Quốc hội biểu quyết thông qua 2 nghị quyết và thảo luận 2 dự án Luật
TCCSĐT - Theo Chương trình Kỳ họp thứ 7, sáng 10-6, Quốc hội biểu quyết thông qua Nghị quyết về Chương trình giám sát của Quốc hội năm 2020. Thời gian còn lại của buổi sáng, các đại biểu Quốc hội thảo luận tại hội trường về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương.
Số lượng phó ban chuyên trách của Hội đồng Nhân dân cấp tỉnh, Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân cấp xã loại II là một trong những nội dung nổi bật của dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương, được nhiều đại biểu quan tâm thảo luận sáng 10-6.
Cần xem việc tăng phó chủ tịch Ủy ban Nhân dân có tương xứng với việc giảm một phó chủ tịch Hội đồng Nhân dân
Trong tờ trình, Chính phủ xin ý kiến Quốc hội về việc giảm số lượng Phó Chủ tịch Hội đồng Nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện và giảm số lượng Phó Trưởng Ban chuyên trách của Hội đồng Nhân dân cấp tỉnh do quá trình xây dựng dự án Luật còn có ý kiến khác nhau.
Loại ý kiến thứ nhất đề nghị giảm số lượng Phó Chủ tịch Hội đồng Nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, Phó Trưởng Ban chuyên trách của Hội đồng Nhân dân cấp tỉnh từ 2 người xuống còn 1 người.
Loại ý kiến thứ hai đề nghị giữ nguyên số lượng 2 Chủ tịch Hội đồng Nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, không quá 2 Phó Trưởng ban chuyên trách của Hội đồng Nhân dân cấp tỉnh như quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương hiện hành. Chính phủ thống nhất với phương án 1.
Tuy nhiên, thảo luận tại hội trường cho thấy còn có ý kiến băn khoăn về lựa chọn này.
Đại biểu Nguyễn Tuấn Anh (Bình Phước) cho rằng, việc tăng hay không tăng biên chế, quan trọng nhất là phải tính đến hiệu lực, hiệu quả khi sửa luật.
Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương mới ban hành có hiệu lực được hơn 3 năm, công tác tổ chức bộ máy cần mang tính ổn định, bền vững.
Do vậy, việc tăng hay giảm số lượng phó chủ tịch Hội đồng Nhân dân cấp tỉnh, huyện hoặc trưởng, phó ban Hội đồng Nhân dân cần cân nhắc.
Nêu quan điểm cá nhân, đại biểu đồng tình giữ nguyên số lượng như hiện nay với lý do “luật mới đi vào thực hiện hơn 3 năm mà giờ lại xáo trộn biên chế, tổ chức bộ máy, tính hiệu lực, hiệu quả của hai luật này đã được trả lời bằng hiệu quả của tình hình kinh tế - xã hội của đất nước trong năm 2018”.
Đại biểu cho rằng, cần xem việc tăng phó chủ tịch Ủy ban Nhân dân có tương xứng với việc giảm một phó chủ tịch Hội đồng Nhân dân không.
Còn theo đại biểu Trần Văn Lâm (Bắc Giang), cần xem xét số lượng cấp phó chủ tịch Hội đồng Nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện trong tổng thể các chức danh và tổ chức bộ máy Hội đồng Nhân dân cùng cấp và trên cơ sở đánh giá hiệu quả hoạt động của chính quyền địa phương thời gian qua.
Luật cần quy định rõ về tỷ lệ đại biểu Hội đồng Nhân dân chuyên trách trong tổng số đại biểu, đây chỉ là tỷ lệ để đảm bảo số cơ quan Hội đồng Nhân dân cần có để tổ chức bộ máy hoạt động mang tính chuyên nghiệp.
Theo đại biểu, nhiệm kỳ này, hiệu quả hoạt động của đại biểu Hội đồng Nhân dân cấp tỉnh đã nâng lên rõ rệt, một trong những nguyên nhân tạo nên tiến bộ chính là tăng số lượng đại biểu chuyên trách làm việc ở các ban.
Khi xác định rõ số đại biểu Hội đồng Nhân dân chuyên trách mới có căn cứ xác định số lượng phó chủ tịch, phó ban Hội đồng Nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện.
Đại biểu cũng cho biết đồng ý với việc tăng thêm số lượng một phó chủ tịch Ủy ban Nhân dân cấp xã loại II, để đáp ứng yêu cầu hiện nay. Tuy nhiên, cần nhìn nhận vấn đề cho trúng để tới đây có cách ứng xử tiếp theo.
Thống nhất với việc có 2 phó chủ tịch Hội đồng Nhân dân, đại biểu Tôn Ngọc Hạnh (Bình Phước) dẫn Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 quy định, Thường trực Hội đồng Nhân dân gồm Chủ tịch, 2 Phó Chủ tịch.
Qua quá trình thực hiện, Hội đồng Nhân dân đã phát huy tốt nhiệm vụ góp phần phát huy hiệu quả của Hội đồng Nhân dân. Do đó, việc giảm một Phó Chủ tịch Hội đồng Nhân dân cần phải được cân nhắc thận trọng.
Đại biểu cho rằng theo phương án của Chính phủ, giảm cào bằng tất cả các địa phương gồm cả Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh là không hợp lý, không có tính thuyết phục cao.
Lý giải của Chính phủ là giảm đồng bộ như vậy để có sự đồng bộ về tổ chức bộ máy nhà nước là chưa thực sự hợp lý, vì chúng ta phải bảo đảm được 2 mục tiêu song song là bộ máy giảm, không tăng biên chế nhưng cũng phải bảo đảm hiệu quả hoạt động, nếu không xét điều kiện cụ thể của từng địa phương mà chỉ giảm cơ học, sẽ không hiệu quả, dẫn đến việc phải sửa luật thường xuyên.
Cũng theo đại biểu Tôn Ngọc Hạnh, theo quy định, phó chủ tịch Hội đồng Nhân dân giúp việc cho chủ tịch Hội đồng Nhân dân trong điều hành phiên họp, nếu chỉ có một phó chủ tịch Hội đồng Nhân dân, trong trường hợp đột xuất, bất khả kháng xảy ra không thể tham gia phiên họp của Hội đồng Nhân dân sẽ không có nhân sự thay thế để thực hiện các công việc.
Trong thực tiễn, các cơ quan dân cử cần tăng đại biểu chuyên trách để nâng cao hiệu quả hoạt động, đồng thời yêu cầu của cử tri và nhân dân đối với cơ quan dân cử ngày càng cao.
Do đó, cần giữ số lượng đại biểu chuyên trách như hiện hành là 2 phó chủ tịch Hội đồng Nhân dân cấp tỉnh để thực hiện tốt công tác giám sát, chuẩn bị tốt các nội dung cho kỳ họp.
Tránh “trăm hoa đua nở” cơ quan chuyên môn cấp tỉnh, huyện
Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Nguyễn Mạnh Cường cho rằng dự thảo luật không cụ thể hóa được chủ trương của Nghị quyết 18, 19 về sắp xếp, đổi mới bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, chưa mang lại hiệu quả thiết thực cho việc thực hiện chủ trương của Đảng.
Thậm chí, có nội dung đã được Quốc hội quy định, thì lần này lại bãi bỏ, giao Chính phủ quy định như quy định số lượng cấp phó cấp vụ không quá 3 người, tổng cục không quá 4 người không được dự luật nhắc đến.
“Như vậy số lượng cấp phó này đã không bị khống chế cho đến khi có nghị định của Chính phủ và cũng không rõ số lượng này tăng lên hay giảm đi,” đại biểu băn khoăn.
Theo Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Nguyễn Mạnh Cường, đây là một nội dung đã được Quốc hội khóa 13 thảo luận kỹ, nhằm khắc phục tình trạng có quá nhiều cấp ở cơ quan Trung ương. Việc bỏ quy định này cũng chưa được tổng kết đánh giá việc thực hiện trong thực tiễn.
Về cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, theo đại biểu Trần Văn Lâm, có thể phân cấp cho Chính phủ quy định bộ máy cấp dưới, nhưng không phải chỉ quy định khung số lượng, còn các địa phương tùy ý xác định có cơ quan nào nằm trong bộ máy của Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện.
Làm như vậy sẽ mỗi nơi một khác, sẽ rất khó khăn, phức tạp. Chính phủ quy định nhưng phải rõ ràng, thống nhất về tổ chức bộ máy của Ủy ban Nhân dân tỉnh, huyện giữa các địa phương.
Sự khác nhau, có chăng chỉ là một chút trong điều kiện đặc thù vùng miền đô thị, nông thôn và sự khác nhau này cũng phải được Chính phủ quy định rõ ràng, tránh sự “trăm hoa đua nở,” mỗi nơi một cách như vừa qua thí điểm lập các cơ quan trong hệ thống hành chính chính trị ở các địa phương, sau đó Chính phủ phải đề nghị tạm dừng, chờ hướng dẫn.
Giải trình, Bộ trưởng Nội vụ Lê Vĩnh Tân cho rằng, việc giao cho Chính phủ quy định khung của các cơ quan chuyên môn của Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh, huyện để khắc phục tình trạng giao cứng cơ quan chuyên môn.
Cũng theo Bộ trưởng, quy định biên chế tối thiểu và số lượng cấp phó tối đa là nhằm khắc phục tình trạng “đẻ” quá nhiều cơ cấu tổ chức bên trong.
Vì vậy, muốn thành lập cơ cấu tổ chức bên trong, phải có biên chế tối thiểu, tổ chức này phải thu gọn đầu mối trên cơ sở thực hiện đa nhiệm vụ, đa chức năng, giống như quy định bộ, ngành hiện nay quản lý nhà nước đa nhiệm vụ, đa chức năng.
“Nếu có số lượng biên chế ít hơn, phải nhập các phòng khác để thực hiện chức năng quản lý đa ngành, chuyên ngành, cũng để hạn chế tình trạng số lượng lãnh đạo của các cơ quan bên trong nhiều hơn công chức,” Bộ trưởng cho hay.
Theo Bộ trưởng, nguyên tắc đặt ra là phải bảo đảm giảm đầu mối, giảm biên chế trên cơ sở giảm đầu mối, nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước; không đặt vấn đề giảm biên chế, giảm tổ chức hoặc nhằm mục đích tăng tiền lương mà là thực hiện đồng bộ trong việc tinh gọn lại bộ máy, tinh giản biên chế, cơ cấu tổ chức và hoạt động bộ máy hiệu lực.
Thông qua Nghị quyết về Chương trình giám sát của Quốc hội năm 2020
Tiếp tục chương trình làm việc tại Kỳ họp thứ 7, sáng cùng ngày, với 92,15% đại biểu tán thành, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về Chương trình giám sát của Quốc hội năm 2020.
Tại Kỳ họp thứ 9 (năm 2020), Quốc hội xem xét các báo cáo của Chính phủ về đánh giá bổ sung kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội và ngân sách nhà nước năm 2019; tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội và ngân sách nhà nước những tháng đầu năm 2020; báo cáo về quyết toán ngân sách nhà nước năm 2018; báo cáo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về kết quả giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri gửi đến Kỳ họp thứ 8 và các báo cáo khác của các cơ quan hữu quan theo quy định của pháp luật.
Quốc hội tiến hành chất vấn và trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội. Cũng tại Kỳ họp này, Quốc hội xem xét báo cáo giám sát chuyên đề “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về phòng, chống xâm hại trẻ em”; xem xét báo cáo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc thực hiện kiến nghị giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội (nếu có)./.
Hoạt động nổi bật trong ngày của Lãnh đạo Quốc hội, Chính phủ  (10/06/2019)
Còn quan điểm trái chiều về hình thức kỷ luật giáng chức  (10/06/2019)
Những sự kiện quốc tế đáng chú ý trong tuần (từ ngày 03 đến 09-6-2019)  (10/06/2019)
Tuần tin cải cách hành chính từ ngày 03 đến ngày 09-6-2019  (10/06/2019)
- Phát huy vai trò của công tác cán bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
- Ấn Độ: Hướng tới cường quốc kinh tế và tri thức toàn cầu trong nhiệm kỳ thứ ba của Thủ tướng Na-ren-đra Mô-đi
- Một số vấn đề về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Thành tựu phát triển lý luận của Đảng qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới (kỳ 1)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển