TCCS - Ngày 21-6-2022, tại thành phố Cần Thơ, Hội nghị công bố quy hoạch và xúc tiến đầu tư vùng đồng bằng sông Cửu Long thời kỳ 2021 - 2030 diễn ra. Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính dự và chủ trì hội nghị. Tham dự hội nghị có khoảng 400 đại biểu là đại diện lãnh đạo các ban, bộ, ngành trung ương, các địa phương vùng đồng bằng sông Cửu Long, Thành phố Hồ Chí Minh, các nhà đầu tư, doanh nghiệp, đối tác phát triển, các chuyên gia, nhà khoa học trong và ngoài nước.

Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và các đồng chí chủ trì hội nghị _ Ảnh: Thanh Sơn

Hội nghị nhằm giúp các ngành, các địa phương trong vùng đồng bằng sông Cửu Long quán triệt, tổ chức thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 13-NQ/TW, ngày 2-4-2022, của Bộ Chính trị khóa XIII “Về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” (Nghị quyết số 13-NQ/TW của Bộ Chính trị); Nghị quyết số 78/NQ-CP78, ngày 18-6-2022, của Chính phủ, ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW của Bộ Chính trị và “Quy hoạch vùng đồng bằng sông Cửu Long thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050” (Quy hoạch vùng đồng bằng sông Cửu Long). Hội nghị cũng nhằm thống nhất nhận thức về vai trò, vị trí, tầm quan trọng của vùng đồng bằng sông Cửu Long đối với sự phát triển của cả nước; xác định công tác quy hoạch, điều phối liên kết vùng và huy động nguồn lực cho đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng vùng đồng bằng sông Cửu Long, thích ứng biến đổi khí hậu phải trở thành tư duy chủ đạo, dẫn dắt sự phát triển toàn vùng trong thời gian tới, hướng đến mục tiêu đưa đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2050 trở thành vùng có trình độ phát triển khá so với cả nước; là nơi đáng sống đối với người dân, là điểm đến hấp dẫn đối với du khách và nhà đầu tư.

Tại hội nghị, trên cơ sở trình bày các điểm mới, nổi bật và ý nghĩa Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW của Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng nêu bật 9 đột phá chiến lược của Quy hoạch vùng đồng bằng sông Cửu Long thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 là:

Thứ nhất, phát triển vùng đồng bằng sông Cửu Long theo hướng bền vững, tăng trưởng xanh, thích ứng với biến đổi khí hậu, dựa trên ba trụ cột: kinh tế - xã hội - môi trường; chú trọng bảo vệ, tôn tạo và phát triển hệ sinh thái tự nhiên hướng tới một mô hình kinh tế xanh, lấy “con người” làm trung tâm.

Thứ hai, biến thách thức thành cơ hội, “chủ động sống chung với lũ, ngập, nước lợ, nước mặn”; chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng gia tăng hiệu quả và giá trị.

Thứ ba, thay đổi tư duy về an ninh lương thực từ phát triển nông nghiệp dựa vào cây lúa sang thủy sản - trái cây - lúa gạo phù hợp với thị trường, trên cơ sở sắp xếp, tổ chức lại phân vùng sản xuất dựa trên tài nguyên nước và thổ nhưỡng.

Thứ tư, chuyển đổi mô hình phát triển từ phân tán, nhỏ lẻ sang tập trung cả về nông nghiệp, công nghiệp và đô thị; phấn đấu đến năm 2030 vùng đồng bằng sông Cửu Long trở thành trung tâm kinh tế nông nghiệp bền vững, năng động và hiệu quả cao của quốc gia, khu vực và thế giới.

Quang cảnh hội nghị _ Ảnh: Thanh Sơn

Thứ năm, tập trung phát triển kết cấu hạ tầng và thúc đẩy liên kết vùng, đặc biệt chú trọng đến phát triển hạ tầng giao thông, nhất là các tuyến kết nối với Thành phố Hồ Chí Minh và vùng Đông Nam Bộ; phát triển tuyến đường bộ ven biển từ Tiền Giang đến Kiên Giang, gắn với kiểm soát xâm nhập mặn, sắp xếp lại dân cư, bảo đảm quốc phòng, an ninh, hình thành hành lang kinh tế mở, hướng ra biển.

Thứ sáu, phát triển hành lang đô thị công nghiệp từ Cần Thơ đến Long An kết nối với Thành phố Hồ Chí Minh, vùng Đông Nam Bộ và hệ thống 8 trung tâm đầu mối về nông nghiệp; phát triển hành lang kinh tế, đô thị dọc sông Tiền - sông Hậu từ An Giang đến Sóc Trăng gắn với phát triển cảng biển Trần Đề nhằm kết nối, giao thương quốc tế về đường bộ gắn với đường thủy nội địa và hàng hải.

Thứ bảy, thay đổi tư duy về khai thác, sử dụng tài nguyên nước: coi nước mặn, nước lợ là một nguồn tài nguyên bên cạnh nước ngọt; chuyển từ đáp ứng nhu cầu sang chủ động quản lý nhu cầu về nước.

Thứ tám, chú trọng bảo tồn các cảnh quan, sinh thái, văn hóa lịch sử, văn hóa dân tộc, văn hóa sông nước đặc thù của vùng; phát triển không gian văn hóa sông nước, văn hóa các cộng đồng dân tộc thiểu số với phát triển du lịch.

Thứ chín, tăng cường liên kết phát triển giữa các địa phương trong vùng đồng bằng sông Cửu Long với với Thành phố Hồ Chí Minh và vùng Đông Nam Bộ; mở rộng giao thương với các nước trong khu vực ASEAN, đặc biệt là các nước thuộc Tiểu vùng sông Mê Công.

Thống nhất về nhận thức trong triển khai thực hiện Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW của Bộ Chính trị và Kế hoạch thực hiện Quy hoạch vùng đồng bằng sông Cửu Long, Hội nghị dành nhiều thời gian để lãnh đạo các bộ, ngành Trung ương, lãnh đạo các địa phương, các doanh nghiệp, nhà đầu tư, các đối tác quốc tế trao đổi các vấn đề về: Tái cơ cấu nông nghiệp và thu hút đầu tư phát triển công nghiệp chế biến, hệ thống kết cấu hạ tầng thủy lợi vùng đồng bằng sông Cửu Long; kế hoạch phát triển kết cấu hạ tầng giao thông vùng đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2022 - 2030; xúc tiến thương mại phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp và định hướng phát triển năng lượng tái tạo vùng đồng bằng sông Cửu Long; văn hóa, thể thao, du lịch đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030 - thế mạnh và khả năng thúc đẩy liên kết vùng; liên kết phát triển giữa vùng đồng bằng sông Cửu Long với Thành phố Hồ Chí Minh và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam; vai trò, vị trí trung tâm vùng của thành phố Cần Thơ trong liên kết phát triển vùng đồng bằng sông Cửu Long; phát triển kinh tế biển bền vững gắn với bảo vệ hệ sinh thái rừng ngập mặn, bảo vệ bờ biển, phòng, chống thiên tai và thích ứng với biến đổi khí hậu; đồng hành, hỗ trợ, hợp tác với các doanh nghiệp, nhà đầu tư để phát triển bền vững vùng đồng bằng sông Cửu Long;...

Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính phát biểu kết luận hội nghị _ Ảnh: Thanh Sơn

Kết luận hội nghị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính nhấn mạnh, hội nghị lần này tiếp tục cụ thể hóa việc quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW, của Bộ Chính trị khóa XIII, “Về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”. Thủ tướng Chính phủ ghi nhận và biểu dương nỗ lực của các bộ, ngành trung ương, các địa phương vùng đồng bằng sông Cửu Long, các đối tác quốc tế, các hiệp hội doanh nghiệp, doanh nhân, các chuyên gia, nhà khoa học, các viện nghiên cứu, các cơ quan báo chí đã phối hợp tổ chức tốt hội nghị, tạo điều kiện khơi thông các nguồn lực thúc đẩy sự phát triển nhanh, bền vững của vùng trong thời gian tới.

Trên cơ sở khái quát những tiềm năng, lợi thế to lớn; những thành tựu trong phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bằng sông Cửu Long thời gian qua, đồng thời chỉ ra một số hạn chế, thách thức lớn của vùng, Thủ tướng Chính phủ cũng yêu cầu các cấp, các ngành, các địa phương trong vùng phải phát huy ý chí tự tin, tự lực, tự cường, dám nghĩ, dám làm, tăng cường liên kết, hợp tác để phát huy tối đa những tiềm năng, lợi thế và nhanh chóng vượt qua những khó khăn, thách thức để tiếp tục phát triển nhanh, bền vững. Sau khi nêu một số chủ trương, chính sách lớn của Đảng, Nhà nước trong phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh vùng đồng bằng sông Cửu Long thời gian qua, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính nhấn mạnh, chủ trương, chính sách đã có, vấn đề còn lại là các bộ, ngành, các địa phương, tổ chức quốc tế, doanh nghiệp tăng cường hợp tác, phối hợp cùng Chính phủ để triển khai thực hiện những chủ trương, chính sách sách hiệu quả, thực chất đem lại ấm no, hạnh phúc cho người dân vùng đồng bằng sông Cửu Long.

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đề nghị trước hết, các bộ, ngành các địa phương trong vùng quán triệt và cụ thể hóa việc triển khai thực hiện và thực hiện tốt các nghị quyết, chủ trương của Trung ương, Chính phủ đề ra để tiếp tục phát triển nhanh, bền vững đồng bằng sông Cửu Long. Trong quá trình triển khai thực hiện, phải thường xuyên theo dõi sát, nắm chắc tình hình, xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng thực tiễn khách quan, linh hoạt, sáng tạo trong điều hành quản lý, xác định trọng tâm và xác định đúng nguồn lực để thực hiện các chương trình, kế hoạch đề ra, tránh tình trạng lãng phí nguồn lực, kém hiệu quả đầu tư; Phải phát huy mạnh mẽ các yếu tố nội lực, nhất là nguồn lực con người, truyền thống cách mạng, văn hóa của vùng, phát huy mạnh mẽ ý chí tự lực tự cường, thống nhất về hành động. Song song đó, tăng cường phân cấp phân quyền, phân bổ nguồn lực hợp lý, cá thể hóa trách nhiệm đi đôi với tăng cường kiểm tra giám sát, quyền lực; nâng cao hiệu quả cải cách hành chính, xây dựng hệ thống cơ quan hành chính đoàn kết, liêm chính, dân chủ, hướng đến lợi ích chính đáng của người dân, doanh nghiệp; tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thông thoáng, hấp dẫn. Trong quá trình phát triển, các địa phương cần quan tâm đến an sinh xã hội, không hy sinh tiến bộ, công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Đồng thời, chú trọng công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; tăng cường củng cố quốc phòng - an ninh, không để bị động, bất ngờ, bảo đảm an ninh, an toàn, an dân./.