Trong hai năm qua, đại dịch COVID-19 diễn biến phức tạp trên toàn cầu với những biến thể mới, cản trở đà phục hồi của khu nền kinh tế thế giới. Ở trong nước, tình hình dịch bệnh đã ảnh hưởng cả ở trong ngắn hạn, trung hạn và dài hạn đến tất cả các khía cạnh của đời sống, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế. Cùng với đó, những biến động của tình hình thế giới gần đây đã tác động không không nhỏ tới nền, kinh tế thế giới và Việt Nam. Nếu không có các chính sách, giải pháp quyết liệt, tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2011 - 2025 có thể thấp hơn so với mục tiêu đề ra. Nền kinh tế sẽ đối mặt với không ít rủi ro, thách thức về kiểm soát gia tăng lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, lao động việc làm, an sinh xã hội...

Tình hình kinh tế - xã hội năm 2022 và triển khai các nghị quyết của Kỳ họp thứ ba, Quốc hội khóa XV

Theo dự thảo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong 6 tháng đầu năm 2022, nhiều sự kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội quan trọng của đất nước được tổ chức thành công, tạo nên khí thế mới, xung lực mới, nhất là Hội nghị Trung ương 5 khóa XIII, Kỳ họp thứ ba Quốc hội khóa XV đã quyết định nhiều chủ trương, chính sách quan trọng, tác động tích cực đến sự phục hồi và phát triển của nền kinh tế. Chính phủ đã chỉ đạo, điều hành quyết liệt, hiệu quả nhiều nhiệm vụ, giải pháp, ứng phó linh hoạt, kịp thời với những diễn biến nhanh, phức tạp, khó lường của tình hình thế giới, khu vực và trong nước. Nền kinh tế trong nước đã có bước phục hồi nhưng đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, nhất là giá cả xăng dầu, chi phí sản xuất, sinh hoạt, vận tải tăng cao, tiềm ẩn rủi ro, thách thức, tác động đến ổn định kinh tế vĩ mô, các cân đối lớn, sản xuất, kinh doanh và đời sống người dân, nhất là người nghèo, thu nhập thấp. Mặc dù vậy, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, sự ủng hộ của Quốc hội, sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt, thống nhất, kịp thời của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương đã quán triệt, thực hiện tốt Nghị quyết số 01/NQ-CP, thích ứng với bối cảnh mới, vừa tập trung giải quyết các vấn đề trước mắt và những tồn tại, yếu kém, điểm nghẽn của nền kinh tế, vừa giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn, hỗ trợ tích cực phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội.

Tiến độ thực hiện các nhiệm vụ tại Nghị quyết số 01/NQ-CP trong quý II-2022 cơ bản đáp ứng yêu cầu, hoàn thành 72,6% số nhiệm vụ được giao. Qua đó, tình hình kinh tế - xã hội tháng 6 và 6 tháng đầu năm 2022 đạt nhiều kết quả tích cực. Kinh tế có bước phục hồi tích cực, tăng trưởng GDP vượt kế hoạch đề ra, trong đó, GDP quý II ước tăng 7,72% so với cùng kỳ, cao nhất kể từ năm 2011. Tính chung 6 tháng, GDP ước tăng 6,42% so với cùng kỳ, cao hơn so với dự kiến kế hoạch và cùng kỳ năm 2021, tương đương mức bình quân các năm trước dịch. Đáng chú ý là sự phục hồi nhanh của khu vực dịch vụ, ước tăng 6,6%, cao gấp 1,7 lần so với cùng kỳ; nhiều địa phương động lực đã đạt mức tăng trưởng GRDP cao như: Hà Nội (7,79%), Bắc Giang (24,0%), Bắc Ninh (14,7%), Thanh Hóa (13,41%), Quảng Nam (12,8%), Khánh Hòa (12,58%), Hải Dương (11,82%), Hải Phòng (11,1%), Quảng Ninh (10,66%), Vĩnh Phúc (10,1%), Đà Nẵng (7,23%), Đồng Nai (7,06%), Bình Dương (6,84%)…

Kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn định, lạm phát được kiểm soát, các cân đối lớn được bảo đảm, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Hoạt động sản xuất, kinh doanh phục hồi nhanh, cơ bản tiệm cận mức tăng tại thời điểm trước dịch. Tình hình đăng ký doanh nghiệp rất tích cực. Tính chung 6 tháng, số doanh nghiệp thành lập mới và tái gia nhập thị trường tăng 25,4% so với cùng kỳ, lần đầu tiên vượt mốc 100 nghìn doanh nghiệp; trong đó, số doanh nghiệp thành lập mới đạt trên 76 nghìn doanh nghiệp, cao nhất từ trước đến nay. Cải cách thể chế tiếp tục được quan tâm, tháo gỡ nhiều điểm nghẽn về nguồn lực cho đầu tư phát triển. Phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được đẩy mạnh. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội tiếp tục được quan tâm. Bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh; đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại phù hợp với tình hình.

Về chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, ngay sau khi Nghị quyết số 11/NQ-CP được ban hành, Chính phủ, các bộ, cơ quan, địa phương đã chủ động, nỗ lực thực hiện nhiệm vụ được giao. Sau hơn 5 tháng triển khai, hoàn thành khối lượng lớn công việc, cơ bản đáp ứng yêu cầu, tiến độ đề ra; ban hành gần như đầy đủ các văn bản để cụ thể hóa các chính sách theo yêu cầu tại Nghị quyết. Đây là kết quả rất đáng ghi nhận khi nhiều chính sách mới nhưng đã được đánh giá tác động đầy đủ và trình ban hành theo đúng quy định thời gian ngắn. Một số nội dung có tính chất phức tạp, liên quan đến việc thực hiện các dự án thuộc Chương trình của nhiều bộ, cơ quan, địa phương đang được gấp rút xây dựng, hoàn thiện để trình cấp có thẩm quyền ban hành, như văn bản hướng dẫn thực hiện cơ chế đặc thù về chỉ định thầu theo các nghị quyết của Quốc hội và Chính phủ, quyết định của Thủ tướng Chính phủ phân cấp cho địa phương làm cơ quan chủ quản thực hiện các dự án, dự án thành phần đầu tư các đoạn tuyến đường bộ cao tốc theo hình thức đầu tư công đi qua địa bàn thuộc chương trình.

Thủ tướng Chính phủ đã giao kế hoạch vốn đầu tư phát triển nguồn ngân sách Trung ương giai đoạn 2021 - 2025 cho các địa phương là hơn 92.057 tỷ đồng. Năm 2022 đã giao 34.049 tỷ đồng (đạt 100% kế hoạch năm 2022) cho các bộ, cơ quan Trung ương và địa phương thực hiện 3 chương trình mục tiêu quốc gia. Việc thực hiện các chính sách hỗ trợ hầu hết đạt kết quả tốt, đạt trên 48 nghìn tỷ đồng, trong đó các chính sách do Ngân hàng Chính sách xã hội thực hiện đạt 8.888 tỷ đồng; gia hạn nộp thuế VAT, thu nhập doanh nghiệp, thu nhập cá nhân và tiền thuê đất là 7,4 nghìn tỷ đồng; miễn giảm thuế VAT, thuế môi trường đối với nhiên liệu bay, xăng khoảng 32,4 nghìn tỷ đồng. Đồng thời, thực hiện cho vay tín dụng chính sách được hỗ trợ lãi suất theo Nghị định số 36/2022/NĐ-CP là 57,37 nghìn tỷ đồng. Một số chính sách gặp vướng mắc trong quá trình thực hiện đã nhanh chóng được điều chỉnh để tạo thuận lợi trong triển khai, thực hiện, như Chính phủ đã ban hành Nghị định số 41/2022/NĐ-CP ngày 20-6-2022, trong đó sửa đổi, bổ sung một số nội dung của Nghị định số 15/2022/NĐ-CP.

Triển vọng kinh tế Việt Nam năm 2022

Tại thời điểm tháng 6-2022, kinh tế toàn cầu trong năm 2022 được dự báo giảm so với các dự báo đưa ra trước đó. Ngân hàng Thế giới (WB) nhận định sau hơn hai năm đại dịch cùng với tác động từ cuộc xung đột giữa Nga và U-crai-na hoạt động kinh tế toàn cầu giảm mạnh, dự kiến chỉ đạt 2,9% năm 2022, giảm 1,2 điểm phần trăm so với dự báo đưa ra vào tháng 1-2022. Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) dự báo tăng trưởng toàn cầu năm 2022 ở mức 3,6%, thấp hơn 0,8 điểm phần trăm so với dự báo tháng 1-2022. Tăng trưởng GDP toàn cầu năm 2022 được Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) dự báo sẽ chậm lại và chỉ đạt mức 3%, thấp hơn 1,5 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 12-2021. Theo Liên hợp quốc, nền kinh tế toàn cầu hiện được dự báo chỉ tăng trưởng 3,1% vào năm 2022, đánh dấu mức điều chỉnh giảm 0,9 điểm phần trăm so với dự báo được công bố vào tháng 1-2022. WB điều chỉnh giảm dự báo tăng trưởng của một số nền kinh tế chủ chốt trên thế giới. Theo đó, tăng trưởng của Hoa Kỳ năm 2022 dự báo đạt 2,5%, giảm 1,2 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 1-2022; Khu vực đồng Euro chỉ đạt 2,5%, giảm 1,7 điểm phần trăm; Nhật Bản đạt 1,7%, giảm 1,2 điểm phần trăm; Trung Quốc đạt 4,3%, giảm 0,8 điểm phần trăm. Trong khu vực Đông Nam Á, Ngân hàng Phát triển châu Á nhận định tăng trưởng năm 2022 của In-đô-nê-xi-a đạt 5,0%, Phi-li-pin đạt 6,0%, Thái Lan đạt 3,0%, Xin-ga-po đạt 4,3%, Ma-lai-xi-a đạt 6,0% và Việt Nam đạt cao nhất ở mức 6,5%.

Trong dự báo của các tổ chức quốc tế uy tín đánh giá về tình hình kinh tế của Việt Nam, cả Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), Văn phòng Nghiên cứu kinh tế vĩ mô ASEAN+3 (AMRO) đều dự báo tăng trưởng GDP năm 2022 của Việt Nam có khả năng phục hồi trở lại cao ở mức 6% đến 6,5% vào năm 2022 trong bối cảnh mà dịch bệnh được kiểm soát, tỷ lệ tiêm chủng được phủ rộng và biến chủng mới Omicron không gây ra nhiều thiệt hại đối với nền kinh tế. Việt Nam có thể cùng với Phi-líp-pin dẫn đầu tăng trưởng khu vực ASEAN. Dự báo trên căn cứ vào các điểm sau:

Việt Nam đã đạt được tỷ lệ tiêm chủng cao, giúp cho việc chuyển hướng chiến lược sang sống chung với COVID-19. Kể từ khi nới lỏng các hạn chế, việc di chuyển đã được cải thiện và sự phục hồi kinh tế vẫn đang tiếp diễn, được hỗ trợ bởi các chính sách kinh tế vĩ mô nới lỏng. Đặc biệt, việc ban hành Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế là kịp thời và phù hợp để thúc đẩy sự phục hồi kinh tế. Sản xuất công nghiệp tiếp tục đà tăng trưởng vững chắc với tốc độ 10,4% so cùng kỳ năm 2021. Chỉ số PMI ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng vọt từ 51,7 điểm trong tháng 4 lên 54,7 điểm trong tháng 5, mức cao nhất trong 12 tháng qua. Doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng tháng 4 tăng 4,2% so với tháng trước và tăng 22,6% so với cùng kỳ năm 2021. Khoảng 173.000 lượt khách quốc tế đã đến Việt Nam trong tháng 5-2022, cao hơn khoảng 70% so với tháng 4-2022 và là con số cao nhất kể từ tháng 4-2020, tuy vẫn chưa bằng 16% con số ghi nhận trước đại dịch.

Tín dụng tăng trưởng mạnh mẽ, giúp hỗ trợ nền kinh tế phục hồi với tốc độ 16,9% (so cùng kỳ năm trước) trong khi lãi suất liên ngân hàng qua đêm giảm mạnh từ 1,73% tại thời điểm cuối tháng 4 xuống chỉ còn 0,33% vào cuối tháng 5, là dấu hiệu cho thấy thanh khoản đang dồi dào. Thị trường lao động phục hồi và các biện pháp kích thích khác sẽ thúc đẩy tăng trưởng công nghiệp ở mức 9,5% vào năm 2022, đóng góp 3,6 điểm phần trăm vào tăng trưởng GDP. Sản lượng nông nghiệp được dự báo sẽ tăng trưởng 3,5% trong năm nay, đóng góp 0,4 điểm phần trăm vào tăng trưởng GDP nhờ nhu cầu trong nước phục hồi và giá hàng hóa toàn cầu tăng. Chính sách mở cửa trở lại du lịch của chính phủ được thực hiện vào tháng 3 và dỡ bỏ các biện pháp kiểm soát đại dịch được kỳ vọng sẽ thúc đẩy dịch vụ, với dự báo lĩnh vực này tăng trưởng 5,5% và đóng góp 2,3 điểm phần trăm vào tăng trưởng GDP năm 2022. Xuất khẩu hàng hóa được dự báo sẽ tăng từ 8% đến 10% trong năm 2022. Nhập khẩu sẽ tăng do nhu cầu về tư liệu sản xuất và các yếu tố đầu vào sản xuất tăng, đồng thời tiêu dùng trong nước cũng phục hồi. Sự phục hồi của du lịch và lượng kiều hối bền vững sẽ hỗ trợ thặng dư tài khoản vãng lai, dự báo ở mức 1,5% GDP trong năm 2022.

Một số nhóm nhiệm vụ đặt ra nhằm phục hồi và tăng trưởng bền vững

Trong báo cáo của các tổ chức quốc tế, các chuyên gia cho rằng Việt Nam cần thận trọng với rủi ro lạm phát liên quan đến xu hướng giá nhiên liệu và hàng hóa nhập khẩu tăng. Điều này có thể cản trở quá trình phục hồi tổng cầu trong nước. Rủi ro đối với tăng trưởng nghiêng về phía tăng trưởng chậm lại, trong khi rủi ro đối với lạm phát nghiêng về phía tăng lạm phát. Trong ngắn hạn, rủi ro bên ngoài trước mắt là sự gia tăng căng thẳng địa chính trị có thể ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động kinh tế và lạm phát do cầu bên ngoài yếu hơn, giá hàng hóa cao hơn và sự gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu kéo dài. Ngoài ra, còn các rủi ro khác liên quan đến những biến thể của COVID-19, việc thắt chặt các điều kiện tài chính toàn cầu, diễn biến trên thị trường bất động sản và trái phiếu doanh nghiệp trong nước. Vì vậy, trong bối cảnh nền kinh tế vẫn còn chưa hồi phục hoàn toàn và những rủi ro làm suy giảm tăng trưởng còn hiện hữu, Chính phủ cần có hỗ trợ chính sách để giúp bảo đảm phục hồi mạnh mẽ.

Thứ nhất, không được lơ là, chủ quan, mất cảnh giác; quyết liệt thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch COVID-19, trong đó cần tập trung đẩy nhanh tiêm vaccine cho các nhóm đối tượng (mũi 3, 4 cho người từ 12 tuổi trở lên; mũi 2 cho trẻ từ 5-12 tuổi). Tăng cường thông tin truyền thông để nhân dân hiểu, nắm rõ tình hình, diễn biến phức tạp của dịch bệnh, đặc biệt về các biến chủng mới và tích cực tham gia tiêm vaccine, nâng cao khả năng miễn dịch của bản thân và cộng đồng. Bảo đảm công tác khám, chữa bệnh được thực hiện thông suốt, liên tục, chất lượng, hiệu quả trên toàn hệ thống. Rà soát tổng thể và hoàn thiện các quy định liên quan đến hoạt động mua sắm để bảo đảm cung ứng đầy đủ, kịp thời thuốc, thiết bị, vật tư, sinh phẩm y tế. Đánh giá cụ thể tình hình cán bộ y tế xin nghỉ việc gia tăng ở một số địa phương, làm rõ nguyên nhân để kịp thời có giải pháp, chính sách phù hợp.

Thứ hai, chủ động điều chỉnh quy mô và cấu phần hỗ trợ chính sách ngắn hạn, để phù hợp với tốc độ phục hồi và để đối phó với áp lực lạm phát, cần tăng cường sử dụng chính sách tài khóa. Cần cải cách cơ cấu một cách quyết liệt để đạt được khát vọng của chính phủ về tăng trưởng bền vững, bao trùm. Cần cải thiện môi trường kinh doanh bằng cách tạo một sân chơi bình đẳng trong việc tiếp cận tài chính và đất đai, đồng thời giảm bớt gánh nặng pháp lý, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ và các doanh nghiệp non trẻ. Cần có những nỗ lực hơn nữa để cải thiện chất lượng lực lượng lao động và giảm tình trạng không đạt yêu cầu về kỹ năng lao động.

Thứ ba, ưu tiên ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát. Cần bám sát, triển khai nghiêm túc Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, sự lãnh đạo, chỉ đạo, các kết luận, nghị quyết của Trung ương, Quốc hội, Chính phủ, nghị quyết đại hội Đảng các cấp; tập trung quyết liệt hơn nữa thực hiện hiệu quả 3 đột phá chiến lược, 6 nhiệm vụ trọng tâm và các nhóm giải pháp. Ưu tiên ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế; giữ vững nguyên tắc cơ bản nhưng phải linh hoạt trong chỉ đạo, điều hành. Điều hành đồng bộ, chủ động, linh hoạt phối hợp chính sách tài khóa, tiền tệ và các chính sách vĩ mô khác; trong đó tập trung sử dụng chính sách tài khóa để hỗ trợ sản xuất kinh doanh và đời sống nhân dân. Bảo đảm ổn định và phát triển lành mạnh, hiệu quả, an ninh, an toàn thị trường chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp, thị trường tiền tệ; tăng cường thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm các vi phạm bảo đảm thị trường phát triển nhanh, bền vững. Quản lý chặt chẽ giá cả hàng hóa; phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại.

Thứ tư, chú trọng thu hút và khơi thông nguồn vốn đầu tư toàn xã hội. Đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng. Nâng cao năng lực sản xuất công nghiệp; đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp; thúc đẩy phát triển du lịch, dịch vụ. Đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công. Tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước. Triển khai thực hiện quyết liệt, hiệu quả Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội và 3 chương trình mục tiêu quốc gia, các nghị quyết về phát triển vùng. Thực hiện đồng bộ các giải pháp bảo đảm an sinh xã hội. Tăng cường thực hiện các biện pháp triển khai hỗ trợ người lao động, người sử dụng lao động, phát triển thị trường lao động. Nghiên cứu chính sách hỗ trợ giáo viên mầm non tiểu học ngoài công lập bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19. Tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu.

Thứ năm, tăng cường công tác xây dựng Đảng trong hệ thống hành chính nhà nước trong sạch, vững mạnh, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo của các cấp ủy; hoàn thiện bộ máy chính quyền tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; tăng cường năng lực và phẩm chất của cán bộ lãnh đạo và quản lý, xây dựng đội ngũ công chức có năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; phát huy tinh thần năng động, sáng tạo vì lợi ích chung; tích cực đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, phát huy dân chủ. Nâng cao hiệu quả hoạt động thông tin truyền thông về chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, tập trung cho phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, tạo đồng thuận xã hội; đấu tranh phản bác sự chống phá, các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch; ngăn chặn có hiệu quả, đẩy lùi thông tin xấu, độc, sai sự thật. Thực hiện đồng bộ các giải pháp bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội cũng như chủ động đẩy mạnh hội nhập quốc tế, tăng cường quan hệ với các đối tác, bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc./.