24/10/2019 | 15:43 PM

Xem với cỡ chữ

Khoác áo “chủ nghĩa khách quan” trong nghiên cứu khoa học - Mối nguy hại cần bóc trần và loại bỏ

HOÀNG CHÍ BẢO
GS, TS, chuyên gia cao cấp, nguyên Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương
15:43, ngày 24-10-2019

TCCS - Chủ nghĩa khách quan theo nghĩa đúng đắn, thực chất của khái niệm này chính là thái độ, quan điểm tôn trọng sự thật khách quan, luôn xuất phát từ hiện thực khách quan, tức là thực tiễn để nghiên cứu. Tôn trọng “cái khách quan”, hiện thực khách quan đòi hỏi phải nhận thức hiện thực khách quan đúng với bản chất của nó. Khoác áo “chủ nghĩa khách quan” trong nghiên cứu khoa học, nhất là trong nghiên cứu lý luận chính trị rất nguy hại, bởi hệ quả mà nó gây ra tác động tiêu cực trực tiếp tới nhận thức, niềm tin và hành động của giới nghiên cứu khoa học. Và yêu cầu nghiêm túc đặt ra với người nghiên cứu là phải tôn trọng sự thật khách quan, bảo vệ chân lý khách quan và tỏ rõ lập trường, quan điểm nhất quán trong nghiên cứu, trung thực về đạo đức, trung thành với chân lý.

Yêu cầu tối quan trọng đặt ra với người nghiên cứu là phải tôn trọng sự thật khách quan, bảo vệ chân lý và tỏ rõ lập trường, quan điểm nhất quán, trung thực về đạo đức _Nguồn: khoahocphattrien.vn

V. I.  Lê-nin coi quan điểm thực tiễn, quan điểm đời sống là quan điểm cơ bản, số một, hàng đầu của lý luận nhận thức. Tôn trọng “cái khách quan”, hiện thực khách quan đòi hỏi phải nhận thức hiện thực khách quan đúng với bản chất của nó. Chủ nghĩa khách quan chân chính xa lạ với “chủ nghĩa tự nhiên” vốn coi mọi biểu hiện, thậm chí một biểu hiện đơn lẻ, nhất thời, tạm thời, bộ phận, cục bộ nào đó của sự vật, hiện tượng đều là bản chất của sự vật, hiện tượng đó. Chủ nghĩa tự nhiên đã tầm thường hóa khoa học và nghiên cứu khoa học. Trên phương diện nhận thức, những người theo chủ nghĩa tự nhiên đã xa rời lập trường khách quan khoa học. Họ không nhìn nhận sự vật, hiện tượng trong tính hệ thống, trong quá trình vận động và phát triển của nó, mà chỉ trong tính hệ thống - chỉnh thể, trong quá trình, tiến trình của các sự kiện thì bản chất của sự vật, hiện tượng mới bộc lộ ra. Không nhận thấy tính biện chứng đó, nên chủ nghĩa tự nhiên là siêu hình trong tư duy và phương pháp tư duy. Trên quan điểm nghiên cứu, trước hết là quan điểm tư tưởng, chủ nghĩa tự nhiên chẳng những xa rời quan điểm khách quan khoa học với yêu cầu nghiêm ngặt của tư duy biện chứng, phép biện chứng duy vật mà còn đối lập với chủ nghĩa khách quan, biểu hiện trong hình thái “chủ nghĩa chủ quan” với giáo điều và tư biện mà C. Mác đã từng phê phán. Chủ nghĩa chủ quan còn gắn liền với những biểu hiện duy ý chí và tất yếu không tránh khỏi việc xa rời quan điểm duy vật biện chứng, rơi vào chủ nghĩa duy tâm chủ quan. Những người bị chi phối bởi quan điểm này trong nghiên cứu khoa học sẽ không tránh khỏi sai lầm từ những giả thuyết khoa học, những nhận định, đánh giá, đến những kết luận mà họ đưa ra với những thiên kiến và cực đoan, chẳng những không phản ánh chân thực hiện thực khách quan mà còn làm sai lạc nó, thậm chí xuyên tạc nó. Chủ nghĩa chủ quan là nguyên nhân dẫn đến sai lầm trong nghiên cứu khoa học đối với nhà nghiên cứu, cần phải khắc phục, vượt qua trong mọi lĩnh vực khoa học, đặc biệt trong nghiên cứu khoa học xã hội - nhân văn và lý luận. Tác hại của chủ nghĩa chủ quan gây ra không chỉ trong địa hạt nhận thức mà còn trong đời sống thực tiễn. Nó không định hướng và thúc đẩy phát triển mà trái lại còn có thể dẫn tới kìm hãm sự phát triển, thậm chí phản phát triển, kéo dài sự trì trệ, lạc hậu - một vật cản, một điểm nghẽn của phát triển. Ngay ở thời kỳ mở đầu công cuộc đổi mới, Đảng ta đã kịp nhận ra tình trạng lạc hậu của lý luận, sự chậm trễ của khoa học xã hội - nhân văn không theo kịp đà phát triển của thực tiễn, thậm chí đi sau cuộc sống đang biến đổi mau lẹ(1). Nghị quyết số 01-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa VII về công tác lý luận của Đảng trong giai đoạn hiện nay ra đời từ năm 1992, cách đây gần ba thập niên, cho đến nay vẫn còn nguyên tính thời sự.

Việc phê phán chủ nghĩa chủ quan duy ý chí, bệnh giáo điều, chủ nghĩa kinh nghiệm đã tạo xung lực cho đổi mới tư duy và thúc đẩy đổi mới xã hội, từ đổi mới kinh tế đến đổi mới chính trị và hệ thống chính trị ngay trong những bước đi đầu tiên của đổi mới ở nước ta. Đó là một nỗ lực đột phá, mở đường cho nghiên cứu lý luận, nghiên cứu khoa học xã hội - nhân văn được phát triển trên quan điểm khách quan khoa học, tôn trọng quy luật khách quan, chủ nghĩa khách quan đích thực, với phương châm nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật. Đây không chỉ là thái độ nghiêm túc trong khoa học mà còn là thái độ trung thực trong chính trị, dũng cảm tự phê phán và phê phán của Đảng ta để thúc đẩy đổi mới trong xã hội. Cách đây hơn bảy thập niên, từ năm 1947, với bút danh X.Y.Z, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết tác phẩm nổi tiếng “Sửa đổi lối làm việc”, đặt nền móng tư tưởng lý luận cho đổi mới trong điều kiện Đảng đã cầm quyền. Mở đầu tác phẩm, Người đặt vấn đề “phê bình và sửa chữa”. Người nêu ra ba căn bệnh nguy hiểm mà trước hết là bệnh chủ quan(2). Đây là bệnh về nhận thức, do yếu kém lý luận lại mắc thói coi khinh lý luận của không ít cán bộ, đảng viên mà sinh ra. Người nhấn mạnh, phải ra sức học tập, nâng cao trình độ lý luận và phương pháp tư duy, phương pháp tư tưởng, phương pháp công tác thì mới sửa chữa được căn bệnh này. Người còn nghiêm khắc chỉ trích bệnh hẹp hòi. Bệnh này thuộc về quan hệ, về dùng người, về cán bộ và chính sách cán bộ. Bệnh này rất nguy hiểm vì nó ngăn trở đoàn kết trong Đảng, trong quan hệ giữa Đảng với nhân dân(3). Bệnh thứ ba là thói ba hoa, thuộc về cách nói và cách viết.

Nếu chủ quan, chủ nghĩa chủ quan duy ý chí thuộc về nhận thức do những yếu kém, hạn chế về trình độ lý luận, tách rời lý luận với thực tiễn, xa rời quan điểm khách quan khoa học mà sinh ra thì khoác áo “chủ nghĩa khách quan” trong nghiên cứu khoa học lại không chỉ là vấn đề nhận thức mà còn phức tạp và nguy hại hơn, bởi đây là một khuynh hướng tư tưởng, thể hiện thái độ, quan điểm nhân danh khách quan khoa học để truyền bá những tư tưởng xa lạ với khoa học vào trong nhận thức của quần chúng, xuyên tạc sự thật và chân lý, lung lạc niềm tin của quần chúng, làm suy yếu nền tảng tư tưởng của Đảng và ý thức hệ xã hội nói chung, không phải vô tình mà có dụng ý về chính trị, dẫn tới nguy cơ mất phương hướng chính trị trong hoạt động lãnh đạo và cầm quyền của Đảng.

Thực tế cho thấy, khoác áo “chủ nghĩa khách quan” trong nghiên cứu khoa học, nhất là trong nghiên cứu lý luận chính trị là nguy hại nhất, bởi hệ quả mà nó gây ra tác động tiêu cực trực tiếp tới nhận thức, niềm tin và hành động của đa số quần chúng, trong đó có cả giới trí thức và thế hệ trẻ, thậm chí thâm nhập vào đời sống chính trị trong Đảng, trong cán bộ, đảng viên.

Từ thực tế đó, việc nhận diện và phê phán những biểu hiện khoác áo “chủ nghĩa khách quan” trong nghiên cứu khoa học cần phải được chú trọng đặc biệt vào lĩnh vực nghiên cứu lý luận chính trị, trong công tác tư tưởng, lý luận của Đảng, trong giới lý luận.

Nhận diện, phê phán để vạch rõ những sai trái, xuyên tạc sự thật lịch sử, những quan điểm lệch lạc, gieo rắc sự hoài nghi, tâm lý hoài nghi trong quần chúng đối với lý tưởng, mục tiêu và con đường mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn. Phê phán để đấu tranh chống lại sự truyền bá những thông tin giả dối (thông tin xấu, độc) với động cơ, mục đích xấu, nhân danh sự thật để xuyên tạc sự thật, kích động và lừa mị dân chúng, nhân danh khách quan để che đậy thái độ và hành vi chủ quan, bề ngoài tỏ ra tôn trọng sự thật khách quan, nhưng thực chất bên trong là phủ nhận sự thật khách quan với bản chất đích thực của nó, với xu hướng phát triển tất yếu của nó.

Những người khoác áo “chủ nghĩa khách quan” trong nghiên cứu khoa học thường bám vào những hiện tượng, những sự kiện nào đó nổi lên trên bề mặt cuộc sống, tuy có thật về hiện tượng nhưng lại không thật về bản chất, cố ý nhấn mạnh, tuyệt đối hóa nó, tách rời, cô lập nó khỏi những hiện tượng, sự kiện khác trong toàn bộ quá trình và tiến trình lịch sử, dùng thiên kiến chủ quan để quy nó thành bản chất, giải thích sai lạc nguyên nhân, tính chất của những hiện tượng, sự kiện mà họ đề cập tới, cốt làm cho mọi người ngộ nhận, tin theo những điều mà họ tuyên truyền, coi đó là đúng đắn, là chân lý.

C. Mác phân biệt rất rõ những hiện tượng giả đánh lừa bản chất mà ông gọi là những “giả tượng” và để nhận biết đúng bản chất của sự thật, cần phải lọc bỏ những “giả tượng” ấy khỏi những hiện tượng đích thực phản ánh bản chất. Bám lấy những “giả tượng” và quy nó thành bản chất, những người khoác áo “chủ nghĩa khách quan” trong nghiên cứu khoa học đã phạm vào một sai lầm cố ý, đó là đem cái giả khách quan thay thế cho cái khách quan đích thực, khoác áo “chủ nghĩa khách quan” để từ bỏ khách quan khoa học, để theo đuổi một chủ nghĩa chủ quan xa lạ, đối lập với chủ nghĩa khách quan đích thực.

Đã khoác áo “chủ nghĩa khách quan” thì không còn là khách quan nữa và những ai khoác áo ấy để “nghiên cứu khoa học” thì cũng không còn là nghiên cứu khoa học theo đúng ý nghĩa chân chính. Yêu cầu nghiêm túc đặt ra với người nghiên cứu là phải tôn trọng sự thật khách quan, bảo vệ chân lý khách quan và tỏ rõ lập trường, quan điểm nhất quán trong nghiên cứu, trung thực về đạo đức, trung thành với lý tưởng. Từ năm 1927, khi viết “Đường cách mệnh”, Nguyễn Ái Quốc đặt lên hàng đầu vấn đề “tư cách của người cách mệnh”, trong đó Người nhấn mạnh “phải giữ chủ nghĩa cho vững”(4). Người còn khẳng định, bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chân chính cách mạng nhất, triệt để và mau mắn thắng lợi nhất là chủ nghĩa Lê-nin (Mác - Lê-nin) và trong lịch sử các cuộc cách mạng trên thế giới, chỉ có Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 do V. I.  Lê-nin và Đảng vô sản kiểu mới lãnh đạo mới là cuộc cách mạng đến nơi (tức là triệt để), đi tới thắng lợi, làm lọt lòng nước Nga Xô Viết xã hội chủ nghĩa, khai sinh ra chủ nghĩa xã hội hiện thực lần đầu tiên trên thế giới, mở ra một thời đại mới trong lịch sử, soi sáng con đường cách mạng giải phóng dân tộc để từng bước quá độ tới chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam. Vững tin vào chân lý, Người còn khẳng định, phải theo chủ nghĩa Mác - Lê-nin và noi gương Cách mạng Tháng Mười Nga. Làm cách mạng, tất yếu phải có Đảng lãnh đạo, Đảng phải có chủ nghĩa làm cốt. Đảng không có chủ nghĩa giống như người không có trí khôn(5). Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã xác tín những luận điểm khoa học của Nguyễn Ái Quốc trong “Đường cách mệnh” là đúng đắn, chân xác. Điều đó càng khẳng định bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin(6), giá trị, sức sống và tầm vóc lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê-nin - vấn đề lý luận cốt yếu nhất mà những người khoác áo “chủ nghĩa khách quan” trong nghiên cứu khoa học đang ra sức công kích nó, cố tình xuyên tạc để phủ nhận nó. Họ cho rằng, C.  Mác và Ph.  Ăng-ghen sống trong thế kỷ XIX, học thuyết của các ông đã cách xa hiện tại tới gần hai thế kỷ, đã trở nên lạc hậu, lỗi thời, đã không còn đúng nếu soi vào thực tiễn biến đổi vô cùng nhanh chóng của thế giới ngày nay. Họ còn cho rằng, những điều Mác và chủ nghĩa Mác phê phán chủ nghĩa tư bản cùng lắm cũng chỉ đúng trong thời đại của các ông, còn hiện tại chủ nghĩa tư bản không như vậy nữa, nó vẫn đang tồn tại và phát triển, đang tạo ra sự phồn vinh, trình độ văn minh, hiện đại, bởi vậy cần phải theo nó chứ không phải chạy theo “lý thuyết cộng sản” xa vời, chưa biết đến bao giờ mới có được. Họ còn ra sức tuyên truyền rằng, cách mạng bạo lực, chuyên chính vô sản đã dẫn tới đổ máu “không cần thiết”, đó không phải là con đường phát triển “nhân đạo” và “nhân văn”, “không dân chủ” mà chỉ dẫn đến “chuyên chế độc tài”. Họ bám vào sự kiện sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu để cho rằng sự sụp đổ đó là do áp dụng chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Họ coi sự biến xảy ra ở Liên Xô và Đông Âu vào thập niên 90 của thế kỷ trước là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội, sự “phá sản”, sự “kết thúc” của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, và chỉ có chủ nghĩa tư bản mới là trường cửu, mới là mô hình cần lựa chọn! Từ đó, nhân danh những sự kiện, sự thật mà họ gọi là “khách quan” đó để quy kết rằng, Việt Nam theo đuổi chủ nghĩa Mác - Lê-nin là sai lầm, con đường mà Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn theo hệ tư tưởng Mác - Lê-nin đã dẫn tới những hy sinh to lớn mà đất nước vẫn lạc hậu, vẫn kém phát triển so với các nước trên thế giới. Phát triển theo một con đường khác với thâm ý từ bỏ chủ nghĩa xã hội, phát triển tư bản chủ nghĩa cũng có nghĩa là phủ nhận vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản, xuyên tạc và phủ nhận những cống hiến lịch sử của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thậm chí còn dùng mọi thủ đoạn lừa mị, kích động, bôi nhọ cuộc đời và sự nghiệp vĩ đại, cao thượng của Người bằng những thông tin bịa đặt, giả dối hòng lung lạc niềm tin của quần chúng, gây thù địch với Đảng và nhân dân ta, nhất là đối với thế hệ trẻ. Các thế lực chống đối tin rằng, chỉ có hạ bệ thần tượng Hồ Chí Minh thì mới có thể đánh đổ được Đảng ta, bởi họ thừa biết lý tưởng và mục tiêu cao quý mà Đảng và Bác Hồ lựa chọn, tư tưởng - đạo đức - phong cách của Hồ Chí Minh có ảnh hưởng sâu xa như thế nào đối với Đảng và nhân dân ta, có sức sống mãnh liệt như thế nào trong đời sống tinh thần của dân tộc Việt Nam. Từ đó, những người khoác áo “chủ nghĩa khách quan” trong “nghiên cứu khoa học” mà thực chất là “giả khoa học”, là lợi dụng cái gọi là “nghiên cứu”, “tìm tòi”, “sáng tạo” trong khoa học để ra sức tuyên truyền, xuyên tạc có ác ý nhằm làm vẩn đục bầu không khí tinh thần của xã hội, tác động vào sự chệch hướng con đường phát triển của đất nước. Đây là những biểu hiện rất phức tạp trong cuộc đấu tranh tư tưởng hiện nay.

Những quan điểm sai trái, đối lập, thù địch đó nếu không bị vạch trần và phê phán, nếu để nó lan truyền trong xã hội thì có thể làm tăng thêm mức độ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng và nhân dân ta do chính sự tiếp sức từ những người khoác áo “chủ nghĩa khách quan” với những luận điệu tinh vi, đánh tráo khái niệm, lập lờ giữa hiện tượng với bản chất nhằm phá hoại niềm tin, đức tin của quần chúng. Chúng ra sức khai thác những hiện tượng, những diễn biến sôi động trong đời sống xã hội, ngay cả những vấn đề trong nội tình của Đảng gần đây và hiện nay để xuyên tạc và chống đối. Như vậy, khoác áo “chủ nghĩa khách quan” không chỉ là “giả khoa học” mà còn là “giả chính trị”, “giả cách mạng”. Từ những việc làm ấy, họ cũng không thể che đậy được diện mạo “giả đạo đức” mà những ai có đầu óc khách quan khoa học, có lương tâm, phẩm giá và trách nhiệm với nhân dân, với đất nước, với dân tộc và với Đảng đều có thể nhận ra để có thái độ, có tiếng nói phê phán, để bảo vệ sự thật và lẽ phải, để tỏ rõ sự trung thực đạo đức trong khoa học và chính trị của mình trước sự nghiệp đổi mới - hội nhập - phát triển của đất nước.

Ngoài những vấn đề lý luận thuộc về chủ nghĩa, học thuyết, về lý tưởng, mục tiêu và con đường phát triển có tầm ảnh hưởng lớn, có tác động trực tiếp tới đường lối chiến lược, tới nền tảng tư tưởng, tinh thần của Đảng, của chế độ ta mà các thế lực thù địch, chống đối đang tập trung mọi nỗ lực để xuyên tạc, phủ nhận, chúng còn không bỏ qua việc khai thác những sự kiện cụ thể hằng ngày để hòng “tiếp thêm sức mạnh” cho mục đích phá hoại của chúng, lôi kéo những người nhẹ dạ cả tin vào hùa với chúng. Thủ đoạn và cách làm của chúng cũng không khó nhận ra, vẫn là lấy hiện tượng làm bản chất, cố tình che lấp phần sáng và tỏa sáng trong bức tranh xã hội, cố tình làm đậm nét hơn, gây kịch tính hơn từ những phần tối, lấp khuất trong bức tranh đó, cố tình tạo ra những cái giả bản chất để làm sai lạc cách nhìn, cách đánh giá của một bộ phận quần chúng, tạo ra “một hiệu ứng tinh thần kiểu khác” theo mong muốn của chúng nhằm phá hoại sự thống nhất nhận thức, thống nhất tư tưởng, thống nhất hành động của chúng ta trong công cuộc đổi mới hiện nay. Xin dẫn chứng một vài ví dụ:

- Việc Đảng ta đang nêu cao quyết tâm chính trị và bằng hành động cách mạng mạnh mẽ để chống bằng được nạn tham nhũng, đưa các đại án tham nhũng ra xét xử công khai, xử lý nghiêm khắc theo pháp luật của Nhà nước pháp quyền và kỷ luật của Đảng đối với những tội phạm, kể cả không ít cán bộ cao cấp đã thoái hóa, biến chất, được toàn Đảng, toàn dân ủng hộ thì những thế lực chống đối thù địch lại cố tình rêu rao, xuyên tạc rằng, đó là tình trạng đấu đá, tranh giành quyền lực trong Đảng, là dấu hiệu báo trước tình trạng tan rã Đảng và coi tham nhũng là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, của đảng cầm quyền, rồi lại coi đó là hậu quả tất yếu của việc một đảng duy nhất cầm quyền để kích động tâm lý đòi đa nguyên, đa đảng, lập các đảng đối lập, cổ xúy thuyết “tam quyền phân lập” để tấn công vào nền tảng tư tưởng, vào nguyên tắc chính thể của Nhà nước ta, kích động bất ổn chính trị, xung đột quyền lực...

- Những biểu hiện tiêu cực trong giáo dục và nhà trường, trong đó có bạo lực học đường, xâm hại tình dục trẻ em, sự hư hỏng về đạo đức của một số nhỏ giáo viên cùng hiện tượng gian lận trong thi cử xảy ra ở một vài địa phương, một số cơ sở giáo dục có liên quan tới chạy điểm, nâng điểm cho con cái của một số cán bộ đã bị phanh phui, đã bị xử lý nghiêm khắc thì lại bị những thế lực chống đối và những dư luận trái chiều tiếp tay cho chúng xuyên tạc rằng, đó là bản chất của nhà trường, của nền giáo dục xã hội đã hỏng đến tận gốc!

- Những tệ nạn và tiêu cực xã hội gắn với một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái, những bất minh, bất chính trong lợi ích nhóm, những hiện tượng chạy chức, chạy quyền trong công tác cán bộ mà Đảng kiên quyết xử lý, siết chặt kỷ luật, kỷ cương, loại bỏ những “sâu mọt” ra khỏi bộ máy, bảo đảm cho Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh mà nhân dân đang hết lòng tin tưởng ủng hộ Đảng thì lại bị chúng quy thành bản chất của chế độ, bản chất của Đảng, gieo rắc sự hoài nghi và kích động sự chống đối, nhất là trong bối cảnh Đảng ta đang chuẩn bị đại hội đảng các cấp, tiến tới Đại hội XIII của Đảng...

Vậy, sự thật là thế nào và thực chất, bản chất của vấn đề là ở đâu?

Hãy bắt đầu từ thái độ, quan điểm của Đảng ta với tất cả sự quang minh chính đại của Đảng cách mạng, người cách mạng như chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Từ buổi đầu của thời kỳ đổi mới (Đại hội VI năm 1986) cho đến nay, Đảng ta luôn nhấn mạnh và nhất quán rằng, nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, tôn trọng sự thật khách quan. Xây dựng niềm tin khoa học, kiên định lý tưởng, mục tiêu và con đường đã chọn, giữ vững bản lĩnh chính trị, giữ vững phương hướng chính trị, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa - đó chính là thái độ khoa học và cách mạng của Đảng ta. Đây là cơ sở để nhận rõ và khẳng định những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác  - Lê-nin, của di sản tư tưởng Hồ Chí Minh. Niềm tin và sự khẳng định này của Đảng ta là có cơ sở vững chắc từ thế giới quan khoa học và cách mạng, từ thực tiễn lịch sử xã hội trên thế giới và thực tiễn đấu tranh cách mạng ở nước ta từ khi có Đảng lãnh đạo, có sự truyền bá và dẫn dắt của Chủ tịch Hồ Chí Minh trên “Đường cách mệnh”.

Sự thật là, chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh không hề lỗi thời, lạc hậu và việc Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng của Đảng, kim chỉ nam hành động của cách mạng Việt Nam để kiên trì lý tưởng, mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là quyết định đúng, là sự lựa chọn sáng suốt, là trung thành một cách sáng tạo chứ không mù quáng, giáo điều như những sự xuyên tạc ác ý. Chúng ta bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trên cơ sở phát triển sáng tạo, làm phong phú, sống động lý luận cách mạng từ thực tiễn, không biệt phái mà biết tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa trong những thành tựu tư tưởng nhân loại, làm cho di sản kinh điển Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh ngày càng trở nên sống động hơn trong dòng chảy văn hóa nhân loại, tiếp biến để phát triển. Quy luật này được Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng hết sức sáng tạo và Đảng ta kế thừa, phát huy trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay.

Dù chủ nghĩa Mác cách xa gần hai thế kỷ, dù thế giới đã và đang biến đổi nhanh chóng, thậm chí có cả những đột biến (hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới tan rã, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, trật tự thế giới thay đổi, chủ nghĩa tư bản đã trở thành chủ nghĩa tư bản hiện đại...), song không vì thế mà chủ nghĩa Mác  - Lê-nin trở nên lỗi thời, bị thực tiễn vượt qua như những thế lực thù địch vẫn thường rêu rao. Chủ nghĩa tư bản dù là chủ nghĩa tư bản hiện đại vẫn không hề thay đổi bản chất. Vì vậy, không vì những sự biến chính trị xảy ra ở Liên Xô, Đông Âu mà chủ nghĩa tư bản có thể được xem như là con đường, mô hình phát triển cần phải lựa chọn chứ không phải và không thể phủ định. Luận điệu này chỉ thể hiện sự truyền bá quan điểm tư sản, chống phá chủ nghĩa xã hội, đánh lạc hướng dư luận xã hội mà thôi. Những kết luận và những dự báo khoa học của chủ nghĩa Mác  - Lê-nin về tính không thể có triển vọng của chủ nghĩa tư bản, về xu thế, triển vọng tích cực của chủ nghĩa xã hội, rằng những nhân tố xã hội chủ nghĩa ngày càng xuất hiện và chín muồi trong lòng chủ nghĩa tư bản một cách khách quan, tất yếu, bắt nguồn sâu xa từ sự phát triển của lực lượng sản xuất có tính toàn cầu. Nó trở thành nhân tố phủ định quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa trong quan hệ sản xuất của xã hội tư sản. Giai cấp công nhân hiện đại với xu hướng khách quan tri thức hóa công nhân và trí thức hóa công nhân làm cho sứ mệnh lịch sử thế giới của nó càng thể hiện rõ trong hoàn cảnh mới, điều kiện mới. Nó là sự phát triển chất lượng mới so với giai cấp công nhân truyền thống (giai cấp vô sản) để thực hiện vai trò cách mạng của nó chứ không phải “giai cấp công nhân biến mất”, “sứ mệnh lịch sử thay đổi thế giới là thuộc về tầng lớp trí thức tinh hoa chứ không phải công nhân” như những luận điệu xuyên tạc đậm màu sắc kỹ trị.

Khẳng định chân giá trị của chủ nghĩa Mác, vạch trần những thủ đoạn xuyên tạc hòng phủ nhận chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa xã hội khoa học về mặt học thuyết, chủ nghĩa xã hội hiện thực trong đổi mới, cải cách để phục hưng và phát triển về mặt con đường và mô hình, chúng ta nhớ tới những luận điểm sáng suốt của V. I.  Lê-nin. Ông từng nói, rằng những kẻ chống Mác, phủ nhận chủ nghĩa Mác một cách vô lối, thật ra là những kẻ hiểu biết về Mác và chủ nghĩa Mác tồi nhất. Đặc biệt là, V. I.  Lê-nin đã phát hiện thấy, sức sống và ảnh hưởng rộng lớn của chủ nghĩa Mác buộc những kẻ chống Mác cũng phải khoác áo mác-xít. Lại có một thực tế khác, ngay những học giả tư sản trong các nước tư bản chủ nghĩa, những người có đầu óc khách quan khoa học đã có cái nhìn thật khách quan để thấy những khuyết tật không thể sửa chữa do nó là bản chất của chủ nghĩa tư bản. Họ đem lại một tiếng nói khách quan, một thái độ phê phán khách quan đối với chủ nghĩa tư bản, rằng nó không thể không lỗi thời, nó không thể không bị thay thế trong sự lựa chọn mà lịch sử đặt ra, thế kỷ XXI sẽ không thể hình dung được nếu không có sự hiện diện của chủ nghĩa Mác, Mác vẫn là nhà tư tưởng lỗi lạc, kiệt xuất của nhiều thời đại, rằng cho tới nay vẫn chưa thấy một thiên tài tư tưởng trí tuệ nào có thể vượt qua Mác, thay thế Mác.

Là một nhà tư tưởng mác-xít sáng tạo và hiện đại, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã chỉ dẫn, học tập, nghiên cứu chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa Mác - Lê-nin không phải là thuộc lòng câu chữ mà cốt là nắm lấy tinh thần và phương pháp để ứng xử với con người và công việc, để độc lập và sáng tạo tìm tòi câu trả lời cho những vấn đề đặt ra của thực tiễn cách mạng.

Tinh thần cách mạng và phương pháp khoa học là chiếc chìa khóa mà chủ nghĩa Mác - Lê-nin đưa ra, cho ta công cụ tin cậy để giải thích thế giới và cải tạo thế giới. Những vấn đề cụ thể, những trường hợp cụ thể mà các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê-nin đưa ra làm đối tượng phân tích có thể không còn phù hợp trong những hoàn cảnh, điều kiện lịch sử mới cần phải điều chỉnh nhận thức, “làm mới” nhận thức, tri thức của mình nhưng rất nhiều tư tưởng, luận điểm của các nhà kinh điển trong các tác phẩm của các ông vẫn tiếp tục soi sáng con đường đi của các dân tộc, trong đó có Việt Nam.

Đặc biệt là, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhìn nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin không chỉ là khoa học mà còn là đạo đức, là văn hóa - vốn là những cái mãi mãi còn giá trị, sức sống, ý nghĩa khai sáng, thức tỉnh đối với chúng ta ngày nay. Từ đây, có thể nhận thức một cách khách quan, khoa học về chủ nghĩa xã hội, cắt nghĩa một cách trung thực lịch sử thăng trầm, số phận và triển vọng của nó.

Không thể đồng nhất giản đơn sự đổ vỡ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu với sự đổ vỡ của chủ nghĩa xã hội, càng không thể từ sự kiện này mà cho rằng chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã phá sản, đã kết thúc và việc áp dụng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là sai lầm, cần phải từ bỏ để lựa chọn một con đường phát triển khác như những ai nhân danh chủ nghĩa khách quan nêu ra.

Trên thực tế, hoàn toàn không phải như vậy!

Chủ nghĩa xã hội với tính cách là lý tưởng, mục tiêu, là học thuyết lý luận, là một chế độ xã hội kiểu mới không đổ vỡ, chỉ có sự đổ vỡ của mô hình xã hội chủ nghĩa ở những nước cụ thể, khi một kiểu mô hình này không còn động lực phát triển, lại bị suy thoái và biến dạng. Sự đổ vỡ này có nguyên nhân từ những nhận thức chủ nghĩa Mác - Lê-nin một cách giáo điều, xơ cứng và máy móc, xa rời những nguyên lý cơ bản, những chân giá trị của chủ nghĩa Mác - Lê-nin chứ không phải do chủ nghĩa, học thuyết Mác - Lê-nin gây ra.

V. I.  Lê-nin đã từng nhấn mạnh, phân tích cụ thể một tình hình cụ thể, đó là bản chất, linh hồn sống của chủ nghĩa Mác. Chân lý là cụ thể nên cách mạng phải sáng tạo. Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã cho thấy, khi vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê-nin với tinh thần sáng tạo, độc lập, tự chủ thì cách mạng phát triển và thắng lợi, trái lại khi phạm vào sai lầm giáo điều, chủ quan, máy móc, xa rời thực tiễn, làm trái quy luật khách quan, làm mất sinh khí của lý luận cách mạng thì không tránh khỏi thất bại. Kinh nghiệm thành công và không thành công trong việc giải quyết các vấn đề lý luận và thực tiễn trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các nước, trong đó có Việt Nam cho thấy rõ điều đó.

Vấn đề đặt ra một cách khách quan là ở chỗ, không phải là từ bỏ chủ nghĩa xã hội mà phải vượt qua những sai lầm, hạn chế, khuyết tật mà những người cộng sản và các đảng cộng sản đã mắc phải, nhất là khi đã cầm quyền trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội để cải tổ, cải cách, đổi mới chủ nghĩa xã hội một cách có nguyên tắc, có phương pháp, làm cho chủ nghĩa xã hội được kiến tạo, được định hướng và định hình đúng với bản chất tốt đẹp của nó.

Điều đó cũng có nghĩa là, không phải từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, mà trái lại, phải từ bỏ những nhận thức giáo điều, thậm chí những cách hiểu sai, làm sai, dẫn tới làm biến dạng, giản lược và làm nghèo nàn chủ nghĩa Mác - Lê-nin, chủ nghĩa xã hội khoa học. Phải “thanh toán” những sự biến dạng lệch lạc đó, trở lại đúng với tinh thần và phương pháp của chủ nghĩa Mác như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra, đồng thời phát triển sáng tạo nó phù hợp với thực tiễn ngày nay. Thái độ khách quan khoa học đòi hỏi như vậy và cũng chỉ như vậy mới có thể vạch trần những mưu toan khoác áo “chủ nghĩa khách quan” trong nghiên cứu khoa học, trong đấu tranh tư tưởng, lý luận cũng như trong đời sống chính trị, tinh thần của xã hội hiện nay. Đây là vấn đề căn bản nhất, có thể nói đây là vấn đề của mọi vấn đề. Giải quyết được vấn đề nền tảng, gốc rễ này là cơ sở tư tưởng, lý luận để giải quyết các vấn đề khác có tính chất phái sinh và hệ quả.

Như đã nói, những luận điệu xuyên tạc, giả trá, những suy luận võ đoán, chủ quan, coi một đảng cầm quyền như Đảng ta là nguyên nhân dẫn tới độc đoán chuyên quyền, là không thể có dân chủ, là dẫn đến tham nhũng và suy thoái, rồi quy những hiện tượng tiêu cực trong kinh tế, chính trị, xã hội, giáo dục,... là bản chất của xã hội ta, do sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng gây ra,... thực chất là những sự thóa mạ lịch sử, xúc phạm tới Đảng, dân tộc và nhân dân ta, bộc lộ rõ những mưu toan thù địch và chống đối, phá hoại sự nghiệp đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đi ngược lại xu thế của tiến bộ và phát triển, không thể không phê phán.

Thực tiễn, như V. I.  Lê-nin nhận xét, cao hơn lý luận, nó rộng lớn, đa dạng, phổ biến mà không một lý luận nào có thể khái quát đầy đủ được. Chỉ có thực tiễn mới cho ta câu trả lời chính xác và tin cậy về những vấn đề mà cuộc sống đặt ra.

Thực tiễn cách mạng, đổi mới, phát triển của Việt Nam trong hơn ba thập niên qua, tự nó đã khẳng định tính đúng đắn của đường lối đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa do Đảng khởi xướng. Sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng cùng với sức mạnh đại đoàn kết của toàn dân tộc là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Đó cũng là sự khẳng định những quan điểm, nguyên tắc cơ bản của đổi mới, của chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, nổi bật ở những điểm sau đây:

- Khẳng định độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là lý tưởng, mục tiêu mà Đảng, Bác Hồ và nhân đân ta đã lựa chọn. Đổi mới được dẫn dắt bởi lý tưởng, mục tiêu đó, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng sẽ xây dựng thành công xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

- Khẳng định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng, là kim chỉ nam hành động của cách mạng Việt Nam.

- Khẳng định vai trò lãnh đạo và cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội.

Những điều khẳng định đó là sự thật khách quan, được thực tiễn xác nhận và nhân dân thừa nhận, đồng tình, ủng hộ, ra sức thực hiện và bảo vệ với sức mạnh của dân chủ, đoàn kết  đồng thuận.

Thực tiễn ấy, sức mạnh ấy tự nó cũng đã bác bỏ, phủ định những luận điệu xuyên tạc, những quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, chống phá cách mạng, của những ai khoác áo “chủ nghĩa khách quan”, nhân danh nghiên cứu khoa học nhưng lại không vì một nền khoa học chân chính, phụng sự Tổ quốc và nhân dân, trái lại, dù vô tình hay cố ý, họ đã làm phương hại tới niềm tin, tới sự thống nhất ý chí và hành động của nhân dân, do đó không thể không phê phán và bác bỏ./. (Còn nữa)

---------------------------------

(1) Xem: Nghị quyết số 01-NQ/TW, ngày 28-3-1992, của Bộ Chính trị khóa VII, về “Công tác lý luận trong giai đoạn hiện nay”
(2), (3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 5, tr. 273 - 275, 276 - 279
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 2, tr.  280  - 281
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 2, tr. 289
(6) Hoàng Chí Bảo (chủ biên): Bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010


28/09/2019 | 11:35 AM

Xem với cỡ chữ

 

Nhận diện những phương thức, thủ đoạn,

biểu hiện chống phá mới của các thế lực thù địch

trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận hiện nay

Hà Linh
11:35, ngày 28-09-2019

TCCS - Mục đích chống phá Đảng ta của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận ở các thời kỳ không thay đổi. Nhưng do những đặc điểm mới của tình hình chính trị, kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại hiện nay, nên các phương thức, thủ đoạn, biểu hiện chống phá của chúng có nhiều thay đổi, tinh vi, phức tạp hơn khiến nhiều cán bộ, đảng viên không dễ dàng nhận biết để đấu tranh ngăn chặn, bác bỏ kịp thời, có hiệu quả.

Mục đích cao nhất, có tính chiến lược của các thế lực thù địch chống phá Đảng ta trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận là nhằm làm cho Đảng và nhân dân ta xa rời, từ bỏ mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; xa rời, từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tức là làm cho cán bộ, đảng viên ta từ bỏ nền tảng tư tưởng - vũ khí tinh thần, từ bỏ thế giới quan, phương pháp luận khoa học, kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng. Thực hiện mục đích đó, chúng dùng mọi âm mưu, thủ đoạn, phương thức tinh vi, xảo quyệt thích ứng với mọi tình hình, mọi đối tượng, mọi thời điểm, hoàn cảnh khác nhau. Công tác đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận của Đảng và Nhà nước ta vì thế cũng vô cùng phức tạp, đặt ra nhiều vấn đề mới cần phải có tư duy mới và hành động hiệu quả hơn.

Trong thực tế thật khó có thể tách bạch âm mưu, thủ đoạn, phương thức chống phá của các thế lực thù địch về tư tưởng, lý luận đối với Đảng và nhân dân ta hiện nay. Chúng được tiến hành đan xen, ẩn hiện trong nhau rất tinh vi, khó xác định dưới nhiều màu sắc, cấp độ khác nhau, lẫn lộn thật - giả, đúng  - sai... khiến người ta khó phân biệt, dễ lầm lẫn, khó đấu tranh.

Tuy nhiên, chúng ta có thể nhận diện âm mưu, thủ đoạn chống phá của chúng ở những biểu hiện chính sau:

Một là, phủ nhận, chống phá vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Trên phương diện tư tưởng, lý luận, chúng luôn tìm mọi cách phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chúng tung ra những luận điệu cho rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam độc quyền lãnh đạo là “mất dân chủ”, là “chuyên chế”, “đặc quyền, đặc lợi”, là “bóp nghẹt dân chủ”...; rằng, phải thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập mới có “dân chủ” trong Đảng và trong đời sống xã hội. Chúng đòi hủy bỏ Điều 4 Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phủ nhận quyền lãnh đạo của Đảng. Đây là mục tiêu không mới nhưng chúng kiên trì với thủ đoạn “mưa dầm thấm lâu” bằng những chiêu trò mới, hòng thực hiện đến cùng việc chống phá Đảng ta.

Từ tuyên truyền theo kiểu lô-gíc hình thức rằng, “có nhiều đảng cạnh tranh mới là dân chủ” chúng lờ đi mục đích của Đảng ta là kiên trì đấu tranh xóa bỏ mọi bất công, mang lại quyền bình đẳng, thực hiện dân chủ, quyền làm chủ thực sự cho nhân dân. Gần 90 năm qua, Đảng đã lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng, đưa nhân dân ta từ thân phận nô lệ thành người tự do, làm chủ  và xây dựng đất nước không ngừng phát triển như ngày nay, sánh vai với các nước trên thế giới. Âm mưu chống phá vai trò lãnh đạo tuyệt đối của Đảng với nhiều “lý sự” trắng trợn hòng lôi kéo những người thiếu hiểu biết, bất mãn ngộ nhận tin theo, đòi “đa nguyên, đa đảng” dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau. Chúng tỏ ra “khách quan”, “bảo vệ quyền lợi chính đáng” của người dân, “bênh vực dân” nên làm cho không ít người ngộ nhận tin theo. Âm mưu rất thâm độc, có tính chiến lược này của chúng được thực hiện bằng nhiều thủ đoạn mới, kết hợp cả tư tưởng, lý luận, chính trị, kinh tế để chống phá ta từ bên trong kết hợp với bên ngoài, làm một bộ phận cán bộ, đảng viên tha hóa, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, từng bước làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng.

Hai là, chống phá nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng.

Âm mưu, thủ đoạn phủ nhận nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng ta - chủ nghĩa Mác  - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, được chúng tiến hành từ lâu. Đặc biệt, từ khi hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới lâm vào khủng hoảng, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, các thế lực thù địch đã “chớp thời cơ”, coi đây là “thời cơ vàng” tấn công nhằm xóa bỏ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của các đảng cộng sản ở các nước kiên trì phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam.

Hiện nay, trước công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế của nước ta, các thế lực thù địch ra sức cổ vũ cho “chủ nghĩa tự do”, thị trường tuyệt đối, làm giàu bằng bất cứ giá nào, phủ nhận những quan điểm lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Bằng âm mưu, thủ đoạn tinh vi, chúng đưa ra cách “lập luận” kiểu lô-gíc hình thức, rằng chủ nghĩa Mác ra đời cách đây đã hơn 150 năm, bối cảnh lịch sử hiện đã thay đổi cho nên Đảng Cộng sản Việt Nam không thể cứ khư khư giữ lấy “cái học thuyết đã lỗi thời đó” làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của mình. Từ đấy, chúng xuyên tạc rằng, một đảng lấy tư tưởng, lý luận đã “lạc hậu, lỗi thời” thì không thể có cơ sở để lãnh đạo đất nước phát triển khi thực tế khách quan đã thay đổi. Chúng trắng trợn bác bỏ tư tưởng Hồ Chí Minh và cho rằng Hồ Chí Minh “không phải là nhà tư tưởng” mà chỉ là “nhà hoạt động thực tiễn” nên không có tư tưởng Hồ Chí Minh. Chúng lờ đi những giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh giàu chất lý luận về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người đã soi đường cho dân tộc ta và ảnh hưởng đến nhiều dân tộc khác trên thế giới trong cuộc đấu tranh tự giải phóng.

Bằng âm mưu, thủ đoạn lấy tư duy hình thức thay cho phương pháp tư duy biện chứng, chúng chống phá, bác bỏ hệ thống tư tưởng, lý luận của Đảng ta; chống phá, bác bỏ nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Chúng còn trắng trợn phủ nhận những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử mà Đảng và nhân dân ta đạt được qua hơn 30 năm đổi mới. Những thành tựu đó đã làm thay đổi lớn bộ mặt đời sống kinh tế - xã hội, giữ vững con đường đi lên chủ nghĩa xã hội được cả thế giới thừa nhận và ngợi ca. Thế nhưng, chúng vẫn lừa bịp, lố bịch mê hoặc, lôi kéo không ít người do thiếu hiểu biết, trình độ tư tưởng, lý luận hạn chế đã ngộ nhận tin theo chúng. Thủ đoạn “mưa dầm thấm lâu” của chúng được tiến hành dưới nhiều hình thức một cách kiên trì, gây chia rẽ, kích động, lôi kéo từng cá nhân bất mãn đến một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhân dân thiếu hiểu biết, thiếu bản lĩnh vững vàng tin theo chúng. Rõ ràng, âm mưu, thủ đoạn tấn công bằng tư tưởng, lý luận để làm thay đổi nhận thức, thay đổi niềm tin của con người là rất thâm độc và tinh vi, xảo quyệt. Âm mưu, thủ đoạn này đã từng được các thế lực thù địch thực hiện có hiệu quả ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa trước đây và được chúng tích cực áp dụng trong điều kiện hiện nay.

Ba là, chống phá đường lối độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của Đảng và nhân dân ta.

Các thế lực thù địch luôn coi đường lối độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của Đảng và nhân dân ta là mục tiêu chống phá. Thực hiện mục tiêu ấy, chúng dùng mọi thủ đoạn xuyên tạc, bác bỏ, chống phá. Mặc dù “lý lẽ” đã cũ rích, nhưng chúng vẫn không từ bỏ, luôn rêu rao rằng lý luận chủ nghĩa Mác  - Lê-nin “đã sai lầm”, “lỗi thời”, “lạc hậu”, thể hiện ở sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Chúng dẫn ra các hiện tượng, hình thức, trái với bản chất để mê hoặc, lôi kéo những người thiếu hiểu biết khoa học, như “lý sự” rằng: “đã kinh tế thị trường thì đâu còn là chủ nghĩa xã hội”; “chủ nghĩa xã hội không phải là cái đích của loài người đi tới”; “chủ nghĩa tư bản là trường cửu”; Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam “bảo thủ” duy trì con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là “trái với quy luật”, “không phù hợp với thời đại mới” v.v và v.v..

Chúng cố lờ đi những cơ sở khoa học, tính khách quan của quy luật phát triển xã hội là chỉ có kết hợp giải phóng giai cấp với giải phóng dân tộc và giải phóng con người thì cách mạng mới đạt được kết quả trọn vẹn. Chúng không thấy con đường đổi mới, hội nhập quốc tế, độc lập, tự chủ là sự sáng tạo của Đảng và nhân dân ta để đưa đất nước ngày càng phát triển, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Chúng gây nên hoài nghi vào quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; xuyên tạc những đặc điểm, đặc trưng, mô hình xã hội mà chúng ta xây dựng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; phủ nhận giá trị những thành tựu đạt được trong hơn 30 năm đổi mới của đất nước. Chúng cố tình quên đi những biện pháp, con đường, hình thức, bước đi, nhiệm vụ trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội đầy sáng tạo của nhân dân ta. Tất cả những điều đó với âm mưu của chúng nhằm đẩy người nghe rơi vào tâm trạng hoài nghi, thất vọng, suy giảm niềm tin, rồi đi đến xa rời, từ bỏ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Chúng gieo rắc tâm lý trông chờ, dựa dẫm, cầu mong sự giúp đỡ của nước ngoài, đi theo con đường tư bản chủ nghĩa thì giàu nhanh hơn, sung sướng hơn một cách ảo tưởng, hoài vọng.

Bốn là, chia rẽ khối đoàn kết trong Đảng, trong nhân dân.

Các thế lực thù địch luôn tấn công hòng phá vỡ khối đoàn kết thống nhất trong Đảng, khối đồng thuận xã hội, gây nên sự ly tán, chia rẽ, suy giảm sức mạnh của Đảng, của nhân dân. Chúng chia rẽ nội bộ Đảng, giữa cơ quan Đảng, chính quyền các cấp, bịa đặt về sự hình thành “phe này”, “phái nọ” để gây hoang mang trong nhân dân. Chúng lợi dụng việc thực hiện công khai, minh bạch của Đảng trong đấu tranh chống tham nhũng và xử lý nghiêm minh một số cán bộ, đảng viên vi phạm để chia rẽ nội bộ. Chúng xuyên tạc rằng “đây chỉ là sự thanh trừ phe này, phe nọ”, không thấy đây chính là quá trình làm trong sạch Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng có tính quy luật trên đường phát triển, là việc làm phù hợp với lòng dân, được toàn Đảng, toàn dân đồng tình ủng hộ. Chúng ra sức kích động chia rẽ, gây mất đoàn kết giữa các dân tộc, các tôn giáo; giữa cán bộ và nhân dân; giữa đảng viên và quần chúng... Chúng thổi phồng những sai lầm, thiếu sót của một số cán bộ, đảng viên rồi đi đến khái quát một cách hàm hồ, nói xấu Đảng, gây mất lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Chúng ra sức lợi dụng lòng yêu nước của nhân dân để kích động gây bất ổn chính trị  - xã hội; lợi dụng các bức xúc của nhân dân chưa được giải quyết kịp thời để kích động tụ tập đông người gây mất trật tự, an ninh, xung đột xã hội, làm cho nhân dân không tin cán bộ, đảng viên, dẫn đến không tin Đảng, tìm “con đường khác”, “cách sống khác” do chúng vẽ ra. Đây là âm mưu, thủ đoạn phá hoại ta từ bên trong, từ trong nội bộ, từ trong lòng dân, từ trong tư tưởng, tình cảm của con người trong xã hội.

Năm là, cản trở sự phát triển của đất nước.

Các thế lực thù địch luôn có âm mưu, thủ đoạn cản trở sự phát triển của đất nước, phủ nhận những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo suốt hơn 30 năm qua. Chúng tuyên truyền những luận điệu xuyên tạc trái với quan điểm, nghị quyết, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta. Chúng kết hợp chống phá đường lối chính trị với chống phá trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Trong từng lĩnh vực, chúng khai thác triệt để những sơ hở, yếu kém của ta để xuyên tạc, nói xấu, móc nối với các thế lực thù địch bên ngoài cản trở mọi hoạt động của ta. Chúng tạo cơ hội hoặc tiếp tay cho các cá nhân, tổ chức gây rối, các hoạt động tội phạm, các hoạt động trái với đạo đức, thuần phong mỹ tục của dân tộc, gây rối loạn, bất ổn xã hội.

Bên cạnh đó, chúng cổ vũ, tiếp tay cho các hiện tượng tiêu cực, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng dẫn đến “tự chuyển hóa” của một số cán bộ, đảng viên với những biểu hiện, như tự xa rời, phai nhạt mục tiêu, lý tưởng của Đảng, chạy theo “lợi ích nhóm”, “chủ nghĩa tư bản thân hữu”... Chúng tuyên truyền, cổ vũ lối sống thực dụng, hưởng lạc, tôn thờ đồng tiền, chủ nghĩa cá nhân, bất chấp đạo lý, pháp luật, kỷ cương, hòng tạo nên tình trạng xã hội rối loạn, bất ổn, gây mất lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước

Các thế lực thù địch luôn tấn công hòng phá vỡ khối đoàn kết thống nhất trong Đảng, khối đồng thuận xã hội, gây nên sự ly tán, chia rẽ _Ảnh: Tư liệu

Cùng với những âm mưu, thủ đoạn trên, các thế lực thù địch đã thực hiện các phương thức mới chống phá ta trong lĩnh vực tư tưởng, lý luận hiện nay một cách tinh vi, phức tạp, có thể khái quát ở những điểm chính sau:

Thứ nhất, chúng luôn chủ động tấn công, chống phá ta bất cứ lúc nào, bằng mọi hình thức.

Các thế lực thù địch tận dụng các phương tiện thông tin hiện đại bằng cách lập những trang mạng xã hội, có bộ máy chuyên nghiệp rỉ rả tuyên truyền xuyên tạc, chống phá ta dưới nhiều hình thức suốt đêm ngày để lừa bịp nhân dân theo phương châm “nói nhiều rồi sẽ tin”. Phương thức, biểu hiện mới của các thế lực thù địch chống phá trong lĩnh vực tư tưởng, lý luận là khi còn ở dạng dự thảo, lấy ý kiến rộng rãi của nhân dân thì chúng “kiến nghị”, đề xuất hướng lái theo mục tiêu, ý đồ của chúng; khi đường lối, chủ trương mới ban hành thì chúng chủ động tuyên truyền bới móc, xuyên tạc gây hoài nghi trong quần chúng nhân dân. Chúng luôn nắm bắt kịp thời bất kỳ chủ trương, biện pháp hoạt động mới nào của ta từ cấp Trung ương xuống địa phương để xuyên tạc, bóp méo, chống phá một cách trắng trợn. Các thế lực thù địch rất “nhạy bén” trong phương thức tiến hành chống phá ở mọi nơi, mọi lúc, đặc biệt lợi dụng các thời điểm chuẩn bị tổ chức đại hội các cấp, bầu cử Quốc hội, ban hành luật... Bởi vì tư tưởng, lý luận là lĩnh vực rất nhạy cảm, đi trước dẫn đường cho hành động của con người. Có thể thấy, nhanh nhạy linh hoạt, chọn thời điểm để gia tăng cường độ chống phá là phương thức hoạt động chống phá nổi bật của các thế lực thù địch đối với ta trong lĩnh vực tư tưởng, lý luận hiện nay. Chúng có cả kế hoạch, đầu tư kinh phí, tổ chức, bộ máy, công nghệ, thiết bị máy móc hiện đại thường xuyên chống phá.

Thứ hai, kiên trì chống phá.

Trong xã hội hiện đại, mọi sự vật, hiện tượng đều diễn ra và biến đổi rất nhanh chóng, không ngừng. Trong lĩnh vực tư tưởng, lý luận cũng diễn ra như vậy, cho dù nó vẫn có tính ổn định tương đối. Các thế lực thù địch luôn kiên trì bám sát mục tiêu, đối tượng mà chúng nhằm vào để chuyển hóa tư tưởng, lý luận, thực hiện âm mưu chống phá ta. Song song với hoạt động chống phá ta một cách thường xuyên, trắng trợn hằng ngày, chúng có sẵn kế hoạch, chương trình dài hạn, chiến lược chống phá ta về tư tưởng, lý luận.

Thứ ba, chống phá tinh vi, bịa đặt trắng trợn.

Các thế lực thù địch thường cập nhật, theo dõi rất kỹ lưỡng các vấn đề tư tưởng, lý luận của ta để tìm ra những mâu thuẫn giữa nhận thức và hành động; giữa lý luận và thực tiễn để khoét sâu những “nghịch lý”, những “độ chênh” giữa tư tưởng, lý luận với thực tiễn để gây hoài nghi, mất lòng tin của cán bộ, đảng viên, nhân dân. Chúng tung ra những thông tin lập lờ giữa đúng và sai, giữa thật và giả, kể cả bịa đặt trắng trợn để gây hoài nghi trong nhân dân. Thậm chí, chúng dựng lên những sự việc, sự kiện không có thật, gây hoang mang, thất thiệt trong quần chúng nhân dân.

Thứ tư, chống phá với những phương thức đa dạng, nhiều chiều.

Các thế lực thù địch xác định một trong những mục tiêu chống phá Đảng và nhân dân ta trong lĩnh vực tư tưởng, lý luận là nhằm thủ tiêu tinh thần, ý chí cách mạng của nhân dân. Vì thế, chúng sẵn sàng dùng mọi phương thức, biện pháp, phương tiện, hình thức có thể để thực hiện. Tuyên truyền miệng, các phương tiện truyền thông hiện đại, mạng xã hội, các loại hình văn hóa, nghệ thuật, xuất bản, báo chí,... đều được chúng tận dụng tối đa.


Chúng thông qua các hoạt động “khoa học”, giáo dục, đào tạo, các “diễn đàn” để tán phát các quan điểm sai trái, phản động, xuyên tạc, chống phá ta. Chúng đầu tư kinh phí dưới dạng “hỗ trợ nhân đạo”, các tổ chức phi chính phủ để tuyên truyền, lôi kéo nhân dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa. Chúng tổ chức truyền đạo, lập đạo trái pháp luật, tuyên truyền mê tín dị đoan để mê hoặc, lôi kéo những người kém hiểu biết. Chúng mua chuộc cán bộ dưới nhiều hình thức, như tổ chức “tham quan”, “du lịch”, “hội nghị”, “đầu tư dự án”, “đào tạo”... cũng như các “mồi nhử” kinh tế khác khá “hấp dẫn” làm mê muội nhiều người; không loại trừ cả những hình thức ép buộc, giả danh cán bộ để lừa dối, tán phát các luận điệu sai trái, đối lập với quan điểm của Đảng.

Có thể nói, trong điều kiện hiện nay, dưới tác động của nhiều lợi ích, nhiều xu thế phức tạp của quá trình toàn cầu hóa, của sự phát triển khoa học, công nghệ..., các thế lực thù địch đang thực hiện những âm mưu, thủ đoạn, phương thức mới chống phá Đảng và nhân dân ta trong lĩnh vực tư tưởng, lý luận với sự đan xen nhiều lĩnh vực: kinh tế với chính trị, tư tưởng, lý luận, văn hóa, xã hội, đối ngoại. Vì thế, trong cuộc đấu tranh này đòi hỏi chúng ta vừa đề cao cảnh giác, chủ động tấn công, đổi mới tư duy, có phương thức, biện pháp thích hợp, vừa tổ chức hiệp đồng chặt chẽ các lực lượng, phát huy thế mạnh, tăng cường tuyên truyền sâu rộng, kịp thời, chính xác các quan điểm, tư tưởng, lý luận của Đảng, phản bác mạnh mẽ, quyết liệt để kịp thời ngăn chặn sự chống phá về tư tưởng, lý luận của các thế lực thù địch dưới bất cứ màu sắc nào. Điều cốt lõi là làm cho tư tưởng, lý luận của Đảng thấm sâu trong mọi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, để chính họ là những chủ thể mạnh mẽ, vững chắc làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn, phương thức chống phá của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận./.


17/08/2019 | 23:39 PM

Xem với cỡ chữ

Đấu tranh chống thế lực tơ-rốt-xkít
bảo vệ đường lối của Đảng (1930 -1945)
và bài học cho đấu tranh chống
chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa dân túy hiện nay

NGUYỄN TRỌNG PHÚC
PGS, TS, nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
23:39, ngày 17-08-2019

Ở Việt Nam, sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (năm 1930), một số người theo xu hướng tơ-rốt-xkít chủ yếu từ Pháp về mưu đồ lập một đảng riêng để chống lại đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản với những khẩu hiệu “tả” để lừa bịp, lôi kéo quần chúng, làm nhân dân lầm tưởng họ là những người cách mạng. Cuộc đấu tranh chống thế lực thù địch là những phần tử tơ-rốt-xkít được Đảng tiến hành kiên quyết, kịp thời vào những năm 1936 - 1939, không những có ý nghĩa bảo vệ hệ tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác  - Lê-nin, bảo vệ đường lối, công tác tổ chức cán bộ của Đảng, củng cố sự đoàn kết thống nhất trong Đảng lúc bấy giờ mà còn để lại những bài học có giá trị cho hiện nay.

Xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính trị hiện nay chính là nội dung và giải pháp cơ bản làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch và cơ hội chính trị _Tác giả: Vũ Trung Duy

Cuộc đấu tranh của Đảng chống thế lực tơ-rốt-xkít những năm 1930 - 1945

Trong quá trình hoạt động trước và sau Cách mạng Tháng Mười Nga, Lê-ôn Tờ-rốt-xky đã bộc lộ những nhận thức và quan điểm chính trị sai trái nhưng lại được ngụy trang bởi những khẩu hiệu, ngôn từ “tả” khuynh, cách mạng giả hiệu. Quan điểm của L.  Tờ-rốt-xky đối lập với chủ nghĩa Mác - Lê-nin trên các vấn đề cơ bản, nhất là chiến lược, sách lược của cách mạng vô sản. L.  Tờ-rốt-xky quyết liệt chống lại đường lối, chính sách của V.I. Lê-nin và Đảng Cộng sản Nga. Ở L. Tờ-rốt-xky thể hiện rõ chủ nghĩa cơ hội chính trị.

Tháng 3 - 1919, theo sáng kiến của V.I.  Lê-nin, Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) được thành lập, khắc phục những sai lầm của Quốc tế II và đề ra đường lối, thống nhất lãnh đạo, chỉ đạo phong trào cách mạng ở các nước trên thế giới. L. Tờ-rốt-xky đã chống lại đường lối của Quốc tế Cộng sản trong bối cảnh ảnh hưởng của Quốc tế Cộng sản ngày càng phát triển. Do những quan điểm và hành động thù địch chống phá cách mạng, năm 1927, L. Tờ-rốt-xky bị khai trừ khỏi Đảng Cộng sản Bôn-sơ-vích Nga. Năm 1929, L.  Tờ-rốt-xky bị trục xuất khỏi Liên Xô và lập ra Đệ tứ quốc tế để chống lại Quốc tế Cộng sản. Một số phong trào cách mạng ở các nước chịu tác động bởi quan điểm phản động của L. Tờ-rốt-xky đã hình thành những nhóm, lực lượng đi theo, được gọi là các nhóm, lực lượng tơ-rốt-xkít. Ngày 30-7-1936, tại Pa-ri (Pháp) diễn ra hội nghị của các đảng tơ-rốt-xkít, để thành lập ủy ban lâm thời, dự bị thành lập Đệ tứ quốc tế. Lúc này, có 7 nước có đảng của Đệ tứ quốc tế. Các đảng trong Đệ tứ quốc tế dù chia rẽ nội bộ nhưng đều đứng dưới ngọn cờ phản động của L. Tờ-rốt-xky để chống chủ nghĩa cộng sản, chống lại Quốc tế Cộng sản và Liên bang Xô-viết. Ở Pháp có tới 5 đảng tơ-rốt-xkít hoạt động. Ở Trung Quốc, nhóm tơ-rốt-xkít phá hoại từ năm 1927 và sau này, vào những năm 30, chống lại chủ trương lập Mặt trận thống nhất kháng Nhật.

Ở Việt Nam, sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (năm 1930), một số người theo xu hướng tơ-rốt-xkít chủ yếu từ Pháp về mưu đồ lập một đảng riêng để chống lại đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản. Những năm 1936 - 1939, Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo phong trào Mặt trận Dân chủ, đề ra mục tiêu đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ, ủng hộ Mặt trận bình dân Pháp, tổ chức phong trào Đông Dương đại hội để tập hợp quần chúng, gửi dân nguyện lên Chính phủ Pháp. Đảng phát triển rộng rãi đấu tranh trên mặt trận báo chí công khai để tuyên truyền và tổ chức lực lượng; tham gia đấu tranh nghị trường, giới thiệu người ứng cử vào Hội đồng thành phố Hà Nội, Sài Gòn, Hội đồng quản hạt Nam Kỳ, Đại hội đồng Kinh tế lý tài Đông Dương. Những chủ trương đó là đúng đắn, phù hợp với thực tiễn cách mạng và đường lối của Quốc tế Cộng sản, phù hợp lợi ích, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân. Vì vậy, các tầng lớp nhân dân trong xã hội đã hưởng ứng sôi nổi, phong trào dân chủ đạt được những thành quả rất quan trọng.

Những nhân vật tơ-rốt-xkít tiêu biểu ở Việt Nam trong những năm 30 là Hồ Hữu Tường, Tạ Thu Thâu, Trần Văn Thạch, Phan Văn Hùm,... Nhóm tơ-rốt-xkít đó chống lại chủ trương của Đảng Cộng sản Đông Dương, đồng thời đưa ra những khẩu hiệu “tả” để lừa bịp, lôi kéo quần chúng, làm nhân dân lầm tưởng họ là những người cách mạng. Tháng 4-1937, Hồ Hữu Tường phản đối Quốc tế Cộng sản về chủ trương các đảng cộng sản lập Mặt trận nhân dân chống phát-xít, đòi giải tán Mặt trận bình dân ở Pháp, Tây Ban Nha, Trung Quốc, phản đối Mặt trận dân chủ ở Đông Dương. Cũng tháng 4-1937, Tạ Thu Thâu chủ trương ở Đông Dương không nên lập Mặt trận dân chủ với luận điệu rất “tả”: giai cấp vô sản không cần và cũng không có thời giờ đâu mà lo cho các giai cấp khác. Đó là luận điệu có vẻ như đề cao giai cấp vô sản nhưng kỳ thật là trái với mục tiêu cách mạng của giai cấp vô sản mà C. Mác và V.I. Lê-nin đã đề ra. Tạ Thu Thâu và nhóm tơ-rốt-xkít còn chủ trương ở xứ thuộc địa phải làm cách mạng vô sản ngay, không cần làm cách mạng tư sản dân quyền (cách mạng dân tộc dân chủ) rồi mới chuyển lên cách mạng vô sản. Họ phản đối và ngăn cản việc xây dựng và phát triển phong trào của dân chúng.

Kịp thời phê phán và chống lại sự phá hoại của nhóm tơ-rốt-xkít ở Việt Nam, Tổng Bí thư Hà Huy Tập đã viết tác phẩm “Tờ-rốt-xky và phản cách mạng” với bút danh Thanh Hương. Cuốn sách được Tiền Phong thư xã xuất bản tại Sài Gòn năm 1937. Trong cuốn sách, Tổng Bí thư Hà Huy Tập đã trình bày hệ thống những quan điểm phản động của Tờ-rốt-xky và sự nguy hại của lý thuyết đó đối với phong trào cách mạng vô sản thế giới, đối với cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ của các nước thuộc địa. Cuốn sách cũng công khai phê phán những nhân vật trong nhóm tơ-rốt-xkít ở Đông Dương đang phá hoại phong trào cách mạng do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo và việc họ đang ra sức lừa bịp, lôi kéo quần chúng. Tổng Bí thư Hà Huy Tập nêu rõ: “Chủ nghĩa của Tờ-rốt-xky là một chi nhánh của chủ nghĩa phát xít. Đệ tứ quốc tế là đội tiên phong của giai cấp tư bản tài chính phản cách mạng.

Đệ tứ của Tờ-rốt-xky rất mật thiết liên lạc với hết các đảng phái phản động ở thế giới và nhất là với tụi phát xít Đức và Nhật để chia rẽ công nhân vận động, phá rối các phong trào Mặt trận bình dân dự bị đế quốc chiến tranh âm mưu đánh đổ Liên bang Xô-viết là xứ dân chủ hơn hết trong thế giới, xứ độc nhất ủng hộ chính sách hòa bình một cách cương quyết và triệt để”(1).

Cuốn sách của Tổng Bí thư Hà Huy Tập đã chỉ rõ bản chất phản động, nguy hại của chủ nghĩa Tờ-rốt-xky và những phần tử, đảng tơ-rốt-xkít trên thế giới và ở Đông Dương, Việt Nam; kiên quyết bảo vệ lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, đường lối chiến lược, sách lược của Quốc tế Cộng sản, bảo vệ đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Đông Dương. “Hiện thời chúng ta cần phải nhận rõ chủ nghĩa Tờ-rốt-xky trong bước đường tiến hóa của nó đã thay đổi hẳn. Nó không còn là một xu hướng chính trị trong giai cấp thợ thuyền. Ở thế giới nó đã trở thành bọn phá hoại, bọn mật thám, bọn giết người tuân theo mệnh lệnh của những sở mật thám ngoại quốc”(2).

Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, bằng kinh nghiệm hoạt động quốc tế và với sự nhạy cảm về chính trị, đã sớm nhận rõ bản chất và mưu đồ của những phần tử tơ-rốt-xkít. Năm 1939, khi hoạt động ở Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc đã có những bức thư gửi Trung ương Đảng ở trong nước để trao đổi nhiều vấn đề về đường lối, chính sách của Đảng, trong đó có đề cập đến việc chống phái tơ-rốt-xkít. Trong Thư từ Trung Quốc viết ở Quế Lâm, ngày 10-5-1939, Nguyễn Ái Quốc viết Về chủ nghĩa Tơ-rốt-xkít và sự hoạt động phá hoại của chúng. Trong Thư từ Trung Quốc đăng trên báo Notre Voix, ngày 7-7-1939, Nguyễn Ái Quốc nêu rõ hoạt động của phái tơ-rốt-xkít ở Trung Quốc, chỉ rõ: “Bọn tờ-rốt-xkít không chỉ là kẻ thù của chủ nghĩa cộng sản, mà còn là kẻ thù của nền dân chủ và tiến bộ. Đó là bọn phản bội và mật thám tồi tệ nhất”(3).

Chủ nghĩa Tơ-rốt-xky và những phần tử tơ-rốt-xkít đã phá hoại cách mạng Nga, cách mạng Trung Quốc và nhiều nước khác. Đối với cách mạng Việt Nam và Đông Dương, nhất là trong phong trào Mặt trận Dân chủ Đông Dương 1936 - 1939, những phần tử tơ-rốt-xkít đã công khai chống lại đường lối của Đảng Cộng sản Đông Dương, phá hoại phong trào quần chúng, lôi kéo, lừa bịp nhân dân với những  khẩu hiệu “tả” khuynh. Từ nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc đề nghị các đồng chí trong Đảng cần phải cảnh giác đối với những phần tử tơ-rốt-xkít: “Đối với bọn tờ-rốt-xkít, không thể có thỏa hiệp nào, một nhượng bộ nào. Phải dùng mọi cách để lột mặt nạ chúng làm tay sai cho chủ nghĩa phát xít, phải tiêu diệt chúng về chính trị”(4).

Trong phong trào cách mạng 1936 - 1939, Đảng đã thành công trong sự kết hợp đúng đắn chiến lược và sách lược cách mạng, nắm vững mục tiêu chiến lược lâu dài là giành độc lập dân tộc và đi tới chủ nghĩa xã hội; đồng thời đề ra những mục tiêu dân sinh, dân chủ cụ thể trước mắt phù hợp với điều kiện thực tiễn và lợi ích của quần chúng; kết hợp nhiều hình thức tổ chức và hình thức, phương pháp đấu tranh thích hợp, có hiệu quả. Trong các hình thức, phương pháp đó có giới thiệu người của Đảng và Mặt trận Dân chủ tham gia ứng cử vào các cơ quan của chính quyền thuộc địa và đã thành công ở nhiều nơi. Tuy vậy, trong bầu cử Hội đồng quản hạt Nam Kỳ, người của Mặt trận Dân chủ đã không thành công. Một số đồng chí đã coi nhẹ công tác tuyên truyền, vận động quần chúng, hợp tác vô nguyên tắc với các phần tử tơ-rốt-xkít và với những khẩu hiệu lừa bịp, các phần tử tơ-rốt-xkít đã lôi kéo được quần chúng bỏ phiếu cho họ. Đó là khuyết điểm và là bài học trong sự lãnh đạo của Đảng. Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ đã chỉ rõ vấn đề đó trong tác phẩm Tự chỉ trích (tháng 7-1939): “Sau cuộc tuyển cử Hội đồng quản hạt, các lớp nhân dân có quan tâm đến thời cuộc trong xứ đều đương bàn luận về kết quả cuộc tuyển cử, về những nguyên nhân đã làm cho sổ Mặt trận dân chủ của nhóm Dân chúng đưa ra bị thất bại, còn sổ tờ-rốt-xkít: Thâu, Hùm, Thạch, được đắc cử ở quận nhì”(5).

Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ đã phân tích các nguyên nhân thất bại trong tuyển cử của những ứng cử viên của Mặt trận Dân chủ: “Về cuộc thất bại tuyển cử vừa qua, ta còn cần vạch ra một nguyên nhân rất quan trọng, ấy chính là sự khinh thường nạn tờ-rốt-xkít, sự khinh thường này đã thành một cái bệnh ăn sâu trong đầu óc nhiều đồng chí ta. Chúng ta chẳng phải những kẻ thấy thất bại sơ sơ là đâm hoảng hốt bi quan, song ta phải có can đảm mở to mắt ra nhìn sự thật”(6). Tổng Bí thư nêu rõ bản chất và thủ đoạn của những phần tử tơ-rốt-xkít: “Bọn tờ-rốt-xkít, xét đến cốt tủy của chúng thì chúng chỉ gồm những cặn bã của phong trào nhóm họp nhau để chống cộng sản, chống cách mệnh, chia rẽ và phá hoại phong trào quần chúng. Nhưng vì chế độ áp bức bóc lột tàn nhẫn của bọn tư bản phản động, nhờ những câu “cách mệnh cực tả”, nhờ che đậy bằng trăm nghìn mặt nạ nên bọn tờ-rốt-xkít có thể phỉnh phờ lừa gạt được một số trí thức tiểu tư sản, mà ngay cả một số thợ thuyền quá nóng nẩy”(7). Chúng còn “núp dưới bóng cờ cộng sản”, “nhiều khi mạo nhận là cộng sản để chia rẽ”, cần phải vạch trần mưu mô khiêu khích của phái tơ-rốt-xkít.

Cuộc đấu tranh chống thế lực thù địch là những phần tử tơ-rốt-xkít được Đảng tiến hành kiên quyết, kịp thời những năm 1936 - 1939, do đó, đã bảo vệ hệ tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lê-nin, bảo vệ đường lối của Đảng và công tác tổ chức cán bộ của Đảng, rút ra những bài học cần thiết trong lãnh đạo của Đảng và củng cố sự đoàn kết thống nhất trong Đảng.

Cuối những năm 30 đầu những năm 40 của thế kỷ XX, những người cộng sản, các tổ chức đảng không chỉ đấu tranh chống sự phá hoại của những phần tử tơ-rốt-xkít, mà còn phải chống những phần tử A.B. Ngày 25-12-1944, trên báo Cờ giải phóng, Tổng Bí thư Trường Chinh, với bút danh XXX, đã viết bài Kinh nghiệm công tác, làm thế nào nhận biết một phần tử A.B? “A.B là bọn khiêu khích làm tay sai cho giặc đế quốc, đội lốt cộng sản chui vào Đảng để dò xét và phá hoại Đảng. A.B tức là chữ Anti-bolchévik viết tắt và nghĩa đen của nó là phản Bôn-sơ-vích, phản cộng”(8). Sự nguy hiểm của các phần tử A.B là ở chỗ chúng ở ngay trong tổ chức đảng (nội gián), phá hoại từ bên trong nội bộ Đảng. Chúng có nhiều thủ đoạn để nắm được những bí mật của Đảng và cách mạng, đồng thời có nhiều cách lừa bịp khôn khéo, gây tín nhiệm. Vì vậy, tổ chức đảng phải hết sức cảnh giác để bảo vệ nội bộ Đảng cả về tư tưởng, chính trị và tổ chức, cán bộ.

Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, với vai trò cầm quyền của Đảng Cộng sản và sự quản lý của Nhà nước cách mạng Việt Nam, cả dân tộc thực hiện nhiệm vụ kháng chiến và kiến quốc nhằm bảo vệ nền độc lập và chính quyền nhân dân non trẻ, xây dựng và phát triển đất nước. Cách mạng Việt Nam đứng trước những thách thức nặng nề, phải chống giặc ngoài, thù trong ở thế “ngàn cân treo sợi tóc”: Thực dân Pháp quay lại xâm lược, đánh chiếm Nam Bộ (ngày 23-9-1945); quân đội Tưởng Giới Thạch vào miền Bắc tước vũ khí quân Nhật, đồng thời thực hiện âm mưu lật đổ Nhà nước cách mạng Việt Nam. Đảng đề ra mục tiêu chiến lược, đồng thời thực hiện sách lược khôn khéo triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù và thực hành nhân nhượng có nguyên tắc. Từ tháng 9-1945 đến tháng 2-1946, Đảng chủ trương hòa hoãn với quân Tưởng ở miền Bắc để tập trung kháng chiến chống thực dân Pháp ở miền Nam; từ tháng 3-1946 chuyển sang chủ trương hòa hoãn nhân nhượng với Pháp để thúc đẩy quân Tưởng rút về nước.

Trong quan hệ với Pháp, Đảng và Chính phủ Việt Nam đã nêu cao ý chí, quyết tâm kháng chiến bảo vệ nền độc lập, đồng thời tỏ rõ mong muốn hòa bình, hợp tác với Pháp. Hiệp định Sơ bộ Việt - Pháp được ký ngày 6-7-1946 tại Hà Nội. Cuộc đàm phán chính thức giữa Việt Nam và Pháp bắt đầu vào ngày 6-7-1946 ở Phông-ten-nơ-blô (Pháp). Ngày 31-5-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm chính thức nước Pháp. Những hoạt động đó hướng tới mục tiêu hòa bình bền vững của nước Việt Nam độc lập. Các phần tử tơ-rốt-xkít cố tình xuyên tạc, vu cáo Đảng Cộng sản và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã theo Pháp và bán nước cho Pháp. Họ kích động, lôi kéo quần chúng nhân dân chống lại những chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ, gây mất ổn định xã hội. Tổng Bí thư Trường Chinh đã viết loạt bài quan trọng để giải thích đường lối, chủ trương của Đảng và Chính phủ với tinh thần: Hãy bình tĩnh nhận định tình hình và tránh những hành động khiêu khích; đối phó với mọi sự bất trắc và đoàn kết hơn nữa.

Để chống lại âm mưu khiêu khích, phá hoại của những thế lực thù địch, nhất là những phần tử tơ-rốt-xkít, trước khi đi thăm nước Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có thư gửi đồng bào Nam Bộ. Trong thư, Người nêu rõ: “Tôi xin đồng bào cứ bình tĩnh. Tôi xin hứa với đồng bào rằng Hồ Chí Minh không phải là người bán nước”, “Đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi!”(9).

Những bài học có giá trị lý luận và thực tiễn cho đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội và chủ nghĩa dân túy hiện nay

Cuộc đấu tranh của Đảng chống các thế lực thù địch, nhất là những phần tử tơ-rốt-xkít vào những năm 1930 - 1945 nhằm bảo vệ đường lối, chủ trương, nền tảng tư tưởng và tổ chức của Đảng đã có những thành công, bảo đảm sự thống nhất về mọi mặt của Đảng, lãnh đạo thắng lợi cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng. Cuộc đấu tranh đó để lại cho các thời kỳ tiếp theo và công cuộc đổi mới hiện nay những bài học có giá trị lý luận và thực tiễn.

Một là, trong bất cứ tình thế và hoàn cảnh nào cũng cần chủ động, bình tĩnh phân tích để nhận rõ âm mưu, ý đồ chính trị của thế lực thù địch và cơ hội chính trị để xác định cách thức cần thiết làm thất bại sự chống phá. Ý đồ của thế lực thù địch và cơ hội chính trị là phá hoại, phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng với mục tiêu đưa sự nghiệp cách mạng mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn đi theo hướng khác, xa rời lý tưởng, mục tiêu cách mạng, hoặc ít nhất cũng gây tổn thất cho cách mạng, gây phân tâm, hoang mang, thiếu tin tưởng ngay trong nội bộ Đảng và trong nhân dân. Khi điều kiện cho phép, chúng sẽ đoạt quyền lãnh đạo, nắm chính quyền nhằm thay đổi chế độ chính trị. Các thế lực thù địch và cơ hội chính trị luôn tập trung phá hoại về tư tưởng để đi đến phá hoại đường lối, chính sách, pháp luật, làm suy yếu tổ chức hòng làm mất vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản và xóa bỏ Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Dù được che đậy bởi lời lẽ, thủ đoạn gì thì mục tiêu chính trị của các thế lực thù địch và cơ hội chính trị cũng không bao giờ thay đổi.

Hai là, đề cao cảnh giác trước những luận điệu, thủ đoạn xảo quyệt, tinh vi, lừa bịp của các thế lực thù địch và cơ hội chính trị làm lẫn lộn phải trái, đúng sai, vu cáo, phủ định hiện thực lịch sử. Thủ đoạn này của các thế lực thù địch và cơ hội chính trị gây tác hại nghiêm trọng đến những cán bộ, đảng viên và quần chúng với nhận thức còn hạn chế, bản lĩnh thiếu vững vàng, dễ hùa theo những luận điệu, chiêu bài lừa bịp của địch. Rất nhiều trường hợp, các thế lực cơ hội chính trị tự nhận và tô vẽ mình với những khẩu hiệu “cách mạng”, “yêu nước”, “dân túy”, hô hào tinh thần dân tộc, để kích động, lôi kéo quần chúng. Những vụ việc gần đây xảy ra ở các địa phương như một sự lặp lại tinh vi hơn thủ đoạn của các phần tử tơ-rốt-xkít những năm 1936 - 1939, 1945 - 1946 và cả giọng điệu của các phần tử A.B trước đây. Phải kiên quyết đấu tranh để bảo vệ nền tảng tư tưởng, Cương lĩnh, đường lối của Đảng và không được có bất cứ sự thỏa hiệp nào về chính trị đối với các thế lực thù địch và cơ hội chính trị.

Ba là, chú trọng bảo đảm sự thống nhất nhận thức và đoàn kết trong Đảng, tăng cường bảo vệ chính trị nội bộ. Trước những sự phá hoại của các thế lực thù địch và cơ hội chính trị càng cần sự thống nhất ý chí và hành động trong Đảng và trong cả hệ thống chính trị. Sự thống nhất về hệ tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thống nhất nhận thức về Cương lĩnh, đường lối đổi mới của Đảng, thống nhất từ trên xuống dưới, từ cơ quan, tổ chức đến mỗi cán bộ, đảng viên là sự bảo đảm đoàn kết vững chắc trong Đảng, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn “phải giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Hết sức coi trọng bảo vệ chính trị nội bộ, không để cho những phần tử xấu, cơ hội chính trị chui vào nội bộ Đảng, nhất là vào các cơ quan lãnh đạo các cấp. Ở đây, đặt ra yêu cầu trách nhiệm cao, nghiêm túc và chặt chẽ trong công tác cán bộ của Đảng.

Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh công tác xây dựng Đảng cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, đồng thời cũng chỉ rõ: “Công tác bảo vệ chính trị nội bộ có mặt còn hạn chế. Chưa nắm và giải quyết tốt vấn đề chính trị hiện nay, trong khi những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có xu hướng diễn biến phức tạp trong Đảng, trong hệ thống chính trị và trong xã hội. Không ít cán bộ, đảng viên có những biểu hiện dao động, mất phương hướng, hoài nghi về vai trò lãnh đạo của Đảng, về mục tiêu, lý tưởng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”(10). Xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính trị hiện nay chính là nội dung và giải pháp cơ bản làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch và cơ hội chính trị./.

--------------------------------------------------------

 (1), (2) Hà Huy Tập: Một số tác phẩm, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 537, 595

(3), (4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia  Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 3, tr. 154, 167

(5), (6), (7) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 6, tr. 619, 627, 627 - 628

 (8) Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 516

(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 280

(10) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 195