Bộ trưởng Bộ Nội vụ
Trần Văn Tuấn

Luật Cán bộ, công chức là một trong những Luật rất quan trọng, được thảo luận nhiều buổi và thu hút sự quan tâm, theo dõi của mọi tầng lớp nhân dân. Luật đã được thông qua tại Kỳ họp thứ 4 Quốc hội khoá XII. Để giúp độc giả có thêm thông tin, Tạp chí Cộng sản Điện tử đã có cuộc trao đổi với Bộ trưởng Bộ Nội vụ Trần Văn Tuấn. Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc nội dung cuộc phỏng vấn này.

Phóng viên: Tạp chí Cộng sản Điện tử cảm ơn Bộ trưởng đã dành thời gian trao đổi với Tạp chí. Thưa Bộ trưởng, sau hơn hai mươi năm đổi mới, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ, công chức đã được nâng lên, tuy nhiên, không ít ý kiến cho rằng, đội ngũ cán bộ, công chức còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, nhất là trong điều kiện đất nước hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế thế giới. Bộ trưởng đánh giá thế nào về nhận xét trên?

Bộ trưởng Trần Văn Tuấn: Đất nước ta đang trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải xây dựng được một đội ngũ cán bộ, công chức đủ đức, đủ tài đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Sau hơn hai mươi năm đổi mới, chúng ta đã có một đội ngũ cán bộ, công chức có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành với sự nghiệp cách mạng; có kiến thức, trình độ và năng lực hoạt động thực tiễn, đã góp phần quan trọng vào những thành công của công cuộc đổi mới đất n­ước.

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, đội ngũ cán bộ, công chức vẫn còn bất cập, hẫng hụt về một số mặt như: tri thức và năng lực quản lý nhà nước về xã hội, kinh tế thị trường, pháp luật, hành chính, kỹ năng thực thi công vụ cũng như khả năng vận dụng khoa học công nghệ hiện đại trong công tác quản lý... Mặt khác, tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật của một bộ phận cán bộ, công chức còn yếu, còn có hiện tượng quan liêu, tham nhũng gây nên những tiêu cực trong thi hành công vụ, làm giảm hiệu lực của bộ máy nhà nước. So với yêu cầu nhiệm vụ của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập sâu, rộng vào kinh tế thế giới thì với thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức như hiện nay, rõ ràng là vẫn còn một số điểm hạn chế. Để khắc phục các hạn chế này, Đảng và Nhà nước ta đang triển khai các chương trình nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức đặc biệt là đối với cán bộ công chức hành chính nhà nước.

Phóng viên: Thưa Bộ trưởng, trong bối cảnh hiện nay, người cán bộ, công chức cần phải có những phẩm chất gì và đáp ứng những tiêu chuẩn nào?

Bộ trưởng Trần Văn Tuấn: Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng chỉ rõ “cán bộ phải là người có phẩm chất chính trị tốt, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, hết lòng phấn đấu vì lợi ích của nhân dân, của dân tộc; có bản lĩnh chính trị vững vàng, không dao động trước những khó khăn, thử thách; có năng lực hoàn thành nhiệm vụ được giao; có nhân cách và lối sống mẫu mực, trong sáng; có ý thức tổ chức kỷ luật cao; tôn trọng tập thể gắn bó với nhân dân. Xây dựng đội ngũ cán bộ đồng bộ, có cơ cấu hợp lý, chất lượng tốt…”.

Trên cơ sở định hướng chung như vậy cần phải thể chế hoá các nội dung liên quan tới tiêu chuẩn, chức danh cán bộ, công chức, ví dụ như tiêu chuẩn các ngạch: cán sự, chuyên viên, chuyên viên chính, chuyên viên cao cấp hoặc các ngạch viên chức sự nghiệp như giáo viên, bác sĩ v.v.. Điều hết sức quan trọng là phải xuất phát từ tính chất, đặc điểm và yêu cầu công việc của cán bộ, công chức trong từng lĩnh vực hoạt động để có những quy định phù hợp về tiêu chuẩn. Tiêu chuẩn của cán bộ, công chức bao gồm cả tiêu chuẩn về phẩm chất, về năng lực và về trình độ. Trong đó, tiêu chuẩn của công chức hành chính ở các bộ, ngành Trung ương phải chú trọng đến năng lực hoạch định thể chế, chính sách ở tầm vĩ mô, còn tiêu chuẩn của công chức hành chính cấp xã, cấp huyện, cần chú ý đến năng lực thực thi chính sách, pháp luật, văn hoá giao tiếp và giải quyết những công việc của dân, doanh nghiệp…

Phóng viên: Hiện nay, bắt đầu có một bộ phận cán bộ, công chức (thậm chí có một số người giữ những cương vị nhất định trọng bộ máy công quyền ở địa phương) rời nhiệm sở, chuyển sang làm việc trong khu vực tư nhân, theo Bộ trưởng, vì sao có hiện tượng đó, và liệu có phần nào xuất phát từ những bất cập trong công tác cán bộ không?

Bộ trưởng Trần Văn Tuấn: Qua theo dõi thực tiễn quản lý đội ngũ cán bộ, công chức các bộ, ngành và địa phương trong nhiều năm qua, cho thấy trong một số năm gần đây có hiện tượng cán bộ, công chức, viên chức thôi việc, cụ thể như sau:

Tổng số cán bộ, công chức, viên chức thôi việc từ tháng 7 năm 2003 đến ngày 31 tháng 12 năm 2007 là 16.314 người, chiếm tỷ lệ gần 1,0% trong tổng số cán bộ, công chức, viên chức, trong đó: người giữ chức vụ lãnh đạo có 310 người, chiếm tỷ lệ 1,9% trong tổng số cán bộ, công chức, viên chức thôi việc, gồm: Cấp Vụ và tương đương có 06 người chiếm tỷ lệ 0,04%; Cấp Phòng và tương đương có 231 người chiếm tỷ lệ 1,42%; Giám đốc, Phó Giám đốc trung tâm trực thuộc (đơn vị sự nghiệp của Nhà nước) có 38 người chiếm tỷ lệ 0,23%; Hiệu trưởng trường phổ thông, trường mầm non có 34 người, chiếm tỷ lệ 0,21%; Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân huyện có 01 người. Người không giữ chức vụ lãnh đạo có 16.004 người, chiếm tỷ lệ 98,1% trong tổng số cán bộ, công chức, viên chức thôi việc, gồm: công chức hành chính có 2.789 người chiếm tỷ lệ 17,09%, trong đó khối bộ, ngành có 1.217 người và khối địa phương có 1.572 người; viên chức sự nghiệp có 11.721 người chiếm tỷ lệ 71,85%, trong đó khối bộ, ngành có 1.320 người, khối địa phương có 10.401 người; nhân viên (trình độ sơ cấp) có 1.494 người, chiếm tỷ lệ 9,16%, trong đó khối bộ, ngành có 195 người và khối địa phương có 1.299 người.

Số liệu trên cho thấy, hiện tượng cán bộ, công chức rời nhiệm sở trong thời gian gần đây có tăng lên so với các giai đoạn trước đây. Nhưng trong điều kiện nền kinh tế thị trường, sự dịch chuyển lao động từ khu vực công sang khu vực tư hoặc ngược lại cần phải coi đó là việc bình thường, phù hợp với các quy luật của cơ chế thị trường trong đó có thị trường lao động. Bản thân cán bộ, công chức cũng là người lao động, cho dù họ làm việc ở khu vực nhà nước hoặc khu vực tư thì cũng đều góp phần xây dựng đất nước ngày một giàu mạnh. Đại bộ phận cán bộ, công chức, viên chức mặc dù thu nhập còn hạn chế, đời sống còn nhiều khó khăn, nhưng với tinh thần trách nhiệm phục vụ đất nước, phục vụ nhân dân, vẫn mong muốn được cống hiến và làm việc trong các cơ quan, các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước. Thực trạng này bắt nguồn từ cả nguyên nhân khách quan và chủ quan.

Nguyên nhân khách quan của hiện tượng trên là, thứ nhất, trong xu thế mở rộng hoạt động và phát triển của các thành phần kinh tế cùng với cơ chế tự chủ và xã hội hoá các hoạt động sự nghiệp dịch vụ công đã tạo điều kiện để viên chức trong các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước có nhiều cơ hội lựa chọn đơn vị công tác. Việc lao động có sự dịch chuyển "ra, vào" giữa các đơn vị sự nghiệp của Nhà nuớc và đơn vị sự nghiệp ngoài công lập sẽ trở thành thường xuyên, theo quan hệ cung - cầu lao động giữa khu vực công và khu vực tư.

Thứ hai, sự phát triển của nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải tạo lập và phát triển đồng bộ các loại thị trường, trong đó có thị trường lao động. Để thị trường lao động phát triển đòi hỏi phải có sự liên thông giữa thành thị và nông thôn, khu vực công và khu vực tư, trong nước và ngoài nước. Thực tế những năm đổi mới, ngày càng phát triển các dòng dịch chuyển lao động (nông thôn ra thành thị, xuất khẩu lao động, khu vực công sang khu vực tư và ngược lại). Vì vậy, sự dịch chuyển lao động thường xuyên giữa khu vực công sang khu vực tư trong thời gian vừa qua ở nước ta và ở nhiều nước là sự vận hành tất yếu của quy luật cung - cầu lao động trên thị trường lao động.

Nguyên nhân chủ quan của hiện tượng này ở chỗ, một là, môi trường, điều kiện làm việc của một số cơ quan, đơn vị của Nhà nước chưa thật sự tạo cơ hội để cán bộ, công chức, viên chức phát huy tốt năng lực. Hai là, tiền lương và thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức chưa cao bằng tiền lương thu nhập của người lao động cùng trình độ làm việc trong doanh nghiệp nhà nước, khu vực tư nhân, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Ba là, các cơ quan, đơn vị chưa thực sự quan tâm nhiều đến công tác xây dựng đội ngũ chuyên gia giỏi của từng lĩnh vực. Bốn là, công tác giáo dục chính trị tư tưởng nâng cao nhận thức cho cán bộ, công chức, viên chức chưa thực sự tạo được tư tưởng yên tâm làm việc trong khu vực nhà nước.

Từ góc độ quản lý và sử dụng cán bộ, công chức cần nhận thức đúng vấn đề thôi việc để có những giải pháp, chính sách phù hợp với cán bộ, công chức, đặc biệt là những người có năng lực, trình độ và kinh nghiệm để họ yên tâm làm việc trong các cơ quan, đơn vị của nhà nước. Vấn đề này cũng đã được thể hiện trong Dự thảo Luật Cán bộ, công chức.

Phóng viên: Bộ trưởng có thể nói rõ thêm những đặc thù của cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn và những điểm khác về căn bản giữa cán bộ, công chức nói chung và cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn?

Bộ trưởng Trần Văn Tuấn: Ngoài đặc thù cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn, đặc biệt là xã cho thấy hầu hết đội ngũ này đều là người địa phương, sinh sống tại địa phương, có quan hệ dòng tộc và gắn bó với dân làng thì cán bộ, công chức cấp xã còn có những đặc thù khác và khi đề cập tới những đặc thù này cũng chính là nói đến sự khác nhau giữa cán bộ, công chức cấp xã so với cán bộ, công chức nói chung, cụ thể là:

- Tính ổn định, liên tục công tác của cán bộ, công chức cấp xã không giống như cán bộ, công chức từ cấp huyện trở lên đến trung ương. Cán bộ chủ chốt được bầu cử ở xã như tổ chức Đảng, Mặt trận tổ quốc, đoàn thể, Hội đồng nhân dân hết nhiệm kỳ nếu không trúng cử thì việc sắp xếp, bố trí công tác khác về cơ bản không giống như cán bộ, công chức khác. Cũng chính vì thế khi được bầu giữ chức danh chủ chốt theo nhiệm kỳ số cán bộ này được xác định là cán bộ chuyên trách và được hưởng chế độ như công chức, khi hết nhiệm kỳ thôi không đảm đương chức danh chủ chốt, số cán bộ đã qua đào tạo, có chuyên môn nghiệp vụ, uy tín và kinh nghiệm được bố trí vào các vị trí khác, được chuyển hưởng theo chế độ công chức; số còn lại, do không đủ tiêu chuẩn thì đương nhiên thôi không là cán bộ chuyên trách và không còn được hưởng chế độ như công chức nữa.

- Qua tổng kết thực tiễn hoạt động của chính quyền cơ sở đó cho thấy, những công việc thuộc nội dung quản lý nhà nước của ủy ban nhân dân cấp xã đòi hỏi phải được thực hiện thường xuyên, chuyên nghiệp và do đó trong đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã có một bộ phận cần phải chuyên sâu, chuyên nghiệp có trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Đó là công chức cấp xã.

- Bên cạnh 2 đối tượng nêu trên còn đối tượng cán bộ cơ sở được xác định là cán bộ không chuyên trách chiếm số đông và được hưởng phụ cấp theo chức danh không chuyên trách.

Từ những đặc thù của cán bộ, công chức cấp xã như đã nêu đòi hỏi về mặt đào tạo, định hướng tạo nguồn và chế độ, chính sách phải phù hợp nhằm tạo điều kiện xây dựng cho được một đội ngũ cán bộ công chức cơ sở có đủ năng lực, phẩm chất và yên tâm đáp ứng yêu cầu công việc.

Phóng viên: Thưa Bộ trưởng, hình ảnh người cán bộ, công chức xã, phường sẽ gần như là hiện thân của người cán bộ công quyền nói chung trong mắt người dân. Người dân tiếp xúc với chính quyền đầu tiên và trực tiếp nhất là tiếp xúc với công chức xã, phường. Công việc của công chức xã, phường rất phức tạp, phải trực tiếp nghe và giải quyết nhiều vấn đề liên quan đến cuộc sống thường nhật của người dân thuộc các lĩnh vực khác nhau. Vậy theo Bộ trưởng, tiêu chuẩn của một công chức xã, phường là gì?

Bộ trưởng Trần Văn Tuấn: Ở cấp xã hiện nay có bố trí 7 chức danh công chức cấp xã: Trưởng công an, Chỉ huy trưởng quân sự, Văn phòng - Thống kê, Địa chính – Xây dựng, Đô thị và môi trường hoặc địa chính – nông nghiệp – xây dựng và môi trường (đối với xã), Tài chính - Kế toán, Tư pháp - Hộ tịch, Văn hoá – Xã hội. Chúng ta đã có các quy định cụ thể về tiêu chuẩn công chức của 7 chức danh này trên các mặt như lý luận chính trị, đào tạo chuyên môn, quản lý nhà nước… Việc đáp ứng tiêu chuẩn công chức hành chính cấp xã đang là một thách thức lớn. Chỉ lấy một ví dụ là khoảng 38% công chức hành chính cấp xã chưa qua đào tạo chuyên môn đó cho thấy sự bất cập về năng lực của công chức hành chính xã.

Tiêu chuẩn của cán bộ, công chức cấp xã phải đáp ứng các quy định của Đảng và Nhà nước. Cụ thể, tiêu chuẩn chung đối với cán bộ, công chức cấp xã, phường là phải có tinh thần yêu nước, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; có năng lực tổ chức vận động nhân dân thực hiện có kết quả đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của nhà nước ở địa phương. Phải cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư, công tâm, thạo việc, tận tụy với dân; không tham nhũng và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng; có ý thức kỷ luật trong công tác. Trung thực, không cơ hội, gắn bó mật thiết với dân, được nhân dân tín nhiệm. Bên cạnh đó, để nâng cao chất lượng, đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã còn phải có trình độ về lý luận chính trị, quan điểm đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, có trình độ học vẫn chuyên môn, đủ năng lực và sức khoẻ để làm việc có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, chức trách được giao.

Phóng viên: Trong Kỳ họp Quốc hội vừa qua, nhiều đại biểu Quốc hội cho rằng, không nên tách cán bộ cấp xã thành một đối tượng riêng mà cần tạo sự liên thông một mạch từ cán bộ cơ sở (xã, phường) đến cấp huyện, tỉnh, trung ương để hiệu lực quản lý nhà nước được mạnh hơn? Xin Bộ trưởng cho biết ý kiến về vấn đề này.

Bộ trưởng Trần Văn Tuấn: Đây là vấn đề phải được nghiên cứu, cân nhắc và phải căn cứ vào đặc thù của đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở. Chính vì vậy Nghị quyết trung ương 6, Khoá X đã đưa ra yêu cầu là phải xây dựng hệ thống chính sách phù hợp và đồng bộ đối với cán bộ, công chức cơ sở xã, phường, thị trấn theo hướng: Một số chức danh cán bộ chuyên trách ở xã, phường, thị trấn cần và có đủ điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định của Chính phủ thì được xem xét chuyển thành công chức nhà nước để tạo sự liên thông trong đội ngũ cán bộ, công chức ở các cấp. Vấn đề này đã được thể hiện rất rõ tại Chương Cán bộ, công chức cấp xã của Luật Cán bộ, công chức vừa được Quốc hội thông qua ngày 13-11-2008.

Do vậy, việc liên thông cán bộ, công chức cơ sở và cán bộ, công chức nói chung là việc cần thiết nhưng phải có bước đi với các quy định phù hợp, bảo đảm sát với thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã hiện nay, theo hướng vừa phát huy được năng lực của đội ngũ cán bộ hiện có vừa đào tạo, bồi dưỡng, bổ sung những cán bộ, công chức mới, có đủ năng lực, trình độ, nhiệt tình và trách nhiệm cho bộ máy chính quyển cơ sở.

Phóng viên: Thưa Bộ trưởng, có một thực tế là số cán bộ giữ chức vụ quan trọng ở vùng sâu, vùng xa tuy có kinh nghiệm, nhưng trình độ thường lại bị hạn chế về nhiều mặt do không có điều kiện thuận lợi để được đào tạo nâng cao trình độ. Làm thế nào để khắc phục tình trạng đó?

Bộ trưởng Trần Văn Tuấn: Đây là vấn đề lớn, lâu dài, phải có chiến lược, kế hoạch, có quy hoạch cán bộ chủ chốt ở những nơi còn có nhiều khó khăn, kinh tế chậm phát triển. Việc này không chỉ cấp trung ương mà cấp tỉnh, cấp huyện kể cả cấp cơ sở cũng phải có ý thức trách nhiệm, cộng đồng, cùng làm. Cách làm hiện nay được đánh giá hiệu quả nhất đó là các tỉnh miền núi, vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số, cần tăng cường đầu tư, nâng cao chất lượng đào tạo của các trường phổ thông dân tộc nội trú, trường thiếu sinh quân; phối hợp với các quân khu lựa chọn những thanh niên người dân tộc thiểu số đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự đưa đi đào tạo nâng cao trình độ học vấn, lý luận chính trị, kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ để tạo nguồn cán bộ cho cơ sở.

Phóng viên: Bộ trưởng có thể cho biết một số nét mới trong Luật Cán bộ, công chức đã được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ tư ngày 13-11-2008 vừa qua?

Bộ trưởng Trần Văn Tuấn: Luật Cán bộ, công chức đã được Quốc hội thông qua ngày 13-11-2008, trong đó đã quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn và chức trách, nhiệm vụ của cán bộ, công chức trong thực thi công vụ. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để Chính phủ tiếp tục xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, công vụ trong giai đoạn mới.

Đại biểu Quốc hội tỉnh Lâm Đồng Đặng Thị Nga phát biểu ý kiến

Có một số nét mới trong Luật Cán bộ, công chức vừa được Quốc hội thảo luận thông qua tại kỳ họp này là:

Thứ nhất là, Luật quy định rõ hơn đối tượng cán bộ, công chức và cán bộ, công chức cấp xã. Theo đó, cán bộ, công chức sẽ bao gồm:

- Những người được bầu cử, phê chuẩn giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.

- Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội.

- Những người được bầu cử để giữ chức vụ theo nhiệm kỳ hoặc được tuyển dụng để giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã.

Như vậy, so với Pháp lệnh Cán bộ, công chức thì:

- Đối tượng là viên chức làm việc tại các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước mà không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý sẽ không thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật Cán bộ, công chức. Tuy nhiên, để bảo đảm chế độ, chính sách và quyền lợi đối với đội ngũ viên chức trong các đơn vị sự nghiệp công lập, trước mắt, Quốc hội đã cho phép tiếp tục áp dụng các quy định của pháp luật hiện hành cho đến khi ban hành Luật viên chức.

- Quy định cụ thể và rõ ràng hơn về cán bộ, công chức cấp xã. Lụật đã dành một chương để quy định cho đối tượng này; đồng thời giao cho Chính phủ quy định cụ thể chế độ chính sách đối với cán bộ, công chức cấp xã.

Thứ hai là, Luật Cán bộ, công chức đã quy định rõ các nguyên tắc quản lý cán bộ, công chức. Trong đó có đưa nội dung: kết hợp giữa tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm và chỉ tiêu biên chế là một nguyên tắc nhằm đổi mới việc tuyển dụng, nâng ngạch và bố trí cán bộ, công chức vào các vị trí trong bộ máy nhà nước.

Trong Luật cũng quy định: Nhà nước có chính sách để phát hiện, thu hút, bồi dưỡng, trọng dụng và đãi ngộ xứng đáng đối với người có tài năng để làm cơ sở xây dựng các chính sách, chế độ đãi ngộ đối với người có tài năng, thu hút người có tài vào bộ máy nhà nước.

Thứ ba là, làm rõ các nghĩa vụ, quyền và trách nhiệm của cán bộ, công chức. Đặc biệt, các quy định của Luật đó làm rõ các quy định về đạo đức, văn hóa giao tiếp của cán bộ, công chức, về những việc cán bộ, công chức không được làm, nhằm gắn kết và tạo sự đồng bộ giữa Luật Cán bộ, công chức với Luật Phòng chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.

Để hạn chế các tiêu cực trong hoạt động công vụ, ngoài việc tăng cường chất lượng, đổi mới phương pháp tuyển dụng, tăng cường bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, giáo dục đạo đức công vụ, xây dựng quy tắc ứng xử trong thực thi công vụ, Luật Cán bộ, công chức cũng đề cao trách nhiệm của người đứng đầu và trách nhiệm của cán bộ, công chức trong thi hành công vụ, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra.

Phóng viên: Cảm ơn Bộ trưởng !