Phê phán luận điệu xuyên tạc: Đổi mới ở Việt Nam là “đổi mới nửa vời” vì “không đổi mới chính trị”, “không hiệu quả”(?!)

TS ĐINH VĂN THỤY
Phó Viện trưởng Viện Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
10:29, ngày 20-02-2024

TCCS - Trong những năm qua, bằng nhiều thủ đoạn, phương thức khác nhau, nhất là thông qua các phương tiện truyền thông xã hội, các thế lực thù địch thường xuyên rêu rao luận điệu, mặc dù Việt Nam tuyên bố đổi mới từ năm 1986, đến nay đã gần 40 năm, nhưng đổi mới ở Việt Nam là “đổi mới nửa vời” vì “không đổi mới chính trị”, “không hiệu quả”(?!). Những luận điệu trên hoàn toàn xuyên tạc và không thể phủ nhận được sự thật rằng, công cuộc đổi mới đồng bộ và toàn diện ở nước ta trên tất cả các lĩnh vực, trọng tâm là đổi mới kinh tế gắn với đổi mới chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử; đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, uy tín và vị thế quốc tế như ngày nay.

Các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị ra sức xuyên tạc, bóp méo, hòng phủ nhận thành quả to lớn của quá trình gần 40 năm đổi mới. Họ rêu rao rằng, Việt Nam chỉ bước đầu đổi mới về kinh tế, chứ không đổi mới chính trị. Vì kinh tế quyết định chính trị, nên khi kinh tế đổi mới mà chính trị không đổi mới thì dẫn tới chính trị trì trệ, lạc hậu, cản trở sự phát triển kinh tế. Do đó, Việt Nam cần đổi mới chính trị một cách mạnh mẽ, quyết liệt để phù hợp với kinh tế theo hướng thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập như các nước tư bản chủ nghĩa đang áp dụng (!?).

Dã tâm của các thế lực thù địch hòng phủ nhận thành tựu của đổi mới kinh tế, đổi mới chính trị, tiến tới phủ nhận thành tựu của công cuộc đổi mới ở Việt Nam do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, từ đó hạ thấp, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Thứ nhất, phê phán luận điệu cho rằng “đổi mới ở Việt Nam là đổi mới nửa vời vì không đổi mới chính trị”.

Công cuộc đổi mới ở Việt Nam là đổi mới toàn diện trên nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực kinh tế và chính trị, bắt đầu từ đổi mới lĩnh vực kinh tế, trên cơ sở đổi mới kinh tế, từng bước đổi mới các lĩnh vực khác, trong đó có chính trị. Lộ trình thực hiện như vậy phù hợp với quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị. Theo C. Mác và Ph. Ăngghen, trong quá trình vận động và phát triển của xã hội loài người, xét đến cùng thì kinh tế quyết định chính trị, “những quan niệm chính trị, pháp lý và những quan điểm tư tưởng khác và những hành vi do chúng quy định đều được rút ra từ các thực tế kinh tế là cơ sở của chúng”(1). “Sự phát triển của chính trị, pháp luật, triết học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật,… đều dựa trên cơ sở sự phát triển kinh tế”(2).

Đảng Cộng sản Việt Nam xác định bắt đầu đổi mới từ lĩnh vực kinh tế, lấy đổi mới kinh tế làm cơ sở, tiền đề, động lực để đổi mới chính trị là hoàn toàn đúng đắn. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa VI về “Một số vấn đề cấp bách về công tác tư tưởng trước tình hình trong nước và quốc tế hiện nay” chỉ rõ: “Không thể tiến hành cải cách hệ thống chính trị một cách vội vã khi chưa đủ căn cứ,... dẫn đến sự mất ổn định về chính trị, gây thiệt hại cho sự nghiệp đổi mới”(3). Nhận định trên là hoàn toàn đúng đắn, bởi lẽ đổi mới chính trị cần có cơ sở, điều kiện, tiền đề nhất định, không thể đổi mới một cách tùy tiện, vô nguyên tắc. Bài học từ cải tổ chính trị một cách vô nguyên tắc dẫn đến sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu vào cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ XX vẫn còn nguyên giá trị.

Văn kiện Đại hội VII của Đảng khẳng định từ những năm đầu đổi mới: “Phải tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế, đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của nhân dân về đời sống, việc làm và các nhu cầu xã hội khác, xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, coi đó là điều kiện quan trọng để tiến hành thuận lợi đổi mới trong lĩnh vực chính trị”(4).

Tuy nhiên, chính trị, cũng như các nhân tố khác của thượng tầng kiến trúc, có sự độc lập tương đối và tác động trở lại đối với kinh tế, theo hướng thúc đẩy hoặc kìm hãm. Do đó, đồng thời với đổi mới kinh tế, phải từng bước đổi mới chính trị, một cách phù hợp để thúc đẩy kinh tế phát triển.

Đổi mới chính trị ở Việt Nam trọng tâm là đổi mới tư duy chính trị và hệ thống chính trị. Hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay gồm các bộ phận cấu thành như: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội. Trong đó, các tổ chức chính trị - xã hội bao gồm: Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp khác được thành lập, hoạt động trên cơ sở liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức làm nền tảng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thực hiện và bảo đảm đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân.

Đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam chính là đổi mới các bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị và mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị để có một hệ thống chính trị tinh gọn, chất lượng, hiệu lực, hiệu quả cao nhằm dẫn dắt lĩnh vực kinh tế và các lĩnh vực khác phát triển nhanh, bền vững theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm Nhà máy đường của Công ty cổ phần đường Kon Tum _Ảnh: TTXVN

Quá trình đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, thể hiện ở việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng để vừa phát huy vai trò, vị thế của Đảng, vừa phát huy vai trò, tính chủ động, tích cực của các bộ phận cấu thành hệ thống chính trị (Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội); đồng thời khắc phục được hai khuynh hướng sai lầm là Đảng “bao biện”, “làm thay” các bộ phận khác của hệ thống chính trị và Đảng “buông lỏng” sự lãnh đạo đối với các bộ phận khác của hệ thống chính trị. Cả hai khuynh hướng đó đều làm giảm hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo của Đảng và hoạt động cả hệ thống chính trị. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo của các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội.

Cùng với đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng, việc đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của Nhà nước cũng được thực hiện một cách quyết liệt, có hiệu quả rõ rệt, thể hiện nổi bật ở bước chuyển từ Nhà nước chuyên chính vô sản sang Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được Đảng Cộng sản Việt Nam đưa ra sau khi công cuộc đổi mới kinh tế tiến hành và đạt được những thành tựu bước đầu, từ Hội nghị giữa nhiệm kỳ khóa VII (năm 1994); tiếp đó, các kỳ đại hội của Đảng ta đều khẳng định quyết tâm xây dựng Nhà nước pháp quyền. Từ Đại hội X (năm 2006) đến nay, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân được coi là một đặc trưng của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Đồng thời với đổi mới hai thành tố cấu thành quan trọng nhất trong hệ thống chính trị là Đảng và Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội cũng có nhiều đổi mới về nội dung và phương thức hoạt động, đạt được nhiều thành tựu quan trọng, như: Phát huy ngày càng tốt hơn vai trò đại diện quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên và nhân dân; chủ động tham gia giám sát và phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị ngày càng hiệu quả; làm tốt vai trò cầu nối giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện ngày càng tốt hơn quyền làm chủ của nhân dân...

Đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam còn thể hiện ở việc sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Ví dụ, việc giảm số bộ và cơ quan ngang bộ, cắt giảm các tổng cục trong các bộ, tinh giản biên chế được thực hiện quyết liệt. Theo thống kê của Bộ Nội vụ, đến năm 2022, các bộ, ngành trung ương đã cắt giảm 17 tổng cục và tổ chức tương đương tổng cục; giảm 8 cục thuộc tổng cục và thuộc bộ; giảm 145 vụ/ban thuộc tổng cục và thuộc bộ; giảm được 90% phòng trong vụ(5)

Như vậy, mặc dù còn một số hạn chế, song quá trình đổi mới chính trị ở nước ta được tiến hành đồng bộ, đi đôi với đổi mới kinh tế; vừa từng bước, thận trọng, bảo đảm nguyên tắc, vừa mạnh mẽ, quyết liệt, toàn diện, đạt được những thành tựu quan trọng, không hề “nửa vời” như luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch.

Hai là, phê phán luận điệu cho rằng “vì không đổi mới chính trị nên đổi mới kinh tế ở Việt Nam không đạt hiệu quả, kinh tế Việt Nam phát triển chậm chạp”.

Đổi mới ở Việt Nam bắt đầu từ đổi mới kinh tế, bởi vì, xét đến cùng, kinh tế là lĩnh vực quan trọng nhất, quy định sự phát triển của xã hội loài người, như C. Mác và Ph. Ăngghen khẳng định: “Chúng tôi cho rằng, những điều kiện kinh tế xét cho cùng quy định sự phát triển lịch sử”(6). Vì kinh tế là lĩnh vực quan trọng quy định sự phát triển của xã hội nên Đảng ta coi đổi mới kinh tế là trọng tâm, được khẳng định tại Đại hội VII: “Lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời thúc đẩy mạnh mẽ việc đổi mới các lĩnh vực khác, nhất là về dân chủ hoá xã hội, tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, các chính sách giáo dục, văn hóa, xã hội”(7). Nội dung cơ bản của đổi mới kinh tế ở nước ta là chuyển từ mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tập trung ở một số nội dung sau: Chuyển đổi từ sản xuất hiện vật sang sản xuất hàng hóa; chuyển đổi từ nền kinh tế vận hành theo mệnh lệnh hành chính, kế hoạch, chỉ tiêu là chính sang nền kinh tế vận hành theo quy luật của thị trường là chính; chuyển đổi từ nền kinh tế đơn thành phần sang nền kinh tế đa thành phần; chuyển đổi từ nền kinh tế khép kín sang nền kinh tế mở và hội nhập kinh tế thế giới; chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ... Những nội dung này có mối quan hệ mật thiết với nhau, tạo điều kiện, tiền đề cho nhau, được triển khai đồng bộ. Do đó, quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam có cùng mục tiêu là phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong bối cảnh hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng.

Sau gần 38 năm đổi mới, Việt Nam đạt được nhiều thành tựu về mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội. Quan hệ đối ngoại về kinh tế giữa Việt Nam và các nước trên thế giới có bước phát triển vượt bậc. Việt Nam đã tham gia nhiều tổ chức kinh tế, ký kết nhiều hiệp định thương mại, cụ thể như gia nhập ASEAN năm 1995; ASEM năm 1996; APEC năm 1998; WTO năm 2007; CPTPP năm 2018; đăng cai thành công Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) năm 2006 và 2017. Năm 2020, Việt Nam đã phê chuẩn và triển khai có hiệu quả Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA); tham gia ký Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP), tham gia hơn 500 hiệp định song phương và đa phương trên nhiều lĩnh vực, trong đó phần nhiều là hiệp định thuộc lĩnh vực kinh tế. Việc mở rộng quan hệ kinh tế với các nước, các đối tác trên thế giới vừa khẳng định năng lực kinh tế của Việt Nam, vừa khẳng định sự công nhận của thế giới đối với sự phát triển của Việt Nam nói chung, đối với phát triển kinh tế nói riêng.

Bốc, xếp hàng hóa xuất khẩu ở cảng Cái Mép Thị Vải (ảnh: Nguyễn Ngọc Cường) _Nguồn: nhiepanhdoisong.vn

Sau gần 38 năm đổi mới, “đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, phát triển... bộ mặt đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi... Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên... vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao”(8). Trong những năm đổi mới, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam luôn ở mức cao. Từ một nước nghèo, kém phát triển, Việt Nam đã vươn lên đứng trong top 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới, với quy mô GDP đạt 430 tỷ USD, GDP bình quân đầu người đạt 4.284 USD (năm 2023). Những thành tựu kinh tế vượt bậc đó có được một phần quan trọng là do quá trình đổi mới chính trị với những bước đi phù hợp, là tác nhân thúc đẩy đổi mới kinh tế tích cực, giúp nền kinh tế tăng trưởng nhanh, bền vững, không hề “chậm chạp”, “không hiệu quả” như luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch.

Thứ ba, phê phán luận điệu cho rằng “đổi mới chính trị ở Việt Nam là phải thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”.

Đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập vốn là một lý thuyết triết học, chính trị học, xã hội học xuất hiện từ thế kỷ XVIII, sau đó được giai cấp tư sản một số nước lựa chọn để đấu tranh chống lại giai cấp địa chủ phong kiến đang nắm quyền lực. Hiện nay, có nhiều nước lựa chọn thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, tuy nhiên kết quả phát triển về kinh tế của các nước đó không hoàn toàn giống nhau, trong đó có những nước đang là nước lạc hậu, kém phát triển, thậm chí có một số nước đang lâm vào tình trạng bất ổn chính trị, chiến tranh xung đột liên miên. Có thể khẳng định, đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập không phải là mô hình mẫu cho mọi quốc gia, dân tộc; sự phát triển kinh tế - xã hội không phụ thuộc vào nhất nguyên hay đa nguyên, một đảng hay đa đảng lãnh đạo; hay nói cách khác, đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập không phải là điều kiện cần và đủ cho sự phát triển kinh tế - xã hội.

Thực tế cũng chứng minh, không phải ở đâu có đa nguyên kinh tế là tất yếu có đa nguyên chính trị; không phải ở đâu có tự do kinh tế là tự nhiên sẽ có nền chính trị dân chủ… Như vậy, luận điệu về đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập hoàn toàn không phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Thực tế trước và sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, trở thành đảng cầm quyền cho đến năm 1988, ở Việt Nam đã hình thành và tồn tại nhiều đảng chính trị với ý thức hệ, tôn chỉ, mục đích hoạt động khác nhau, song đều thất bại. Các đảng này không thể hiện được vai trò đối với sự phát triển của đất nước nên không được đông đảo nhân dân ủng hộ, do đó không tồn tại được và tự giải tán. Chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam với đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam, được đông đảo nhân dân Việt Nam tin tưởng và ủng hộ, nên đã lãnh đạo nhân dân giành được độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, tiến hành công cuộc đổi mới xây dựng Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Thực tiễn đã chứng minh, chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam mới có đủ uy tín và năng lực lãnh đạo đất nước; ngoài Đảng Cộng sản ra không có một lực lượng nào khác có đủ uy tín, năng lực lãnh đạo đất nước.

Như vậy, cả lý luận và thực tiễn đều chứng minh, đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập không phù hợp với Việt Nam. Cổ xúy đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập ở Việt Nam thực chất là thủ đoạn nham hiểm của các thế lực thù địch nhằm chống phá Đảng và nhân dân ta.

Công cuộc đổi mới ở Việt Nam được bắt đầu từ đổi mới kinh tế, trên cơ sở đổi mới kinh tế, từng bước đổi mới chính trị một cách phù hợp. Nhờ đổi mới chính trị nên đã xác lập hệ thống chính trị với mô hình, cơ cấu và cơ chế hoạt động phù hợp với nền kinh tế thị trường, Nhà nước pháp quyền và dân chủ xã hội chủ nghĩa; đã xây dựng, vận hành nền kinh tế thị trường phù hợp với chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa. Điều đó chứng tỏ, đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam đã và đang đi đúng quy luật phát triển./.

---------------

(1) C. Mác và Ph. Ăng ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, t. 39, tr. 132
(2) C. Mác và Ph. Ăng ghen: Toàn tậpSđd, tr. 271
(3) Xem: Nghị quyết số 07-NQ/TW, ngày 24-8-1989, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VI), “Một số vấn đề cấp bách về công tác tư tưởng trước tình hình trong nước và quốc tế hiện nay”, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/hoi-nghi-bch-trung-uong/khoa-vi/nghi-quyet-so-07-nqtw-ngay-2481989-hoi-nghi-lan-thu-bay-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-vi-mot-so-van-de-cap-bach-1108
(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1991, tr. 54
(5) Xem: https://moha.gov.vn/tin-noi-bat/cat-giam-17-tong-cuc-sap-xep-hon-500-lanh-dao-quan-ly-48207.html (truy cập ngày 3-6-2023)
(6) C. Mác và Ph. Ăng ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, t. 39, tr. 271
(7) Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 269
(8) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 65 - 66


Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội chính trị trong Đảng - Giá trị vận dụng trong cuộc đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái của phần tử cơ hội chính trị hiện nay

PGS, TS NGUYỄN AN NINH
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
14:03, ngày 08-02-2024

TCCS - Chủ nghĩa cơ hội chính trị và phần tử cơ hội chính trị là mối nguy cơ đe dọa vị trí và vai trò của Đảng trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chú trọng, kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội chính trị dưới mọi biến thể để giữ vững bản chất và sức mạnh của Đảng, để Đảng ta luôn xứng đáng với vai trò tiên phong, gương mẫu và lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của dân tộc đạt được những thắng lợi vẻ vang qua các thời kỳ.

Chủ tịch Hồ Chí Minh với công nhân _Tranh: Tư liệu

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội chính trị trong Đảng

Nhận diện chủ nghĩa cơ hội chính trị trong Đảng

Trong sự nghiệp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng. Trong sự nghiệp đó, cảnh giác và chống chủ nghĩa cơ hội chính trị trong Đảng là một chủ đề tư tưởng lớn. Đặc biệt, trong bối cảnh tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới toàn diện và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay, thì di sản tư tưởng này vẫn còn nguyên giá trị, ý nghĩa thời sự.  

Chủ nghĩa cơ hội chính trị và những kẻ cơ hội chính trị được Chủ tịch Hồ Chí Minh gọi tên là “chủ nghĩa cơ hội”, “bọn hoạt đầu”(1) (vốn là một từ Hán - Việt, để chỉ biểu hiện tư tưởng của một tập hợp những kẻ giảo hoạt, vô nguyên tắc về chính trị và chỉ giỏi xoay xở kiếm lợi cá nhân). Họ không giữ vững lập trường giai cấp, không có chính kiến, vô nguyên tắc trong hành động, thường biện minh cho tư tưởng hoặc hành vi sai lầm bằng cái gọi là “linh hoạt”, “vì mục tiêu chung”, “vì lợi ích chung”,...; nhưng xét đến cùng, là gây hại cho cách mạng, làm hại uy tín chính trị của Đảng. Bởi vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã coi ý nghĩa và tầm quan trọng của cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội ngang bằng với cuộc đấu tranh chống những kẻ thù lớn của cách mạng. Đó là “... những cuộc chiến đấu lâu dài và gian khổ mà các đảng theo chủ nghĩa Mác - Lênin trên thế giới đã trải qua nhằm chống lại chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa cơ hội”(2).

Đặc điểm của chủ nghĩa cơ hội chính trị là tồn tại trong nội bộ, xuất hiện từ những phần tử không vững vàng về lập trường, lý luận chính trị. Nguyên nhân của thực trạng trên là do tổ chức “... kỷ luật không nghiêm, tổ chức không khéo, để tụi hoạt đầu xen vào nhiều quá”(3). Kinh nghiệm xây dựng Đảng trong quá trình cách mạng và gần 4 thập niên đổi mới gần đây cũng xác nhận một vấn đề rằng, những kẻ cơ hội chính trị bị vạch mặt chính là những phần tử đã lợi dụng cơ hội để luồn lách vào những vị trí, cương vị trong Đảng.

Chủ nghĩa cơ hội chính trị được lý luận phân thành hai loại là tả khuynh và hữu khuynh. Chủ nghĩa cơ hội tả khuynh về chính trị thường có các biểu hiện, như bốc đồng, say sưa với những thành tựu hay bước tiến của cách mạng, thường đề ra những mục tiêu, chương trình vượt quá điều kiện thực tế. Kết cục là nhân lực, vật lực và thời cơ đều bị hao phí. Chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh lại thường xuất hiện khi cách mạng gặp khó khăn; vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định: “Trước sự khó khăn, những người phạm... chủ nghĩa cơ hội thiếu đầu óc sáng suốt và thiếu năng lực khắc phục khó khăn, vì họ không biết dựa vào quần chúng và dựa vào Đảng, hoặc là họ không tin vào quần chúng, và không tin vào Đảng”(4). Trong trường hợp ấy, bọn họ thường tỏ ra bi quan chán nản. Nhưng cũng có khi đôi ba người trong bọn họ tỏ ra có “năng lực xuất chúng”, cho rằng có thể một mình “định đoạt cả giang sơn”. Lúc này, chủ nghĩa cơ hội chính trị là chủ nghĩa cá nhân.

Gốc tích của chủ nghĩa cơ hội chính trị, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trước hết bắt nguồn từ sự nhạt nhòa về bản lĩnh chính trị do không chịu học tập lý luận Mác - Lê-nin để rèn luyện tư duy biện chứng, cách mạng và thực tiễn. Người làm công tác lãnh đạo, quản lý mà thiếu tư duy lý luận, sùng bái chủ nghĩa kinh nghiệm thì dễ làm nảy sinh tư duy cơ hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh khái quát: “Lãnh đạo phải tôn trọng và phát huy ý chí tích cực và tinh thần sáng tạo của quần chúng, bảo vệ sự sinh trưởng của lực lượng mới. Khi sự vật mới trong xã hội vừa sinh ra, nếu không ra sức giúp đỡ, mà lại ngăn trở và đả kích nó, hoặc khi sự vật mới chưa chín muồi, nếu không dùng phương pháp đúng đắn để giúp nó nẩy nở, mà lại dùng những biện pháp nóng vội để miễn cưỡng thúc đẩy nó - như thế là làm hỏng những mầm mống mới, như thế đều là chủ nghĩa cơ hội, chứ không phải chủ nghĩa Mác”(5).   

Cái gốc và nguyên nhân trực tiếp làm nảy sinh những tư duy cơ hội về chính trị là chủ nghĩa cá nhân, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, là: “Chủ nghĩa cá nhân, đặt lợi ích riêng của mình, của gia đình mình lên trên, lên trước lợi ích chung của dân tộc. Đó là bệnh chính, bệnh mẹ, do đó mà sinh ra nhiều chứng bệnh khác”(6).

Chống chủ nghĩa cơ hội là một cuộc đấu tranh về chính trị, tư tưởng để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh và làm tròn sứ mệnh với giai cấp và dân tộc

Thường xuyên quan tâm đến sự nghiệp xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, xứng đáng với vai trò là người lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú trọng đến cuộc đấu tranh chống biểu hiện cơ hội chính trị. Theo Người, chống cơ hội chính trị không chỉ là chữa một thứ bệnh có căn nguyên từ chủ nghĩa cá nhân trong một số người, mà còn là cuộc đấu tranh để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng. Năng lực lãnh đạo, uy tín chính trị của một đảng cộng sản trước hết xuất phát từ việc trung thành và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Theo đó, tư cách của một đảng và của một người cách mạng trước tiên là phải “Giữ chủ nghĩa cho vững”(7) và đấu tranh chống các thứ “bệnh tật” liên quan đến sự tồn vong của Đảng về chính trị.  

Bản chất của chủ nghĩa cơ hội chính trị, như tên gọi của nó, là biểu hiện của sự vô nguyên tắc về chính trị. Họ có thể nói “tràng giang đại hải” về một lợi ích chung chung nào đó, nhưng không bao giờ tuyên bố rõ ràng, rành mạch về lập trường, lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận xét về người cơ hội chính trị: “Về lập trường, họ không rành mạch ai là bạn, ai là thù. Họ lưu luyến chế độ tư bản và phong kiến. Họ không ưa Liên Xô, không thích học tập chủ nghĩa Mác - Lênin”(8). Vì vậy, chống chủ nghĩa cơ hội chính trị trong Đảng trước hết là cần nghiêm túc học tập lý luận và kiên quyết bảo vệ sự trong sáng, tính khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin.

Trong thực tế, lập trường chính trị và quan điểm về lợi ích là “thuốc thử” để xác định ai là kẻ cơ hội hay ai là người cách mạng chân chính. Do đặc điểm của chủ nghĩa cơ hội là luôn vô nguyên tắc về chính trị và xoay xở tìm kiếm lợi cá nhân, cho nên việc nhận ra những mục tiêu cá nhân trong những toan tính, phát ngôn có thể giúp vạch rõ “chân tướng” của kẻ cơ hội đó. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Vì vậy, mỗi người trong Đảng phải hiểu rằng: lợi ích của cá nhân nhất định phải phục tùng lợi ích của Đảng. Lợi ích của mỗi bộ phận nhất định phải phục tùng lợi ích của toàn thể. Lợi ích tạm thời nhất định phải phục tùng lợi ích lâu dài”(9). Theo Người, những kẻ trong Đảng mà làm trái với các nguyên tắc đó chính là kẻ cơ hội chính trị! 

Tóm lại, trung thành với lý tưởng của Đảng, tận tụy với sự nghiệp cách mạng của dân tộc, biểu hiện ra ở tiêu chí được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định rất rõ: “tiêu chuẩn số một của người cách mạng là quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng(10). Đây cũng là “thước đo” để đánh giá những hành vi, tư tưởng hoặc bản thân cá nhân có mắc vào chủ nghĩa cơ hội chính trị hay không.                     

Đảng lãnh đạo, nhân dân cùng tham gia chống chủ nghĩa cơ hội chính trị 

Chống chủ nghĩa cơ hội chính trị trong Đảng là một việc không hề dễ dàng vì tính chất trá hình, “lươn lẹo” của nó. Thêm nữa, nhiều kẻ cơ hội chính trị lại được “đánh bóng” bởi cương vị, được bảo vệ bởi quyền lực và biết cách che giấu những toan tính cá nhân dưới những “vỏ bọc” nào đấy. Nhưng với sự kiên quyết và có biện pháp đúng đắn, khoa học và cách mạng thì chúng ta vẫn có thể đấu tranh hiệu quả chống chủ nghĩa cơ hội chính trị.

Ở phương diện này, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ ra những định hướng lớn. Đó là giữ nghiêm kỷ luật đảng, thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc tổ chức của Đảng để ngăn chặn những kẻ cơ hội chính trị. Một trong những biện pháp khoa học để ngăn chặn việc vô tình sa vào chủ nghĩa cơ hội do “kém về nhận thức lý luận”, là mỗi đảng viên phải nghiêm túc học tập chủ nghĩa Mác - Lê-nin.

Kẻ cơ hội chính trị thường có biểu hiện “không tin vào quần chúng”, nhưng chính quần chúng là người giúp Đảng nhận ra phần tử cơ hội chính trị trong nội bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Có lực lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy làm cũng được... Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”(11)

Cán bộ, công chức ngành kiểm sát tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước tới đồng bào _Nguồn: baovephapluat.vn

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong cuộc đấu tranh phản bác luận điệu sai trái của phần tử cơ hội chính trị hiện nay

Phương pháp luận để nhận diện những “biến thể mới” của chủ nghĩa cơ hội chính trị hiện nay

Trong bối cảnh hiện nay, chủ nghĩa cơ hội chính trị có nhiều biến thể mới; tuy vậy, nó vẫn có những điểm chung mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra dưới đây.

Trong lĩnh vực chính trị, đó là những kẻ mang danh đảng viên mà không tin vào lý tưởng của Đảng, không tin vào chủ nghĩa xã hội, không chịu học tập, nghiên cứu thấu đáo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, nói và làm trái với đường lối của Đảng. Kết cục là mắc vào “những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị”(12) và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Điều đặc biệt nguy hiểm là, hoặc trá hình hoặc lợi dụng dân chủ trong Đảng, chúng tấn công vào nền tảng chính trị tư tưởng của Đảng, với các luận điệu phản bác, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các nguyên tắc tổ chức của Đảng, đòi thực hiện “đa nguyên, đa đảng”... Một số kẻ có cương vị đã khiến cho mức độ tác hại của hành vi cơ hội chính trị càng trở nên nghiêm trọng, gây tâm lý bức xúc, tạo dư luận xấu trong đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân, làm mất uy tín của Đảng. Nhiều trường hợp cơ hội chính trị đã rất gần với phản bội lại lý tưởng của Đảng, đi ngược lại sự nghiệp cách mạng của dân tộc...

Ở lĩnh vực kinh tế, chủ nghĩa cơ hội chính trị thể hiện qua những hành vi lợi dụng chức quyền để lãng phí, tham ô, nhũng nhiễu; lợi dụng nguồn lực công để mưu lợi riêng. Nhiều vụ án kinh tế được xử lý gần đây cho thấy, các thủ đoạn cơ hội diễn ra mang tính muôn vẻ, nhưng đều xoay xung quanh cái trục là lợi ích cá nhân hay “lợi ích nhóm” ích kỷ của một số cá nhân. Những người này đã bị trừng trị thích đáng; nhưng ảnh hưởng của hành vi sai phạm đã gây hệ lụy, xuyên tạc hình ảnh người đảng viên, làm tổn hại uy tín, thanh danh của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phê phán những kẻ này là: “Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp “dĩ công vi tư””(13).     

Về tư tưởng, đạo đức, lối sống, những kẻ cơ hội chính trị có các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”(14) về phát ngôn, hành động, lối sống. Dường như có một sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng ở những đối tượng này: Khi đã mắc vào chủ nghĩa cơ hội chính trị thì tác phong, lối sống của họ cũng có những biểu hiện thay đổi tương đương. Họ mắc phải lối sống “Cá nhân chủ nghĩa, sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi; chỉ lo thu vén cá nhân, không quan tâm đến lợi ích tập thể; ganh ghét, đố kỵ, so bì, tị nạnh, không muốn người khác hơn mình”(15). Các biểu hiện của những kẻ cơ hội chính trị mà Chủ tịch Hồ Chí Minh từng chỉ ra là: “ham muốn vật chất”, “suy bì tị nạnh về chức quyền, đãi ngộ”, “cái gì hợp với lợi ích cá nhân của họ thì họ tán thành, cái gì không hợp thì họ phản đối”(16). Với những người này, việc giữ gìn phẩm chất và hình ảnh của “Đảng là đạo đức, là văn minh” dường như là công việc của người khác, chứ không phải là trách nhiệm hằng ngày của họ.

Định hướng về tổ chức và lực lượng trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội chính trị hiện nay

Môi trường hoạt động của chủ nghĩa cơ hội chính trị chủ yếu diễn ra trong nội bộ của Đảng và hệ thống chính trị, và thường có sự liên hệ với quá trình xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách. Chủ nghĩa cơ hội chính trị có khi đẩy nhận thức chính trị tới những cực đoan: Hoặc tả khuynh hoặc hữu khuynh như đã trình bày ở trên; cả hai đều có hại cho sự nghiệp lãnh đạo, cầm quyền của Đảng.

Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, muốn chống chủ nghĩa cơ hội chính trị trong Đảng thành công, thì trước hết phải bắt đầu từ quyết tâm của toàn Đảng. Chống chủ nghĩa cơ hội chính trị cần đến quyết tâm, vì đây là công việc “tự chỉ trích”, tự phê bình hạn chế, khuyết tật “từ bên trong và với bên trên”. Người nhận định: “... một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”(17).

Cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội chính trị phải là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân. Không phải ở đâu và bất kỳ lúc nào, sự phê bình trong tổ chức đảng ở các cấp đều đạt được mức độ mạnh mẽ, thẳng thắn và nghiêm khắc. Tình trạng e dè, nể nang, “dĩ hòa vi quý”, “giữ thế thủ” vẫn có thể diễn ra, đặc biệt là trong khi nhận định và phê phán các biểu hiện cơ hội chính trị. Đây là lĩnh vực “nhạy cảm”, cần đến bản lĩnh chính trị. Tuy vậy, chính Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng định hướng cho chúng ta cách giải quyết vấn đề này. Người dạy: “Cách làm là: dựa vào: Lực lượng của dân,/ Tinh thần của dân(18). Theo đó, Đảng cần tổ chức, động viên nhân dân cùng tham gia, để “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” thành quả tích cực của công tác xây dựng Đảng. Dân ở đây là những người đang tham gia thực hiện và thụ hưởng thành quả của chính sách; trong họ, có nhiều trí thức, chuyên gia am hiểu nhiều lĩnh vực và có thể đưa ra những ý kiến tư vấn xác đáng cho quá trình xây dựng chính sách.   

Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, thường xuyên trau dồi nhận thức lý luận, kiên quyết đấu tranh phản bác các quan điểm cơ hội, sai trái

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của một đảng cộng sản trước hết phụ thuộc vào nền tảng lý luận là chủ nghĩa Mác - Lê-nin:  “Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy”(19). Đây cũng là “sức đề kháng” từ bên trong “cơ thể” Đảng, để có thể “miễn dịch” với những “căn bệnh” bị tiêm nhiễm trong đời sống chính trị phức tạp.

Một mặt, những phân tích lý luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh và những kinh nghiệm mà Đảng ta tổng kết được cho thấy rằng, chủ nghĩa cơ hội chính trị có một căn nguyên là do chủ thể chưa vững vàng về lý luận, “thiếu lý luận” và sùng bái chủ nghĩa kinh nghiệm; vì vậy, muốn đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội chính trị hiệu quả, trước hết phải tăng cường học tập nghiêm túc chủ nghĩa Mác - Lê-nin để trong Đảng “ai cũng hiểu” và “làm theo”.  

Mặt khác, chúng ta còn bắt gặp một thực tế là, không ít người còn “Nhận thức sai lệch về ý nghĩa, tầm quan trọng của lý luận và học tập lý luận chính trị; lười học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước”(20). Với một vốn liếng nhận thức còn hạn chế như vậy, những người đó rất dễ sa vào chủ nghĩa cơ hội chính trị, hoặc tả khuynh, hoặc hữu khuynh.

Thêm vào đó, để nhận diện và đấu tranh với chủ nghĩa cơ hội chính trị trong Đảng, chủ thể cũng cần có năng lực và bản lĩnh về lý luận. Hiện nay, trên nhiều diễn đàn, chúng ta có thể gặp các biểu hiện cơ hội chính trị khá tinh vi theo kiểu: “chỉ cần dân giàu, nước mạnh, không cần đến chủ nghĩa xã hội(!)”. Ngay ở một số địa phương cũng có những tư tưởng “chạy theo thành tích” theo kiểu “đẩy nhanh quá trình tăng trưởng kinh tế địa phương”, mà không quan tâm đầy đủ đến bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển bền vững,... Phụ họa cho những quan niệm sai trái và lệch lạc này là khá nhiều bài viết, ấn phẩm. Vì vậy, muốn nhận diện, đấu tranh hiệu quả với chủ nghĩa cơ hội chính trị, đòi hỏi chủ thể được trang bị một cơ sở lý luận vững chắc, đầy đủ.    

Chủ nghĩa cá nhân là “bệnh gốc của mọi thứ bệnh”, nên chống các biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân hiện nay cũng là một phương diện cần được quan tâm để chống chủ nghĩa cơ hội chính trị có kết quả. Những biểu hiện đó đã được chỉ rõ, chẳng hạn như thói háo danh, phô trương, che dấu khuyết điểm, thổi phồng thành tích, “đánh bóng” tên tuổi; thích được đề cao, ca ngợi; “chạy thành tích”, “chạy khen thưởng”, “chạy danh hiệu”...    

Vì vậy, yêu cầu đặt ra hiện nay là giữ nghiêm kỷ luật, thường xuyên trau dồi và nâng cao nhận thức lý luận chính trị; phòng ngừa và đấu tranh với chủ nghĩa cá nhân, phê phán các quan điểm sai trái - tất cả phải là một chỉnh thể để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; từ đó, hình thành nên một “trận tuyến” nhiều tầng lớp và hiệu quả trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội chính trị ở Việt Nam dưới mọi biến thể, màu sắc khác nhau./.

----------------------

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 2, các trang: 297, 308 và 311
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 66
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 2, tr. 311
(4), (5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 55, 54
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 156
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 2, tr. 280
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 464
(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 290
(10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 605
(11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 335
(12) Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 28
(13) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 127
(14) Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Sđd, tr. 32
(15) Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Sđd, tr. 30
(16) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 464
(17), (18) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 301, 556
(19) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 2, tr. 289
(20) Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Sđd, tr. 28


Nhận diện và đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam

TS TRẦN THỊ NHẪN
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
16:56, ngày 30-01-2024

TCCS - Thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị không ngừng chống phá, đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhận diện, bóc trần và đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch đó là việc làm rất cần thiết, qua đó, tiếp tục khẳng định vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Mùa Xuân năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đánh dấu một bước ngoặt trọng đại của lịch sử cách mạng Việt Nam. Đảng đã tự xác định vai trò là “đội tiên phong của vô sản giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng"(1). Đảng đã lãnh đạo nhân dân vùng lên đấu tranh xóa bỏ chế độ thực dân, phong kiến; khẳng định nền độc lập, tự do cho dân tộc bằng sự kiện ra đời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Từ đây, Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành Đảng cầm quyền, lãnh đạo sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Trong suốt 94 năm, Đảng luôn khẳng định “là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản”(2). Đảng cũng xác định rõ vị trí, vai trò là “cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội”(3) để thực hiện những cam kết chính trị và chịu trách nhiệm trước nhân dân, trước lịch sử.

Nhận diện các quan điểm sai trái, thù địch đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam

Vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng được khẳng định rõ trong Hiến pháp - văn bản pháp luật cao nhất của đất nước: “Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam..., là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”(4). Sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng được Nhà nước, xã hội, nhân dân công nhận và được hiến định, là sự ghi nhận những cống hiến của Đảng và khẳng định vai trò lãnh đạo tất yếu của Đảng trong mọi bước phát triển của cách mạng Việt Nam.

Tuy nhiên, từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vai trò lãnh đạo, cầm quyền đến nay, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị chưa bao giờ ngừng chống phá, đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Sự chống phá dưới mọi hình thức đó ngày càng tinh vi hơn, từ hình thức vũ trang, bán vũ trang nay chuyển sang núp dưới âm mưu "diễn biễn hòa bình”, nhất là sử dụng internet, các trang báo mạng phản động để đăng tải những nội dung chống phá, xuyên tạc, bóp méo sự thật về vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đòi xóa bỏ Điều 4 Hiến pháp năm 2013 - mà thực chất, là xóa bỏ vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam, đòi đa nguyên, đa đảng(?!). Họ cho rằng, Điều 4 Hiến pháp 2013 quy định Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội đã phủ nhận quyền lực của nhân dân trong việc lựa chọn đảng cầm quyền thông qua bầu cử, cũng như phủ nhận quyền lực của nhân dân trong các lĩnh vực khác của đời sống xã hội, là trái với nguyên tắc của một thể chế nhà nước dân chủ(?!)

Bên cạnh đó, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị còn tập trung phê phán, thổi phồng các điểm tiêu cực, hạn chế trong đời sống kinh tế - xã hội, cố tình bôi đen, hạ thấp những thành tựu to lớn của đất nước đã đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng; đánh lạc hướng dư luận, gây tâm lý dao động, hoang mang trong nhân dân. Từ đó, các thế lực thù địch đã đẩy mạnh việc kích động, lôi kéo, xúi giục việc chống phá Đảng, Nhà nước ta,...

Đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam

Thứ nhất, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là tất yếu, khách quan, từ mong muốn của nhân dân, đòi hỏi của lịch sử cách mạng Việt Nam. Đảng nắm giữ vai trò lãnh đạo, cầm quyền bằng uy tín, năng lực mà không một đảng phái nào có thể thay thế được.

Từ nửa cuối thế kỷ XIX, Việt Nam bị thực dân Pháp xâm lược và cai trị, trở thành một nước thuộc địa, nửa phong kiến. Với truyền thống chống giặc ngoại xâm và tinh thần yêu nước nồng nàn, trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, ở Việt Nam xuất hiện các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp theo ý thức hệ phong kiến, tư sản và những cuộc đấu tranh tự phát của giai cấp công nhân. Mặc dù các phong trào đấu tranh diễn ra rất sôi nổi và liên tục ở khắp các địa phương, vùng, miền, nhưng cuối cùng đều thất bại.

Trước thực trạng khủng hoảng, bế tắc về con đường cứu nước, yêu cầu cấp thiết đặt ra là phải có một tổ chức cách mạng tiên phong với đường lối đúng đắn để lãnh đạo nhân dân thực hiện cuộc đấu tranh giành độc lập. Trong quá trình bôn ba khắp năm châu, bốn bể tìm đường cứu nước, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con đường cách mạng vô sản và khẳng định cách mạng muốn thành công, cần: “Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi”(5). Bằng sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa Mác - Lê-nin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam, thông qua vai trò lãnh đạo của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập, đã hội tụ đầy đủ những yếu tố cần thiết đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi khách quan của lịch sử đất nước.

Về tổ chức: Đảng “là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thương yêu đồng chí, kỷ luật nghiêm minh”(6); có đội ngũ cán bộ, đảng viên trung kiên, sẵn sàng đấu tranh vì lý tưởng của Đảng, vì Tổ quốc và nhân dân. Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, lý luận cách mạng, khoa học, tiến bộ; là kim chỉ nam cho mọi hoạt động.

Về đường lối cách mạng: Ngay tại Hội nghị thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thông qua Cương lĩnh chính trị đầu tiên, trong đó vạch ra mục tiêu, nhiệm vụ và con đường phát triển cho cách mạng Việt Nam, đó là: Tiến hành cuộc cách mạng vô sản, gắn độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội - một chế độ tốt đẹp, ưu việt nhất dành cho tất cả người dân Việt Nam. Đây là con đường cách mạng đúng đắn, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử đất nước và phù hợp với xu thế tiến bộ của thời đại.

Với ý nghĩa đó, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là tất yếu, đã chấm dứt sự khủng hoảng về tổ chức lãnh đạo và đường lối cứu nước ở Việt Nam những thập niên đầu thế kỷ XX. Trên thực tế, trước và sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, trở thành Đảng cầm quyền cho đến năm 1988(7), ở Việt Nam đã hình thành và tồn tại nhiều đảng chính trị với ý thức hệ, tôn chỉ, mục đích hoạt động khác nhau, song đều thất bại. Trong bối cảnh các lực lượng, tổ chức, đảng phái khác trong xã hội đã bị thất bại, không đảm đương được vai trò lãnh đạo phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, nên ngay khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã trở thành lực lượng duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam.

Trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, Đảng lãnh đạo nhân dân làm nên thắng lợi vĩ đại của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt, trước sóng gió “chấn động chính trị” cuối thập niên 80 - đầu thập niên 90 (thế kỷ XX) làm hàng loạt các đảng cộng sản bị mất vai trò cầm quyền, dẫn đến sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và Liên Xô, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn giữ vững vai trò cầm quyền, bản lĩnh, sáng suốt đề ra đường lối đổi mới đúng đắn.

Với năng lực, bản lĩnh và uy tín của một đảng mác-xít chân chính, được rèn luyện qua muôn vàn khó khăn, thử thách, Đảng đã lãnh đạo đất nước đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, để “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(8). Thực tiễn lịch sử cách mạng và những thành tựu vĩ đại đạt được đã chứng minh: “Ở Việt Nam chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam mới có khả năng lãnh đạo nhân dân xây dựng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc; lợi ích của nhân dân gắn liền với sự nghiệp của Đảng; mục đích, lý tưởng của Đảng cũng là ước mơ, nguyện vọng của nhân dân”(9).

Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng với các già làng, trưởng bản và người có uy tín trong đồng bào các dân tộc Tây Nguyên _Ảnh: TTXVN

Thứ hai, Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.

Khi Đảng Cộng sản Việt Nam đảm nhận sứ mệnh lãnh đạo, cầm quyền, nghĩa là Đảng phải chịu trách nhiệm trước nhân dân, trước lịch sử về sự phát triển của đất nước, của dân tộc, bảo đảm cuộc sống hạnh phúc, ấm no cho người dân. Đảng phải đề ra được quan điểm, chủ trương, đường lối, chiến lược, định hướng lớn đúng đắn để xây dựng và phát triển đất nước; đồng thời, phải làm cho quan điểm, chủ trương của Đảng được thực hiện hiệu quả trong thực tiễn. Muốn vậy, Đảng phải luôn nhất quán nguyên tắc “tập trung dân chủ”, mọi công việc trong Đảng đều phải được bàn bạc dân chủ theo quy định, nhưng khi quyết định thì thiểu số phải phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, mọi tổ chức đảng và đảng viên phải tuân theo Cương lĩnh, nghị quyết, Điều lệ Đảng. Đảng cầm quyền trong điều kiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Đảng càng phải khẳng định được năng lực lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội; đồng thời, phải bảo đảm “các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”(10), không được “đứng trên”, “đứng ngoài” pháp luật, cũng không “độc đoán, chuyên quyền” như luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch.

Đảng lãnh đạo Nhà nước, phát huy mạnh mẽ vai trò và hiệu lực của Nhà nước, nhưng không làm thay Nhà nước. Đảng lãnh đạo “bằng Cương lĩnh, chiến lược, các chủ trương, chính sách lớn, bằng công tác tổ chức, cán bộ, bằng kiểm tra, giám sát; lãnh đạo thể chế hóa các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật”(11). Nhà nước thể chế hóa mọi đường lối, chủ trương của Đảng thành Hiến pháp và pháp luật, qua đó, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với toàn xã hội. Sau mỗi kỳ đại hội Đảng, nghị quyết của Đảng sẽ được Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan nhà nước triển khai bằng việc thể chế hóa thành các văn bản, quy định, bảo đảm triển khai thực hiện trong xã hội.

Trong điều kiện cầm quyền duy nhất ở Việt Nam, việc Đảng hoạt động theo nguyên tắc, Điều lệ Đảng và trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật chính là cơ sở vững chắc bảo đảm cho Đảng giữ vững bản chất, mục tiêu, lý tưởng; phòng, chống mọi nguy cơ độc quyền, thoái hóa, biến chất có thể xảy ra.

Thứ ba, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn phát huy quyền làm chủ của nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình.

Thực tiễn lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam luôn gắn bó mật thiết với nhân dân, đề cao dân chủ, tôn trọng và phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Độc lập dân tộc, giải phóng con người, mang lại quyền làm chủ đất nước, làm chủ xã hội cho tất cả người dân Việt Nam chính là mục tiêu, là lý tưởng phấn đấu của Đảng.

Trong quá trình lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, mặc dù trong điều kiện đất nước có chiến tranh, vô cùng khó khăn, thiếu thốn, nhưng Đảng vẫn luôn quan tâm đến quyền dân chủ cho nhân dân, như thực hiện người cày có ruộng, phổ thông giáo dục, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần… Vấn đề quyền con người, thực thi dân chủ được Đảng gắn kết chặt chẽ với việc thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc, khẳng định chủ quyền của quốc gia - dân tộc.

Trong quá trình lãnh đạo cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới đất nước, mối liên hệ gắn bó với nhân dân, vấn đề dân chủ tiếp tục được Đảng đặc biệt chú trọng. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng nêu rõ: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm”(12). Với nhận thức đúng đắn đó, Đảng luôn chú trọng lãnh đạo xây dựng và phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ phải được thực hiện trong toàn hệ thống chính trị thông qua cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”.

Điểm cốt lõi của việc bảo đảm dân chủ là Đảng luôn quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”, khẳng định: “Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, nhân dân là chủ, nhân dân làm chủ”(13). Mục tiêu, lý tưởng phấn đấu của Đảng là vì hạnh phúc của nhân dân. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều bắt nguồn từ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, phục vụ nhân dân; thật sự tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Thực hiện tốt, có hiệu quả phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”(14).

Thày giáo mang quân hàm xanh _Nguồn: nhiepanhdoisong.vn

Thứ tư, Đảng luôn tự chỉnh đốn, tự đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”(15). Việc Đảng cầm quyền duy nhất rất dễ dẫn đến tệ quan liêu, bảo thủ, trì trệ, do đó, đòi hỏi Đảng phải luôn tự chỉnh đốn, tự đổi mới, kiểm soát quyền lực lãnh đạo để xứng đáng với vai trò lãnh đạo, cầm quyền được lịch sử ghi nhận và nhân dân tin tưởng giao trọng trách.

Đảng “phải kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh”(16). Đây là một trong những vấn đề “mang tính nguyên tắc, có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta, là nền tảng vững chắc của Đảng ta, không cho phép ai được ngả nghiêng, dao động”(17); đồng thời “không ngừng bổ sung, phát triển sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam”(18).

Đảng không ngừng xây dựng, chỉnh đốn, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và giữ nghiêm kỷ luật đảng để giữ cho tổ chức đảng luôn trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cầm quyền, lãnh đạo hệ thống chính trị và nhân dân; bảo đảm đủ năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu trong mọi hoàn cảnh, nhiệm vụ.

Đảng luôn coi trọng công tác tư tưởng, quan tâm phát triển đội ngũ đảng viên.  Không ngừng rèn luyện, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trung kiên, có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín ngang tầm nhiệm vụ.

Đảng luôn đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền, không ngừng nâng cao năng lực trí tuệ, bản lĩnh chính trị và tầm nhìn chiến lược trong hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng. Nâng cao năng lực lãnh đạo các cơ quan nhà nước, các tổ chức khác trong hệ thống chính trị thể chế hóa, cụ thể hóa đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng để tổ chức thực hiện thắng lợi trong thực tiễn.../.

-------------------

(1) Văn kiện Đảng: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 2, tr. 4
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011,  tr. 88
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr. 88
(4) Khoản 1, Điều 4, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2014
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t. 2, tr. 289
(6) Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2023, tr. 5
(7) Đến năm 1988, sau khi Đảng Dân chủ Việt Nam (thành lập năm 1944) và Đảng Xã hội Việt Nam (thành lập năm 1946) tuyên bố tự giải tán, ở Việt Nam chỉ còn một đảng duy nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam
(8) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021, t. I, tr.25
(9) Nguyễn Phú Trọng: Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2023, tr. 369
(10) Khoản 3, Điều 4, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Tlđd
(11) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr.196
(12) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr. 84 - 85
(13) Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày 3-6-2013, của Hội nghị Trung ương 7 khóa XI, về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới”
(14) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 192
(15) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr. 672
(16) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 33
(17) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 33
(18) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 40 - 41


Phòng, chống tham nhũng để tăng cường đại đoàn kết - Tư tưởng nổi bật trong cuốn sách “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng*

TS KHUẤT TRỌNG NAM - LÃ TRỌNG ĐẠI
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng
00:47, ngày 16-01-2024

TCCS - Trong lúc cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở nước ta diễn ra hết sức quyết liệt, cuốn sách “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng được xuất bản. Cuốn sách chứa đựng nhiều quan điểm, tư tưởng quan trọng của đồng chí Tổng Bí thư cũng như của Đảng ta về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, trong đó có mối quan hệ giữa phòng, chống tham nhũng, tiêu cực với tăng cường đoàn kết.

Phòng, chống tham nhũng để tăng cường đoàn kết

Tham nhũng, tiêu cực là kẻ thù số một của khối đoàn kết, thống nhất. Trong các tổ chức đảng, tham nhũng, tiêu cực là một trong những nguyên nhân dẫn đến thiếu thống nhất về chính trị - tư tưởng của đội ngũ cán bộ, đảng viên, làm cho cấp dưới không tin tưởng cấp trên, nguyên tắc tập trung dân chủ bị coi nhẹ; nội bộ xảy ra tình trạng kéo bè kết cánh, phe phái lợi ích, thậm chí triệt hạ lẫn nhau, dẫn đến nguy cơ suy giảm niềm tin vào tổ chức, chế độ. Trong xã hội, tham nhũng, tiêu cực xâm phạm quyền làm chủ và lợi ích của nhân dân, khiến cho nhân dân suy giảm niềm tin vào đội ngũ cán bộ, đảng viên, vào Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa. Tổ chức đảng để xảy ra tình trạng tham nhũng, tiêu cực sẽ không thể phát huy được vai trò là hạt nhân đoàn kết quần chúng. Không những thế, tình trạng tham nhũng, tiêu cực còn tạo cớ cho các thế lực thù địch, phản động lợi dụng xuyên tạc, chống phá, gây chia rẽ trong nội bộ nhân dân và giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Chính vì vậy, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là một trong những biện pháp đặc biệt quan trọng để giữ gìn và củng cố sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Mục tiêu của công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là nhằm làm trong sạch Đảng và bộ máy nhà nước, để phát triển đất nước”(1), đồng thời chỉ rõ cuộc đấu tranh này “góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, tăng cường quốc phòng, an ninh và đối ngoại, đặc biệt là góp phần lấy lại và củng cố niềm tin của nhân dân”(2).

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với đại biểu và cử tri thành phố Hà Nội _Nguồn: nhandan.vn

Thời gian qua, khi Đảng ta đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, bên cạnh sự tin tưởng, phấn khởi của đội ngũ cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân, vẫn có những luồng dư luận tiêu cực. Đồng chí Tổng Bí thư nêu rõ: “Một số ý kiến cho rằng, nếu quá tập trung vào chống tham nhũng sẽ làm “nhụt chí”, “chùn bước” những người dám nghĩ, dám làm, làm “chậm” sự phát triển đất nước”(3). Thực chất, đây là những nhận thức sai lệch của một bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu bản lĩnh chính trị, lập trường tư tưởng không kiên định, vững vàng, là biểu hiện của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, khi đánh đồng những người dám nghĩ, dám làm với làm liều, làm ẩu; đánh đồng việc bao che, né tránh sai lầm, khuyết điểm với sự ổn định của tổ chức. Động cơ thực sự đằng sau những quan điểm này chính là để dung túng, bao che cho các hành vi tham nhũng, tiêu cực; làm giảm quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân ta trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng và xây dựng, làm trong sạch Đảng và bộ máy nhà nước chỉ làm “chùn bước” những ai có động cơ không trong sáng, đã trót “nhúng chàm” và những người không nắm vững chủ trương, chính sách của Đảng, thiếu bản lĩnh, thiếu kiến thức và kinh nghiệm”(4).

Bên cạnh đó, các thế lực xấu, thù địch đã và đang ra sức tuyên truyền luận điệu sai trái cho rằng: Đảng ta đấu tranh phòng, chống tham nhũng, xử lý cán bộ, đảng viên sai phạm là “đấu đá nội bộ”. Đây là luận điệu hết sức thâm độc, nguy hiểm, mưu toan xóa đi ý nghĩa tích cực của cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, biến thành một hoạt động mang đầy động cơ tiêu cực. Nó trực tiếp phá hoại khối đoàn kết, thống nhất trong Đảng, khiến cho chính những người đang kiên cường đấu tranh với sai phạm, khuyết điểm phải mang tiếng xấu. Đáng lo ngại hơn, những luận điệu sai trái này lại đang có ảnh hưởng ở mức độ nhất định trong một bộ phận nhân dân, gây ra sự hoang mang, dao động, nghi ngờ của nhân dân với Đảng, Nhà nước. Trong cuốn sách, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhận diện đích xác những âm mưu này, đồng thời chỉ rõ: “Đây là cuộc đấu tranh chống “giặc nội xâm”, không phải là cuộc đấu giữa các “phe cánh” hay “đấu đá nội bộ”, như có người không hiểu hoặc cố tình xuyên tạc với động cơ sai, dụng ý xấu”(5). Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Mục đích của việc xử lý tham nhũng, tiêu cực là để “trị bệnh cứu người”, kỷ luật một vài người để cứu muôn người”(6). Đương nhiên, những luận điệu xuyên tạc, phản động ấy không thể làm “chùn bước” cuộc đấu tranh của chúng ta, song cũng không thể xem nhẹ, coi thường.

Thực tiễn những năm qua cho thấy, những kết quả mà chúng ta đạt được trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đã góp phần quan trọng làm trong sạch Đảng và bộ máy nhà nước, củng cố sự đoàn kết, thống nhất trong nội bộ Đảng, đồng thời giữ vững và tăng cường niềm tin của các tầng lớp nhân dân.

Tăng cường đoàn kết để đấu tranh phòng, chống tham nhũng

Để đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực có hiệu quả, việc giữ vững, củng cố khối đoàn kết, thống nhất trong Đảng, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Trong cuốn sách, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã không chỉ nêu lên sự cần thiết phải tăng cường đoàn kết mà còn chỉ ra nguyên tắc, điều kiện để khối đoàn kết toàn Đảng, toàn dân tộc trở thành sức mạnh ngăn chặn, đẩy lùi tệ nạn tham nhũng, tiêu cực.

Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”(7). Nhấn mạnh tầm quan trọng của đoàn kết, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Đoàn kết nhất trí là truyền thống rất quý báu của Đảng ta. Ngay cả những lúc cách mạng gặp sóng gió, khó khăn, ở những bước ngoặt phức tạp của lịch sử, Đảng ta luôn luôn giữ vững khối đoàn kết thống nhất. Nhờ đó, Đảng đã lãnh đạo và đoàn kết được toàn dân, đưa sự nghiệp cách mạng không ngừng tiến lên”(8).

Hiện nay, tham nhũng, tiêu cực đang là một trong những thách thức lớn nhất đe dọa sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Những năm qua, tham nhũng, tiêu cực diễn biến phức tạp, tinh vi, len lỏi vào sâu trong bộ máy Đảng, Nhà nước; nhiều cán bộ, trong đó có cả một số cán bộ giữ chức vụ, vị trí cao đã “nhúng chàm”. Những cán bộ thoái hóa, biến chất kết bè kéo cánh, thông đồng, cấu kết, hình thành “nhóm lợi ích”, trục lợi cả cơ chế, chính sách, pháp luật. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu rõ: “Nhiều người có quan hệ trực tiếp với vật tư, hàng, tiền, đã lợi dụng chức quyền và điều kiện công tác để tham ô, buôn lậu, ăn cắp của công, ăn hối lộ, thông đồng với bọn gian thương, tư sản để làm giàu. Điều nghiêm trọng là có không ít cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ cao cấp, đảng viên lâu năm bị những ham muốn vật chất cám dỗ, cũng chạy theo tiền tài, địa vị, sống ích kỷ, buông thả, tự do chủ nghĩa… Đông đảo cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân rất bức xúc, bất bình trước những hiện tượng đó và lo ngại về sự xói mòn bản chất giai cấp công nhân và truyền thống tốt đẹp của Đảng”(9). Do đó, hơn lúc nào hết, cán bộ, đảng viên chân chính phải đồng lòng, quyết tâm, đoàn kết chặt chẽ cùng với Đảng tham gia đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đặc biệt nhấn mạnh: “Ngày nay, trong hoàn cảnh mới của đất nước, trước những khó khăn về kinh tế và đời sống, trước một số hiện tượng tiêu cực trong Đảng và trong xã hội ta, kẻ thù đang âm mưu phá hoại, kích động chia rẽ nội bộ Đảng, chia rẽ Đảng với nhân dân, chia rẽ cấp dưới với cấp trên, chia rẽ miền Nam với miền Bắc... Vì vậy, hơn bao giờ hết, chúng ta càng phải chăm lo củng cố và tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”(10).

Để xây dựng khối đoàn kết vững mạnh, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh trước hết cần chú trọng xây dựng khối đoàn kết, thống nhất trong các cơ quan lãnh đạo của Đảng, bởi “chăm lo giữ gìn sự đoàn kết nhất trí trong các cơ quan lãnh đạo của Đảng là cơ sở để tăng cường đoàn kết nhất trí trong toàn Đảng”(11). Đồng thời, phải biến việc xây dựng khối đoàn kết thống nhất thành quan điểm, chủ trương và đi vào hành động cụ thể của mọi cấp ủy, tổ chức đảng và người đứng đầu các cấp. Tổng Bí thư chỉ rõ: “Cấp ủy, tổ chức đảng và người đứng đầu các cấp phải thật sự đoàn kết, nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá đúng sự thật, nhất là phải có những giải pháp đủ mạnh, những việc làm cụ thể để làm chuyển biến rõ rệt tình hình; kết hợp hài hòa giữa “xây” và “chống”; tập trung giải quyết dứt điểm những vụ việc bức xúc đã được chỉ ra”(12).

Trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực hiện nay, cần đặc biệt quan tâm việc xây dựng, củng cố sự đoàn kết, thống nhất trong các cơ quan trực tiếp tiến hành đấu tranh, trong đó đi đầu là Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, tiếp đó là các cơ quan thuộc khối nội chính và các cơ quan, tổ chức khác có liên quan. Đây là những cơ quan “đầu sóng ngọn gió”, là “bộ não” của toàn bộ hoạt động đấu tranh. Tổng Bí thư yêu cầu: “Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng phải là một tập thể mạnh, đoàn kết thống nhất cao, gắn bó chặt chẽ. Mỗi thành viên của Ban, mỗi cán bộ làm việc trong lĩnh vực phòng, chống tham nhũng phải hết sức gương mẫu, công tâm, trong sạch, thực hiện đúng bốn chữ: liêm - dũng - chính - trực. Tức là phải liêm khiết, dũng cảm, ngay thẳng, cương trực. Không bị cám dỗ bởi bất cứ lợi ích nào và cũng không ngại bất cứ lực cản không trong sáng nào. Bản thân mình có sạch sẽ thì mới chống tham nhũng được”(13). Đồng thời, “phải có sự đoàn kết, phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng, đồng bộ giữa các cơ quan nội chính với nhau và với các cơ quan, tổ chức khác có liên quan trong thực hiện nhiệm vụ trên cơ sở quy định của Đảng, Nhà nước; bảo đảm “đúng vai, thuộc bài”, tránh tình trạng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”, “quyền anh, quyền tôi”, “cua cậy càng, cá cậy vây”(14).

Nhấn mạnh tầm quan trọng của việc củng cố đoàn kết, thống nhất trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, đồng chí Tổng Bí thư cũng chỉ rõ phải có nhận thức đúng đắn, rõ ràng về đoàn kết, phân biệt đoàn kết thực sự với thói cục bộ, bè phái, bản vị; đồng thời phân biệt giữa việc tranh luận ý kiến trong Đảng với tình trạng mất đoàn kết. Theo Tổng Bí thư, “Sự đoàn kết thống nhất trong Đảng phải được xây dựng trên cơ sở đường lối chính trị đúng đắn, tình cảm cách mạng trong sáng, kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân; đồng thời, thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng, thực hiện chính sách cán bộ một cách nhất quán, công bằng”(15); “Mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cục bộ, địa phương, thiếu công bằng, bệnh quan liêu, không sâu sát đều dẫn tới những hậu quả tiêu cực trong việc sắp xếp, bố trí cán bộ, ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện nhiệm vụ chính trị và sự đoàn kết thống nhất trong Đảng”(16). Đảng ta mang bản chất cách mạng của giai cấp công nhân, bản chất ấy “không tương dung với chủ nghĩa phường hội, cục bộ, bản vị, phân tán. Trái lại, nó đòi hỏi phải có tư tưởng thống nhất, hành động thống nhất, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân và tập thể, bộ phận và toàn cục”(17). Đoàn kết, thống nhất trong Đảng phải được xây dựng trên tình đồng chí của những người cộng sản. Tổng Bí thư nêu rõ: “Những người cộng sản công tác ở cùng một lĩnh vực hoặc ở các lĩnh vực khác nhau, dù trẻ hay già, có cương vị công tác cao hay thấp, luôn luôn đoàn kết, hợp tác chặt chẽ với nhau, giúp đỡ lẫn nhau hoàn thành tốt nhiệm vụ được phân công, phấn đấu thực hiện tốt các chủ trương, nghị quyết của Đảng”(18).

Trong Đảng, cần phải coi việc tranh luận, thảo luận là sinh hoạt bình thường và lành mạnh, thậm chí rất cần thiết để đi đến thống nhất chung, đồng thời giúp cho đường lối, quan điểm của Đảng luôn đúng đắn, phù hợp. Tổng Bí thư nhấn mạnh: “Không nên đồng nhất việc trong Đảng có những ý kiến khác nhau khi thảo luận, tranh luận với tình trạng mất đoàn kết. Trước sự phát triển của cách mạng, có nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn rất phức tạp, chưa sáng tỏ, trong Đảng cần có thảo luận, tranh luận. Đây là sinh hoạt bình thường và lành mạnh trong Đảng, phản ánh bước trưởng thành của Đảng. Nếu mọi cán bộ, đảng viên đều nghiêm túc chấp hành nghị quyết của tổ chức, đồng thời biết lắng nghe, tôn trọng ý kiến của nhau, có việc phải chờ đợi nhau, giải quyết có lý có tình, không vội vàng quy chụp, thì sẽ giữ gìn được sự đoàn kết”(19).

Cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Biên phòng tỉnh Kiên Giang nghiên cứu tác phẩm “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng _Ảnh: TTXVN

Để xây dựng sự đoàn kết, nhất trí trong Đảng, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, Tổng Bí thư nêu rõ phải giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, đồng thời nâng cao chất lượng tự phê bình và phê bình. Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản có ý nghĩa quyết định sự tồn tại và phát triển của Đảng ta. Giữ vững nguyên tắc này vừa là cơ sở để Đảng ta phát huy trí tuệ sáng tạo của mọi cán bộ, đảng viên, vừa gắn trách nhiệm của người đứng đầu vào mọi công việc, đồng thời hạn chế được tình trạng lạm quyền, tham nhũng, tiêu cực. Thực tế cho thấy, ở đâu, lúc nào nguyên tắc tập trung dân chủ không được duy trì nghiêm túc thì ở đó, khi đó tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực sẽ nảy sinh, tổ chức đảng sẽ rơi vào tình trạng yếu kém, mất sức chiến đấu. Vì vậy, để phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, nhất quyết phải giữ vững nguyên tắc này. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Bản chất giai cấp công nhân đòi hỏi Đảng phải được tổ chức chặt chẽ và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thường xuyên tự phê bình và phê bình, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Mọi sự chia rẽ, bè phái, buông lỏng kỷ luật đều trái với bản chất giai cấp công nhân của Đảng”(20). Tổng Bí thư cũng đặc biệt nhấn mạnh: “Phải giữ vững quy chế làm việc theo đúng nguyên tắc tập trung dân chủ và tập thể lãnh đạo. Những vấn đề quan trọng phải trải qua thảo luận tập thể, biểu quyết và chấp hành theo nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số”(21).

Cùng với việc duy trì nguyên tắc tập trung dân chủ, mọi tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên phải thường xuyên, tích cực tự phê bình và phê bình. Đây chính là con đường, phương thức căn bản để làm trong sạch nội bộ, đồng thời củng cố khối đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Tổng Bí thư yêu cầu: “Thực hiện nghiêm túc chế độ tự phê bình và phê bình. Chăm lo củng cố sự đoàn kết thống nhất trong Đảng trên cơ sở đường lối chính trị, nguyên tắc tổ chức và tình thương yêu đồng chí. Tập trung giải quyết tình trạng mất đoàn kết ở một số nơi. Kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng kèn cựa địa vị, tranh giành ngôi thứ, lợi lộc, cũng như đầu óc cục bộ, bản vị; bồi dưỡng tình yêu thương đồng chí, tôn trọng lẫn nhau, vì sự nghiệp chung”(22). Đồng chí Tổng Bí thư cũng căn dặn muốn tự phê bình và phê bình đi vào thực chất, hiệu quả thì mỗi cá nhân, tổ chức đều phải thực sự nghiêm túc, chuẩn bị chu đáo, tỉ mỉ, đồng thời kiên quyết đấu tranh với việc lợi dụng kiểm điểm, tự phê bình và phê bình để thực hiện những động cơ không trong sáng. “Việc kiểm điểm, tự phê bình và phê bình cần được chuẩn bị thật chu đáo, chỉ đạo tỉ mỉ, chặt chẽ, tiến hành nghiêm túc, thận trọng; làm đến đâu chắc đến đó, đạt kết quả cụ thể, thực chất. Hết sức tránh làm lướt, làm qua loa, hình thức, chiếu lệ. Khắc phục tình trạng xuê xoa, nể nang, thậm chí biến cuộc họp tự phê bình và phê bình thành nơi vuốt ve, ca tụng lẫn nhau; cũng như tình trạng lợi dụng để “đấu đá”, “hạ bệ” nhau với những động cơ không trong sáng. Nghiêm khắc xử lý những trường hợp trù dập phê bình và vu cáo người khác. Kinh nghiệm cho thấy, muốn tự phê bình và phê bình có kết quả tốt, điều quan trọng là phải thật sự phát huy dân chủ trong Đảng, người đứng đầu phải gương mẫu và phải có các hình thức dân chủ để quần chúng đóng góp phê bình cán bộ, đảng viên và phải nghiêm túc tiếp thu những ý kiến phê bình đúng đắn”(23).

Trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở nước ta hiện nay, bên cạnh việc củng cố sự đoàn kết, nhất trí trong toàn Đảng, cần đặc biệt quan tâm đến việc phát huy vai trò, sức mạnh của các tầng lớp nhân dân, tăng cường sự gắn bó máu thịt giữa nhân dân với Đảng. Tại Đại hội XIII, Đảng ta cũng xác định phải phát huy vai trò của nhân dân trong tham gia đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực: “Phát huy vai trò, trách nhiệm của các cơ quan và đại biểu dân cử, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, nhân dân và cơ quan truyền thông, báo chí trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí; nâng cao hiệu quả phát hiện và xử lý tham nhũng, lãng phí”(24). Những quan điểm, tư tưởng này cũng được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đặc biệt nhấn mạnh: “Sức mạnh và động lực to lớn của cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là sự đồng tình, ủng hộ, hưởng ứng, tham gia tích cực của nhân dân và cả hệ thống chính trị, báo chí, mà nòng cốt là các cơ quan có chức năng phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, như nội chính, kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Nếu không dựa vào dân thì cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực khó có thể thành công. Dựa vào dân, lắng nghe dân, lắng nghe dư luận để chọn lọc tiếp thu cái đúng; phải động viên quần chúng, phải thực hành dân chủ, phải làm cho quần chúng hiểu rõ, làm cho quần chúng hăng hái tham gia mới chắc chắn thành công”(25).

Có thể nói, cuốn sách “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng vừa chứa đựng những quan điểm lý luận căn bản của Đảng ta về đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, vừa kết tinh trí tuệ, tâm huyết, trách nhiệm của người giữ cương vị, trọng trách cao nhất trong Đảng đối với vấn đề này. Những quan điểm, tư tưởng ấy của Tổng Bí thư  - trong đó có quan điểm về mối quan hệ gắn bó biện chứng giữa phòng, chống tham nhũng, tiêu cực với tăng cường đoàn kết - có giá trị to lớn trong việc định hướng tư tưởng, nhận thức, hành động và cổ vũ toàn Đảng, toàn dân ta tiếp tục kiên quyết, kiên trì đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực trong thời gian tới./.

------------------------------------

* Nguyễn Phú Trọng: Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tháng 2-2023
(1), (2), (3), (4), (5), (6) Nguyễn Phú Trọng, Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2023, tr. 14, 126, 126, 126, 14, 24
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.15, tr. 622
(8), (9), (10), (11), (12), (13), (14), (15), (16), (17), (18), (19), (20), (21), (22), (23) Nguyễn Phú Trọng, Sđd, tr. 221 - 222, 234 - 235, 222, 222, 394, 146, 423, 258, 212, 255, 486 - 487, 258, 255, 222, 281, 319
(24) Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2019, p. I, tr. 196
(25) Nguyễn Phú Trọng, Sđd, tr. 21


Xây dựng “thế trận lòng dân” trên không gian mạng để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

NGUYỄN VĂN GẤU
Ủy viên Trung ương Đảng, Trung tướng, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam
19:51, ngày 28-12-2023

TCCS - Xây dựng “thế trận lòng dân” trên không gian mạng để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ trương đúng đắn, nhất quán, thể hiện tư duy mới, tầm nhìn chiến lược của Đảng và Nhà nước ta. Để thực hiện chủ trương này một cách hiệu quả, cần kiên trì, kiên quyết, triển khai đồng bộ các giải pháp; có lộ trình cụ thể, tiến hành thận trọng, từng bước, chủ động bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật và kịp thời phát hiện, giải quyết khó khăn, vướng mắc ngay từ cơ sở.

1- Hiện nay, với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, nhất là sự bùng nổ của viễn thông, internet, không gian mạng trở thành môi trường đặc biệt để các quốc gia khai thác, phục vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia - dân tộc. Đối với Việt Nam, sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin là một trong những cơ hội để đi tắt, đón đầu, phát triển đất nước nhanh và bền vững dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước. Tuy nhiên, không gian mạng cũng là môi trường để các thế lực thù địch, phản động triệt để lợi dụng để đăng tải nội dung chống phá cách mạng Việt Nam trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong đó, chúng sử dụng không gian mạng như một công cụ đắc lực để chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng bằng nhiều thủ đoạn mới ngày càng tinh vi, xảo quyệt, trắng trợn hơn.

Ngày 22-10-2018, Bộ Chính trị khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 35-NQ/TW, “Về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”. Nghị quyết xác định việc bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác có hiệu quả các quan điểm sai trái, thù địch là một nội dung cơ bản, hệ trọng, sống còn của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, trong đó lực lượng tuyên giáo các cấp là nòng cốt; là công việc tự giác, thường xuyên của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và đoàn thể chính trị - xã hội các cấp; của từng địa phương, cơ quan, đơn vị, của từng cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu. Trong thực tiễn, Đảng và Nhà nước ta đã tiến hành đồng bộ, toàn diện nhiều chủ trương, giải pháp để thực hiện nghị quyết này; trong đó, xây dựng “thế trận lòng dân” trên không gian mạng để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là một trong những giải pháp cơ bản, quan trọng nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Khơi dậy tinh thần yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, tinh thần cảnh giác, hình thành phong trào hành động cách mạng sâu rộng của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta trong xây dựng “thế trận lòng dân” trên không gian mạng để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng _Ảnh: Hà Quốc Thái

Thực hiện chủ trương của Đảng, trong những năm qua, cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền các cấp đã lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai nhiều giải pháp về công tác tổ chức, lực lượng, đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp tiến hành; chú trọng phát huy tốt vai trò của các tổ chức, lực lượng, nhất là đội ngũ cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân; đề cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp trong xây dựng “thế trận lòng dân” trên không gian mạng để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Các cơ quan chức năng đã chủ động làm tốt công tác nghiên cứu chiến lược, nắm bắt, đánh giá, dự báo đúng tình hình, nhất là những vấn đề về âm mưu, thủ đoạn, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước nhiều giải pháp có ý nghĩa chiến lược trong thực hiện nhiệm vụ này. Chúng ta đã phát huy sức mạnh tổng hợp của cơ quan báo chí, xuất bản, truyền thông, vận dụng tổng hợp hình thức, phương pháp tuyên truyền, đấu tranh; kết hợp chặt chẽ với đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả tuyên truyền miệng, tuyên truyền đối ngoại, tuyên truyền trên internet, mạng xã hội và các kênh truyền thông khác, góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng; đồng thời, chủ động tăng cường thông tin tích cực đi đôi với phòng ngừa, tích cực đấu tranh phản bác thông tin xấu, độc, sai trái, thù địch trên không gian mạng; kết hợp phòng thủ tích cực, vững chắc với tiến công đáp trả, kịp thời ngăn chặn, xử lý các tình huống trên không gian mạng một cách linh hoạt và hiệu quả, không để bị động, bất ngờ. Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “... công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch được lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, chuyển biến tích cực”(1).

Cùng với đó, Nhà nước đã ban hành, sửa đổi hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm bảo đảm an toàn, an ninh mạng; đồng thời, nâng cao hiệu lực, hiệu quả việc xây dựng “thế trận lòng dân” trên không gian mạng theo cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước thống nhất quản lý, các ban, bộ, ngành trung ương tham mưu, cùng các địa phương tổ chức thực hiện. Đặc biệt, Nhà nước đã kịp thời bổ sung, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật để bảo đảm xử lý nghiêm tổ chức và cá nhân đưa tin sai sự thật, xấu, độc trên không gian mạng. Đảng, Nhà nước, cấp ủy, chính quyền các cấp đã chú trọng khơi dậy lòng yêu nước, tự hào dân tộc, củng cố niềm tin của người dân vào chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; nâng cao ý thức trách nhiệm, trình độ nhận thức, ý chí của người dân; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ, quyết liệt công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, mang lại hiệu quả rõ rệt; chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của người dân và thường xuyên chú trọng xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần quy tụ, tập hợp các tầng lớp nhân dân, tạo sự đồng thuận trong nhân dân, củng cố niềm tin của nhân dân đối với đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đó là nền tảng cơ bản để xây dựng thành công “thế trận lòng dân” trên không gian mạng, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới.

Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, cả khách quan và chủ quan, nhiệm vụ xây dựng “thế trận lòng dân” trên không gian mạng để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng còn có mặt hạn chế: Công tác lãnh đạo, chỉ đạo của một số cấp ủy, chính quyền đối với nhiệm vụ quan trọng này chưa được quan tâm đúng mức, tổ chức thực hiện chưa quyết liệt và chưa hiệu quả. Một số cơ quan, đơn vị, địa phương chưa huy động và phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị; vẫn còn không ít cán bộ, đảng viên và người dân thờ ơ, đứng ngoài cuộc, có biểu hiện né tránh, hoặc coi đây chỉ là nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước và các cơ quan chức năng. Công tác thông tin, tuyên truyền về một số chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về xây dựng “thế trận lòng dân” trên không gian mạng chưa thường xuyên, kịp thời, chưa đáp ứng được sự mong đợi của nhân dân. “Công tác đấu tranh phản bác, ngăn chặn các thông tin xấu độc, quan điểm sai trái, thù địch có lúc, có nơi còn bị động, thiếu sắc bén, tính chiến đấu chưa cao; công tác nắm bắt dư luận trước những sự kiện, tình huống bất ngờ còn chưa kịp thời”(2). Trước các thủ đoạn, phương thức ngày càng tinh vi, xảo quyệt của các thế lực thù địch chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng trên không gian mạng, một bộ phận cán bộ, đảng viên và tầng lớp nhân dân có biểu hiện chủ quan, lơ là, mất cảnh giác; chưa thể hiện tinh thần trách nhiệm, chính kiến khi tham gia mạng xã hội, thiếu ý thức hành động phản bác những luận điệu xuyên tạc chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng; thậm chí, một số người còn có biểu hiện lệch lạc về quan điểm trên internet, mạng xã hội, hoặc phụ họa, vô tình tiếp tay cho các thế lực thù địch tán phát các quan điểm sai trái, phản động...

2- Dự báo trong những năm tới, các thế lực thù địch, nhất là số đối tượng phản động, phần tử cơ hội chính trị sẽ tiếp tục triệt để lợi dụng không gian mạng để chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng với phương thức, thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt, trắng trợn hơn. Chúng sử dụng phổ biến nhất là các phương thức liên lạc qua giải pháp cung cấp nội dung, như hình ảnh, tin nhắn, gọi điện cho người dùng (OTT) để lập hội kín, nhóm kín trên không gian mạng, từ đó móc nối, lôi kéo thành viên tham gia. Thông qua các trang mạng xã hội, như Zalo, Facebook, Youtube... các đối tượng này tổ chức các lớp học trực tuyến về cái gọi là “xã hội dân sự”, “dân chủ, nhân quyền”, tuyên truyền về cái gọi là “phương pháp đấu tranh bất bạo động”. Chúng triệt để lợi dụng các diễn đàn trên không gian mạng nhằm tác động, chuyển hóa tư tưởng của một bộ phận cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân; lợi dụng các sự kiện chính trị, xã hội trong và ngoài nước để bóp méo, xuyên tạc với thủ đoạn hết sức tinh vi, hòng kích động, thúc đẩy các luồng dư luận trái chiều, lôi kéo các tầng lớp nhân dân tham gia, gây áp lực với chính quyền, từ đó thực hiện âm mưu chống phá và lật đổ chế độ... Vì vậy, cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trên không gian mạng tiếp tục diễn ra phức tạp và ngày càng quyết liệt; trách nhiệm của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta trên trận tuyến này cũng sẽ ngày càng nặng nề hơn. Theo đó, xây dựng “thế trận lòng dân” trên không gian mạng để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng vẫn là một trong những chủ trương lớn, đúng đắn, vừa mang tính cấp bách, vừa mang tính thường xuyên, lâu dài; đòi hỏi toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta tập trung thực hiện tốt một số nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu sau:

Một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý của Nhà nước trong xây dựng “thế trận lòng dân” trên không gian mạng.

Đây là vấn đề cơ bản, quan trọng, xuyên suốt để xây dựng thành công “thế trận lòng dân” trên không gian mạng, giữ vai trò định hướng trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; đồng thời, là một trong những nhiệm vụ quan trọng của Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị. Cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, cơ quan, đơn vị, địa phương cần nhận thức rõ xây dựng “thế trận lòng dân” trên không gian mạng để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là một nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài; từ đó, đề cao vai trò, trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn và tổ chức thực hiện.

Cần tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, tổ chức đảng; sự quản lý của chính quyền và vai trò trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong triển khai, tổ chức thực hiện nhiệm vụ xây dựng “thế trận lòng dân” trên không gian mạng để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Tập trung xây dựng, bổ sung, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách; kiện toàn tổ chức, bộ máy của các cơ quan quản lý nhà nước về không gian mạng và thực hiện nhiệm vụ xây dựng “thế trận lòng dân” trên không gian mạng. Coi trọng việc thực thi pháp luật về công nghệ thông tin, viễn thông, an toàn thông tin mạng từ Trung ương đến địa phương; xây dựng và hoàn thiện cơ chế trao đổi, chia sẻ thông tin và quy trình phối hợp xử lý thông tin chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng trên không gian mạng.

Hai là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của toàn xã hội và từng người dân đối với nhiệm vụ xây dựng “thế trận lòng dân” trên không gian mạng.

Cấp ủy, chính quyền các cấp, cơ quan, đơn vị cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về vị trí, vai trò, tầm quan trọng; cơ sở lý luận, thực tiễn của nhiệm vụ xây dựng “thế trận lòng dân” trên không gian mạng. Tuyên truyền về kết quả đạt được và hạn chế, bất cập; nắm chắc nội dung, yêu cầu, thấy rõ thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đang đặt ra... Trên cơ sở đó, làm cho mọi tổ chức, lực lượng và toàn xã hội nhận thức rõ đây là chủ trương lớn, lâu dài, nhất quán của Đảng và Nhà nước ta; là yêu cầu khách quan để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong điều kiện mới; là nghĩa vụ, trách nhiệm của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân và của cả hệ thống chính trị.

Công tác tuyên truyền, giáo dục cần được tiến hành thường xuyên, liên tục, đồng bộ, toàn diện và có chiều sâu; chú trọng đổi mới nội dung, vận dụng linh hoạt, sáng tạo các hình thức, phương pháp tuyên truyền, giáo dục phù hợp với từng đối tượng; gắn với phong trào thi đua yêu nước và các phong trào, cuộc vận động của các cấp, các ngành để thu hút đông đảo mọi người tham gia, tạo ra các hoạt động sôi nổi, có sức lan tỏa mạnh mẽ. Kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục thường xuyên với giáo dục chuyên đề gắn với các sự kiện chính trị quan trọng của đất nước. Tận dụng thế mạnh không gian mạng và phát huy vai trò của cơ quan báo chí, xuất bản, truyền thông, đội ngũ giảng viên, báo cáo viên, tuyên truyền viên, các thiết chế văn hóa ở cơ sở để đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức của tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đoàn thể nhân dân, doanh nghiệp và toàn xã hội; xác định rõ và thực hiện tốt nhiệm vụ, trách nhiệm, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong xây dựng “thế trận lòng dân” trên không gian mạng để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. 

Phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, lực lượng trong xây dựng “thế trận lòng dân” trên không gian mạng _Ảnh: Tư liệu

Ba là, phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, lực lượng trong xây dựng “thế trận lòng dân” trên không gian mạng.

Trước hết, cần nhận thức rõ xây dựng “thế trận lòng dân” trên không gian mạng để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là trách nhiệm của các cấp, các ngành, các tổ chức, lực lượng; từ đó, tăng cường phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, lực lượng, trong đó cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền các cấp, đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là lực lượng tuyên giáo các cấp, lực lượng quân đội và công an đóng vai trò tiên phong, nòng cốt, xung kích đi đầu. Cùng với đó, cần phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội các cấp; khơi dậy tinh thần yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, tinh thần cảnh giác, hình thành phong trào hành động cách mạng sâu rộng của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta trong xây dựng “thế trận lòng dân” trên không gian mạng để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành, các cơ quan, đơn vị, giữa Trung ương và địa phương nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng, các “binh chủng” cùng tham gia. Xây dựng và hoàn thiện cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các hoạt động báo chí, xuất bản, phát thanh, truyền hình, văn hóa, văn nghệ...; nâng cao vai trò trách nhiệm của cơ quan thông tấn, báo chí; đồng thời, khai thác ưu thế và phát huy sức mạnh tổng hợp của các công cụ, phương tiện tiến hành công tác tư tưởng - văn hóa của toàn xã hội trong xây dựng “thế trận lòng dân” trên không gian mạng để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Đặc biệt, cần tổ chức triển khai thực hiện nhiệm vụ này thường xuyên, liên tục và rộng khắp từ Trung ương đến địa phương, ở mọi cấp, mọi ngành, cơ quan, đơn vị. Quan tâm xây dựng các lực lượng chuyên trách, mà nòng cốt là các chuyên gia, nhà khoa học, ban chỉ đạo 35 các cấp, lực lượng đấu tranh trên không gian mạng. Phát huy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp... cùng tham gia xây dựng “thế trận lòng dân” trên không gian mạng để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Bốn là, kiên quyết đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng trên không gian mạng.

Các cơ quan chức năng cần chủ động nghiên cứu, dự báo, đánh giá và nhận diện đúng bản chất, âm mưu, thủ đoạn, hoạt động chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng trên không gian mạng của các thế lực thù địch; đồng thời, thường xuyên quán triệt, thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ, quan điểm, phương châm, giải pháp của Đảng, Nhà nước về đấu tranh phòng, chống âm mưu “diễn biến hòa bình”; vạch trần những quan điểm sai trái, thù địch, những luận điệu xuyên tạc, bóp méo sự thật của các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị trên không gian mạng hòng chống phá Đảng, Nhà nước và sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.

Tập trung xây dựng và đề cao tinh thần cảnh giác cách mạng, bồi đắp niềm tin, sự kiên định, vững vàng về chính trị, tư tưởng trong đội ngũ cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân, không để sơ hở khiến các thế lực thù địch lợi dụng kích động. Nâng cao năng lực phòng, chống, “tự đề kháng”, “tự miễn dịch” trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân trước âm mưu, thủ đoạn, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch trên không gian mạng; nâng cao trình độ khai thác, sử dụng internet, mạng xã hội một cách hiệu quả, thiết thực và lành mạnh.

Chủ động nắm bắt, đánh giá và dự báo chính xác tình hình tư tưởng, dư luận trong cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân; chỉ đạo, xử lý kịp thời các vấn đề bức xúc nảy sinh ở từng địa bàn để giữ vững ổn định chính trị - xã hội, không để hình thành các “điểm nóng”, tạo cớ cho các thế lực thù địch chống phá. Chú trọng tới thông tin trái chiều, tăng cường đối thoại, lắng nghe thông tin từ cơ sở. Thường xuyên lãnh đạo, quản lý, nắm chắc và phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống thông tin đại chúng, kịp thời cung cấp thông tin, định hướng nhận thức, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân, tạo dư luận tích cực và đồng thuận trong xã hội, lấy cái đẹp dẹp cái xấu; đấu tranh phê phán các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng theo hướng chủ động, có tính thuyết phục cao, hấp dẫn. Tăng cường công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, làm sáng tỏ hơn nữa cơ sở khoa học và thực tiễn của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng... Xây dựng các luận cứ, luận điểm mang tính khoa học, sắc bén, thuyết phục trong đấu tranh tư tưởng, lý luận. 

Năm là, thường xuyên làm tốt công tác sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm trong xây dựng “thế trận lòng dân” trên không gian mạng.

Thực tiễn, kinh nghiệm tổ chức hoạt động này trong những năm qua cho thấy: Cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, cơ quan, đơn vị, địa phương nào làm tốt công tác sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm thì việc xây dựng “thế trận lòng dân” trên không gian mạng để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ở nơi đó có được hiệu quả thiết thực. Ngược lại, nơi nào làm không tốt thì có nhiều hạn chế, yếu kém.

Để phát huy ưu điểm và khắc phục kịp thời những hạn chế, yếu kém, một mặt, các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, cơ quan, đơn vị, địa phương cần coi trọng làm tốt công tác sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm, đánh giá đúng ưu điểm cũng như hạn chế, khuyết điểm và chỉ rõ nguyên nhân của khó khăn, vướng mắc, bất cập trong quá trình tổ chức thực hiện; phát hiện tập thể, cá nhân và những nơi làm tốt, có cách làm tốt, mô hình hay, sáng tạo, hiệu quả nhằm kịp thời biểu dương, phổ biến, nhân rộng trên phạm vi cả nước để tổ chức, cơ quan, đơn vị, địa phương và mọi người học tập, làm theo; mặt khác, kiên quyết chấn chỉnh, nhắc nhở tập thể, cá nhân có nhận thức lệch lạc, có khuyết điểm và biểu hiện vi phạm các quy định, hướng dẫn, hoặc những nơi làm chưa tốt, hiệu quả chưa cao, chưa tạo thành phong trào rộng khắp trong mỗi tổ chức, cơ quan, đơn vị, địa phương. Cấp ủy, chính quyền các cấp cần đề cao vai trò, trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn và tổ chức thực hiện công tác sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm. Tuyệt đối tránh những biểu hiện hình thức, làm qua loa, đại khái; đồng thời, qua sơ kết, tổng kết phải đúc rút thành những bài học kinh nghiệm quý để tiếp tục vận dụng vào công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, hướng dẫn và tổ chức thực hiện ở các cấp, tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và hành động của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, cơ quan, đơn vị, địa phương và từng cá nhân trong xây dựng “thế trận lòng dân” trên không gian mạng để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Thực hiện tốt những nhiệm vụ và giải pháp nói trên là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta, của cả hệ thống chính trị, mà trước hết và chủ yếu là của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, cơ quan, đơn vị, địa phương và của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu./.

------------------

(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 74
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 91