KỲ 1

TCCS - Các mối quan hệ lớn được Đảng ta xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Văn kiện Đại hội XII chứa đựng những vấn đề có tính quy luật của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phản ánh sự sáng tạo lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, là cơ sở cho nhận diện các mâu thuẫn, thách thức phải hóa giải khi hoạch định đường lối và phương pháp cách mạng. Công cuộc đổi mới những năm tới đòi hỏi phải nắm vững và xử lý tốt các mối quan hệ lớn đã được xác định, đồng thời cần tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận để bổ sung các mối quan hệ mới, trong đó có mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội.

Sự phát triển nhận thức về các mối quan hệ lớn

Trên cơ sở tổng kết thực tiễn - lý luận 25 năm đổi mới (1986 - 2011), 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991 - 2011), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) là sự kết tinh trí tuệ, bản lĩnh cách mạng và tầm nhìn của Đảng, là ngọn cờ lý luận dẫn dắt dân tộc ta bước vào thế kỷ XXI. Để thực hiện các phương hướng lớn của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Cương lĩnh năm 2011 lần đầu tiên xác định phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn, gồm: Quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.

Tám mối quan hệ lớn là những vấn đề hệ trọng, phản ánh và hàm chứa những vấn đề có tính quy luật về chủ nghĩa xã hội và con đường lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Việc nhận diện tám mối quan hệ lớn, tồn tại khách quan trong chiều sâu phức hợp sự vận động, biến đổi không ngừng, cùng các mối liên hệ, tác động đa dạng, đa chiều giữa các yếu tố, bộ phận cấu thành, các mặt đối lập vốn có trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, chưa có tiền lệ trong lịch sử, là một bước tiến mới, quan trọng về lý luận chủ nghĩa xã hội và con đường lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Từ nhận diện, Đảng ta nhận thức rõ, nắm vững bản chất để xử lý tốt các mối quan hệ lớn và vận dụng vào chỉ đạo, tổ chức thực tiễn công cuộc đổi mới ở nước ta trong từng giai đoạn phù hợp với quy luật phát triển, với xu thế của thời đại và thế giới đương đại.

C. Mác, Ph. Ăng-ghen và V.I. Lê-nin kiên quyết bác bỏ quan điểm cho rằng chủ nghĩa xã hội là nhất thành bất biến. “Không ngừng đổi mới là bản chất của chủ nghĩa xã hội, là quy luật tồn tại, phát triển, đồng thời là nguyên lý tự bảo vệ của chủ nghĩa xã hội”(1). Nằm trong quy luật chung, các mối quan hệ lớn cũng luôn vận động, biến đổi không ngừng. Mỗi thời kỳ lịch sử, mỗi giai đoạn phát triển, các mối quan hệ lớn đều có sự biến đổi trong tự thân và biểu hiện ra bên ngoài mối liên hệ với các mối quan hệ lớn khác, bằng sự thay thế, mất đi hay bổ sung những đặc tính, trạng thái, thành tố khác nhau.

Nhận thức và giải quyết các mối quan hệ lớn là một quá trình liên tục và chính thực tiễn của công cuộc đổi mới đa dạng, phong phú ở nước ta là thước đo hiệu quả của công việc nêu trên, đồng thời là yếu tố quyết định sự biến đổi của các mối quan hệ lớn, cung cấp chất liệu sinh động cho công tác nghiên cứu lý luận của Đảng ta. Vận dụng những quan điểm trên, Đại hội XII của Đảng điều chỉnh mối quan hệ “giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa” thành quan hệ “giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, từ tám mối quan hệ lớn phát triển thành chín mối quan hệ lớn khi bổ sung mối quan hệ “giữa Nhà nước và thị trường”, sau đó mối quan hệ này được Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa XII nhận diện đầy đủ hơn (bổ sung thêm thành tố thứ ba là "xã hội") thành mối quan hệ “giữa Nhà nước, thị trường và xã hội”.

Với việc nhất quán trong xem xét và giải quyết các mối quan hệ lớn dựa trên quan điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và từ đòi hỏi của thực tiễn, mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội được kỳ vọng là mối quan hệ thứ mười cấu thành trong tổng thể hệ thống các mối quan hệ lớn sẽ được Văn kiện Đại hội XIII của Đảng lần đầu tiên bổ sung. Không phải đến hiện nay Đảng ta mới đặt ra việc nhận thức và giải quyết mối quan hệ này, mà ngay từ tháng 3-1989, khi Việt Nam chịu tác động tiêu cực bởi diễn biến phức tạp tình hình các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và Liên Xô, Hội nghị Trung ương 6 khóa VI đã đưa ra một trong năm nguyên tắc chỉ đạo công cuộc đổi mới là: “Dân chủ phải đi đôi với tập trung, với kỷ luật, pháp luật, với ý thức trách nhiệm công dân. Dân chủ phải có lãnh đạo, lãnh đạo để phát huy dân chủ đúng hướng; mặt khác phải lãnh đạo bằng phương pháp dân chủ trên cơ sở phát huy dân chủ. Dân chủ với nhân dân nhưng phải nghiêm trị những kẻ phá hoại thành quả cách mạng, an ninh trật tự và an toàn xã hội”(2). Nguyên tắc này có ý nghĩa cực kỳ quan trọng bảo đảm vừa phát huy dân chủ, vừa giữ vững kỷ cương, pháp luật, chống dân chủ quá trớn, vô chính phủ, nhất là vào những thời điểm gặp nhiều thử thách gay go khi mô hình chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô khủng hoảng rồi sụp đổ.

Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ chính trị do Đảng Cộng sản lãnh đạo, với nội hàm quan trọng nhất là tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; nhân dân là chủ thể và là người thực hiện quyền lực chung của xã hội (Trong ảnh: Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng dự Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc với nhân dân thôn Thượng Điện, xã Vinh Quang, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng, ngày 15-11-2017)_Nguồn: TTXVN

Trong thông điệp đầu năm 2020, trước thềm đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội XIII của Đảng, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng lưu ý, báo cáo chính trị của đại hội đảng bộ các cấp, của Đại hội XIII của Đảng cần đặc biệt chú trọng giải quyết tốt các mối quan hệ lớn, trong đó có mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội (3)... Dự thảo Báo cáo chính trị tại Đại hội XIII của Đảng cũng lần đầu tiên đưa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội là một mối quan hệ lớn cần nắm vững và xử lý tốt trong định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030 và các giai đoạn tiếp theo.

Sự cần thiết phải bổ sung mối quan hệ giữa thực hành dân chủ với tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội thành một mối quan hệ lớn để chỉ đạo thực tiễn cách mạng giai đoạn mới

Việc bổ sung mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội cấu thành trong tổng thể hệ thống các mối quan hệ lớn là yêu cầu cấp thiết hiện nay, cả về lý luận và thực tiễn.

Một là, phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nấc thang cao hơn phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và xu thế tiến bộ của thời đại là một yêu cầu tất yếu.

Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ chính trị do Đảng Cộng sản lãnh đạo, với nội hàm quan trọng nhất là tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; nhân dân là chủ thể và là người thực hiện quyền lực chung của xã hội. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là chế độ dân chủ cao nhất - dân chủ theo nghĩa đầy đủ nhất của phạm trù này. Tuy nhiên, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đầy đủ ở nước ta là một quá trình lâu dài và trên lộ trình “phát huy dân chủ đến cùng” đó, cần “tìm kiếm” những hình thức dân chủ phù hợp, hoàn thiện từng bước, cùng các cơ chế, thiết chế để hiện thực hóa nó trong thực tiễn, như V.I. Lê-nin từng phân tích: “Phát triển dân chủ đến cùng, tìm ra những hình thức của sự phát triển ấy, đem thí nghiệm những hình thức ấy trong thực tiễn”(4). Đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng của cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Cũng như các thành tố khác của thượng tầng kiến trúc của xã hội, dân chủ mang nhân lõi kinh tế và do tồn tại xã hội quyết định. Trình độ của phương thức sản xuất khác nhau tất yếu dẫn tới sự khác nhau về trình độ dân chủ. Do đó, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa cũng có các nấc thang phát triển khác nhau và để phát huy dân chủ đúng hướng, hiệu quả thì quá trình đó không thoát ly, tách rời thực tiễn, mà phải có bước đi vững chắc phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể của đất nước. Không thể tùy tiện áp đặt hình thức dân chủ của một quốc gia này cho quốc gia khác với những điều kiện khác nhau về tập quán chính trị, bản sắc văn hóa, trình độ kinh tế.

Trước đổi mới, Đảng ta coi làm chủ tập thể là bản chất của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, gắn với xóa bỏ các hình thức sở hữu tư nhân, xác lập duy nhất chế độ sở hữu toàn dân và tập thể về tư liệu sản xuất. Mặc dù đây được xem là hình thức dân chủ phát triển ở trình độ cao, nhưng không phù hợp khi lực lượng sản xuất còn thấp kém. Cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp tất yếu sản sinh dân chủ hình thức. Dân chủ không thực chất khiến cho chế độ làm chủ tập thể không có cơ chế bảo đảm, thậm chí bị biến dạng thành “vô chủ”, quan liêu nặng nề, triệt tiêu các động lực phát triển, đẩy nền kinh tế rơi vào trì trệ, khủng hoảng. Đó là bài học sâu sắc và đắt giá về việc lựa chọn hình thức dân chủ không phù hợp với trình độ phát triển kinh tế, với điều kiện hiện thực. Tuy nhiên, ở chiều ngược lại, khi trình độ phát triển của sản xuất đã có những bước chuyển mới về chất, nhưng trình độ dân chủ kinh tế, dân chủ chính trị - xã hội vẫn ở mức thấp hơn sẽ trở thành lực cản trói buộc, kìm hãm sự phát triển.

Trước đổi mới, Đảng ta coi làm chủ tập thể là bản chất của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, gắn với xóa bỏ các hình thức sở hữu tư nhân, xác lập duy nhất chế độ sở hữu toàn dân và tập thể về tư liệu sản xuất (Ảnh phải: Dùng máy tuốt lúa trên sân phơi của Hợp tác xã thôn Thượng, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc trong thu hoạch vụ lúa chiêm năm 1966; Ảnh trái: Sản xuất xe đạp những năm sau giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước) _Ảnh: Tư liệu

Từ khi đổi mới, Đảng ta nhận thức ngày càng sâu sắc hơn tầm quan trọng và vai trò của phát huy dân chủ, khẳng định bản chất của chế độ chính trị do Đảng Cộng sản lãnh đạo chính là nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Dân chủ là một hình thức tổ chức xã hội của nền sản xuất vật chất tương ứng, vì vậy, khi công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế ở nước ta càng được đẩy mạnh, thì yêu cầu phát huy dân chủ càng trở nên bức thiết. Sau gần 35 năm đổi mới, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội - có những bước phát triển vượt bậc cả về mặt lượng và mặt chất; tương thích với nó là nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng hoàn thiện với việc nâng cao chất lượng chế độ dân chủ đại diện và mở rộng dần các hình thức dân chủ trực tiếp. Dân chủ phản ánh một bước chuyển mạnh mẽ từ thể chế dựa trên tuân theo mệnh lệnh hành chính sang thể chế hướng về hợp tác, đồng thuận đầy trách nhiệm, bảo đảm phát huy quyền làm chủ của nhân dân, nhà nước tổ chức và hoạt động dựa trên nguyên tắc pháp quyền. Mỗi chặng đường trong gần 35 năm đổi mới, chúng ta đều cố gắng “tìm tòi” các hình thức dân chủ phù hợp.

Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, sự vận động của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa vẫn có độ trễ và khoảng cách so với sự phát triển đi trước, năng động của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (năm 2020, quy mô nền kinh tế nước ta ước tăng gấp 9 lần so với năm 1986 khi bắt đầu đổi mới). Mặc dù điều này phản ánh và hoàn toàn nằm trong tính quy luật của việc ý thức xã hội thường lạc hậu tương đối hơn so với tồn tại xã hội; đổi mới chính trị đi sau những chuyển động kinh tế, song nếu khoảng cách đó ngày càng bị đẩy ra xa thêm, sẽ cản trở sự phát triển, vi phạm quy luật khách quan, xa rời mục tiêu và bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa. Dân chủ chính trị, dân chủ xã hội có một cơ sở quan trọng bắt nguồn từ dân chủ kinh tế. Các quyền tự do cơ bản của con người trong xã hội, tự do về chính trị chỉ mang giá trị thực chất khi chúng được nảy nở và phát triển từ kết quả tất yếu của quá trình tự do hóa kinh tế. Trình độ phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay gắn với quá trình tự do hóa kinh tế ngày càng rộng mở đang thôi thúc và đòi hỏi mạnh mẽ quá trình dân chủ hóa trong đời sống chính trị - xã hội ở nước ta phải được đẩy tới một nấc thang cao hơn. Điều đó càng trở nên bức thiết khi trình độ dân trí của người dân ngày càng được nâng lên, các nhu cầu phổ thông được thỏa mãn thì xuất hiện các nhu cầu bậc cao ngày càng lớn, trong đó có nhu cầu tự do, dân chủ.

Nhìn rộng hơn, dân chủ hóa đang là một xu thế của thời đại. Sự hội tụ cùng lúc của nhiều xu hướng phát triển lớn hiện nay: Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tạo ra bước nhảy vọt của lực lượng sản xuất; kỷ nguyên số và các phương tiện truyền thông mới với đặc điểm về tính siêu kết nối xã hội mang đến những phương thức và không gian tương tác mới giữa các thiết chế chính trị, các cá nhân trong xã hội; xã hội mở thúc đẩy giao thoa tư tưởng, các giá trị văn hóa, trong đó có văn hóa dân chủ với tư cách là một giá trị mang tính phổ quát của nhân loại..., khiến cho dân chủ trở thành một xu thế của thời đại, vượt qua những hiện tượng, khuynh hướng, trào lưu phi dân chủ nhất thời, cực đoan, bản vị, phản ánh tiến trình đi lên của lịch sử nhân loại. Sự phát triển của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta cũng không nằm ngoài dòng chảy chủ đạo đó của thời đại, gắn chặt quá trình không ngừng mở rộng dân chủ với tiếp thu có chọn lọc các giá trị tiến bộ của nhân loại về dân chủ để xây dựng một nền dân chủ khác về bản chất và phát triển cao hơn nền dân chủ tư sản.

Thứ hai, giữa lý luận dân chủ và thực hành dân chủ còn khoảng cách và thiếu tương hợp.

Lý luận của Đảng ta về dân chủ, dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng có bước phát triển với sự nhận thức đầy đủ và sâu sắc hơn về bản chất, hình thức, tính chất, vị trí, vai trò, tác dụng... của dân chủ xã hội chủ nghĩa; xem xét cả trên chiều cạnh dân chủ với tư cách là chế độ chính trị gắn với giai cấp và nhà nước cụ thể, với dân chủ là giá trị phổ quát của nhân loại... Lý luận dân chủ và chế độ dân chủ ngày càng sáng rõ tạo tiền đề cho thực hành dân chủ ngày càng rộng rãi và thực chất trong thực tiễn ở nước ta, thông qua cả phương thức ủy quyền gián tiếp và dân chủ trực tiếp.

Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, bước chuyển từ nhận thức dân chủ đến thực hành dân chủ ở nước ta cũng còn độ trễ, thậm chí có sự thiếu tương hợp giữa ý thức dân chủ và thực hành dân chủ, khiến cho việc hiện thực hóa nguyên tắc quyền lực thuộc về nhân dân, thực hành quyền làm chủ của nhân dân trong thực tiễn còn bộc lộ không ít bất cập, điển hình là tình trạng “còn xem nhẹ việc thực hành dân chủ”(5); có lúc, có nơi vẫn xảy ra hiện tượng mất dân chủ hay dân chủ hình thức và ở chiều ngược lại là dân chủ quá trớn, cực đoan, vô chính phủ; chưa coi trọng đúng mức việc thực hành dân chủ trực tiếp; thiếu cơ chế giám sát thực chất và hiệu quả của người dân, tổ chức xã hội đối với các cơ quan nhà nước khi thực thi quyền lực được nhân dân ủy thác...

Độ vênh giữa nhận thức lý luận dân chủ và thực hành dân chủ có nguyên nhân sâu xa do trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta về mọi phương diện vẫn “còn mang những dấu vết của xã hội cũ mà nó đã lọt lòng ra”(6). Đây là đặc điểm khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhất là đối với những nước tiểu nông, lạc hậu. Đó là xã hội thoát thai từ trong lòng chế độ phong kiến, với những di tồn lịch sử giam hãm con người vào những lễ giáo khắt khe, trật tự ngôi thứ, tôn ty, đẳng cấp nghiệt ngã. Xã hội đó đương nhiên xa lạ với dân chủ và tự do của quảng đại quần chúng. Suốt tiến trình lịch sử sau đó, nhân dân ta ít có cơ hội cọ xát, trải nghiệm với đời sống dân chủ khi phải sống dưới chế độ thực dân chuyên chế về chính trị, độc quyền về kinh tế, ngu dân về văn hóa. Rồi phải trải qua chiến tranh lâu dài, áp dụng máy móc cơ chế kế hoạch hóa tập trung..., người dân chưa có điều kiện thực hành dân chủ đầy đủ. Đặc điểm trên ăn sâu trong nếp nghĩ, nếp sống, khiến xã hội nước ta thiếu truyền thống dân chủ và những di tồn lịch sử còn ảnh hưởng lâu dài, làm cho một bộ phận cán bộ, công chức hiện nay xem nhẹ vai trò dân chủ, quản lý chủ yếu theo mệnh lệnh hành chính, chuyên quyền, hành xử mang nặng cơ chế ban phát, xin - cho, quan liêu, sách nhiễu; trong khi không ít người dân chưa có ý thức và năng lực thực hành dân chủ, khi các mâu thuẫn hay xung đột xã hội xảy ra dễ rơi vào cực đoan này hay cực đoan khác. “Việc thực hiện dân chủ chưa trở thành một giá trị xã hội phổ biến”(7). Văn hóa dân chủ chưa định hình rõ nét trong đời sống xã hội của nước ta.

Mức độ bất tương hợp giữa lý luận - thực hành dân chủ phần nào là tấm gương phản chiếu trình độ phát triển của một xã hội. Như một quá trình lịch sử - tự nhiên, khi xã hội càng phát triển, thì sự không phù hợp giữa luật pháp văn bản với việc thực hiện các quyền con người, quyền công dân trong thực tiễn sẽ càng giảm bớt và ngược lại. Tuy nhiên, ngoài yếu tố khách quan do lịch sử, truyền thống, văn hóa, thì nhân tố chủ quan và các điều kiện bảo đảm cho thực hành dân chủ có vai trò quyết định làm thu hẹp hay giãn cách xa thêm giữa lý luận và thực hành dân chủ, nhất là nhân tố sự tiến bộ của lực lượng lãnh đạo, quản lý xã hội; hành lang pháp lý để dân chủ được bảo đảm và có điều kiện rộng đường thực thi trong thực tiễn...

Các lực lượng kinh tế và thị trường vừa là nhân tố nuôi dưỡng tiền đề vật chất cho sự ra đời của dân chủ, nhưng đồng thời chính nó lại góp phần làm gia tăng quá trình tha hóa quyền lực nhà nước, do ảnh hưởng tiêu cực của các “nhóm lợi ích” gây lũng đoạn thị trường, “bẻ lái” chính sách, hạn chế tự do cạnh tranh, đe dọa đến dân chủ. Mặt khác, quyền dân chủ sẽ chỉ dừng lại ở lý thuyết và trên danh nghĩa nếu không có những thiết chế, thể chế bảo đảm cho thực hành dân chủ. Nhiều chủ trương đúng đắn về dân chủ, nhưng do chưa hoặc chậm được thể chế hóa, nên thực hành dân chủ trong xã hội hạn chế, quyền làm chủ của nhân dân chưa được tôn trọng và phát huy đầy đủ. Chính vì vậy, việc chế định hóa các quyền và tự do của công dân trong Hiến pháp và pháp luật cùng với việc hoàn thiện các thiết chế và cơ chế hữu hiệu để thực thi chúng trong thực tiễn được xem là tiền đề quan trọng bậc nhất của nền dân chủ hiện đại.

Thứ ba, thượng tôn Hiến pháp và pháp luật chưa ăn sâu trong đời sống chính trị - xã hội.

Dân chủ gắn bó chặt chẽ và tự nhiên với pháp luật, như là môi sinh và điều kiện không thể thiếu để bảo đảm, bảo vệ dân chủ được nảy sinh, nuôi dưỡng và phát triển. Sẽ là sai lầm khi cho rằng, dân chủ đối lập với pháp luật; cũng không có thứ dân chủ tuyệt đối phi chính trị hay vượt ra ngoài khuôn khổ pháp luật. Tất nhiên, hệ thống pháp luật ở đây phải là công bằng, tiến bộ, nhân văn; không phải thứ pháp luật chỉ thuần túy tuân theo ý chí và bảo vệ cho thiểu số lợi ích của giai cấp thống trị coi pháp luật là công cụ để cai trị, trấn áp quảng đại quần chúng.

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được xây dựng trên nền tảng dân chủ và tinh thần thượng tôn pháp luật. Hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam là pháp luật của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Các quy định của pháp luật xuất phát từ ý chí, nguyện vọng của nhân dân và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân. Nhân dân không chỉ là người thừa hành pháp luật, mà còn là chủ thể xây dựng và bảo vệ pháp luật. Hơn nữa, đây là hệ thống pháp luật mang bản chất tiến bộ và có tính xã hội, tính nhân dân sâu sắc (ngoài mang bản chất chung về tính giai cấp như các kiểu pháp luật khác), bởi nó thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, điều mà hệ thống pháp luật tư bản chủ nghĩa không có được - nơi luôn tồn tại sự đối kháng lợi ích không thể dung hòa giữa thiểu số giai cấp tư sản cầm quyền với lợi ích của nhân dân lao động.

Chiến sĩ Công an nhân dân tỉnh Lai Châu tuyên truyền chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước đến đồng bào các dân tộc thiểu số _Nguồn:laichau.gov.vn

Thượng tôn pháp luật là điều kiện tiên quyết để dân chủ được thực hành rộng rãi và thực chất. Sau gần 35 năm đổi mới, hệ thống pháp luật nước ta thể hiện tư duy lập pháp dựa trên nguyên tắc pháp quyền, mang đầy đủ hơn bản chất dân chủ, tiến bộ, ngày càng hoàn thiện cả về nội dung, hình thức, kỹ thuật lập pháp, theo hướng thống nhất, đồng bộ, khả thi, toàn diện và minh bạch, đáp ứng được vai trò vừa là công cụ quản lý nhà nước và xã hội, vừa là công cụ để phát huy quyền làm chủ, cũng như kiểm soát quyền lực nhà nước của nhân dân. Pháp luật xã hội chủ nghĩa bảo đảm cho Đảng cầm quyền bằng pháp luật, đồng thời kiểm nghiệm năng lực lãnh đạo của Đảng bằng chất lượng pháp luật và hiệu lực thi hành luật. Hệ thống pháp luật khá đầy đủ và hoàn chỉnh là cơ sở và điều kiện tiên quyết để pháp chế xã hội chủ nghĩa ngày càng được tăng cường, đòi hỏi mọi tổ chức, cá nhân trong xã hội, từ cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội đến mọi công dân, đều phải tôn trọng và thực hiện các nghĩa vụ pháp lý và phải chịu trách nhiệm bắt buộc khi vi phạm pháp luật...

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, ưu điểm, pháp chế xã hội chủ nghĩa ở nước ta cũng còn nhiều hạn chế, điển hình là hệ thống pháp luật còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, thiếu ổn định, chi phí tuân thủ còn cao. Chất lượng của một số đạo luật và văn bản dưới luật chưa cao, còn chồng chéo, mâu thuẫn, chưa phù hợp với thực tiễn; kỷ luật, kỷ cương trong xây dựng và ban hành văn bản pháp luật chưa nghiêm. Tình trạng luật khung, luật ống, luật phải chờ văn bản hướng dẫn thi hành mới phát sinh hiệu lực thực tế vẫn còn. Tình trạng “nợ” văn bản hướng dẫn thi hành tuy có cải thiện nhưng chưa được khắc phục triệt để. Thêm vào đó, vấn đề thực thi pháp luật đang là một tồn tại rất lớn. Chúng ta chưa có sự nhận thức một cách đầy đủ về việc xây dựng các cơ chế bảo đảm thực thi pháp luật một cách hiệu quả. Kỷ cương, kỷ luật trong thi hành công vụ và trong đời sống xã hội có lúc, có nơi còn lỏng lẻo, dẫn đến tình trạng khinh nhờn pháp luật. Thượng tôn pháp luật và bảo đảm tính tối thượng của Hiến pháp chưa trở thành thói quen thường trực của đội ngũ cán bộ, công chức và của các tổ chức, cá nhân trong xã hội, chưa ăn sâu vào đời sống chính trị - xã hội. Vụ việc tại xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức, Hà Nội (tháng 1-2020) là một điển hình của việc coi thường và vi phạm pháp luật, gây hậu quả nghiêm trọng, đồng thời cũng cho thấy những hạn chế của khâu tổ chức thực hiện pháp luật và đấu tranh với vi phạm pháp luật, khiến hiệu lực, hiệu quả bị suy giảm... Đặc biệt, nhân vụ việc này, các phần tử cơ hội chính trị và các thế lực thù địch trong và ngoài nước kích động cái gọi là “Bất tuân dân sự” nhằm chuyển hóa những bức xúc, mâu thuẫn, xung đột dân sự thông thường thành các hành vi chống phá, đối đầu với chính quyền. Đây là âm mưu hết sức thâm độc nhằm cổ xúy cho thái độ, hành vi bất tuân pháp luật, hòng vô hiệu pháp chế xã hội chủ nghĩa ở nước ta, mà mục đích là lật đổ chính quyền nhân dân.

Một nguyên nhân quan trọng của tình trạng trên là do xã hội truyền thống ở nước ta chưa có nhà nước pháp quyền và văn hóa thượng tôn pháp luật. Phép trị quốc đề cao nhân trị, đức trị, lễ trị hơn pháp trị; dùng luân lý phong kiến “tam cương, ngũ thường” để ràng buộc con người là chính. Lối sống xã hội đề cao “trọng tình khinh lý”, không có thói quen sử dụng công cụ pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội, thậm chí ác cảm với các hoạt động tố tụng để xét xử và giải quyết các xung đột nhằm bảo vệ công lý, các quyền con người, khi quan niệm “vô phúc đáo tụng đình”. Mặt khác, “văn hóa làng xã” bên cạnh những yếu tố tích cực, thì có nhiều mặt tuyệt đối hóa vai trò điều chỉnh quan hệ xã hội bằng luật tục, hương ước, đẩy pháp luật của Nhà nước xuống hàng thứ yếu theo kiểu “phép vua thua lệ làng”, luật pháp bị địa phương hóa hay bị biến dạng theo ý chí chủ quan của cộng đồng địa phương, dòng tộc. Những tàn dư đó gây không ít trở ngại cho việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, áp dụng nguyên tắc pháp quyền trong tổ chức và quản trị xã hội hiện đại, làm suy giảm hiệu lực, hiệu quả điều chỉnh của pháp luật.

Trong nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp, mệnh lệnh hành chính thay cho luật pháp ngự trị trong cả đội ngũ cán bộ, công chức và người dân. Do đó, dù công cuộc đổi mới đất nước đã trải qua gần 35 năm, song khoảng thời gian đó vẫn chưa đủ để xóa hẳn tư duy cơ chế cũ và tích lũy được đầy đủ kinh nghiệm xây dựng pháp luật xã hội chủ nghĩa trong điều kiện nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Mặt khác, hệ thống pháp luật được xây dựng và hoàn thiện trong điều kiện chuyển đổi, vừa tìm tòi, vừa rút kinh nghiệm nên khó tránh khỏi những hạn chế, bất cập. Nhiều cơ chế mới được vận hành nên chưa thể dự báo được đầy đủ tác động, khiến cho một số quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật còn chung chung hoặc khi ban hành chưa phát huy đầy đủ tác dụng trong thực tiễn. Việc thường xuyên rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện là cần thiết, nhưng cũng làm cho hệ thống pháp luật thiếu ổn định, thiếu đồng bộ...

Pháp luật nước ta hiện nay là pháp luật của thời kỳ đổi mới toàn diện, với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen. Pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong cuộc đấu tranh giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Điều đó đòi hỏi pháp luật Việt Nam phải không ngừng được hoàn thiện, là điều kiện tiên quyết để pháp chế xã hội chủ nghĩa được thực hiện nghiêm minh; và đến lượt nó, pháp chế xã hội chủ nghĩa lại là bệ đỡ vững chắc để ngày càng mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa. Mở rộng thực hành dân chủ luôn phải đi liền với siết chặt kỷ cương xã hội. Đó chính là mối quan hệ khăng khít giữa thực hành dân chủ và pháp chế xã hội chủ nghĩa.

Ngoài ba nguyên nhân chính nêu trên, việc cần thiết bổ sung thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội thành mối quan hệ lớn còn do sự tác động thuận chiều của quá trình phát triển nhận thức lý luận mới về nhiều vấn đề có liên quan trực tiếp tới cặp phạm trù trên, như về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhất là mở rộng nguyên tắc pháp quyền điều chỉnh toàn bộ xã hội (xã hội pháp quyền hoặc xã hội thượng tôn pháp luật); về xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam; về quản lý phát triển xã hội bền vững, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội; về mở rộng dân chủ trong Đảng như yếu tố quyết định tới xây dựng dân chủ xã hội chủ nghĩa...

Như vậy, gần 35 năm đổi mới đã cho chúng ta đủ không gian, thời gian và sự trải nghiệm để dân chủ xã hội chủ nghĩa và pháp chế xã hội chủ nghĩa được Đảng ta xác định không chỉ là những vấn đề quan trọng đặt trong các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội, các phương hướng phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ hoặc thuộc về hệ thống chính trị và vai trò lãnh đạo của Đảng..., mà còn trở thành vấn đề cốt lõi phản ánh quy luật vận động của cách mạng Việt Nam thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Sự định vị lại và nâng tầm này không phải là sự ngẫu nhiên, mà đã phải trải qua quá trình không ngừng tìm tòi và phát triển lý luận lâu dài, với những đúc kết sâu sắc từ chính thực tiễn cuộc sống, trong đó có cả không ít bài học đắt giá từ những thiếu sót, sai lầm. Do đó, việc bổ sung mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội trở thành một mối quan hệ lớn cấu thành trong tổng thể hệ thống các mối quan hệ lớn ở thời điểm hiện nay là sự chín muồi cả về lý luận và thực tiễn./.

(Còn nữa)

-------------------------------------
(1) Nguyễn Đức Bình: Chủ thuyết cách mạng và phát triển Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2012, tr. 198
(2) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, t. 49, tr. 592
(3) Nguyễn Sự: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ to lớn như ngày nay”, https://www.vietnamplus.vn/dat-nuoc-ta-chua-bao-gio-co-duoc-co-do-to-lon-nhu-ngay-nay/616466.vnp
(4) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 33, tr. 97
(5) Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986 - 2016), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, 2015, tr. 144 
(6) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1995, t. 19, tr. 33
(7) Báo cáo 10 năm thực hiện Cương lĩnh 2011, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2020, tr. 106