát triển đất nước; bảo đảm hoạt động lập pháp luôn bám sát mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, giữ vững quốc phòng - an ninh và hội nhập quốc tế. Trong đó, các cơ quan chuyên môn của Quốc hội, cơ quan soạn thảo phối hợp chặt chẽ đảm nhiệm phần kỹ thuật lập pháp, từ thiết kế điều khoản bảo đảm tính logic, khả thi, đồng bộ của hệ thống pháp luật đến việc tổ chức tham vấn, giám sát, phản biện xã hội và tham khảo kinh nghiệm quốc tế. Cách làm này giúp tránh tình trạng “chính trị hóa quá mức” làm luật thiếu tính khả thi, hoặc “kỹ thuật lấn át chính trị” khiến luật xa rời chủ trương lớn của Đảng. Qua đó, hoạt động lập pháp vừa bảo đảm tầm nhìn chiến lược, vừa đạt tính chuyên nghiệp, khoa học, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của Quốc hội.
Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng ủy Quốc hội chính là sự định hướng, xác lập tầm nhìn chiến lược, còn cơ quan chuyên môn đảm nhiệm việc thể chế hóa cụ thể. Đảng ủy Quốc hội và cơ quan tham mưu, giúp việc sẽ tập trung vào vấn đề cốt lõi mang tính chính trị - pháp lý - như ưu tiên lập pháp, mục tiêu phát triển, định hướng giá trị và nguyên tắc lớn - thay vì can thiệp quá sâu vào chi tiết kỹ thuật của dự luật làm giảm tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm chuyên môn của cơ quan tham gia vào quá trình soạn thảo, thẩm tra và có thể khiến dự luật bị thiếu tính logic, đồng bộ và khó áp dụng trong thực tiễn. Đây chính là cách kết hợp hài hòa giữa năng lực lãnh đạo chiến lược của Đảng và tính chuyên nghiệp của các cơ quan của Quốc hội, giúp nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác lập pháp.
Thứ sáu, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng ủy Quốc hội phải gắn liền với việc nâng cao năng lực thể chế hóa của đại biểu Quốc hội chuyên trách thông qua việc bồi dưỡng và bổ sung hiểu biết, kỹ năng nghiệp vụ về Đảng áp dụng trong phân tích chính sách và đánh giá tác động pháp luật. Đây là năng lực then chốt giúp đại biểu Quốc hội chuyên trách và đội ngũ tham mưu nắm vững, nắm chắc chủ trương, đường lối của Đảng khi chuyển hóa nội dung này thành quy định pháp luật cụ thể, được đồng bộ và khả thi.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng bộ Quốc hội, gắn liền với nâng cao năng lực thể chế hóa, còn là việc phát triển trung tâm nghiên cứu, nhóm tư vấn tinh hoa, dịch vụ phân tích hoạt động của Quốc hội để hỗ trợ hiệu quả cho đại biểu Quốc hội trong quá trình thực hiện chức năng lập pháp, giám sát và quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước. Trong bối cảnh vấn đề chính trị, kinh tế - xã hội ngày càng phức tạp và đòi hỏi tri thức liên ngành, việc mỗi đại biểu Quốc hội tự nghiên cứu là không đủ, mà cần có hệ thống cơ sở dữ liệu khoa học, báo cáo phân tích chuyên sâu và đánh giá chính sách đáng tin cậy để tham khảo. Các trung tâm nghiên cứu và nhóm tư vấn tinh hoa có thể đảm nhiệm vai trò cung cấp dự báo, phân tích, kịch bản chính sách, so sánh kinh nghiệm quốc tế, giúp đại biểu Quốc hội có căn cứ vững chắc hơn khi thảo luận và biểu quyết. Đồng thời, dịch vụ phân tích hoạt động của Quốc hội chuyên nghiệp sẽ giúp rà soát tác động pháp luật, phát hiện khoảng trống hay sự chồng chéo trong hệ thống pháp luật, từ đó nâng cao chất lượng thể chế hóa nghị quyết của Đảng. Việc hình thành và phát triển thiết chế hỗ trợ này không chỉ góp phần nâng cao tính chuyên nghiệp của Quốc hội, mà còn khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng bộ Quốc hội trong định hướng, dẫn dắt hoạt động lập pháp dựa trên cơ sở khoa học và thực tiễn vững chắc, bám sát chủ trương, đường lối của Đảng.
Thứ bảy, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng bộ Quốc hội trong bối cảnh hiện nay không thể tách rời việc ứng dụng công nghệ số vào hoạt động thể chế hóa và giám sát. Việc xây dựng và khai thác cơ sở dữ liệu pháp lý thống nhất, toàn diện sẽ giúp các cơ quan của Quốc hội và đại biểu Quốc hội có công cụ tra cứu nhanh chóng, đối chiếu sự phù hợp giữa luật pháp và chủ trương, đường lối của Đảng, cũng như giúp phát hiện khoảng trống, điểm chưa phù hợp hay sự chồng chéo thể chế. Bên cạnh đó, việc phát triển hệ thống giám sát số cho phép theo dõi trực tuyến, cập nhật thường xuyên tiến độ triển khai nghị quyết của Đảng trong từng ngành, từng lĩnh vực, từng địa phương; qua đó, Đảng bộ Quốc hội có thêm cơ sở khoa học và minh bạch để lãnh đạo công tác giám sát. Công nghệ số còn giúp tăng cường sự kết nối giữa đại biểu Quốc hội và cử tri, mở rộng kênh phản hồi xã hội về việc thực hiện chủ trương, chính sách, bảo đảm tầm nhìn chiến lược, sát thực tiễn, hiện đại và chuyên nghiệp trong hoạt động lãnh đạo của Đảng bộ Quốc hội.
Thứ tám, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong hoạt động Quốc hội cần gắn với đẩy mạnh chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo nhằm tạo điều kiện cho nhân dân tham gia giám sát, phát huy tính dân chủ, khắc phục tình trạng chậm trễ hoặc thiếu đồng bộ, nghị quyết của Đảng chưa bám sát thực tiễn cuộc sống. Khi việc thể chế hóa được số hóa và công bố trên nền tảng trực tuyến thì người dân, cử tri, chuyên gia và tổ chức xã hội có điều kiện theo dõi trực tiếp việc triển khai của Quốc hội, Chính phủ và cơ quan hữu quan nhằm nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm giải trình, tạo động lực để cơ quan chức năng đẩy nhanh quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật. Đây cũng là cách để phát huy vai trò giám sát của nhân dân đối với hoạt động lập pháp và triển khai nghị quyết của Đảng, qua đó tăng cường sự gắn kết giữa Đảng, Quốc hội và nhân dân, đúng tinh thần “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong hoạt động của Quốc hội góp phần nâng tầm vai trò lãnh đạo của Đảng trong kỷ nguyên mới, lãnh đạo Quốc hội “phải đi trước một bước về thể chế, phải dám mở đường, dám sửa đường, dám quyết định những vấn đề khó, những việc mới, những lĩnh vực chưa từng có tiền lệ”(3). Khi phương thức lãnh đạo được đổi mới, công tác lãnh đạo được tăng cường, mọi chủ trương, đường lối của Đảng sẽ được thể chế hóa một cách kịp thời, đầy đủ và chính xác, hoạt động giám sát của Quốc hội sẽ bảo đảm vững chắc, khách quan, và quan trọng hơn, niềm tin của nhân dân vào hệ thống pháp luật, vào sự lãnh đạo của Đảng ngày càng bền chặt, tạo nền tảng cho sự phát triển của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa./.
--------
(1) Nghị quyết số 66-NQ/TW, ngày 30-4-2025, của Bộ Chính trị, “Về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phat triển đất nước trong kỷ nguyên mới”
(2) Nghị quyết số 66-NQ/TW, ngày 30-4-2025, của Bộ Chính trị, “Về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới”
(3) “Phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm tại cuộc gặp mặt các thế hệ đại biểu Quốc hội”, Báo điện tử Chính phủ, ngày 27-8-2025, https://baochinhphu.vn/phat-bieu-cua-tong-bi-thu-to-lam-tai-cuoc-gap-mat-cac-the-he-dai-bieu-quoc-hoi-102250827113258111.htm