Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Phạm Minh Chính điều hành phiên thảo luận dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng
TCCS - Theo chương trình làm việc của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, chiều 27-1-2021, Đại hội tiếp tục làm việc tại hội trường, thảo luận về dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng. Trong phiên làm việc buổi chiểu, thay mặt Đoàn Chủ tịch, đồng chí Phạm Minh Chính, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương điều hành phiên thảo luận.
Trong phiên thảo luận buổi chiều, đã có 11 đại biểu thuộc các đoàn đại biểu, các đảng bộ, đảng đoàn, ban cán sự đảng, cơ quan phát biểu ý kiến: Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Bộ Tài Nguyên và Môi trường, Ủy ban Kiểm tra Trung ương, Bộ Ngoại giao, tỉnh Đồng Tháp, Ủy ban Dân tộc, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch.
Đồng chí Nguyễn Xuân Cường, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Ban cán sự Đảng, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tham luận về vấn đề: "Phát triển nông nghiệp hàng hóa gắn với xây dựng nông thôn mới theo hướng hiện đại, hội nhập quốc tế" đã khái quát kết quả nổi bật của ngành nông nghiệp trong những năm qua, theo đó khẳng định nông nghiệp vẫn là thế mạnh của đất nước ta, đang và sẽ tiếp tục tạo sinh kế bền vững, việc làm, thu nhập cho người dân và số đông lao động; bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia trong mọi tình huống, góp phần bảo đảm ổn định kinh tế - xã hội. Về định hướng của ngành nông nghiệp thời gian tới, Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường cho biết sẽ phát triển nông nghiệp hàng hóa tập trung quy mô lớn theo hướng hiện đại, ứng dụng công nghệ cao, nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững; phát triển nông nghiệp xanh, thông minh, thích ứng với biến đổi khí hậu; tiếp tục triển khai Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới theo hướng gắn với quá trình đô thị hóa, đi vào chiều sâu, hiệu quả, bền vững. Mục tiêu chính là tiếp tục phát triển bền vững theo 3 trụ cột: “Kinh tế, xã hội và môi trường”. Để thực hiện có hiệu quả mục tiêu trên, thời gian tới, trong các nhóm giải pháp, song song với việc thay đổi nhận thức và cách tiếp cận về sản xuất nông nghiệp hàng hóa trong điều kiện hội nhập quốc tế và biến đổi khí hậu, cần thực hiện đồng bộ, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp cơ cấu lại ngành; trong đó tập trung hoàn thiện cơ chế, chính sách tạo động lực mới cho phát triển nông nghiệp hàng hóa và xây dựng nông thôn mới, nhất là cơ chế, chính sách về đất đai, tín dụng, đầu tư, bảo hiểm, hợp tác công tư. Bên cạnh đó, cần phát triển công nghiệp chế biến và cơ giới hóa sản xuất nông nghiệp, ứng dụng công nghệ cao, thông minh, tăng tỷ trọng chế biến sâu để giảm chi phí, nâng cao giá trị sản phẩm; ứng dụng khoa học - công nghệ, tập trung giải quyết các khâu then chốt; đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất phù hợp, hiệu quả gắn với quá trình “chuyển đổi số, kinh tế số”; hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp, đẩy mạnh hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ nông sản, kết nối với hệ thống tiêu thụ toàn cầu...
Đồng chí Nguyễn Thị Hồng, Bí thư Đảng ủy, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tham luận về vấn đề: "Đổi mới, nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng" đã nhìn lại cả giai đoạn 2016 - 2020, công tác điều hành chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng đạt được nhiều thành tựu nổi bật nhờ bám sát mục tiêu và nhiệm vụ tổng quát cho giai đoạn 2016 - 2020 mà Đại hội XII của Đảng đề ra. Nhận định nhiệm kỳ 2021 - 2025 và những năm tiếp theo, tình hình thế giới dự kiến sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường, để góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của ngành ngân hàng và Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Nguyễn Thị Hồng đã nêu 8 nhóm vấn đề, gồm: Tiếp tục kiên định mục tiêu kiểm soát lạm phát, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô; cải thiện chất lượng đầu vào cho hoạch định chính sách (nâng cao chất lượng thống kê, phân tích, dự báo), chủ động, thận trọng và linh hoạt điều hành các giải pháp và công cụ chính sách tiền tệ... Thực hiện đồng bộ các biện pháp chuyển quan hệ huy động vốn và cho vay ngoại tệ giữa tổ chức tín dụng với khách hàng vay sang quan hệ mua bán ngoại tệ để tiếp tục giảm tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế; triển khai lộ trình từng bước tự do hóa giao dịch vốn của Việt Nam một cách thận trọng, phù hợp... Tiếp tục các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và người dân, hỗ trợ nền kinh tế phục hồi sau đại dịch COVID-19, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững; mở rộng tín dụng theo hướng tập trung vốn cho vay đối với lĩnh vực sản xuất, kinh doanh; kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, bảo đảm an toàn hoạt động; tăng cường công tác thanh tra, giám sát hoạt động của tổ chức tín dụng, đặc biệt là đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro cao; tập trung hoàn thành các nhiệm vụ phát triển thị trường kinh doanh thương mại tại Việt Nam; thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng thành tựu cách mạng công nghiệp 4.0 trong hoạt động thanh toán...
Đồng chí Nguyễn Đình Khang, Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tham luận về vấn đề: "Đổi mới tổ chức, hoạt động Công đoàn, xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước", khẳng định, hơn 90 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Công đoàn Việt Nam đã không ngừng lớn mạnh, trưởng thành, đồng hành cùng dân tộc, là lực lượng và chỗ dựa tin cậy, trung thành của Đảng, gắn bó máu thịt, hết lòng phấn đấu vì quyền lợi của giai cấp công nhân, người lao động; có những đóng góp xứng đáng vào thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam, đặc biệt là những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong 35 năm đổi mới đất nước. Nhận định tiến trình hội nhập quốc tế mạnh mẽ, nhất là việc nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới và phê chuẩn các công ước cơ bản của Tổ chức Lao động quốc tế, cho phép ra đời tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp ngoài tổ chức công đoàn, trực tiếp thách thức tới vai trò, vị thế của tổ chức Công đoàn Việt Nam, đặt ra cho cả hệ thống chính trị nhiều vấn đề phải quan tâm giải quyết, Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đề xuất giải pháp quan trọng là cần tăng cường và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động công đoàn. Tạo điều kiện phát huy vai trò của Công đoàn trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, nhất là các nhiệm vụ trọng tâm, cốt lõi... Bên cạnh đó, thay mặt tổ chức Công đoàn Việt Nam, Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam Nguyễn Đình Khang cũng đề nghị Bộ Chính trị sớm thông qua “Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động Công đoàn Việt Nam trong tình hình mới”, làm căn cứ ban hành nghị quyết chuyên đề, toàn diện về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức Công đoàn Việt Nam để đáp ứng yêu cầu của tình hình mới…
Đồng chí Trần Hồng Hà, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Ban cán sự Đảng, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường tham luận về vấn đề: "Xây dựng kinh tế tuần hoàn trong thập niên 2021 - 2030", nhận định, kinh tế tuần hoàn đang trở thành xu thế tất yếu nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững trong bối cảnh tài nguyên ngày càng suy thoái, cạn kiệt, môi trường bị ô nhiễm, biến đổi khí hậu diễn biến khốc liệt. Xây dựng kinh tế tuần hoàn đã được xác định là một trong những định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030 trong dự thảo các văn kiện trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Sau 35 năm đổi mới, Việt Nam đã vươn lên thành một điểm sáng tăng trưởng trong khu vực và trên thế giới với nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Nền kinh tế không chỉ tăng trưởng về quy mô mà chất lượng tăng trưởng cũng được cải thiện, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng cao. Tuy nhiên, nước ta đang phải đối mặt với nhiều thách thức về cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm, suy thoái môi trường và biến đổi khí hậu. Thực tiễn đó đòi hỏi chúng ta phải thay đổi cách tiếp cận và chuyển đổi mô hình phát triển sang phát triển kinh tế tuần hoàn. Để thúc đẩy phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường cho rằng, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp từ nâng cao nhận thức đến hoàn thiện thể chế và tổ chức thực hiện. Ngay từ những năm đầu của thập niên 2021 - 2030, cần tập trung triển khai nhiều giải pháp để thúc đẩy kinh tế tuần hoàn tại Việt Nam nhằm tận dụng những cơ hội hợp tác trong tiếp cận và tiếp nhận chuyển giao công nghệ phục vụ phát triển bền vững đất nước. Trong đó, Nhà nước cần thực hiện tốt vai trò kiến tạo để doanh nghiệp, người dân phát huy vai trò trung tâm trong xây dựng, phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam.
Đồng chí Mai Trực, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương tham luận về vấn đề: "Nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng, tăng cường kiểm soát quyền lực và phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực", cho biết, trong nhiệm kỳ vừa qua, công tác kiểm tra, giám sát đã góp phần quan trọng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Ủy ban Kiểm tra Trung ương và ủy ban kiểm tra các cấp đã tiến hành kiểm tra tập trung nhiều vào những điểm "nóng", những lĩnh vực nhạy cảm, dễ phát sinh tiêu cực, những vấn đề bức xúc mà dư luận quan tâm, trong đó có nhiều việc mới, việc tồn tại đã lâu, rất khó khăn, phức tạp, nhạy cảm, liên quan nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều địa phương, gây bức xúc trong xã hội đã được phát hiện, làm rõ, kết luận và xử lý kỷ luật nghiêm minh hơn 1.300 tổ chức đảng và gần 70.000 đảng viên vi phạm, có cả những đồng chí giữ cương vị cao của Đảng, Nhà nước, lãnh đạo chủ chốt các địa phương, đơn vị, sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang, đương chức hoặc đã nghỉ hưu,... với tinh thần làm nghiêm từ trên xuống, không có "vùng cấm", không có ngoại lệ, nhưng cũng rất nhân văn, mục đích chính là làm cho tổ chức đảng, đảng viên thấy được vi phạm, khuyết điểm của mình để sửa chữa, khắc phục. Để góp phần tích cực hơn nữa vào việc nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng, công tác kiểm tra giám sát nhiệm kỳ tới cần được nhận thức đúng, đầy đủ hơn; tiếp tục khẳng định kiểm tra, giám sát là những chức năng, phương thức lãnh đạo của Đảng, một bộ phận quan trọng trong toàn bộ công tác xây dựng Đảng, là nhiệm vụ của toàn Đảng, trước hết là của cấp ủy và trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy…
Đồng chí Bùi Thanh Sơn, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng thường trực Bộ Ngoại giao tham luận về vấn đề: "Nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động hội nhập quốc tế, tạo môi trường hòa bình và điều kiện thuận lợi để phát triển đất nước" khẳng định, công tác đối ngoại đã góp phần thu hút nguồn ngoại lực to lớn cho phát triển kinh tế - xã hội và công cuộc đổi mới. Với 5 hiệp định thương mại tự do (FTA) được thiết lập, trong đó có cả các thỏa thuận thế hệ mới, tiêu chuẩn cao với các đối tác chủ chốt, Việt Nam trở thành tâm điểm của mạng lưới 16 FTA khu vực. Các hoạt động ngoại giao kinh tế đã bám sát nhu cầu, hỗ trợ tích cực cho doanh nghiệp và địa phương kết nối, mở rộng hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư, lao động, du lịch, khoa học - công nghệ, góp phần đáng kể vào những thành tựu phát triển kinh tế của đất nước nhiệm kỳ qua. Dự báo giai đoạn chiến lược sắp tới sẽ đầy biến động, thậm chí với những thay đổi sâu sắc mang tính bước ngoặt, mang lại cả cơ hội và thách thức với đất nước ta, Thứ trưởng thường trực Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn cho rằng, điều này đòi hỏi đối ngoại phải nâng cao hơn nữa năng lực, tính nhạy bén, tốc độ, linh hoạt và khả năng phối hợp liên ngành trong triển khai nhiệm vụ; phát huy vai trò tiên phong trong việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; kiến tạo mọi điều kiện, huy động mọi nguồn lực và tranh thủ mọi cơ hội để phục vụ sự nghiệp phát triển và nâng cao vị thế của đất nước, tập trung vào 3 nội dung: Thứ nhất, củng cố tin cậy chính trị, nâng tầm, đưa vào chiều sâu quan hệ của ta với các đối tác, nhất là các nước láng giềng, khu vực, các nước lớn và các nước bạn bè truyền thống, trên tinh thần bình đẳng, cùng có lợi, tôn trọng lẫn nhau và phù hợp với luật pháp quốc tế. Thứ hai, đẩy mạnh hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng, với trọng tâm là hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, giáo dục và đào tạo, hướng ưu tiên vào phát triển bền vững, bao trùm. Thứ ba, triển khai mạnh mẽ, hiệu quả, sáng tạo và nâng tầm hơn nữa đối ngoại đa phương từ chủ động, tích cực tham gia sang từng bước đóng góp xây dựng, định hình các thể chế đa phương và trật tự kinh tế - chính trị quốc tế.
Đồng chí Lê Quốc Phong, Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Đồng Tháp tham luận về vấn đề: "Phát huy nội dung và sức sáng tạo, Đồng Tháp chuyển đổi từ "tư duy sản xuất nông nghiệp" sang "tư duy kinh tế nông nghiệp", thích ứng biến đổi khí hậu và xu thế thị trường", đã chia sẻ kinh nghiệm trong phát triển nông nghiệp thích ứng với biến đổi khí hậu, tạo thêm giá trị mới trên đơn vị diện tích canh tác của Đồng Tháp, từ việc chuyển đổi từ tư duy độc canh, tăng sản lượng lúa gạo sang giảm dần diện tích lúa vụ ba, luân canh các loại cây trồng, thủy sản khác cũng như việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất lúa kém hiệu quả, manh mún sang trồng cây ăn trái, hoa màu, hoa kiểng, nuôi thủy sản... Đồng thời, triển khai nhiều mô hình sản xuất nông nghiệp thông minh, thích ứng với những tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu và sự suy giảm số lượng, chất lượng nguồn nước, nhất là sự thay đổi giảm lưu lượng, dòng chảy sông Mê Kông và tình trạng xâm nhập mặn ở đồng bằng sông Cửu Long đang diễn biến phức tạp; từng bước tổ chức lại không gian sản xuất, quy mô sản xuất, quy hoạch lại ngành hàng phù hợp với mỗi vùng sinh thái đặc trưng. Chính nhờ có bước đi phù hợp mà trong điều kiện đại dịch COVID-19 giai đoạn cuối nhiệm kỳ ảnh hưởng nhiều đến tình hình phát triển kinh tế - xã hội, tăng trưởng GRDP bình quân của tỉnh Đồng Tháp năm 2020 vẫn đạt 3,45%, xếp thứ 3 khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Thời gian tới, để tiếp tục thực hiện có hiệu quả việc chuyển đổi từ “Tư duy sản xuất nông nghiệp” sang “Tư duy kinh tế nông nghiệp”, thích ứng với biến đổi khí hậu và xu thế thị trường, Bí thư Tỉnh ủy Đồng Tháp đề nghị cần có nghiên cứu để tính toán đầy đủ hơn đóng góp của khu vực nông nghiệp vào tăng trưởng kinh tế theo xu thế hiện nay, không chỉ dựa vào năng suất, sản lượng, giá trị gia tăng làm thước đo cho sự tăng trưởng của ngành, mà cần chú trọng hơn đến "lợi nhuận đạt được" của sản phẩm nông nghiệp, cũng như sự hỗ trợ phát triển mô hình “Vườn ươm doanh nghiệp nông nghiệp công nghệ cao”, tạo điều kiện thuận lợi không chỉ cho hoạt động của vườn ươm, mà cả cho việc khuyến khích nhu cầu sáng tạo, kinh doanh của phía cầu và thúc đẩy tăng cường các dịch vụ hướng đến doanh nghiệp khởi nghiệp từ phía cung.
Đồng chí Đỗ Văn Chiến, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc tham luận về vấn đề: "Một số kết quả chủ yếu phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2016 - 2020; mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu giai đoạn 2021 - 2026", cho biết, nhiệm kỳ vừa qua, quán triệt sâu sắc Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng; các nghị quyết, kết luận của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 118 nghị quyết, nghị định, quyết định về chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; ưu tiên bố trí nguồn lực để thực hiện các chính sách đã ban hành để đạt được những kết quả quan trọng, toàn diện trên các lĩnh vực. Từ thực tiễn công tác giai đoạn 2016 - 2020, có thể rút ra ba bài học kinh nghiệm: 1- Phải kiên định, kiên trì thực hiện chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước: Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp đỡ nhau cùng phát triển; chăm lo công tác dân tộc là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp, các ngành và cả hệ thống chính trị. 2- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; tăng cường nguồn lực đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, tạo sinh kế, giảm nghèo bền vững. Chú trọng củng cố và giữ vững niềm tin của đồng bào đối với Đảng và Nhà nước. 3- Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng, bố trí sử dụng hiệu quả đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số; phát triển đảng viên, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh. Phát huy vai trò của đội ngũ người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số. Để thực hiện tốt công tác dân tộc, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Đỗ Văn Chiến cho rằng các cấp, các ngành cần quán triệt sâu sắc các quan điểm trong văn kiện trình Đại hội về công tác dân tộc trong tình hình mới, phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc, miền núi theo hướng toàn diện; khơi dậy ý chí tự lực, tự cường của đồng bào các dân tộc; tạo điều kiện cho đồng bào dân tộc tiếp cận nguồn vốn phát triển mô hình kinh tế; chú trọng bảo tồn văn hóa truyền thống các dân tộc, thực hiện tốt công tác giáo dục, y tế, nâng cao thể chất người đồng bào dân tộc thiểu số…
Đồng chí Hà Thị Nga, Bí thư Đảng đoàn, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tham luận về vấn đề: "Quan tâm hỗ trợ phụ nữ tiếp cận, thụ hưởng chính sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội" cho biết, trong số hơn 65% dân cư nước ta sống ở nông thôn, trong đó khoảng 48,5% là lao động nữ. Họ có mặt ở hầu hết các công việc của quá trình sản xuất, chế biến, kể cả những công việc nặng nhọc và độc hại... ảnh hưởng trực tiếp và lâu dài tới sức khoẻ, nhất là sức khoẻ sinh sản nhưng họ hầu như không được hưởng các chế độ thai sản. Phụ nữ chiếm tỷ lệ trên 50,23% dân số, phụ nữ là nguồn nhân lực quan trọng của đất nước. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của phụ nữ trong độ tuổi lao động lên đến hơn 66%, cao hơn hẳn so với phần lớn các quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, theo báo cáo năm 2019, còn khoảng 79,5% lao động nữ trong độ tuổi lao động chưa qua đào tạo. Đây là nhóm yếu thế trên thị trường lao động, với tỷ lệ thất nghiệp cao hơn bình quân chung của cả nước, việc làm bấp bênh, thu nhập thấp. Những vấn đề đó đã tác động rất nhiều đến cuộc sống gia đình, cơ hội phát triển nghề nghiệp và tạo ra bất bình đẳng đối với lao động nữ. Điều này cho thấy, để có cơ hội có việc làm thì lao động phải được đào tạo. Đào tạo nghề chính là chìa khóa để phụ nữ mở được cánh cửa việc làm, có thu nhập ổn định. Từ những vấn đề nêu ra, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam Hà Thị Nga kiến nghị, Đảng và Nhà nước tiếp tục quan tâm chỉ đạo các ngành chức năng nghiên cứu để hoàn thiện các chính sách có lồng ghép giới theo quy định của Luật Bình đẳng giới, tạo điều kiện để phụ nữ nói chung, đặc biệt là phụ nữ mang thai, nuôi con nhỏ, phụ nữ nông thôn, phụ nữ di cư, phụ nữ dân tộc thiểu số có cơ hội được tiếp cận, thụ hưởng đầy đủ các chính sách an sinh xã hội.
Đồng chí Đào Ngọc Dung, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Ban cán sự Đảng, Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội tham luận về vấn đề: "Quản lý phát triển xã hội bền vững, nâng cao năng lực cạnh tranh về nhân lực, bảo đảm tiến bộ, công bằng, an sinh xã hội", cho rằng, để thực hiện chủ trương của Đảng về quản lý và phát triển xã hội, hướng đến mục tiêu vì con người và đặt con người vào trung tâm của quá trình phát triển, cần thực hiện đồng bộ bảy nhóm giải pháp. Trong đó, 1- Thực hiện chính sách ưu đãi người có công với cách mạng theo nguyên tắc bù đắp cống hiến, đóng góp, hy sinh và công bằng; bảo đảm người có công và gia đình có mức sống cao hơn mức sống trung bình của dân cư trên địa bàn; 2- Tiếp tục thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững tiếp cận với chuẩn nghèo đa chiều, bao trùm để hỗ trợ người dân nâng cao chất lượng cuộc sống, tích hợp chính sách giảm nghèo, giảm các chính sách hỗ trợ trực tiếp, tạo sinh kế bền vững cho người nghèo; thu hẹp khoảng cách về thu nhập, mức sống, điều kiện sống của người nghèo so với bình quân chung của cả nước... 3- Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trên cơ sở tiếp tục đổi mới căn bản giáo dục, đào tạo…; phấn đấu tăng tỷ lệ lao động có bằng, chứng chỉ lên 30-35% vào năm 2025 và 40-45% vào năm 2030; 4- Phát triển thị trường lao động cạnh tranh lành mạnh, đồng bộ, hiện đại và hội nhập; phát triển việc làm bền vững, nhất là cho thanh niên và lao động trung niên... Xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ, thực hiện chính sách tiền lương gắn với năng suất lao động và hiệu quả làm việc, khuyến khích, trọng dụng nhân tài. 5- Xây dựng hệ thống bảo hiểm xã hội đa tầng, linh hoạt, hiện đại, chia sẻ và hội nhập; tăng hỗ trợ của Nhà nước để mở rộng độ bao phủ bảo hiểm xã hội tự nguyện, phấn đấu đạt tỷ lệ độ bao phủ 60% năm 2030, hướng tới bảo hiểm xã hội toàn dân, mở rộng và duy trì bảo hiểm y tế toàn dân. 6- Phát triển trợ giúp xã hội toàn diện, đa dạng, bao trùm, hiệu quả, phù hợp với vòng đời con người, có sự chia sẻ giữa Nhà nước, xã hội và người dân. 7- Đẩy mạnh xã hội hóa nhà ở cho người di cư, người dân vùng chịu tác động của thiên tai và biến đổi khí hậu; bảo đảm nước sạch cho người dân nông thôn; nâng cao chất lượng thông tin truyền thông cho vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, miền núi và hải đảo...
Đồng chí Nguyễn Ngọc Thiện, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Ban cán sự Đảng, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tham luận về vấn đề: "Phát huy sức mạnh văn hóa và con người Việt Nam trong sự phát triển bền vững đất nước", nhấn mạnh, văn hóa là một hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Vai trò của văn hóa ngày càng được các quốc gia đề cao, coi trọng. Văn hóa trở thành một trong các trụ cột của phát triển bền vững, là động lực của quá trình phát triển, là nhân tố phát huy sức mạnh tổng hợp quốc gia. Trong giai đoạn tới, xây dựng văn hóa vì sự phát triển bền vững đất nước cần hướng đến xây dựng con người Việt Nam với những phẩm chất phù hợp với yêu cầu của thời đại mới, như: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, kỷ cương, đoàn kết, cần cù, sáng tạo. Xây dựng và phát huy lối sống “Mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người”; xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh tạo điều kiện phát triển văn hóa, con người Việt Nam. Môi trường văn hóa lành mạnh ở gia đình, nhà trường và xã hội sẽ là nơi hình thành, nuôi dưỡng, vun đắp nhân cách văn hóa và giáo dục lối sống cho con người Việt Nam, để cái tốt sẽ được bảo vệ, nhân lên, cái ác, cái xấu sẽ bị bài trừ, lên án; xây dựng văn hóa trong chính trị, kinh tế, chú trọng chăm lo xây dựng văn hóa trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước, các đoàn thể, coi đây là nhân tố quan trọng để xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phát triển các ngành công nghiệp văn hóa để tạo ra những sản phẩm, dịch vụ văn hóa của người Việt Nam, vì người Việt Nam, cho người Việt Nam...
Như vậy, kết thúc ngày làm việc ngày 27-1-2021, với 23 ý kiến tham luận bày tỏ đồng tình, nhất trí cao với các dự thảo văn kiện trình Ðại hội. Nội dung các văn kiện được chuẩn bị công phu, kỹ lưỡng, khoa học, chất lượng, thể hiện sự kết tinh trí tuệ, tư duy về tầm nhìn chiến lược của Ðảng ta và khát vọng phát triển của dân tộc, phù hợp tình hình trong nước và quốc tế hiện nay. Các đại biểu phân tích, làm rõ hơn những vấn đề đặt ra trong văn kiện, cung cấp những kinh nghiệm thực tiễn phù hợp chức năng, nhiệm vụ của từng đảng bộ. Nhiều ý kiến nhấn mạnh yếu tố đại đoàn kết toàn dân tộc tạo nguồn sức mạnh, lập nên những kỳ tích vẻ vang, là điều kiện cơ bản cho thành công của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây, cũng như công cuộc đổi mới xây dựng, phát triển đất nước ngày nay và những bài học kinh nghiệm quý báu về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; các giải pháp về tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Ðảng với nhân dân, cùng hiệp lực, quyết tâm, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Ðại hội XIII của Ðảng.
Ngày 28-1-2021, Đại hội làm việc tại hội trường, tiếp tục thảo luận các văn kiện trình Đại hội XIII và nghe báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về công tác nhân sự Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII./.
Thùy Linh (tổng hợp)
Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc điều hành thảo luận dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng  (27/01/2021)
Khai mạc trọng thể Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng  (26/01/2021)
Thường trực Ban Bí thư Trần Quốc Vượng kiểm tra công tác chuẩn bị Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng  (23/01/2021)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- Bảo đảm an ninh con người của chính quyền đô thị: Kinh nghiệm của một số quốc gia và hàm ý chính sách đối với Việt Nam
- Tầm quan trọng của việc phát triển năng lực tư duy phản biện cho đội ngũ cán bộ tham mưu tổ chức xây dựng Đảng hiện nay
- Phát huy vai trò trụ cột của đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân trong phối hợp xây dựng nền ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, thực hiện hiệu quả mục tiêu đối ngoại của đất nước
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển