Đẩy mạnh phát triển kinh tế đối ngoại phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong tiến trình hội nhập quốc tế
TCCS - Việt Nam quá độ lên chủ nghĩa xã hội với xuất phát điểm thấp, vì vậy yêu cầu phải mở rộng quan hệ đối ngoại, trước hết là phát triển kinh tế đối ngoại nhằm tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài để phát triển đất nước. Phát triển kinh tế đối ngoại trở thành một trong những định hướng lớn của nền kinh tế nước ta. Chúng ta đang xây dựng một chính phủ kiến tạo, liêm chính nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế đối ngoại, thúc đẩy hội nhập quốc tế để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Vai trò của kinh tế đối ngoại trong phát triển kinh tế đất nước
Kinh tế quốc tế là mối quan hệ kinh tế giữa hai hay nhiều nước, là tổng thể quan hệ kinh tế của cộng đồng quốc tế. Kinh tế đối ngoại của một quốc gia là một bộ phận của kinh tế quốc tế, là tổng thể các quan hệ kinh tế, khoa học, kỹ thuật, công nghệ của một quốc gia này với các quốc gia khác hoặc với các tổ chức kinh tế quốc tế, được thực hiện dưới nhiều hình thức, hình thành và phát triển trên cơ sở phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động quốc tế.
Sau Chiến tranh lạnh, hội nhập quốc tế trở thành một xu thế vừa khách quan, vừa chủ quan đối với các quốc gia - dân tộc. Các quốc gia - dân tộc đều có những mục đích cụ thể khác nhau trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, nhưng hội nhập là yêu cầu chung. Hiện nay, các quốc gia, dân tộc muốn vươn lên khẳng định vị thế của mình đều phải tập trung phát triển kinh tế, muốn thực hiện mục tiêu đó thì phải kết hợp sức mạnh nội tại với sức mạnh bên ngoài, nhất là về vốn, khoa học, công nghệ, trình độ quản lý... Trên thế giới, nhiều vấn đề đòi hỏi các quốc gia phải hợp tác để cùng nhau giải quyết, như ô nhiễm môi trường, bùng nổ dân số, tình trạng đói nghèo, dịch bệnh, hoạt động khủng bố... Vì vậy, hội nhập quốc tế là vấn đề tất yếu và cấp bách đối với các quốc gia. Để hội nhập kinh tế quốc tế, hội nhập quốc tế, tất yếu phải đẩy mạnh và phát triển kinh tế đối ngoại.
Do tính chất quốc tế hóa đời sống kinh tế, sự phát triển lực lượng sản xuất ngày càng mạnh mẽ, phân công lao động và trao đổi nhanh chóng vượt khỏi phạm vi quốc gia, chuyên môn hóa và hợp tác sản xuất trở thành yêu cầu của sự phát triển nên mở rộng phát triển kinh tế đối ngoại trở thành xu hướng tất yếu và có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của một quốc gia. Vai trò quan trọng của kinh tế đối ngoại thể hiện ở các điểm sau:
Trước hết, phát triển kinh tế đối ngoại góp phần nối liền sản xuất và trao đổi trong nước với sản xuất và trao đổi quốc tế, nối liền thị trường trong nước với thị trường thế giới và khu vực. Hoạt động kinh tế đối ngoại góp phần đẩy mạnh quá trình đổi mới và mở cửa hội nhập quốc tế, là phương thức hữu hiệu và cầu nối quan trọng trong việc đưa hàng hóa của các quốc gia thâm nhập vào thị trường nước ngoài; là điều kiện quan trọng để quốc gia tiếp cận và hợp tác với nhiều quốc gia khác, nhiều tổ chức khu vực và quốc tế, các trung tâm kinh tế, công nghệ thế giới; góp phần nâng cao năng lực sản xuất và sức cạnh tranh của nền kinh tế quốc dân, thúc đẩy thị trường trong nước tham gia ngày càng sâu vào chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu.
Thứ hai, hoạt động kinh tế đối ngoại thúc đẩy thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và viện trợ phát triển chính thức (ODA), chuyển giao công nghệ, kinh nghiệm xây dựng và quản lý nền kinh tế hiện đại phục vụ phát triển kinh tế đất nước. Thông qua kinh tế đối ngoại, chính phủ các nước tăng cường hoàn thiện pháp luật, chính sách đầu tư, kết cấu hạ tầng kinh tế... nhằm tạo môi trường đầu tư, kinh doanh hấp dẫn, thúc đẩy hợp tác kinh tế với các quốc gia, các tổ chức quốc tế. Thông qua kinh tế đối ngoại, các nước đang phát triển có điều kiện tiếp cận với nền khoa học, công nghệ tiên tiến và trình độ quản lý kinh tế hiện đại, từng bước nâng cao trình độ của lực lượng lao động trong nước.
Thứ ba, hoạt động kinh tế đối ngoại góp phần tích lũy vốn phục vụ phát triển đất nước, đặc biệt là các nước đang phát triển từ một nước nông nghiệp lạc hậu. Nhờ nguồn vốn FDI, ODA và vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII), tình trạng thiếu vốn của các nước đang phát triển được điều hòa, các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả, đóng góp quan trọng cho nguồn thu ngân sách thông qua nộp thuế, góp phần gia tăng nguồn vốn đầu tư xã hội, thúc đẩy hình thành vòng tuần hoàn phát triển của kinh tế đất nước.
Thứ tư, hoạt động kinh tế đối ngoại góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo ra nhiều việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp, tăng thu nhập, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân. Không chỉ tạo ra nhiều ngành nghề sản xuất mới, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động ở trong nước, hoạt động kinh tế đối ngoại còn thúc đẩy xuất khẩu lao động, thu hút khách du lịch nước ngoài mang lại lợi ích trước mắt và lâu dài.
Hoạt động kinh tế đối ngoại của Việt Nam thời kỳ đổi mới
Đảng Cộng sản Việt Nam trong từng thời kỳ cách mạng luôn thực hiện đường lối đối ngoại và kinh tế đối ngoại linh hoạt, sáng tạo để góp phần phát triển kinh tế, xây dựng đất nước. Trong giai đoạn 1945 - 1986, Đảng lãnh đạo dân tộc Việt Nam thực hiện cuộc kháng chiến bảo vệ độc lập dân tộc (1945 - 1954), đấu tranh thống nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc (1955 - 1975), xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước (1976 - 1986). Đảng thực hiện đường lối phát triển kinh tế theo mô hình kế hoạch hóa tập trung, bao cấp; kinh tế đối ngoại chủ yếu diễn ra trong khối các nước xã hội chủ nghĩa trên tinh thần viện trợ dựa theo nguyên tắc hàng đổi hàng; quan hệ kinh tế với các nước tư bản chủ nghĩa, các nước không thuộc khối xã hội chủ nghĩa rất hạn chế do ý thức hệ và chính sách bao vây, cấm vận của Mỹ và các nước phương Tây.
Đại hội VI (năm 1986) của Đảng đã khởi xướng đường lối đổi mới toàn diện đất nước, trước hết thực hiện đổi mới về kinh tế, đưa ra quan điểm đổi mới kinh tế đi đôi với đổi mới về chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trung tâm, xác định vai trò và vị trí quan trọng của hoạt động kinh tế đối ngoại trong nền kinh tế quốc dân. Đại hội chỉ rõ: “nhiệm vụ ổn định và phát triển kinh tế trong chặng đường đầu tiên cũng như sự nghiệp phát triển khoa học, kỹ thuật và công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa của nước ta tiến hành nhanh hay chậm, điều đó phụ thuộc một phần quan trọng vào việc mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại”(1). Chủ trương sử dụng tốt khả năng thương mại, hợp tác kinh tế và khoa học, kỹ thuật với bên ngoài; thu hút mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế, mở rộng, nâng cao hiệu quả đối ngoại, đẩy mạnh công tác đổi mới chính sách và cơ chế xuất, nhập khẩu để phát triển kinh tế đất nước. Việt Nam rất coi trọng việc “tham gia ngày càng rộng rãi vào sự phân công lao động quốc tế”(2), trước hết là với các đối tác truyền thống, như Liên Xô, Lào, Cam-pu-chia và với các nước khác trong Hội đồng tương trợ kinh tế (khối SEV); chủ trương “tích cực phát triển quan hệ kinh tế và khoa học, kỹ thuật với các nước khác, với các tổ chức quốc tế và tư nhân nước ngoài trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi”(3). Đây là một chủ trương mới về kinh tế đối ngoại của Đảng, là cơ sở quan trọng cho những chính sách kinh tế tiếp theo.
Từ khi tiến hành đổi mới, kinh tế Việt Nam có bước phát triển mới. Trong 20 năm đầu (1986 - 2006), bước đầu hình thành các ngành sản xuất hướng về xuất khẩu, xuất hiện hai mặt hàng xuất khẩu quan trọng làm thay đổi đáng kể cán cân thương mại là dầu thô và gạo, lần đầu tiên có dự trữ ngoại tệ (tuy không lớn), thu hút được vốn FDI của nước ngoài. Từ năm 1989, Việt Nam thực hiện chính sách tự do hóa thương mại, mở rộng thị trường, tăng cường xuất khẩu và cải thiện cán cân thương mại. Quan hệ kinh tế đối ngoại Việt Nam được mở rộng với nhiều nước trên thế giới. Tính đến cuối thập niên 90 của thế kỷ XX, Việt Nam có quan hệ kinh tế và thương mại với 140 quốc gia; có tới gần 70 nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam(4); hoạt động xuất, nhập khẩu tăng lên đáng kể, đứng thứ hai thế giới về xuất khẩu lương thực; tỷ lệ đóng góp của khu vực FDI trong GDP tăng dần từ 13,3% năm 2000 lên 13,8% năm 2001, 16% năm 2005, 17,1% năm 2006; tiến hành hợp tác khoa học, kỹ thuật và chuyển giao công nghệ với nhiều nước trên thế giới; hoạt động dịch vụ thu ngoại tệ đạt được nhiều thành tựu nổi bật. Những kết quả trên đây cho thấy đường lối đúng đắn của Đảng về phát triển kinh tế đối ngoại đã góp phần quan trọng phá thế bao vây, cô lập: Mỹ bỏ cấm vận (năm 1994) và bình thường hóa quan hệ với Việt Nam (năm 1995), Việt Nam gia nhập ASEAN (năm 1995), tham gia Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) (năm 1998), gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) (năm 2006). Việc mở rộng hợp tác quốc tế tạo đà cho kinh tế đối ngoại tiếp tục phát triển mạnh mẽ ở những giai đoạn tiếp theo, đóng góp quan trọng vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tuy nhiên, bên cạnh thành tựu đạt được, phát triển kinh tế đối ngoại giai đoạn 1986 - 2006 còn một số hạn chế, bất cập và yếu kém, như quá trình đổi mới kinh tế diễn ra không đồng đều, chưa bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, mức tăng trưởng các lĩnh vực chưa cân xứng với tiềm năng, hoạch định chính sách kinh tế còn nhiều bất cập.
Từ thực tế đất nước và những thành tựu đạt được sau 20 năm đổi mới về kinh tế đối ngoại, Đại hội X (năm 2006) của Đảng tiếp tục chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng kinh tế đối ngoại gắn với nâng cao khả năng độc lập tự chủ của nền kinh tế”(5). Nhằm tạo ra bước ngoặt về hội nhập kinh tế và kinh tế đối ngoại, Đại hội XI (năm 2011) của Đảng tiếp tục đẩy mạnh “các quan hệ quốc tế của đất nước đi vào chiều sâu trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, phát huy tối đa nội lực và bản sắc dân tộc; chủ động ngăn ngừa và giảm thiểu tác động tiêu cực của quá trình hội nhập quốc tế”(6). Đại hội XII (năm 2016) của Đảng bổ sung và hoàn thiện quan điểm về kinh tế đối ngoại: “Nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài, chú trọng chuyển giao công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến và thị trường tiêu thụ sản phẩm; chủ động lựa chọn và có chính sách ưu đãi đối với các dự án đầu tư nước ngoài có trình độ quản lý và công nghệ hiện đại, có vị trí hiệu quả trong chuỗi giá trị toàn cầu, có liên kết với doanh nghiệp trong nước. Tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với doanh nghiệp trong nước nhằm phát triển công nghiệp phụ trợ và công nghiệp quy mô lớn, chất lượng cao, gắn với các chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu”(7), thống nhất “sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Đại hội nêu lên các nhiệm vụ, giải pháp thúc đẩy kinh tế đối ngoại phát triển trong thời kỳ mới là: “Thực hiện hiệu quả các cam kết quốc tế và chủ động, tích cực đàm phán, ký kết các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới; khai thác tối đa cơ hội thuận lợi, hạn chế thấp nhất các tác động tiêu cực để mở rộng thị trường, tranh thủ các nguồn lực bên ngoài cho phát triển”(8).
Định hướng phát triển kinh tế đối ngoại trên đã đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam và đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần đưa kinh tế nước ta vượt qua ảnh hưởng của các cuộc khủng hoảng, suy thoái kinh tế, tiếp tục phát triển, trở thành điểm sáng ở khu vực và trên thế giới. Theo Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2006 - 2019 của Việt Nam đạt 6,26% (bình quân thế giới là 3,69%), quy mô GDP từ 66,4 tỷ USD năm 2006 tăng lên 261,6 tỷ USD năm 2019, GDP theo đầu người từ 797 USD năm 2006 tăng lên 1.154 USD năm 2008, đưa Việt Nam bước vào nhóm các nước có thu nhập trung bình, năm 2019 đạt 2.740 USD(9).
Đến nay, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 189 nước (trong đó có 3 đối tác chiến lược toàn diện, 13 đối tác chiến lược, 14 đối tác toàn diện) và có quan hệ bình thường với tất cả các nước lớn trên thế giới, có quan hệ thương mại với 224 đối tác, trong đó có hơn 70 nước là thị trường xuất khẩu của ta, có quan hệ hợp tác với hơn 500 tổ chức quốc tế; đã ký hơn 90 hiệp định thương mại song phương, gần 60 hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, 54 hiệp định chống đánh thuế hai lần và nhiều hiệp định hợp tác khác với các nước và tổ chức quốc tế. Việt Nam chủ động tham gia định hình các khuôn khổ, nguyên tắc hợp tác và đóng góp có trách nhiệm tại Liên hợp quốc, ASEAN, ASEM, APEC... Thông qua hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam tăng cường hợp tác, đối thoại chiến lược và đưa quan hệ với các đối tác đi vào chiều sâu, thực chất và hiệu quả hơn, góp phần quan trọng tạo môi trường, điều kiện thuận lợi cho sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế trong phát triển kinh tế, xã hội, bảo vệ Tổ quốc.
Các lĩnh vực kinh tế đối ngoại đạt kết quả rất ấn tượng, dòng vốn FDI vào Việt Nam tuy có nhiều biến động nhưng tổng vốn có xu hướng tăng lên theo thời gian, tính đến ngày 20-2-2020, có 31.434 dự án còn hiệu lực của 136 quốc gia và vùng lãnh thổ với tổng vốn đăng ký đạt 370 tỷ USD (vốn thực hiện đạt khoảng 50%), trong đó chủ yếu đầu tư vào ngành công nghiệp chế tạo, chế biến (58,5%), bất động sản (15,9%), điện, khí, nước, điều hòa (7,5%), dịch vụ ăn uống, lưu trú (3,3%) và từ các nền kinh tế lớn trong khu vực như Hàn Quốc (18,5%), Nhật Bản (16,1%), Xin-ga-po (14,6%)(10); xuất khẩu tăng trưởng bình quân giai đoạn 2006 - 2019 đạt 16,7% từ 39,8 tỷ USD năm 2006 lên 264,2 tỷ USD năm 2019, tương tự, nhập khẩu tăng 15,4% từ 44,9 tỷ USD năm 2006 lên 253,1 tỷ USD năm 2019. Tăng trưởng xuất khẩu mạnh mẽ đã cải thiện đáng kể cán cân thương mại của nước ta(11). Vốn ODA cung cấp cho Việt Nam tăng mạnh qua các giai đoạn, từ 1993 - 2015 vốn cam kết đạt 91,1 tỷ USD, vốn giải ngân đạt 58 tỷ USD (63,7%), phần lớn vốn chưa giải ngân của thời kỳ trước được chuyển tiếp sang thực hiện của giai đoạn 2016 - 2020(12). Nhìn chung, sau gần 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, kinh tế đối ngoại nước ta đã phát triển nhanh và mạnh, đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế, xã hội của đất nước và tạo đà phát triển trong giai đoạn mới.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, kinh tế đối ngoại Việt Nam vẫn còn hạn chế, bất cập cần tập trung khắc phục, giải quyết trong thời gian tới, như chưa thật chủ động, hiệu quả hợp tác chưa cao, ngoại giao đa phương chưa phát huy hết các lợi thế, chưa tận dụng tốt các cơ hội để kinh tế nước ta hội nhập quốc tế nhanh và sâu hơn.
Sau gần 35 năm đổi mới, hội nhập kinh tế quốc tế, bên cạnh các kết quả đạt được như đã nêu trên, nền kinh tế nước ta hiện nay bộc lộ những yếu kém cơ bản, như cơ cấu kinh tế và chất lượng tăng trưởng chưa được cải thiện về căn bản; hiệu quả đầu tư chưa cao như mong muốn, các chính sách liên quan đến thu hút FDI chậm được đổi mới; sức cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp và sản phẩm vẫn còn yếu so với các nước, kể cả các nước trong khu vực; việc phát triển thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tuy có những chuyển biến tích cực nhưng vẫn còn nhiều bất cập, chưa đồng bộ, đôi khi lúng túng trong việc xác định hướng đi; vai trò của kinh tế tư nhân tuy đã được xác định là một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế nhưng cần có thêm những chính sách cụ thể để phát huy trong thời gian tới; xuất hiện các nút thắt về thể chế, kết cấu hạ tầng, nguồn nhân lực... gây cản trở cho quá trình phát triển kinh tế; làm tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế nước ta vào các nền kinh tế lớn trong khu vực về các nguồn nguyên phụ liệu, máy móc, thiết bị và công nghệ thấp, về đầu tư, công nghệ và tài chính; công tác quản lý, điều hành của Chính phủ và quản trị của doanh nghiệp tuy có sự cải thiện nhưng chưa hoàn toàn đáp ứng được yêu cầu của tình hình mới; lĩnh vực nông nghiệp còn nhiều hạn chế, như chậm đổi mới thể chế chính sách, chuyển đổi mô hình sản xuất nông nghiệp; tính đồng bộ, gắn kết giữa các lĩnh vực chưa cao, công tác phối hợp về hội nhập giữa các bộ, ngành, giữa các cơ quan Trung ương với các địa phương, doanh nghiệp chưa tốt; khả năng nhận định, đánh giá và dự báo tình hình chưa cao, các vấn đề về xây dựng cơ chế nhận biết, cảnh báo sớm tác động trong các lĩnh vực hội nhập kinh tế trong bối cảnh Việt Nam đã hội nhập sâu với nền kinh tế thế giới nhìn chung còn yếu, công tác tham mưu, tư vấn chính sách còn nhiều hạn chế(13).
Xây dựng chính phủ kiến tạo, liêm chính phục vụ phát triển kinh tế đối ngoại
Kinh nghiệm phát triển của các nước trên thế giới và thực tiễn của Việt Nam cho thấy, trong thời đại toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, không một quốc gia nào muốn phát triển lại có thể đứng ngoài xu hướng hội nhập; để đạt mục tiêu phát triển, chính phủ đóng vai trò rất quan trọng, có lúc mang tính quyết định.
Kinh nghiệm của châu Á cho thấy, nhiều nền kinh tế của các quốc gia và vùng lãnh thổ đạt kết quả phát triển cao độ, “thần kỳ” như Nhật Bản, Hàn Quốc, vùng lãnh thổ Đài Loan (Trung Quốc), vùng lãnh thổ Hồng Công (Trung Quốc) và gần đây là Trung Quốc, Ấn Độ, ASEAN-4 (Xin-ga-po, Thái Lan, Ma-lai-xi-a và Phi-líp-pin)... đều bắt đầu từ chính sách phát triển kinh tế hướng về xuất khẩu, mở cửa thị trường trong nước để thu hút FDI từ bên ngoài, lấy thị trường bên ngoài làm động lực chủ yếu của nền kinh tế; chính phủ các nước này can thiệp khá sâu và chặt chẽ, sử dụng các công cụ quản lý và điều hành thị trường một cách quyết đoán, linh hoạt để khắc phục các khuyết tật của nền kinh tế thị trường. Kinh nghiệm của các nước châu Á tạo nên mô hình kinh tế đặc sắc riêng, được các nước phương Tây, kể cả Mỹ tham khảo, học tập trong điều hành kinh tế hiện nay, nhất là từ sau cuộc khủng hoảng tài chính bùng phát tại Mỹ (2007 - 2008), khủng hoảng nợ công châu Âu (2010 - 2012).
Để tiếp tục quản lý, điều hành nền kinh tế hiệu quả, phát triển bền vững, đúng hướng theo mục tiêu Đại hội XII của Đảng xác định, điều kiện tiên quyết, cấp bách hiện nay là, đẩy mạnh xây dựng một chính phủ “liêm chính và hành động”, chính phủ thực sự là “của dân, do dân và vì dân”; khắc phục triệt để và xóa bỏ những yếu kém của bộ máy hành chính nước ta trong quản lý và điều hành kinh tế thời gian qua, thể hiện qua sự cồng kềnh và chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ của bộ máy từ Trung ương đến địa phương, tính minh bạch và hiệu quả thực thi chính sách chưa cao, tình trạng tham nhũng, lãng phí ở mức báo động, công tác phối hợp kém hiệu quả... Mô hình chúng ta đang hướng tới là chính phủ kiến tạo, liêm chính, vì nhân dân phục vụ, đây cũng là mô hình chính phủ hoạt động hiệu lực, hiệu quả mà nhiều nước trên thế giới đang hướng tới xây dựng hiện nay.
Từ những năm 1980, khi nghiên cứu về sự phát triển kinh tế “thần kỳ” của Nhật Bản, Cha-mơ Giôn-xơn đã đưa ra thuật ngữ chính phủ kiến tạo phát triển, nhà nước kiến tạo phát triển. Cha-mơ Giôn-xơn chỉ ra có ba mô hình chính phủ là: chính phủ điều chỉnh (chính phủ của các nước theo mô hình thị trường tự do, tiêu biểu là Mỹ); chính phủ kế hoạch hóa tập trung, quan liêu (chính phủ của các nước phủ nhận vai trò của thị trường, tiêu biểu là Liên Xô) và chính phủ kiến tạo phát triển (chính phủ của các nước coi trọng vai trò của thị trường, nhưng không tuyệt đối hóa vai trò này, mà tích cực can thiệp để định hướng thị trường, tiêu biểu là Nhật Bản, các nước công nghiệp mới (NICs)). Như vậy, theo Cha-mơ Giôn-xơn, chính phủ kiến tạo phát triển nằm ở giữa hai mô hình chính phủ điều chỉnh và chính phủ kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, là sự kết hợp của hai mô hình chính phủ này theo lý thuyết hai bàn tay trong nền kinh tế hỗn hợp hiện đại. Một số hàm ý cơ bản của chính phủ kiến tạo, liêm chính, phục vụ nhân dân trong thời đại ngày nay là:
Thứ nhất, được hình thành và tạo dựng trên nền tảng của một thiết chế chính trị dân chủ và tự do, ở đó con người được tự do sáng tạo, tự do kinh doanh, tự do sở hữu tài sản và tự do hoạt động vì lợi ích cá nhân và quốc gia, dân tộc. Đến lượt nó, chính phủ kiến tạo sẽ xây dựng một môi trường phát triển bền vững, trong đó lấy độc lập, tự do cho dân tộc và hạnh phúc, ấm cho của nhân dân làm mục tiêu hàng đầu.
Thứ hai, chính phủ mạnh, gồm những người có trí tuệ, có kiến thức, có tư duy tốt, chuyên nghiệp, có tầm nhìn chiến lược, có khả năng hoạch định phát triển đất nước một cách bền vững và có kỹ năng hành động tầm chiến thuật, đề ra được cơ chế, chính sách tốt, bộ máy hành chính, thực thi công vụ một cách hiệu lực và hiệu quả nhất.
Thứ ba, chính phủ lấy lợi ích quốc gia, dân tộc làm phương châm hành động với một phương thức hoạt động minh bạch, công khai và có đủ khả năng giải trình, lấy phục vụ nhân dân làm mục tiêu đầu tiên và lấy kết quả thực tiễn đem lại làm thước đo mức độ thực thi công vụ.
Thứ tư, chính phủ thân thiện với xã hội, với người dân, thị trường và doanh nghiệp, lấy sự ấm no của người dân, sự thành công của các doanh nghiệp và hạnh phúc của nhân dân làm phương châm hành động của mình. Chính phủ hoạt động với tinh thần tạo môi trường thuận lợi nhất cho doanh nghiệp và người dân làm ăn thuận lợi.
Thứ năm, chính phủ có tư duy luôn luôn đổi mới, nhạy bén và linh hoạt trước những thay đổi của tình hình, biết tạo ra sự phát triển và chia sẻ sự phát triển mọi mặt của xã hội.
Thứ sáu, có một bộ máy hành chính gọn nhẹ, hiệu quả, trong sạch và hoạt động trên nền tảng công nghệ cao theo hướng chính phủ điện tử, chính phủ số, chính phủ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Thông điệp về xây dựng chính phủ kiến tạo của Việt Nam được Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc nêu ra trong phát biểu nhậm chức Thủ tướng nhiệm kỳ 2016 - 2021 khi xác định rõ mục tiêu xây dựng chính phủ nhiệm kỳ mới là “Chính phủ kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động quyết liệt, phục vụ nhân dân”, khẳng định đây là ưu tiên hàng đầu của Việt Nam trong hoàn thiện thể chế. Tại Hội nghị thượng đỉnh kinh doanh Việt Nam ngày 7-11-2017, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc giải thích nội hàm của chính phủ kiến tạo, liêm chính là chính phủ tạo ra khuôn khổ, thể chế, pháp luật tốt nhất để phát triển kinh tế thị trường; tạo ra sự thuận lợi, điều kiện tốt nhất cho nhà đầu tư được quyền tự do kinh doanh; phải theo kịp những biến đổi mới về kinh tế - xã hội của khu vực và thế giới; phục vụ cho chủ trương đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang du lịch, dịch vụ và tăng cường tích hợp vào thị trường toàn cầu. Tại nhiều hội nghị, diễn đàn trong và ngoài nước sau đó, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc tiếp tục đề cập đến nội hàm của chính phủ kiến tạo, liêm chính dưới các góc độ khác nhau, đồng thời tái khẳng định quyết tâm của Việt Nam trong xây dựng chính phủ kiến tạo phát triển, hành động, phục vụ người dân, doanh nghiệp; đẩy mạnh hội nhập quốc tế; tiếp tục thực hiện mục tiêu duy trì ổn định vĩ mô vững chắc, cải cách thể chế, chính sách pháp luật, phát triển bền vững, chú trọng tạo việc làm và cải thiện thu nhập cho người dân.
Xây dựng chính phủ kiến tạo, liêm chính nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế đối ngoại phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong tiến trình hội nhập quốc tế hiện nay không phải là việc dễ dàng, đòi hỏi phải có nhiều giải pháp đồng bộ, phải được sự đồng tình ủng hộ của toàn thể hệ thống chính trị và của toàn thể dân tộc Việt Nam, đặc biệt cần có quyết tâm chính trị cao và sự lãnh đạo quyết liệt của Đảng để tập trung thực hiện một số định hướng sau: Trước hết, cần có sự đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ của ba bộ phận: Lập pháp, tư pháp và hành pháp, được xây dựng và vận hành theo tinh thần kiến tạo. Hai là, Chính phủ tổ chức lại theo hướng tinh gọn và đổi mới phương thức hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội theo hướng khoa học. Ba là, Chính phủ xây dựng một thể chế chính trị, thể chế kinh tế, thể chế văn hóa, thể chế xã hội... theo hướng kiến tạo; xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực đủ mạnh, công khai, minh bạch và một cơ chế giải trình rõ ràng, nghiêm minh, lấy thượng tôn pháp luật làm đầu, lấy đạo đức, văn hóa là thước đo, lấy kết quả cuối cùng để đánh giá tốt, xấu, thành công, thất bại... Bốn là, Chính phủ kiến tạo cần có bộ máy hành chính thực sự kiến tạo, do vậy cần cải cách mạnh mẽ bộ máy hành chính theo hướng tinh gọn, hiệu quả và hiệu lực. Năm là, Chính phủ cần xây dựng một đội ngũ công chức chuyên nghiệp, có trình độ cao và có nhân cách tốt, có quyết tâm chính trị và có khát vọng đưa đất nước đi lên ngày một giàu mạnh và phồn vinh và cần được trang bị công nghệ hiện đại trong hoạt động hành chính theo hướng chính phủ điện tử và chính phủ số. Sáu là, Chính phủ giữ vững kỷ luật, kỷ cương, xóa bỏ tình trạng “trên bảo dưới không nghe”, tình trạng vô trách nhiệm trước hành động và quyết định sai trái của cá nhân và lãnh đạo. Bảy là, nêu cao trách nhiệm cá nhân của mỗi cán bộ, công chức trong thực thi công vụ trước Chính phủ, chính quyền, trước nhân dân và dân tộc. Tám là, Chính phủ cần có sự chủ động, sáng tạo, sự đồng hành mạnh mẽ của Đảng, Quốc hội, các đoàn thể chính trị - xã hội, các bộ, ngành, địa phương./.
------------------------
(1), (2), (3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1987, tr. 31, 217
(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2001, tr. 72
(5) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2006, tr. 112
(6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 46
(7), (8) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 108, 314
(9) International Monetary Fund (2020), “Gross Domestic Product (GDP)”: https://imf.org/datamapper/datasets/WEO/1
(10) Cục Đầu tư nước ngoài: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam (lũy kế các dự án còn hiệu lực đến ngày 20-2-2020)”, drive.google.com/file/d/1HOEgCu9Rv67waVRHeOtcXCJhZU7DZ622/view
(11) Hải quan Việt Nam: “Số liệu Thống kê trị giá xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam giai đoạn 1996 - tháng 6-2016”, customs.gov.vn/List/ThongKeHaiQuan/ViewDetails.aspx?ID=376&Category=Số%20liệu%20chuyên%20đề&Group=Số%20%liệu%20thống%20kê và “Tình hình xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam tháng 12 và năm 2019”, từ: customs.gov.vn/List/ThongKeHaiQuan/ViewDetails.aspx?ID=1734&Category=Phân%tích%20định%20kỳ&Group=Phân%tích
(12) Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam: “Kết quả và giải pháp huy động hiệu quả các nguồn vốn đầu tư của Việt Nam”, http://tapchikhxh.vass.gov.vn/ket-qua-va-giai-phap-huy-dong-hieu-qua-cac-nguon-von-dau-tu-cua-viet-nam-n50050.html
(13) VnEconomy: “10 tồn tại, vướng mắc của kinh tế Việt Nam dưới góc nhìn Chính phủ”, vneconomy.vn/thoi-su/10-ton-tai-vuong-mac-cua-kinh-te-viet-nam-duoi-goc-nhin-chinh-phu-2016122102306180.htm
Để đời sống kinh tế - xã hội của đồng bào Khơ-me ở vùng Nam Bộ phát triển bền vững  (01/06/2020)
Hà Nội cần quyết liệt, chủ động triển khai đồng bộ các biện pháp phục hồi, phát triển kinh tế  (21/04/2020)
Thành phố Hồ Chí Minh triển khai đồng bộ các giải pháp khôi phục kinh tế  (17/04/2020)
Chính phủ triển khai gói an sinh xã hội hỗ trợ người dân bị ảnh hưởng do dịch Covid-19  (06/04/2020)
Phát huy dân chủ gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương ở nước ta hiện nay  (03/04/2020)
- Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng với phương hướng và giải pháp trọng tâm tổ chức đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội XIV của Đảng
- Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa: Bảy mươi lăm năm xây dựng và phát triển
- Phát triển kinh tế số ở Trung Quốc và một số hàm ý chính sách
- Để dịch vụ logistics vùng Đông Nam Bộ phát triển nhanh, bền vững trong bối cảnh mới
- Hoàn thiện thể chế, chính sách thúc đẩy liên kết vùng đồng bằng sông Cửu Long theo Nghị quyết số 13-NQ/TW của Bộ Chính trị
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Liên hợp quốc và những đóng góp của Việt Nam -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay