Lại mấy chứng bệnh “vĩ cuồng” về những vấn đề chính trị Việt Nam

Nhị Lê
15:18, ngày 06-10-2019

Chốc đà đã mấy mươi niên!

Vẫn nhớ những “khuôn mặt tư tưởng” đã quen. Và, vẫn hiện tồn qua đó những “linh hồn tư tưởng” với các luận đề cũng trở nên quá nhàm nhưng lại ảo vọng thành những “vĩ nhân” trong chuyện làm huyên náo “học thuật chính trị”...

Rốt cuộc, tất cả đã rơi tõm vào im ắng, và chẳng ai còn nhớ gì các vị nữa.

Chẳng hiểu có phải vì cả thẹn bởi những chuyện đó hay không mà ít năm nay các vị cũ ấy và lác đác thêm vài dung mạo nữa bỗng dưng đùng đùng tự lăng-xê mình bằng cái trò “đốt đền Ác-tê-mi”, khiến không ít người, dù hiền nhất, cũng phải bực mình.

Các vị ấy “đốt đền Ác-tê-mi” kiểu gì?

Bằng cách, qua đài báo của các thế lực thù địch ở hải ngoại, họ hô hoán toáng lên; và đồng thời, “du thuyết cao đàm khoát luận” khắp nơi để huyên truyền, để ầm ỹ phát tán cái “tâm huyết”, để trương ra tá hỏa trên sách báo hải ngoại, trên mạng xã hội những sự “uyên bác” của mình bằng những cuộc “tọa đàm nhỏ” hay dưới dạng những “huyết thư về Việt Nam”(!)

Các vị ấy nói những gì?

Nhìn tổng thể, kỳ thực, chúng ta thấy rất nhiều ý kiến cũ mèm hay đại loại như vậy trong hàng đống sách báo chống chủ nghĩa xã hội, chống Việt Nam của đủ hạng người trong và ngoài nước, đã mấy mươi năm nay.

Mặc nhiên vậy, điều chúng ta buộc lòng phải trao đổi ở đây là, liệu tất cả những điều “tâm huyết”, “khuyến nghị” của họ có thực sự đúng đắn không?; có “hoàn toàn vô tư, trong sáng”, như đã từng khuếch trương trong các lời “phi lộ” của họ không?

Trước hết, đó là chung quanh vấn đề định hướng xã hội chủ nghĩa

Họ cho rằng, việc Đảng Cộng sản Việt Nam đưa ra định hướng xã hội chủ nghĩa là “thừa”, là “vô nghĩa”, do đó “chỉ cần đặt vấn đề xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh là đủ, cần gì phải định hướng xã hội chủ nghĩa”(!)

Xin thưa rằng, 89 năm qua, dưới ngọn cờ của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự lựa chọn mục tiêu chủ nghĩa xã hội của Đảng và nhân dân Việt Nam, xét về lô-gíc, là một tất yếu khách quan; xét về lịch sử, là hoàn toàn phù hợp với sự vận động của cách mạng Việt Nam; xét về xu thế phát triển của thời đại và xét về nhu cầu, là hoàn toàn xuất phát từ điều kiện cụ thể của một nước thuộc địa, nửa phong kiến và nguyện vọng của nhân dân lao động Việt Nam.

Hẳn ai cũng đều biết, chẳng cứ gì xã hội xã hội chủ nghĩa, mà bất cứ xã hội nào khác, trong tiến trình phát triển của mình đều cần có một sự hoạch định từ phương hướng đến bước đi. Ở tầm vĩ mô, lịch sử thế giới càng về cuối thế kỷ XX càng trở nên rất rõ ràng, là thời kỳ lịch sử phát triển rút ngắn, với gia tốc mạnh mẽ chưa từng thấy; đồng thời xu thế toàn cầu hóa, quốc tế hóa về kinh tế với tốc độ chóng mặt tạo nên một thế giới chỉnh thể vừa hợp tác, vừa đấu tranh hết sức phức tạp giữa các quốc gia, dân tộc. Bối cảnh đó đã làm xuất hiện tính đa dạng của sự phát triển và sự phát triển có tính ngắn hạn. Thực tiễn nóng bỏng và gay gắt trong cuộc chạy đua để tìm hướng đi và giải pháp phát triển, và nhất là khi nhân loại bước vào thế kỷ XXI đã bật lên hàng loạt vấn đề mới mẻ và xác nhận rằng, sẽ chỉ còn lại những quốc gia, dân tộc nào đã xác định rõ rệt và đúng đắn hướng đi, có một nội lực đủ mạnh, bền vững và đủ khả năng thích ứng nhằm tiến tới hội nhập hiệu quả vào thế giới. Trong số những bài học ấy, bài học về lựa chọn mục tiêu và hoạch định phương hướng phát triển trở thành bài học có ý nghĩa căn bản, then chốt, có ý nghĩa tồn vong trước hết đối với bất cứ quốc gia, dân tộc nào. Đó chính là vấn đề có tính thời đại về tư tưởng phát triển đúng hướng, mạnh mẽ và bền vững.

Việt Nam trên con đường phát triển của mình không nằm ngoài quy luật ấy.

Đối với Việt Nam, định hướng xã hội chủ nghĩa không chỉ dừng lại ở tiền đề, mục tiêu, mà rộng lớn và sâu sắc hơn, nó còn bao hàm sự nhận thức tất cả các tính quy luật, bản chất của chủ nghĩa xã hội quy định toàn bộ sự vận động của xã hội Việt Nam hướng tới mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội được thể hiện thông qua con đường, phương thức, bước đi và hệ giải pháp theo những nguyên tắc xã hội chủ nghĩa.

Xây dựng chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp hoàn toàn mới mẻ trong lịch sử nên quá trình nhận thức và tổ chức thực tiễn sẽ hết sức khó khăn, lâu dài, thậm chí có cả những khúc quanh co, thất bại tạm thời. Bởi vậy, xét về nhu cầu thông thường tối thiểu, định hướng xã hội chủ nghĩa là một tất yếu. Chúng ta có thể giả định con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội là con đường thẳng để có thể hình dung rõ đâu là bước đầu, đâu là bước tiếp theo, đâu là bước cuối cùng để tránh khỏi lạc đường và mất phương hướng. Thực tiễn phát triển cho thấy, phương pháp chắc chắn nhất và cần thiết nhất để thực sự có được thói quen xem xét vấn đề đó một cách đúng đắn, và không để lạc hướng trong rất nhiều chi tiết, hoặc trong rất nhiều ý kiến đối lập nhau - điều quan trọng nhất là không nên quên mối liên hệ lịch sử căn bản; là xem xét mỗi vấn đề theo quan điểm sau đây: một hiện tượng nhất định đã xuất hiện trong lịch sử như thế nào, hiện tượng đó đã trải qua những giai đoạn phát triển chủ yếu nào, và đứng trên quan điểm của sự phát triển đó để xem xét hiện nay nó đã trở thành như thế nào.

Nhưng trên thực tế, con đường đó không phải là con đường thẳng tắp, trơn tru mà nó rất quanh co, phức tạp. Để tránh chủ quan, duy ý chí, muốn đốt cháy giai đoạn dẫn tới tình trạng làm cho con đường đó càng phức tạp, quanh co hơn, thậm chí chệch hướng, nên không thể không hoạch định những giới hạn cho phép, trong khả năng cụ thể, vững vàng đi tới mục tiêu đã vạch ra. Đó chính là quá trình định hướng xã hội chủ nghĩa.

Do đó, sự thống nhất về nhận thức, sự đồng tâm về tư tưởng, sự tỉnh táo và đúng đắn trong việc xử lý các cảnh huống có ý nghĩa hết sức to lớn, thậm chí có vai trò quyết định. Đặc biệt, việc khắc phục và ngăn ngừa những khuynh hướng tự phát, vô chính phủ, nhất là chủ nghĩa cơ hội và chủ nghĩa thực dụng, là chệch hướng xã hội chủ nghĩa, ở đây, là vấn đề vừa mang tầm chiến lược, vừa có tính nóng bỏng, cấp bách. Vì vậy, để xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong bối cảnh hiện nay, rõ ràng không thể không bao hàm định hướng xã hội chủ nghĩa.

Tầm cỡ, quy mô, tốc độ và chiều sâu của công cuộc đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, trong bối cảnh thời đại hiện nay, càng đòi hỏi nghiêm ngặt phải giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Hơn nữa, cho dù hiện nay xu thế toàn cầu hóa, quốc tế hóa về kinh tế có phát triển đến đâu đi nữa thì vẫn nguyên vẹn còn đó cuộc đấu tranh quốc gia, đấu tranh dân tộc, dù dưới hình thức này hay khác. Và dù chúng ta có “mở cửa”, “hội nhập” thế giới đến đâu đi nữa thì trong điều kiện phức tạp ấy, phải có nguyên tắc. Nguyên tắc tối cao là bảo vệ triệt để lợi ích dân tộc tối thượng, lợi ích quốc gia tối cao theo nguyên tắc xã hội chủ nghĩa. Do đó, hiển nhiên là không thể có “mở cửa”, “hội nhập” chủ động, đúng đắn và hiệu quả, nếu không bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền quốc gia, không giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó không chỉ là yêu cầu có tính nguyên tắc, là nhu cầu nội tại trọng yếu, thường xuyên của tiến trình phát triển đất nước mà còn quyết định sự thành bại của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay, quyết định sự “mất, còn” của dân tộc Việt Nam. Bởi, nếu xa rời mục tiêu chủ nghĩa xã hội sẽ dẫn tới “những lệch lạc trong chủ trương, chính sách và chỉ đạo thực tiễn, sẽ đưa tới nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa” và như thế “sẽ phải trả giá rất đắt, có khi không cứu vãn được”, như Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng khẳng định. Do đó, nhất định phải tiến hành định hướng xã hội chủ nghĩa.

Nói khái lược, Việt Nam định hướng xã hội chủ nghĩa là quá trình xác định những giới hạn, những “độ” tồn tại lịch sử cụ thể của chủ nghĩa xã hội bắt đầu từ điểm xuất phát tới mục tiêu cuối cùng, mà nếu vượt ra ngoài những giới hạn, những “độ” ấy có thể và tất yếu xuất hiện một chế độ xã hội khác với chủ nghĩa xã hội. Nghĩa là, thực chất của toàn bộ quá trình định hướng xã hội chủ nghĩa là hoạch định một hành lang hoạt động cho phép, phù hợp thực tế và những quy luật khách quan, với những tiêu chí xác định, thông qua một cơ chế thích hợp xuyên suốt sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, từ điểm xuất phát tới đích cuối cùng nhằm đạt hiệu quả mong muốn, chứ quyết không phải thứ tù mù “chủ nghĩa nào cũng được miễn là giàu mạnh” (!). Đó chính là nhiệm vụ trung tâm của quá trình định hướng xã hội chủ nghĩa.

Nghĩa là chúng ta không ngừng kiến lập và phát triển: Tầm nhìn chiến lược - Định vị chiến lược quốc gia - Xây dựng quyết sách phát triển chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội Việt Nam chính là định hướng xã hội chủ nghĩa vậy!

Bởi vậy, một cách hiển nhiên, định hướng xã hội chủ nghĩa là một tất yếu, một nhu cầu, một phương án phát triển duy nhất đúng đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc; và hơn nữa, nó cần luôn được xem xét, bổ sung và hoàn chỉnh không ngừng.

Quả đúng rằng, khi người ta lén lút đưa dã tâm và núp dưới danh nghĩa cái gọi là khoa học mưu toan bài xích chủ nghĩa xã hội, thì nói như V.I. Lê-nin, tự nó đã lòi ra cái đuôi kỳ thị vô lối, thậm chí là cái đuôi hằn học của những kẻ đối lập về ý thức hệ.

Thứ hai là chung quanh vấn đề bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Họ cho rằng, “Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là một điều kỳ quặc, trái quy luật”(!)

C. Mác đã đưa ra một luận điểm nổi tiếng: Lịch sử là một quá trình phát triển tự nhiên. Ai cũng biết, luận điểm này xuất phát từ vai trò của nhân tố kinh tế rằng: Không một chế độ xã hội nào lại tự bị diệt vong khi tất cả những lực lượng sản xuất mà chế độ xã hội đó tạo địa bàn đầy đủ cho sự phát triển, vẫn còn chưa phát triển, và những quan hệ sản xuất mới cao hơn không bao giờ xuất hiện khi những điều kiện tồn tại vật chất của những quan hệ đó còn chưa chín muồi trong lòng bản thân xã hội cũ. Kết luận này của C. Mác là hoàn toàn chính xác, nếu xét ở tầm bao quát lịch sử, mang tính khuynh hướng của một thời đại.

Nhưng, nếu xét ở những trường hợp đặc thù, tại một thời điểm lịch sử cụ thể, thì không phải bao giờ kinh tế cũng là cái duy nhất quyết định. Bởi, kết luận trên của C. Mác là một kết luận có tính triết học - lịch sử. Hơn nữa, như đã biết, trong điều kiện cụ thể, C. Mác chú ý nhấn mạnh nhân tố kinh tế , và Người xem nó trong tư cách khi “xét cho đến cùng” mà thôi. Vì, C. Mác thừa hiểu rằng, sự phát sinh, tồn tại, phát triển của một chế độ xã hội không chỉ phát sinh từ các điều kiện kinh tế, mà còn bắt nguồn từ các vấn đề không thể tách biệt là xã hội, chính trị... Còn ai đó chỉ cố bám vào cái luận đề “không tất yếu về kinh tế” để nhằm bài xích “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa” của Việt Nam, chẳng khác gì cái xu hướng muốn giải đáp những vấn đề cụ thể bằng cách phát triển một cách đơn thuần lô-gíc chân lý chung... là một cách lập luận tầm thường hóa chủ nghĩa Mác và chỉ chế giễu một cách mù quáng chủ nghĩa duy vật biện chứng mà thôi. Vả nữa, “cả tôi lẫn Mác chưa bao giờ khẳng định như thế, - Ph. Ăng-ghen viết như thế - còn ai đó xuyên tạc luận điểm này theo ý nghĩa kinh tế là nhân tố quyết định duy nhất thì người đó biến lời khẳng định này thành một câu trống rỗng, trừu tượng, vô nghĩa”.

Thực tế cho thấy, vô số các quốc gia ở vào tình thế như vậy. Khi V. I. Lê-nin tuyên bố: “Chủ nghĩa cộng sản là chính quyền xô-viết cộng với điện khí hóa toàn quốc” thì không ít người phương Tây thiếu thiện chí cho rằng, đó là trò không tưởng. Song chỉ 15 năm sau đó, Liên Xô trở thành một nước công nghiệp hùng mạnh. Rõ ràng, ở những trường hợp cụ thể nhất định, thì khoa học và ý chí thực sự đã làm biến đổi kinh tế. Và nữa, cuộc Cách mạng tư sản Pháp năm 1789 chẳng hạn. Cuộc cách mạng này nổ ra khi trong lòng xã hội Pháp lực lượng sản xuất đại diện cho phương thức sản xuất mới còn chưa phát triển tới trình độ để mâu thuẫn gay gắt với quan hệ sản xuất phong kiến. Ở thời đoạn này, người ta thấy nổi bật lên vai trò của những tư tưởng đi tiên phong. Vì hàng chục năm trước đó, các nhà lý luận, các nhà tư tưởng như J. Rút-xô, C. Mông-te- xki-ơ, Vôn-te (bút danh của Francois-Marie Arouet), Đ. Đi-đrô và các nhà kinh tế, như J. Ma-bli, Mô-ren-li... đã phê phán chế độ phong kiến, cổ vũ tư tưởng dân chủ tư sản đó sao.

Từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga (năm 1917), một loạt nước châu Á và khu vực Mỹ La-tinh đã xây dựng các chế độ xã hội chủ nghĩa ở một xuất phát điểm về trình độ sức sản xuất thấp hơn nước Nga đương thời rất nhiều. Rõ ràng, lịch sử là một quá trình tự nhiên, nếu “xét cho đến cùng”, khi lấy nhân tố kinh tế để bao quát lịch sử là hoàn toàn đúng. Song, trong nhiều trường hợp lịch sử cụ thể, như đã thấy, hoặc lúc này nhân tố kinh tế là quyết định, hay lúc khác nhân tố tư tưởng, ý chí lại đóng vai trò tiên phong. Cho nên, nếu cứ khư khư xem cái nhãn hiệu gọi là “tất yếu kinh tế” để gán cho bất cứ mọi sự vật, hiện tượng lịch sử khác nhau thì chẳng khác gì cái lối đã từng bị Ph. Ăng-ghen chỉ trích, “dùng đòn bẩy để kết cấu theo kiểu của phái Hê-ghen”, chẳng khác gì tự giam mình vào “một khuôn mẫu đúc sẵn, theo đó người ta đẽo gọt những sự kiện lịch sử tùy theo ý muốn”. Rốt cuộc, “... họ đã phạm phải những điều hết sức kỳ quái” và “rối rắm một cách lạ lùng”, như Ph. Ăng-ghen từng nói.

Các hình thái kinh tế - xã hội thông thường được xây dựng như một quá trình tiệm tiến và liên tục từ thấp đến cao, bước sau phải bao gồm các bước trước có tính chất tuần tự. Nhưng, sự tiến hóa trong lịch sử nhân loại, bên cạnh đó, lại diễn ra với những bước nhảy vọt. Chẳng hạn, người Giéc-manh từ xã hội thị tộc chuyển thẳng lên xã hội phong kiến, không qua chế độ chiếm hữu nô lệ. Hy Lạp, La Mã cổ đại tạo ra chế độ chiếm hữu nô lệ điển hình, nhưng không xây dựng xã hội phong kiến. Và người Giéc-manh lại không phải là người tiên phong “tiến lên” chế độ tư bản mà đó lại là người Ăng-lô Sắc-xông... Còn hầu hết các nước ở châu Á, châu Phi, khu vực Mỹ La-tinh đều không trải qua các hình thái kinh tế - xã hội phát triển. Cụ thể là, không có nước nào lúc đó tiến lên chủ nghĩa tư bản. Cơ sở của đại đa số các xã hội này vẫn là các công xã nông thôn tồn tại trong lịch sử cho tới thế kỷ XIX và một phần còn kéo sang thế kỷ XX.

Rõ ràng, một chế độ xã hội cụ thể khi đã suy tàn, xét trong tiến trình phát triển tự nhiên, có thể tiến lên hai hoặc thậm chí ba hình thái kinh tế - xã hội cao hơn, chứ nhất thiết không phải chỉ tiến lên một hình thái cao hơn liền kề với nó. Nghĩa là, không nhất thiết tiến lên một cách tuần tự, mà tiến lên với bước nhảy vọt. Từ chế độ xã hội nguyên thủy, nước này có thể tiến lên xã hội theo kiểu “phương thức sản xuất châu Á”, như Ấn Độ, Ai Cập; nước khác bước sang chế độ chiếm hữu nô lệ, như trường hợp Hy Lạp; nước khác nữa lại nhảy vọt lên chế độ phong kiến, như Giéc-manh... Cùng xuất phát từ chế độ phong kiến nửa thuộc địa như Trung Quốc hoặc thuộc địa nửa phong kiến như Việt Nam, nhưng các nước này không tiến lên chủ nghĩa tư bản mà đều tiến lên chủ nghĩa xã hội. Điển hình là, nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào vượt qua hai nấc thang trong tiến trình phát triển lịch sử tự nhiên để đi lên chủ nghĩa xã hội. Như vậy rằng, cùng với hiện tượng tuần tự của lịch sử còn nổi bật lên hiện tượng lịch sử nhảy vọt, như chúng ta đã thấy. Nói cách khác, đó là sự phát triển đứt đoạn trong liên tục, tuần tự kết hợp với nhảy vọt biện chứng của lịch sử(1).

Cho nên, tiến hóa là cái bên trong (giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất) cộng với thời cơ phát triển bứt phá. Do đó, việc “bỏ qua” một hay nhiều giai đoạn là vấn đề mang tính quy luật và là hiện thực, chỉ có điều còn tùy thuộc vào khả năng hiện thực bên trong với sự liên kết nguồn động lực với bên ngoài và chớp đúng thời cơ phát triển mà thôi. Một quốc gia còn ở trình độ tiền tư bản chủ nghĩa vẫn có thể tiến lên xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa, chứ không nhất thiết phải kinh qua chế độ tư bản chủ nghĩa một cách tuần tự cứng nhắc hay nhất thành bất biến nào đó, như mấy ai vẫn khư khư nghĩ. Nước Việt Nam trong tiến trình phát triển của mình cũng không nằm ngoài tính quy luật và thực tiễn lịch sử có tính phổ biến ấy. Đó là biện chứng của lịch sử.

Cách đây tròn 99 năm, chung quanh vấn đề “bỏ qua” này, tại diễn đàn Đại hội lần thứ II của Quốc tế cộng sản, V.I. Lê-nin đã luận chứng rất rõ ràng: Đối với dân tộc lạc hậu hiện nay đang trên con đường giải phóng và chiến tranh đã có một bước tiến bộ, mà khẳng định rằng nền kinh tế quốc dân của những dân tộc đó nhất định phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, chúng ta có cho như vậy là đúng hay không? Chúng tôi cho rằng không đúng. Và trên thực tế, các nước Trung Quốc, Việt Nam, Cu-ba, Cộng hòa Dân chủ nhân dân Triều Tiên, Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào... đã chuẩn bị toàn diện cho mình những điều kiện cần và đủ để thực hiện sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội theo phương thức “bỏ qua” đầy thuyết phục này.

Đó là tất yếu lịch sử.

Vậy là, không chỉ trên phương diện lý luận, mà rõ ràng cả trên bình diện lịch sử đã chứng minh hết sức chắc chắn và phong phú, chỉ có điều trái với những suy nghĩ đầy kỳ quặc và thiếu thiện ý của những ai đó về vấn đề “bỏ qua” này ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội mà thôi. Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, chứ không bỏ qua những thành quả văn minh của loài người (kinh tế, khoa học công nghệ...) được tạo ra dưới chủ nghĩa tư bản.

Thứ ba là vấn đề Việt Nam phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Cách nay hơn ba năm (tháng 1-2016), có vị khăng khăng rằng: “Làm gì có nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà tìm” (!)

Xin được nói ngay, cách nay hơn 18 năm, tức là sau 15 năm đổi mới và thực thi kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, từ thực tiễn, đồng chí U. Côi-chi-ô, Trưởng Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Nhật Bản, tham dự Đại hội IX của Đảng Đảng Cộng sản Việt Nam, nhận định: “Đường lối đổi mới trong đó kết hợp kinh tế thị trường với kế hoạch, tiến lên chủ nghĩa xã hội trên cơ sở công nhận sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế là con đường của những người mở đường mới mẻ trong lịch sử. Chúng tôi hy vọng rằng Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam, đã từng chiến thắng trong cuộc đấu tranh đầy gian khổ trước đây, sẽ thành công trước thách thức mới trên chặng đường mà chưa một ai đi qua”(2), thì há còn gì để nghi ngờ nữa?

Vả nữa, hiện nay, ai cũng biết, đến nay Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 189/193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc, là thành viên tích cực của hơn 70 tổ chức quốc tế và khu vực; thiết lập quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với 30 nước... Đặc biệt, đối ngoại đa phương được nâng tầm, Việt Nam chủ động, tích cực tham gia các công việc chung của quốc tế theo phương châm chuyển từ “tham gia tích cực” sang “chủ động đóng góp xây dựng, định hình luật chơi chung”, bảo đảm được các lợi ích thiết thân của Việt Nam tại các diễn đàn quan trọng, như Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Liên hợp quốc, Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Diễn đàn Hợp tác Á - Âu (ASEM). Việt Nam đã thực sự là thành viên tích cực của cộng đồng quốc tế trên cả ba cấp độ: song phương, khu vực và toàn cầu. Việc tổ chức thành công Năm APEC 2017 là minh chứng sống động cho thấy hoạt động đối ngoại đa phương của Việt Nam đã được nâng lên một tầm cao mới, qua đó bảo vệ và thúc đẩy hiệu quả các lợi ích chiến lược về an ninh, phát triển của Việt Nam, đồng thời thể hiện tinh thần của “thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”.

Việc Việt Nam được bầu với số phiếu rất cao vào Hội đồng Nhân quyền, Hội đồng Kinh tế - xã hội, Ủy ban Luật pháp quốc tế của Liên hợp quốc, Ủy ban Di sản thế giới của UNESCO... cho thấy mức độ tin cậy của cộng đồng quốc tế đối với Việt Nam trong việc gánh vác trách nhiệm chung.

Hoạt động đối ngoại được triển khai mạnh mẽ và sâu rộng theo tinh thần Nghị quyết số 06-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII “Về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới”. Việt Nam cùng các nước thành viên kiên trì nền tảng hướng tới một Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). Việt Nam cũng đang cùng các nước tích cực thúc đẩy đàm phán Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP), đẩy mạnh các hoạt động ngoại giao vận động và thúc đẩy Liên minh châu Âu sớm ký kết, phê chuẩn và triển khai thực hiện Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA). Lãnh đạo các nước đối tác cũng nhất trí cùng Việt Nam triển khai một cách hiệu quả Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh kinh tế Á - Âu. Nên nhớ, ngay từ năm 2015, Việt Nam đã thúc đẩy quan hệ kinh tế, thương mại, đầu tư với 224 thị trường tại tất cả châu lục, há chẳng đủ để thấy thực lực và sức mạnh của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam sao hay còn cần gì nữa!?

Mười một nước thành viên CPTPP chụp ảnh chung sau khi ký hiệp định CPTPP tại Chile (năm 2018) _Nguồn: Reuters

Thị trường và kinh tế thị trường ra đời cách đây hơn 1.300 năm. Từ thế kỷ XVI trở đi, sự phát triển của khoa học - kỹ thuật mạnh mẽ chưa từng thấy và với tốc độ ngày càng lớn. Giai cấp tư sản tìm mọi cách tận dụng nó để đẩy nhanh tốc độ phát triển của lực lượng sản xuất, nói như C. Mác, điên cuồng thực hiện mưu đồ “xâm lấn khắp hoàn cầu”, điên cuồng mở rộng và chiếm đoạt thị trường thế giới nhằm tìm kiếm lợi nhuận tối đa cho mình. Qua năm thế kỷ, sau bốn cuộc cách mạng kỹ thuật, sự mở rộng và chiếm đoạt thị trường và đẩy nhanh kinh tế thị trường được giai cấp tư sản coi như một mục đích sống còn của nó, đến mức nhắc đến kinh tế thị trường là không ít người nhầm lẫn và ngỡ tưởng nó là thứ của riêng chủ nghĩa tư bản, thậm chí đồng nhất nó với chính chủ nghĩa tư bản, chứ không hiểu một cách rành rẽ và tường tận rằng, nó chỉ là một thành tựu của nền văn minh nhân loại mà giai cấp tư sản đang nắm lấy, nhằm áp đặt những giá trị của thể chế tư bản chủ nghĩa, tức kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa lên toàn nhân loại.

Tới cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, sự phát triển tột bậc của quá trình quốc tế hóa lực lượng sản xuất chuyển thành toàn cầu hóa kinh tế và giai cấp tư sản vẫn đang nắm quyền thao túng. Trong bối cảnh đó, kinh tế thị trường phát triển mạnh mẽ với quy mô, tính chất và phát huy tác dụng chưa từng thấy, tới mức có thể hình dung toàn cầu là một thị trường khổng lồ, dưới sự bành trướng của chủ nghĩa tư bản. Theo đó, hơn bao giờ hết, phát triển kinh tế thị trường một cách ồ ạt, tự do, tức là kinh tế thị trường tự do... để chiếm đoạt lấy càng nhiều lợi nhuận càng tốt. Và, hơn bao giờ hết, vai trò và sự tác yêu tác quái của chủ nghĩa tư bản trong cơn lốc toàn cầu hóa thông qua kinh tế cũng khủng khiếp và tàn bạo chưa từng thấy, đang trở thành “cái thòng lọng” hữu hình hoặc vô hình đe dọa đối với tất cả các quốc gia, dân tộc trong thời đại ngày nay, tất cả nhằm bành trướng trật tự tư sản: tự do chiếm đoạt, tự do bóc lột, tự do xâm lược, tự do khủng bố, tự do gian lận trong bầu cử, tự do phân biệt chủng tộc,... Giai cấp tư sản đang cố sức bảo vệ những thứ quyền đó và chừng nào những tai họa đó chưa bị đập tan, chưa bị thay thế thì chừng đó giai cấp tư sản vẫn áp đặt sự thống trị lên đông đảo nhân dân lao động, nô dịch các quốc gia, dân tộc khác bởi những thứ “tự do”: tự do thất nghiệp, tự do bị bóc lột, tự do bị chết đói, bị chà đạp một cách tự do, bị xâm lược một cách trắng trợn và vô cớ,... Điều đó giải thích vì sao, tại các nước tư bản chủ nghĩa, dù chỉ chiếm hơn 1% số dân nhưng những người giàu - những nhà tư sản đã sở hữu hơn 62% tổng số của cải xã hội. Đó cũng chính là hệ quả tự nhiên của nền chính trị tư sản trên chính lãnh địa của nó và đối với các quốc gia, dân tộc khác, trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.

Vậy là, kinh tế thị trường không phải là cái riêng của chủ nghĩa tư bản, mà là thành tựu chung của văn minh nhân loại. Nó đã từng tồn tại và phát triển qua các phương thức sản xuất khác nhau. Như vậy, trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, kinh tế thị trường tồn tại là tất yếu. Trung Quốc đang xây dựng nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Việt Nam đang hoàn thiện thể chế, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Vậy thì nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là gì? Nói giản lược, nó là một kiểu tổ chức nền kinh tế vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật vận động của kinh tế thị trường, vừa dựa trên và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và tính chất xã hội chủ nghĩa, thể hiện một cách toàn vẹn và tập trung trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối.

Theo đó, Việt Nam đã và đang thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, giải phóng tối đa sức sản xuất, huy động mọi nguồn lực (nội lực và ngoại lực) nhằm mục tiêu hàng đầu là nâng cao hiệu quả kinh tế và xã hội, cải thiện không ngừng đời sống mọi mặt của nhân dân; chủ động đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác và các thành phần kinh tế khác, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế tư nhân vừa là một bộ phận cấu thành, vừa là động lực, kinh tế hợp tác trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân; tạo dựng khung pháp lý thuận lợi và môi trường chính trị - xã hội ổn định và môi trường sản xuất, kinh doanh tự do, bình đẳng, phù hợp với thông lệ quốc tế, để tất cả các thành phần kinh tế hoạt động tốt nhất; tiếp tục xác lập, củng cố và không ngừng nâng cao địa vị làm chủ của người lao động trong nền sản xuất xã hội, thực hiện công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển,...; thực hiện nhiều hình thức phân phối, trong đó lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế làm chủ yếu, đồng thời dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào kết quả sản xuất, kinh doanh, phân phối và phân phối lại một cách hợp lý các nguồn thu nhập, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói, giảm nghèo; tăng trưởng kinh tế gắn chặt với bảo vệ môi trường sinh thái và bảo đảm an sinh xã hội; tăng cường vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước; giữ vững độc lập tự chủ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế;...

Nghĩa là chúng ta chỉ coi kinh tế thị trường là phương tiện, là cách thức để xây dựng những cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội gắn chặt với việc không ngừng nâng cao đời sống toàn diện của nhân dân, chứ tuyệt nhiên không phải là mục đích giành lấy lợi nhuận tối đa bằng mọi giá như chủ nghĩa tư bản đã và cố sức làm. Nói cách khác, cụ thể hơn, dưới chủ nghĩa tư bản, kinh tế thị trường tồn tại như một thể chế được bảo đảm bởi chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, được đẩy nhanh bằng tốc độ hàng hóa hóa, tiền tệ hóa mọi thứ, kể cả nhân phẩm, đạo đức con người, đồng tiền giữ ngôi chúa tể chế ngự và chi phối hết thảy nhằm sinh lợi tối đa cho giai cấp tư sản, thì dưới chủ nghĩa xã hội, kinh tế thị trường được sử dụng như một phương tiện để đẩy nhanh tốc độ phát triển của nền kinh tế nhằm phục vụ toàn thể nhân dân lao động trên nền tảng sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất chủ yếu.

Điều cần nhấn mạnh là, ai đó còn băn khoăn về vấn đề bóc lột trong lộ trình chúng ta phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đúng. Chúng ta hiểu rằng, tiến hành phát triển kinh tế thị trường, trong bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nên không thể ảo tưởng ngay lập tức triệt để xóa bỏ bóc lột. Như thế là chủ quan. Nhưng phải nói và thực tiễn chứng minh rằng, nếu dưới chủ nghĩa tư bản, phát triển kinh tế thị trường, việc bóc lột được ví như một con lắc đơn có biên độ dao động khuếch đại dần, thì chúng ta nỗ lực bằng mọi phương thức làm cho con lắc đơn đó dao động với biên độ tắt dần theo quy luật: ngăn chặn mọi sự tha hóa con người, không còn tình trạng bần cùng hóa, bảo đảm sự bình đẳng các thành phần kinh tế,... Đó là con đường đi tới thủ tiêu mọi sự nô dịch dân tộc và xóa bỏ tình trạng người bóc lột người. Đó là sự khác biệt về chất giữa nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam đang xây dựng và phát triển.

Không chỉ có một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang phát triển mạnh mẽ ở Việt Nam mà về vị thế, nó tiếp tục được phát triển và không ngừng hoàn thiện với tư cách là mô hình kinh tế tổng quát của Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Và trên thực tế, nó đã đưa Việt Nam lên vị trí cao ở châu Á và thứ nhất khu vực Đông Nam Á về tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế suốt nhiều năm liền cho tới nay. Năm 2018, các tổ chức kinh tế quốc tế thừa nhận tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam đạt 7,08%, mức cao nhất trong 10 năm gần đây.

Trên nền tảng kinh tế phát triển, tháng 7-2019, HSBC Expat vừa công bố Bảng Xếp hạng tổng thể khảo sát chuyên gia nước ngoài về nơi sống và làm việc tốt nhất năm

2019, Việt Nam lọt vào top 10 quốc gia đứng đầu, từ vị trí thứ 19 vào năm 2018, với 71% số chuyên gia nước ngoài cho rằng, họ tự tin về nền kinh tế Việt Nam, đồng thời 76% số đó cho rằng, yên tâm về tình hình chính trị ổn định.

Trên hết, nhiều chuyên gia nước ngoài nhận thấy, môi trường làm việc tại Việt Nam rất thuận lợi. Việt Nam đứng thứ ba sau Thụy Sĩ và Ba Lan trong chỉ số phụ Kỳ vọng cá nhân - chỉ số tổng kết quan điểm của chuyên gia nước ngoài về nền kinh tế thị trường, cơ hội phát triển nghề nghiệp và mức độ ảnh hưởng đối với những người mới chuyển tới sinh sống và làm việc. Việt Nam cũng đứng thứ tư trong danh sách các nước có số chuyên gia nước ngoài có kinh nghiệm đến làm việc nhiều nhất, sau Ấn Độ, Trung Quốc và In-đô-nê-xi-a.


Và, mới đây, ngày 7-6-2019, với số phiếu 192/193 phiếu, Việt Nam đã chính thức trở thành Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021. Đây là số phiếu cao kỷ lục, chưa từng có trong lịch sử 75 năm phát triển của Liên hợp quốc.

Nếu kinh tế thị trường là thành quả của chung nhân loại, phát triển mạnh mẽ dưới chủ nghĩa tư bản và đem lại tiềm lực rất lớn cho chính chế độ tư bản chủ nghĩa (mà người ta thường gọi là kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa), thì trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là điều hết sức bình thường, rõ ràng. Điều quyết định cơ bản là, nếu dưới chủ nghĩa tư bản, kinh tế thị trường được xem là mục tiêu, thì dưới thể chế xã hội chủ nghĩa của chúng ta nó chỉ là công cụ, phương tiện để thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” mà thôi. Để làm phản đề cho sự bôi nhọ hoặc bác bỏ định hướng xã hội chủ nghĩa và thực tiễn phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, tối thiểu xin được dẫn lời bình của bộ phim dài 30 phút, với nhan đề “Chào buổi sáng, Việt Nam” (Guten Morgen, Vietnam) của Đài Truyền hình Đức 3 Sat, ngày 18-11-2011: Với mức tăng trưởng kinh tế từ 5% đến 9% trong suốt thập niên qua và thu nhập bình quân đầu người tăng gấp đôi trong khoảng thời gian này, Việt Nam là một trong những nước có sự phát triển kinh tế kỳ diệu ở châu Á; là quốc gia thành công nhất trên thế giới trong cuộc xóa đói, giảm nghèo.

Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa để Việt Nam không rơi vào quyết định luận kinh tế, kinh tế vị kinh tế, tiền vì tiền, điều mà các thể chế tư sản đang sử dụng kinh tế thị trường nhằm chiếm đoạt ngày càng nhiều lợi nhuận cá nhân nhưng không bao giờ thỏa lòng tham. Nếu vứt bỏ định hướng xã hội chủ nghĩa, thì nguyên vẹn chỉ là thứ kinh tế thị trường hoang dã hay kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, như bất cứ ai đều thấy, và như vậy Việt Nam càng không xác quyết và theo đuổi. Điều đó cũng càng không phải là chuyện “Việt Nam phát triển kinh tế thị trường là quyết tâm trượt sang con đường tư bản chủ nghĩa”(!), như ai đó lo ngại và bài xích, cách đây hơn ba mươi năm.

Do đó, Việt Nam phát triển kinh tế thị trường tất yếu phải bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, tức kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nó vừa là yêu cầu, là nhu cầu, vừa là tất yếu, là thời cơ gắn liền với thách thức đối với Việt Nam trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Về điều này, Đảng Cộng sản Nhật Bản cho rằng: “Tiến lên chủ nghĩa xã hội thông qua kinh tế thị trường là phương hướng phát triển có tính quy luật của chủ nghĩa xã hội”; “Quá trình tìm tòi mới tiến lên chủ nghĩa xã hội thông qua kinh tế thị trường ở Việt Nam và Trung Quốc đang trở thành một hướng đi quan trọng của thế giới trong thế kỷ XXI”(3)./.

---------------------------

(1) Xem: Nhị Lê: Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001; Một số vấn đề lý luận và thực tiễn qua 30 năm đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2015...

(2) Lời chào mừng Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 57

(3) Báo cáo của Ban Đối ngoại Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về Đại hội lần thứ XXVIII của Đảng Cộng sản Nhật Bản, ngày 1-2-2004


Không sao chép học thuyết phân quyền một cách rập khuôn, máy móc

TRầN NGọC ĐƯờNG
GS, TS, Viện Nghiên cứu lập pháp
00:20, ngày 21-09-2019

TCCS - Học thuyết phân quyền là sự phủ định biện chứng đối với các nhà nước chuyên chế tập quyền, đánh dấu sự cáo chung của chế độ quân chủ chuyên chế, độc tài, đặt nền móng cho sự hình thành các nhà nước dân chủ. Đây cũng là học thuyết có ý nghĩa về phương diện kỹ thuật pháp lý sâu sắc trong tổ chức quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Việc giao quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân cho các nhánh quyền lực nhà nước khác nhau (lập pháp, hành pháp, tư pháp) làm cho quá trình phân công lao động quyền lực minh bạch, chuyên môn hóa, hiệu quả và hiệu lực hoạt động của các quyền ngày càng cao; hạn chế sự lộng quyền, lạm quyền của quyền lực nhà nước; nhân dân có điều kiện kiểm soát quyền lực nhà nước của mình và giữa các quyền có sự kiểm soát lẫn nhau.

1- Tư tưởng “Tam quyền phân lập” được các nhà hiền triết đề xướng từ thời La Mã cổ đại, nhưng với tư cách là một học thuyết, có thể nói nó là sản phẩm của nền dân chủ phương Tây, gắn liền với cuộc đấu tranh của giai cấp tư sản chống lại sự độc đoán, chuyên quyền của kiểu tổ chức quyền lực nhà nước phong kiến với toàn bộ quyền lực nhà nước tập trung vào tay một người là Vua. Theo quan niệm vua là con Trời, thể theo lòng Trời mà làm vua, ý vua là pháp luật cao nhất. Có thể xem, học thuyết phân quyền có giá trị về chính trị - kỹ thuật pháp lý to lớn trong tổ chức quyền lực nhà nước. Bởi hạt nhân hợp lý nhất của học thuyết này là quan niệm quyền lực nhà nước không được tập trung vào một người hay một cơ quan mà được cấu thành từ ba quyền cơ bản - lập pháp, hành pháp và tư pháp. Ba quyền được giao cho ba cơ quan khác nhau, có nhiệm vụ, quyền hạn độc lập tương đối với nhau. Giữa ba quyền này có sự kiểm soát, thậm chí có sự kiềm chế, đối trọng lẫn nhau. Dựa trên học thuyết tam quyền phân lập, hơn hai thế kỷ nay, các nhà nước tư sản phương Tây đã tổ chức quyền lực nhà nước của mình. Tuy nhiên, việc vận dụng học thuyết này ở các nước là hết sức đa dạng, muôn màu, muôn vẻ. Cũng phân chia quyền lực nhà nước thành lập pháp, hành pháp và tư pháp nhưng nhiệm vụ và quyền hạn cũng như cách thức tổ chức mỗi quyền thì ở từng nước quy định rất khác nhau. Có nước thì phân quyền cứng rắn theo chính thể cộng hòa tổng thống (như nước Mỹ); có nước thì phân quyền mềm dẻo theo chính thể cộng hòa đại nghị (như Đức) hay chính thể quân chủ lập hiến (như nước Anh); ngược lại, có nước phân quyền lưỡng tính theo chính thể cộng hòa lưỡng tính (như Nga, Pháp). Cũng tổ chức quyền lực nhà nước gồm ba quyền, nhưng có nước giữa quyền lập pháp và quyền hành pháp không có sự độc lập đối trọng chế ước lẫn nhau (như nước Anh) mà dựa vào phe đối lập thiểu số trong nghị viện. Có nước giữa quyền lập pháp và quyền hành pháp lại độc lập, kiềm chế và đối trọng một cách cứng rắn (như nước Mỹ); có nước kiềm chế đối trọng một cách mềm dẻo giữa các quyền (như ở Đức). Việc vận dụng học thuyết tam quyền phân lập vào tổ chức quyền lực nhà nước ở các nước tư sản rất khác nhau. Bởi tổ chức quyền lực nhà nước về phương diện chính trị và kỹ thuật pháp lý phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như tương quan lực lượng giữa các giai cấp, nhất là trong nội bộ của giai cấp cầm quyền, đặc thù của cuộc đấu tranh giai cấp ở trong nước và trên trường quốc tế, tư tưởng lập hiến của những người đương thời,... Tất cả các yếu tố đó đều là những nhân tố chi phối và ảnh hưởng đến việc vận dụng học thuyết phân quyền trong tổ chức quyền lực nhà nước của mỗi nước. Vì thế, không thể nói phân quyền theo mô hình của nước này thì tốt, còn theo mô hình của nước kia thì không tốt, theo mô hình này thì dân chủ, theo mô hình kia thì không có dân chủ. Vì thế, tuyệt nhiên không có sự sao chép, rập khuôn, máy móc mô hình phân quyền của nước này cho nước kia; đòi hỏi tổ chức quyền lực nhà nước của nước này phải giống nước kia mới có dân chủ và nhân quyền như một số người mong muốn.

Tuy đa dạng như phân tích ở trên, nhưng hiện nay trên thế giới có thể khái quát có hai mô hình phân quyền điển hình. Đó là phân quyền mềm dẻo thuộc chính thể cộng hòa đại nghị hoặc chính thể quân chủ lập hiến (Đức, Anh,...) và phân quyền cứng rắn thuộc chính thể cộng hòa tổng thống không phổ biến ở các nước (như Mỹ). Phân quyền mềm dẻo có đặc trưng cơ bản là giữa hành pháp và lập pháp không có sự phân quyền một cách rõ rệt. Quyền hành pháp thuộc về đảng hoặc liên minh các đảng chiến thắng sau bầu cử và vì thế nghị viện do đảng hoặc liên minh các đảng thắng cử nắm giữ hành pháp. Ngược lại, phân quyền cứng rắn có đặc trưng là giữa lập pháp và hành pháp có sự phân quyền một cách rõ rệt và có sự kiềm chế, đối trọng lẫn nhau. Mô hình phân quyền mềm dẻo có thể dẫn chính phủ đến lạm quyền (vì đa số nghị sĩ trong nghị viện thuộc về hành pháp), nhưng đổi lại mọi quyết định ở nghị trường được thông qua một cách nhanh chóng, còn sự lạm quyền của chính phủ nếu có thể xảy ra thì được hạn chế bằng ý kiến thiểu số của nghị sĩ đối lập, kiểm soát của nhân dân thông qua các phương tiện thông tin đại chúng và thiết chế tư pháp độc lập. Mô hình phân quyền cứng rắn ở Mỹ bảo đảm không có cơ quan nào nắm trọn vẹn quyền lực nhà nước trong tay mình, lấn át hoặc chi phối hoàn toàn hoạt động của các cơ quan nhà nước khác. Quyền lực nhà nước và quyền lực của từng cơ quan đều bị giới hạn trong một phạm vi xác định và chịu sự kiềm chế từ phía cơ quan nhà nước khác. Tuy nhiên, phân quyền cứng rắn cũng bộc lộ nhiều hạn chế. Ví dụ như tổng thống (hành pháp) được quyền phủ quyết các đạo luật của nghị viện, làm cho hoạt động lập pháp bị kéo dài, tốn kém. Ngược lại, nghị viện có quyền phê duyệt dự án ngân sách hoạt động của chính phủ, nghĩa là nghị viện có thể làm ảnh hưởng đến hoạt động của chính phủ và tổng thống (như trì hoãn việc thông qua ngân sách buộc chính phủ phải đóng cửa). Do việc giao cho mỗi nhánh quyền lực những phương tiện kiềm chế đối trọng đối với quyền kia đã đẻ ra việc thỏa thuận ngầm hoặc thỏa hiệp giữa các nhánh quyền lực về lợi ích. Và do có sự thỏa hiệp này mà hoạt động của nghị viện (lập pháp) và hoạt động của hành pháp (tổng thống) không bảo đảm một cách chắc chắn sự thỏa hiệp giữa phe phái đó là luôn luôn thể hiện được ý chí và nguyện vọng của toàn thể nhân dân. Ví dụ như Chính phủ Mỹ trong năm đầu của Tổng thống Đô-nan Trăm phải đóng cửa, gây thiệt hại hàng chục triệu đô-la cho người dân Mỹ.

Như vậy, không có một mô hình phân quyền nào có ưu thế vượt trội và ngay các nước tổ chức quyền lực nhà nước dựa trên một mô hình nào đó thì cũng vẫn có sự khác nhau. Ví dụ, cũng tổ chức quyền lực nhà nước theo mô hình phân quyền mềm dẻo, nhưng ở Anh, ở Đức, ở I-ta-li-a,... lại rất khác nhau. Ở Anh, người đứng đầu nhà nước là nữ hoàng Anh (của chế độ quân chủ nhưng quyền lực chỉ mang tính tượng trưng) quyền lập pháp và hành pháp thuộc Đảng Bảo thủ hay Công Đảng tùy thuộc Đảng nào thắng cử sau các cuộc bầu cử. Ngược lại, ở Đức hoặc ở I-ta-li-a thì quyền lập pháp và hành pháp phổ biến thuộc về đảng chiếm nhiều phiếu nhất liên minh với một hay một số đảng hoặc lực lượng để có đa số dân bầu cử. Ở các nước này, do luật bầu cử quy định nên khó có một đảng chiếm được đa số ghế ngay sau cuộc bầu cử, do đó phải liên minh với một hoặc một số đảng để có đa số ghế trong nghị viện.

Từ tất cả những thực tế ở trên có thể thấy rằng: Học thuyết phân quyền (hay học thuyết tam quyền phân lập theo bản dịch tiếng Trung) có ý nghĩa chính trị và kỹ thuật pháp lý trong tổ chức quyền lực nhà nước đều được vận dụng ở các nước, nhưng việc vận dụng thì muôn màu, muôn vẻ ở các nước khác nhau, dựa trên tinh thần nội dung của học thuyết phân quyền mà không rập khuôn, máy móc. Do đó, không thể nói áp dụng mô hình phân quyền của nước này dân chủ hơn nước kia. Vấn đề cơ bản là dựa trên những yếu tố phổ quát nhất của học thuyết phân quyền, vận dụng phù hợp với đặc thù của mỗi nước sao cho phát huy tốt hiệu lực và hiệu quả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân trong quản lý nhà nước và phát huy nhân tố con người trong đời sống nhà nước và đời sống xã hội ở nước đó.

2- Đối với nước ta, việc tham khảo, vận dụng học thuyết phân quyền trong tổ chức quyền lực nhà nước được tiến hành thận trọng, phù hợp với đặc thù của cuộc đấu tranh giành, giữ, bảo vệ và xây dựng chính quyền nhà nước thuộc về nhân dân và được thể hiện một cách sinh động trong các bản Hiến pháp - đạo Luật gốc về tổ chức quyền lực nhà nước.

Hiến pháp năm 1946 - Hiến pháp đầu tiên của nước ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Trưởng Ban Soạn thảo, xét về phương diện tổ chức quyền lực nhà nước có thể nói đã thể hiện sự vận dụng tinh thần và nội dung học thuyết phân quyền một cách sáng tạo phù hợp với đặc thù và tương quan lực lượng trong cuộc đấu tranh giành và giữ chính quyền nhà nước non trẻ lúc bấy giờ với bốn yếu tố cơ bản: 1- Quyền lực nhà nước được cấu thành từ quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp;2- Ba quyền này có sự phân chia nhiệm vụ và quyền hạn; 3-  Nhiệm vụ, quyền hạn của ba quyền này có tính độc lập tương đối với nhau;  4- Giữa ba quyền này có sự kiểm soát và chế ước lẫn nhau. Lời nói đầu của Hiến pháp năm 1946 đã viết “Nhiệm vụ của dân tộc ta trong giai đoạn này là bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và kiến thiết quốc gia trên nền tảng dân chủ. Được quốc dân giao cho trách nhiệm thảo bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Quốc hội nhận thấy rằng Hiến pháp Việt Nam phải ghi lấy những thành tích vẻ vang của Cách mạng và phải xây dựng trên những nguyên tắc dưới đây:

- Đoàn kết toàn dân không phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp, tôn giáo.

- Đảm bảo các quyền tự do dân chủ.

- Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân”.

Theo đó, quyền lực nhà nước được tổ chức thành ba quyền, gồm: “Nghị viện nhân dân (lập pháp) là cơ quan có quyền cao nhất, do công dân Việt Nam bầu ra. Ba năm một lần” (Điều 22, 24), có nhiệm vụ “giải quyết mọi vấn đề chung cho toàn quốc, đặt ra các pháp luật, biểu quyết ngân sách, chuẩn y các hiệp ước mà Chính phủ ký với nước ngoài” (Điều 23); “Chính phủ (hành pháp) là cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc” (Điều 43); “có nhiệm vụ trực tiếp quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội trong cả nước” (Điều 52); “Tòa án là cơ quan tư pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa” (Điều 63); có nhiệm vụ xét xử. Đặc biệt chế định Chủ tịch nước vừa là người đứng đầu nhà nước (nguyên thủ quốc gia), vừa là người đứng đầu Chính phủ (hành pháp) được Hiến pháp giao nhiệm vụ và quyền hạn rất lớn “có quyền yêu cầu Nghị viện thảo luận lại Luật của Nghị viện trong vòng 10 ngày sau khi nhận được thông tri” (Điều 31); và “không phải chịu một trách nhiệm nào, trừ khi phạm tội phản quốc)” (Điều 50). Ngược lại, “Nghị viện có quyền kiểm soát và phê bình Chính phủ” (Khoản c, Điều 36); “truy tố Chủ tịch, Phó chủ tịch hay một nhân viên Nội các về tội phản quốc, Nghị viện lập một Tòa án đặc biệt để xét xử” (Điều 51). Đây chính là chế định pháp lý Hiến định về kiềm chế và chế ước lẫn nhau giữa lập pháp và hành pháp nhằm bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng đối với bộ máy nhà nước non trẻ trong điều kiện đấu tranh giai cấp gay gắt và phức tạp lúc bấy giờ. Chủ tịch Hồ Chí Minh với tư cách là Trưởng ban soạn thảo Hiến pháp năm 1946 vốn có uy tín cá nhân tuyệt đối, đã ý thức sâu sắc trong việc xây dựng chế định Chủ tịch nước. Xem xét chế định pháp lý Hiến định này gắn với hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ có thể khẳng định rằng, nhờ những quy định Hiến pháp về Chủ tịch nước có nhiều quyền hành trong Hiến pháp năm 1946 mà sự lãnh đạo của Đảng đối với bộ máy nhà nước được bảo đảm thực hiện trong thực tế. Ở đây, sự lãnh đạo của Đảng được bảo đảm bằng người đứng đầu Đảng, đồng thời là người đứng đầu bộ máy nhà nước, thông qua đó mà đường lối, chính sách, quan điểm của Đảng được thực hiện và trở thành hiện thực trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Bởi như chúng ta đã biết, sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, chính quyền nhà nước non trẻ đứng trước tình thế như “ngàn cân treo sợi tóc”. Ngay trong Nghị viện, có đến 72 người là thành viên của Việt quốc, Việt cách; bên ngoài một lực lượng lớn phản động quốc tế và tay sai tràn vào nước ta, âm mưu thành lập chính quyền bù nhìn tay sai đế quốc. Trước tình hình đó, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, một mặt, có chủ trương mang tính chất sách lược, quyết định tuyên bố “tự giải tán” Đảng Cộng sản Đông Dương (mà thực chất là rút lui vào hoạt động bí mật); mặt khác, khẩn trương tổ chức Tổng Tuyển cử bầu Quốc hội để ban hành Hiến pháp nhằm thực hiện một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là xây dựng một chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân. Nhờ bộ máy nhà nước đề cao vai trò của cá nhân người đứng đầu mà quyền lực nhà nước được thực thi một cách nhanh nhạy, đáp ứng kịp thời việc xây dựng và củng cố chính quyền non trẻ lúc bấy giờ.

Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời sau cuộc tuyển cử đầu tiên trong cả nước ngày 6 tháng 1 năm 1946 _Ảnh: Tư liệu TTXVN

Nghiên cứu các quy định của Hiến pháp năm 1946 có thể thấy nhiều điểm tương đồng với mô hình tổ chức quyền lực nhà nước của nhiều nước dân chủ và pháp quyền phương Tây lúc bấy giờ. Hiến pháp không quy định nguyên tắc phân quyền, nhưng việc phân công quyền lực nhà nước rất rõ ràng, minh bạch. Chủ tịch nước có quyền phủ quyết tương đối (yêu cầu thảo luận lại luật trong vòng 10 ngày) giống như chính thể tổng thống, Chủ tịch nước được miễn trừ trách nhiệm (như chính thể nội các); quyền bất tín nhiệm của Nghị viện đối với nội các. Các quy định này nhằm hình thành cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước giữa các nhánh lập và hành pháp.

Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược cải tạo xã hội chủ nghĩa (XHCN) và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp của cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội. Cả hai bản Hiến pháp ra đời trong điều kiện các nước XHCN đã trở thành một hệ thống đối lập với hệ thống các nước tư bản chủ nghĩa. Vì thế, Hiến pháp năm 1959 và Hiến pháp năm 1980 là những Hiến pháp tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa. Với nguyên tắc này, tất cả quyền lực nhà nước cũng thuộc về nhân dân, nhưng tập trung vào Quốc hội và hội đồng nhân dân (HĐND). Sau khi nhân dân bầu ra Quốc hội và HĐND các cấp thì quyền lực nhà nước của mình được ủy quyền cho Quốc hội và HĐND. Quốc hội và HĐND thay mặt nhân dân quyết định những vấn đề quan trọng của cả nước và ở địa phương theo từng cấp. Vì thế, quyền lực nhà nước tập quyền vào các cơ quan dân cử; không có sự phân quyền một cách minh bạch giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp. Mô hình này phù hợp với điều kiện đất nước có chiến tranh và nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp; và đây cũng là mô hình tổ chức quyền lực nhà nước tổng thể của hệ thống các nước XHCN lúc bấy giờ. Nước ta không thể tổ chức quyền lực nhà nước thoát ly mô hình tổng thể này. Với nguyên tắc tập quyền XHCN, bộ máy nhà nước đã góp phần quan trọng trong việc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược của Nhà nước ta lúc bấy giờ là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà ở miền Nam. Tuy nhiên, tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc này cũng bộc lộ một số nhược điểm. Đó là quyền lực nhà nước không được phân công nhiệm vụ một cách minh bạch nên có sự dựa dẫm, ỷ lại giữa các quyền, không phát huy hết trách nhiệm của mỗi quyền; nhân dân  - chủ thể của quyền lực nhà nước chỉ thực hiện quyền lực nhà nước thông qua cơ quan dân cử, không có điều kiện để đánh giá và kiểm soát hiệu lực và hiệu quả hoạt động của mỗi quyền, dẫn đến bộ máy nhà nước trì trệ, kém năng động.

Nhận thức sâu sắc những hạn chế của nguyên tắc tập quyền XHCN trong điều kiện đổi mới, Đảng ta đã tiến hành tổng kết thực tiễn và từng bước cải cách bộ máy nhà nước trên những nhận thức lý luận mới. Trước hết trong các văn kiện của Đảng và Nhà nước đã đề ra chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta - bước đột phá về nhận thức, mở ra cơ sở lý luận để từng bước thận trọng chuyển từ tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc tập quyền XHCN sang tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc phân công quyền lực nhà nước của Nhà nước pháp quyền XHCN.

Trước đây, tổ chức và hoạt động của Nhà nước ta, theo nguyên tắc tập quyền XHCN, mặc dù quyền lực nhà nước vẫn được Hiến pháp ghi nhận là thuộc về nhân dân nhưng nhân dân không được thừa nhận là chủ thể cao nhất của quyền lập hiến. Quốc hội được Hiến pháp xác định là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Do đó, Hiến pháp không phải là phương tiện pháp lý cao nhất để nhân dân giao quyền, nhân dân ủy quyền quyền lực nhà nước cho Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân và các cơ quan nhà nước khác. Theo đó, Hiến pháp không được quan niệm là một phương tiện pháp lý cao nhất để nhân dân giao quyền, nhân dân ủy quyền quyền lực nhà nước của mình và để giới hạn quyền lực nhà nước, buộc Nhà nước phải hoạt động trong giới hạn của Hiến pháp.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) đã đề ra một nguyên tắc mới về tổ chức quyền lực nhà nước trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta là “Nhà nước Việt Nam thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp với sự phân công rành mạch ba quyền”. Tuy trong nguyên tắc này chưa có yếu tố kiểm soát quyền lực nhà nước, nhưng là bước đổi mới cơ bản trong tư duy xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân, vì dân mà Đại hội VII của Đảng đã khẳng định. Xây dựng Nhà nước pháp quyền trở thành một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, có tầm chiến lược, bao gồm toàn bộ tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Theo đó, năm 2001, Nhà nước đã tiến hành sửa đổi một số điều của Hiến pháp năm 1992 về tổ chức bộ máy nhà nước để thể chế một số quan điểm, đường lối của Đảng ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và khẳng định “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Lần đầu tiên thuật ngữ “Nhà nước pháp quyền XHCN” và nguyên tắc “phân công, phối hợp,...” được trang trọng ghi nhận trong Hiến pháp nước ta. Đây chính là nền tảng để tất yếu đi đến nhận thức phải kiểm soát quyền lực nhà nước ở Đại hội X và Đại hội XI của Đảng. Văn kiện Đại hội X, trong mục tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN đã đề cập đến vấn đề “xây dựng hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền”, trong đó đã đề cập sâu về vấn đề “xây dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp”. Có thể coi đây là một nhận thức mới, một sự thay đổi về chất trong tư duy lý luận. “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” mà các bản Hiến pháp trước đây thừa nhận và khẳng định thì đến đây mới thực sự có sự nhận thức đầy đủ và nhất quán. Bởi, không thừa nhận quyền lập hiến là quyền lực gốc, quyền lực thiết lập nên quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp; quyền lập hiến cao hơn quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp thì không thể thừa nhận theo đúng nghĩa “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” và không thể có cơ sở để khẳng định quyền lực nhà nước là thống nhất. Bởi sự thống nhất của quyền lực nhà nước là sự thống nhất ở quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân là chủ thể giao quyền, chủ thể ủy quyền thể hiện tập trung ở quyền lập hiến thuộc về nhân dân. Đây chính là cơ sở hình thành cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước một cách đầy đủ và đúng đắn.

Từ nhận thức mới về kiểm soát quyền lực nhà nước được ghi nhận ở Văn kiện Đại hội X của Đảng, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã đưa vào tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam một yếu tố mới, đó là kiểm soát quyền lực nhà nước. Có thể nói lần đầu tiên trong văn kiện của Đảng ta đã ghi nhận một quan điểm cơ bản về tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền XHCN, chứa đựng đầy đủ các giá trị mới về chất so với nguyên tắc tập quyền XHCN về tổ chức quyền lực nhà nước. Đó là nguyên tắc: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Thể chế hóa nguyên tắc này, Hiến pháp năm 2013 đã trang trọng tuyên bố ở Điều 2 rằng:

“1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân;

2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức;

3. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.

Như vậy, nếu mô hình tập quyền XHCN không xem phân công và kiểm soát quyền lực nhà nước là một tất yếu khách quan, thì đến chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, phân công và kiểm soát quyền lực nhà nước được xác định như là một yếu tố cấu thành không thể thiếu trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước. Đó là quá trình kế thừa và phát triển tư duy, đấu tranh với quan điểm và thói quen của mô hình tập quyền XHCN, bởi sức ỳ của mô hình này đã tồn tại nhiều thập niên, đã ăn sâu bám rễ vào tư duy của nhiều người mà không thể thay đổi nhanh chóng được. Từ khởi xướng chủ trương cải cách bộ máy nhà nước một cách mạnh mẽ ở Đại hội VI (năm 1986) đến Cương lĩnh xây dựng đất nước lên chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ (năm 1991) thừa nhận Nhà nước Việt Nam thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp với sự phân công rành mạch 3 quyền; đến việc thừa nhận “Nhà nước ta... là Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”, vận hành theo nguyên tắc căn bản là “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp” là một quá trình vận động tất yếu của nhận thức với sự thay đổi và nâng cao từng bước thận trọng qua các kỳ Đại hội Đảng.

Từ đổi mới về nhận thức, hình thành tư duy lý luận nói trên, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta đã có những thay đổi rất căn bản. Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước dân chủ hơn, hiệu lực hơn, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan được phân định minh bạch hơn. Theo đó, Quốc hội được xác định là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền lập hiến, lập pháp (không còn là cơ quan toàn quyền duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp như trước đây) quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước với tư cách là một phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước ở tầng cao nhất của bộ máy nhà nước như ở nhiều nước. Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước do Quốc hội bầu, là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt Nhà nước về đối nội, đối ngoại, thống lĩnh các lực lượng vũ trang, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh. Chính phủ được phân công không chỉ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, cơ quan chấp hành của Quốc hội mà còn là cơ quan thực hiện quyền hành pháp. Việc quy định vị trí và vai trò mới này của Chính phủ trong tổ chức quyền lực nhà nước, vừa phản ánh nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước, vừa chỉ rõ Chính phủ không chỉ là cơ quan chấp hành của Quốc hội nhằm tạo cho Chính phủ có đầy đủ vị thế và thẩm quyền độc lập, không dựa dẫm, ỷ lại vào Quốc hội mà chịu trách nhiệm độc lập trước đất nước và nhân dân thông qua việc Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao và cơ chế giám sát, phản biện của nhân dân.

Tòa án nhân dân không những được quy định là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà còn khẳng định “thực hiện quyền tư pháp” (Điều 102, Hiến pháp năm 2013); “Thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” (khoản 2, Điều 103, Hiến pháp năm 2013). Quy định mới này thể hiện sự phân công quyền lực nhà nước một cách mạch lạc; đề cao trách nhiệm của Tòa án nhân dân trong việc thực hiện quyền tư pháp; công bằng và công lý của một quốc gia thể hiện tập trung nhất ở quyền xét xử của Tòa án. Từ đây, nhân dân có địa chỉ cụ thể để xây dựng và đánh giá việc thực hiện quyền tư pháp mà nhân dân đã giao phó, đã ủy quyền.

Vai trò và nhiệm vụ của Tòa án nhân dân cũng như vai trò nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân có sự điều chỉnh, thể hiện tư duy mới. Đối với tòa án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, Điều 102, khoản 3 đã đưa lên hàng đầu vai trò và nhiệm vụ “bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân”. Đối với Viện kiểm sát nhân dân, nhấn mạnh vai trò và nhiệm vụ hàng đầu là “bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân” (khoản 3, Điều 107). Trong lúc đó, Hiến pháp năm 1992 không phân biệt sự khác nhau giữa vai trò và nhiệm vụ của Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân, cả hai đều giống nhau và quy định chung vào một điều “Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân trong phạm vi chức năng của mình, có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của công dân, bảo vệ tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân” (Điều 126). So sánh với quy định của các bản Hiến pháp trước đây, có thể thấy Hiến pháp năm 2013 đã có đổi mới cơ bản về vai trò và nhiệm vụ của hai thiết chế tòa án và viện kiểm sát; hoàn toàn phù hợp với tư duy xây dựng nhà nước pháp quyền là đề cao quyền con người, quyền công dân trong hoạt động tư pháp, coi con người là chủ thể, là nguồn lực chủ yếu và là mục đích của sự phát triển.

Đổi mới mô hình tổ chức chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ mới, Hiến pháp năm 2013 đã quy định những vấn đề có tính nguyên tắc về phân công, phân cấp giữa Trung ương và địa phương, giữa các cấp chính quyền địa phương, bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất của trung ương, đồng thời phát huy tính năng động, sáng tạo quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương.

Hội đồng Bầu cử quốc gia và Kiểm toán Nhà nước lần đầu tiên ra đời trong Hiến pháp nước ta với tư cách là các thiết chế hiến định độc lập được quy định thành một chương riêng trong Hiến pháp. Việc ra đời hai thiết chế mới này ở nước ta là nhằm tiếp tục phát huy dân chủ, thực hiện nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, tạo điều kiện và cơ chế để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của mình trong bầu cử và trong kiểm soát quyền lực nhà nước. Theo đó, Hội đồng Bầu cử quốc gia có nhiệm vụ tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội, chỉ đạo và hướng dẫn bầu cử đại biểu hội đồng nhân dân các cấp. Kiểm toán Nhà nước thực hiện kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công.

Cùng với việc phân công quyền lực nhà nước một cách minh bạch cho các cơ quan thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp như trình bày ở trên; theo Hiến pháp năm 2013, quyền lực nhà nước còn được tổ chức và hoạt động theo cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước. Theo đó, Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên quy định 3 cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước sau đây:

Một là, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước do nhân dân - chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước trực tiếp vận hành bao gồm: các cá nhân công dân, tổ chức không phải là cơ quan nhà nước, không mang tính quyền lực nhà nước thực hiện. Đây là cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước từ bên ngoài bộ máy nhà nước kiểm soát tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Cơ chế này được xây dựng dựa trên các căn cứ Hiến định, như “nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp” (Điều 6); “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam... giám sát và phản biện xã hội” (Điều 9); “công dân Việt Nam... tham gia kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước về những vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ của người lao động” (Điều 10); và rất nhiều quyền dân chủ trực tiếp của công dân được Hiến pháp năm 2013 thừa nhận, như “quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin” (Điều 25); quyền bầu cử (Điều 27); quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội; tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước (Điều 28); quyền biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu dân ý (Điều 29).

Hai là, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước do các chủ thể là cơ quan nhà nước trực tiếp vận hành. Đây chính là cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp, kiểm soát lẫn nhau và kiểm soát bên trong của mỗi quyền. Cơ chế này được Hiến pháp năm 2013 quy định ở khoản 3, Điều 2 “Quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” và khoản 2, Điều 119 “Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan khác của Nhà nước và toàn thể Nhân dân có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp”.

Ba là, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước do một thiết chế độc lập vận hành được khoản 2, Điều 119 Hiến pháp năm 2013 quy định “Cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định”. Ba cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước này đang từng bước được xây dựng và hoàn thiện ở nước ta từ sau khi ban hành Hiến pháp năm 2013.

Như vậy, có thể nói, các học thuyết phân quyền được Đảng và Nhà nước ta nghiên cứu, kế thừa có chọn lọc các giá trị hợp lý, phê phán mặt bất hợp lý để bảo đảm tính phù hợp với thực tiễn của từng thời kỳ trong việc tổ chức quyền lực nhà nước ở nước ta, đặc biệt là trong điều kiện mới - điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN hiện nay.

3- Sau khi Hiến pháp năm 2013 có hiệu lực, những năm qua bộ máy nhà nước ta đã được xây dựng và hoàn thiện một bước. Các luật về tổ chức bộ máy nhà nước, như Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức Tòa án, Luật Tổ chức Viện kiểm sát, Luật Tổ chức chính quyền địa phương,... được sửa đổi, bổ sung để thể chế hóa Hiến pháp. Các đạo luật này đã phân công, phân nhiệm nhiệm vụ, quyền hạn cho các nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp và tư pháp một cách rõ ràng, minh bạch hơn, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước từng bước được hình thành. Tuy nhiên, để tiếp tục phát huy những giá trị về phân công và kiểm soát quyền lực nhà nước của Hiến pháp năm 2013, theo chúng tôi cần phải tiếp tục thể chế hóa các quy định sau của Hiến pháp:

Thứ nhất, bảo vệ Hiến pháp là bảo vệ chủ quyền của nhân dân, bảo vệ toàn vẹn quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, bảo vệ sự thống nhất quyền lực nhà nước của nhân dân, phòng, chống sự tha hóa của quyền lực nhà nước. Hiến pháp năm 2013 đã nhận thức sâu sắc điều đó, kiểm soát quyền lực nhà nước chẳng những được quy định thành nguyên tắc ở Điều 2 mà ở khoản 2, Điều 119 còn quy định: “Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan khác của Nhà nước và toàn thể Nhân dân có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp. Cơ chế bảo vệ Hiến pháp là do luật định”. Theo đó, kiểm soát quyền lực nhà nước gồm 3 cơ chế quyền lực nhà nước như đã nêu trên. Cả ba cơ chế này cho đến nay chưa được hoàn thiện, nhất là bên trong mỗi quyền chưa có sự kiểm soát quyền lực nhà nước một cách hiệu quả. Vì thế, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước là đòi hỏi cấp thiết nhằm phòng, chống sự tha hóa quyền lực nhà nước, mà trước hết là đấu tranh phòng, chống tham nhũng một cách hiệu quả.

Thứ hai, các luật về tổ chức bộ máy nhà nước tuy đã có sự phân định nhiệm vụ, quyền hạn giữa các cơ quan nhà nước một cách minh bạch hơn. Tuy nhiên, trong một số lĩnh vực vẫn còn thiếu rành mạch, ví như trong lập pháp, trách nhiệm của Chính phủ và Quốc hội phân định thế nào? Một dự án luật sau khi thông qua phát hiện có sai sót thì cơ quan nào chịu trách nhiệm? Trong nhiều lĩnh vực quản lý nhà nước vẫn còn trùng lắp về thẩm quyền, một việc còn giao cho nhiều cơ quan nên không rõ trách nhiệm chính thuộc về ai? Phân cấp, phân quyền, ủy quyền được Hiến pháp năm 2013 quy định nhưng đến nay giữa các cấp chính quyền chưa có sự phân định minh bạch. Đây cũng là một đòi hỏi cấp bách trong tổ chức quyền lực nhà nước của nước ta hiện nay cần được đặc biệt quan tâm để bộ máy nhà nước ta phát huy đầy đủ hiệu lực và hiệu quả./.


 

Về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước

TS. Phạm Việt Dũng
Tạp chí Cộng sản
21:10, ngày 25-12-2019
TCCS - Thời gian qua, trong khi kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ thì hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước nhìn chung vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém. Thực tế này làm nảy sinh những ý kiến trái chiều về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, trong đó có những ý kiến cho rằng, kinh tế nhà nước không nên giữ vai trò chủ đạo; rằng, chủ trương của Đảng về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước đã “phá sản”; rằng nên tư nhân hóa nền kinh tế và chỉ cần tập trung phát triển kinh tế tư nhân là đủ,... Bài viết xin được bàn luận xung quanh những vấn đề này.

Doanh nghiệp nhà nước tiên phong trong các ngành, lĩnh vực trọng yếu, liên quan đến an ninh, quốc phòng _Ảnh: baogiaothong.vn

Kinh tế nhà nước không chỉ là doanh nghiệp nhà nước

Kinh tế nhà nước (KTNN) được hiểu bao gồm các cấu thành sau: 1- Bộ phận doanh nghiệp (DN) gồm các DN mà Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ và DN mà Nhà nước nắm cổ phần hoặc phần vốn chi phối; 2- Bộ phận phi DN, ngoài các tài sản thuộc sở hữu nhà nước còn bao gồm cả đất đai, rừng, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên, tư liệu sản xuất, ngân sách nhà nước, dự trữ quốc gia...

Như vậy, KTNN không chỉ là doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Thành phần KTNN bao gồm các yếu tố thuộc sở hữu nhà nước và các yếu tố thuộc sở hữu toàn dân mà Nhà nước được giao quyền đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý, trong đó có DNNN. Kinh tế nhà nước và DNNN có điểm chung đều là phần tài sản thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lý, phục vụ lợi ích toàn dân. Tuy nhiên, KTNN có phạm vi, vai trò rộng lớn hơn DNNN, nó không chỉ dựa trên hiệu quả sản xuất, kinh doanh của khu vực DNNN mà còn là tập hợp sức mạnh kinh tế thể hiện trên các ngành, lĩnh vực trọng yếu từ các định chế tài chính, pháp luật, sức mạnh quản lý đến điều hành của hệ thống chính trị. Việc khẳng định vị thế và xây dựng KTNN giữ vai trò chủ đạo không có nghĩa là các DNNN sẽ giữ vị trí chi phối trong các ngành, lĩnh vực kinh tế chủ chốt của nền kinh tế, cũng như độc quyền trên nhiều lĩnh vực. Các DNNN, lực lượng nòng cốt của thành phần KTNN sẽ cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Tuy nhiên, với trọng trách của mình, các DNNN sẽ tiên phong trong các lĩnh vực, ngành mũi nhọn, cần vốn lớn, đòi hỏi công nghệ tiên tiến, hiện đại, những lĩnh vực mà tư nhân không thể làm được hoặc không muốn làm, những ngành, lĩnh vực trọng yếu, liên quan đến an ninh - quốc phòng,...

Với phạm vi rộng lớn như vậy, sở hữu nhà nước và KTNN giữ vị trí trọng yếu, vai trò quan trọng trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, tạo nền tảng cơ bản để phát triển mọi ngành, lĩnh vực, thành phần kinh tế và loại hình DN trong nền kinh tế quốc dân.

Vai trò của kinh tế nhà nước ở các nước tư bản phát triển

Ngay ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa, khu vực KTNN cũng có vai trò quan trọng và tùy theo chiến lược quản lý của từng quốc gia, khu vực này có phạm vi và tỷ trọng khác nhau.

Tuy nhiên, sự nhận thức về vị trí, vai trò của khu vực KTNN có những bước thăng trầm khác nhau. Vai trò của KTNN bắt đầu được coi trọng từ sau cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 - 1933, đặc biệt nhận thức về khu vực này rõ nhất vào giai đoạn từ thập niên 70 của thế kỷ XX - thời kỳ ảnh hưởng của các lý thuyết “Phúc lợi quốc gia”, “Nền kinh tế thị trường xã hội”... Ở giai đoạn này, nhiều nước bên cạnh việc chấp nhận tăng cường trách nhiệm của nhà nước đối với xã hội và chủ trương đẩy mạnh sự can thiệp của nhà nước vào thị trường thông qua các hình thức và công cụ thông thường của nhà nước (ban hành pháp luật, điều tiết kinh tế, kiểm tra, kiểm soát), còn thông qua nhà nước trực tiếp sở hữu một khối lượng khổng lồ cơ sở vật chất, sử dụng tài chính, tác động vào những lĩnh vực dịch vụ mà trước đây do xã hội tự giải quyết theo cơ chế thị trường... Về quy mô, trên thực tế ở các nước này, sở hữu nhà nước rất lớn, bao gồm 4 mảng chính: 1- Sở hữu nhà nước về đất đai, tài nguyên, hệ thống giao thông; 2- Các DNNN và doanh nghiệp hỗn hợp có cổ phần nhà nước chi phối; 3- Tài chính nhà nước theo nghĩa rộng nó bao gồm toàn bộ phần thu nhập quốc dân huy động vào ngân sách nhà nước; còn theo nghĩa hẹp, nó chỉ bao gồm các chi tiêu có tính chất kinh tế để đầu tư phát triển hoặc chi tiêu cho các dịch vụ công cộng; 4- Các tổ chức cung ứng dịch vụ công cộng, như trường học, bệnh viện, thư viện, công trình thể thao, văn hóa...Nhiều nước có sử dụng khu vực tư nhân đầu tư vào kết cấu hạ tầng giao thông theo hình thức BOT nhưng sau thời hạn khai thác, các công trình này đều chuyển giao về sở hữu nhà nước.

Mặc dù Mỹ tự coi mình là nền kinh tế thị trường tự do, nhưng toàn bộ sở hữu nhà nước ở Mỹ vào cuối thập niên 80 chiếm 20% tổng tài sản quốc gia. Tỷ trọng chi ngân sách của Chính phủ Mỹ trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của nước này đã tăng từ 26,8% năm 1960 lên 41,3% năm 2010. Giai đoạn khủng hoảng kinh tế, tài chính toàn cầu 2008 - 2009, Chính phủ Mỹ đã sử dụng công cụ kinh tế của mình bằng cách chi tới 700 tỷ USD để cứu vãn nền tài chính quốc gia thông qua mua lại các khoản nợ xấu của ngân hàng, kích thích tài chính, thúc đẩy tăng trưởng,...

Ở một số nước G7 khác, tỷ trọng sở hữu nhà nước còn cao hơn, đều ở mức khoảng 30% tổng tài sản quốc gia. Riêng về đất đai, quy mô sở hữu nhà nước ở các nước phương Tây là rất lớn.

Đặc biệt, KTNN ở các nước tư bản có vai trò quan trọng trong cung ứng dịch vụ công, giao thông, công viên, bảo đảm an ninh công cộng,... Chẳng hạn với nước Anh vốn được coi là nơi khai sinh của lý thuyết kinh tế thị trường tự do và là một trong những nơi đầu tiên chấp thuận cho tư nhân tham gia phát triển kết cấu hạ tầng công cộng. Nhưng đến năm 2018, Chính phủ Anh đã quyết định dừng hẳn các dự án về kết cấu hạ tầng tư nhân hóa với lý do các dự án công có tư nhân tham gia tốn phí hơn so với các dự án công chỉ do nhà nước thực hiện.

Như vậy, có thể thấy, ngay ở các nước tư bản có nền kinh tế thị trường phát triển cao, KTNN nói chung và DNNN nói riêng vẫn có vai trò rất quan trọng, là một trong những công cụ quản lý vĩ mô giúp khắc phục những khuyết tật của kinh tế thị trường. Mức độ, phạm vi khu vực KTNN, DNNN không cố định mà được xác lập trên cơ sở yêu cầu của việc phát triển kinh tế - xã hội.

Hiểu vai trò “chủ đạo” của KTNN như thế nào cho đúng?

Đại hội X của Đảng khẳng định vai trò chủ đạo của KTNN trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN): “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân”(1).

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), do Đại hội XI của Đảng thông qua, khẳng định “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển”(2).

Điều 51 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 28-11-2013, khẳng định: “Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo”.

Nói đến vai trò chủ đạo của KTNN trong nền kinh tế là nói đến tầm quan trọng và tính chất quyết định của nó đối với đường hướng phát triển của một quốc gia; thành phần KTNN nắm giữ những vị trí then chốt của nền kinh tế và là lực lượng có khả năng can thiệp, điều tiết, hướng dẫn, giúp đỡ, liên kết, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác cùng phát triển.

Đại hội X cũng chỉ rõ vai trò chủ đạo của KTNN: một là, KTNN là lực lượng vật chất giúp Nhà nước định hướng XHCN nền kinh tế quốc dân; hai là, KTNN là sức mạnh đằng sau các chính sách điều tiết của Nhà nước; ba là, hoạt động của KTNN là để tạo môi trường phát triển chung cho mọi thành phần kinh tế, chứ không phải chỉ cho riêng DNNN; bốn là, khẳng định lại một lần nữa KTNN rộng hơn DNNN, hay nói cách khác, DNNN chỉ là một bộ phận của KTNN(3).

Khi đưa ra đường lối đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, với nhiều thành phần kinh tế, Đảng ta xác định các thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, trong đó KTNN đóng vai trò chủ đạo chứ không “lãnh đạo” đối với các thành phần kinh tế khác. Việc khẳng định thành phần KTNN giữ vai trò chủ đạo không có nghĩa là phân biệt, đối xử hay hạn chế vai trò và sự phát triển của các thành phần kinh tế khác, mà các thành phần kinh tế đều có mối quan hệ biện chứng với nhau, đan xen, liên kết với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, thành phần kinh tế này làm tiền đề cho thành phần kinh tế khác phát triển.

Như vậy, việc khẳng định vai trò chủ đạo của KTNN không có nghĩa là quay về quan niệm cũ, coi việc phát triển sở hữu nhà nước là mục tiêu phát triển kinh tế, hoặc cho rằng, muốn xây dựng chế độ mới, cần trước hết phát triển sở hữu nhà nước (cải tạo quan hệ sản xuất), mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Đối với nước ta, việc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường đòi hỏi khu vực tư nhân cần phải được bình đẳng phát triển và dần được khẳng định vị trí, do vậy KTNN mặc dù vẫn giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhưng phạm vi, mức độ và hình thức cần có sự thay đổi cơ bản. Kinh tế nhà nước chỉ cần duy trì và phát triển ở những nơi cần thiết, có vai trò hỗ trợ, dẫn đường bảo đảm cho sự phát triển ổn định của xã hội; khu vực nào mà các thành phần kinh tế khác có thể phát triển và hoạt động có hiệu quả hơn thì sẽ không cần sự hiện diện của KTNN. Mặt khác, tính định hướng XHCN của nền kinh tế nước ta luôn đòi hỏi phải xác định một số lĩnh vực trọng yếu thực hiện mục tiêu chính trị - xã hội.

Nhiều doanh nghiệp nhà nước đi đầu về đổi mới công nghệ, có đóng góp quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước _Ảnh: phunuvietnam.vn

Tại sao kinh tế nhà nước cần giữ vai trò chủ đạo ở Việt Nam?

Không thể phủ nhận sự phát triển của các nước tư bản đã mang lại nhiều kết quả tích cực, nhưng cùng với đó luôn tồn tại một số xu hướng khách quan sau:

- Công bằng xã hội đã trở thành đòi hỏi tất yếu của chính bản thân sự phát triển kinh tế. Công bằng để phát triển và phát triển để thực hiện công bằng không chỉ là khẩu hiệu mang tính đạo đức mà còn là động lực mạnh mẽ, yếu tố nội sinh của sự phát triển kinh tế. Tất nhiên, công bằng ở đây không phải theo nghĩa cào bằng, đánh đồng siêng năng với biếng nhác, tích cực với tiêu cực, làm ăn hiệu quả với kém cỏi,... điều đó sẽ dẫn tới triệt tiêu động lực phấn đấu của con người.

- Cùng với tăng trưởng kinh tế là yêu cầu về tiến bộ xã hội. Tăng trưởng kinh tế mà đời sống tinh thần, đạo đức xuống cấp sẽ đe dọa ngay đến sự phát triển bền vững của kinh tế. Yếu tố khách quan của cuộc sống đặt ra là tăng trưởng kinh tế phải đi liền với tiến bộ xã hội. Tiến bộ xã hội là kết quả nhưng đồng thời cũng là động lực, yếu tố nội tại của sự phát triển kinh tế.

- Tăng trưởng kinh tế phải đi cùng với sự ổn định về chính trị và về xã hội. Chính sự ổn định trên các lĩnh vực này lại là tiền đề để phát triển kinh tế.

Phát triển kinh tế mà không bảo đảm các xu hướng phát triển này tất yếu sẽ dẫn đến đổ vỡ. Nhà nước tư sản với bản chất là đại diện và bảo vệ quyền lợi chủ yếu cho một nhóm người, mà trước hết là giới chủ sẽ không bao giờ bảo đảm được tuyệt đối sự phát triển của các xu hướng đó. Để làm được điều này, nền kinh tế đó phải chịu sự chi phối của một nhà nước thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chỉ có nhà nước đó mới bảo đảm được lợi ích của đại đa số nhân dân lao động, mới định hướng vào sự phát triển của từng cá nhân, đồng thời là sự phát triển của tập thể, cộng đồng và xã hội. Và, để bảo đảm được lợi ích của đại đa số nhân dân lao động, KTNN - chủ yếu dựa trên chế độ sở hữu toàn dân mà Nhà nước là đại diện - phải giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế đó. Đây cũng thể hiện rõ bản chất, đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, hoàn toàn khác với kinh tế thị trường ở các nước tư bản chủ nghĩa, được xây dựng trên cơ sở sở hữu tư bản độc quyền.

Bên cạnh đó, vai trò chủ đạo của KTNN còn có những ý nghĩa sau đối với kinh tế Việt Nam:

Thứ nhất, là đầu tàu, hướng dẫn, dẫn dắt các hình thức sở hữu khác trong việc phát triển các lĩnh vực đặc biệt, như các lĩnh vực cần nhiều vốn đầu tư, có hàm lượng khoa học cao, một số lĩnh vực đặc biệt mới hình thành. Trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, ngày càng xuất hiện nhu cầu hình thành một số lĩnh vực mới đòi hỏi vốn đầu tư lớn, công nghệ cao mà tự nó rất khó phát triển. Trong điều kiện các quan hệ thị trường mới được phát triển, khu vực tư nhân còn nhỏ bé, chưa có khả năng đầu tư lớn, khu vực sở hữu nhà nước tất yếu phải đảm nhận vai trò đầu tàu, dẫn dắt trong những lĩnh vực mới này. Khi thực hiện vai trò này, không có nghĩa là sở hữu nhà nước giữ vai trò thống trị độc quyền vĩnh viễn mà vai trò đầu tàu, dẫn dắt thể hiện ở chỗ, khi các hình thức sở hữu khác đủ sức tham gia và có khả năng tham gia có hiệu quả, Nhà nước kịp thời rút vốn ra khỏi lĩnh vực đã đầu tư, để tiếp tục thực hiện vai trò của mình trong việc đầu tư vào những lĩnh vực mới khác.

Thứ hai, bảo đảm phát triển năng lực cạnh tranh của quốc gia. Do lịch sử phát triển, KTNN đã đảm nhận một loạt ngành cạnh tranh. Khi khu vực tư nhân chưa kịp phát triển, Nhà nước phải trực tiếp tham gia và đầu tư phát triển, hỗ trợ các DN đầu đàn trong giai đoạn đầu. Khi khu vực tư nhân lớn mạnh dần, KTNN dần dần rút hoặc chuyển đổi sở hữu và về lâu dài, KTNN có thể không cần giữ vai trò chủ đạo ở lĩnh vực có lợi thế cạnh tranh.

Thứ ba, đối với an ninh quốc gia, KTNN thể hiện vai trò chủ đạo ở hai nội dung cơ bản sau: 1- Nắm giữ những ngành đặc biệt quan trọng liên quan đến quốc phòng, an ninh quốc gia (sản xuất, sửa chữa vũ khí, trang bị chuyên dùng cho quốc phòng, an ninh,...). 2- Tham gia nắm giữ một số vị trí thiết yếu, quan trọng để giữ vững định hướng xã hội, làm đối trọng trong hội nhập kinh tế quốc tế (bán buôn lương thực, xăng dầu; sản xuất điện; khai thác khoáng sản quan trọng; một số sản phẩm cơ khí, điện tử, công nghệ thông tin quan trọng; bảo trì đường sắt, sân bay,...).Thứ tư, về mặt xã hội, do bản chất về mặt sở hữu và mục đích hoạt động, KTNN có vai trò quan trọng trong gánh vác chức năng xã hội. Vai trò này thể hiện ở chỗ, KTNN phải đảm nhận những ngành ở những địa bàn khó khăn có ý nghĩa chính trị - xã hội mà tư nhân không muốn đầu tư, thực hiện sự bảo đảm cân bằng về đầu tư phát triển theo vùng, miền, đảm nhận các ngành sản xuất hàng hóa công cộng thiết yếu, thực hiện các chính sách an sinh xã hội, các chương trình xóa đói, giảm nghèo,...

Thực tế vai trò của kinh tế nhà nước ở Việt Nam thời gian qua

Ở Việt Nam, KTNN ngày càng khẳng định vai trò, vị thế của mình trong các thành phần kinh tế. Do bản chất và mục đích hoạt động, nên thành phần KTNN có vai trò chính trị - xã hội to lớn. Các DN trong thành phần KTNN luôn tiên phong trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; đóng vai trò quan trọng trong một số ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế, như viễn thông, than, điện, xăng dầu, khai khoáng, tài chính, ngân hàng và các dịch vụ công thiết yếu bảo đảm nhu cầu tiêu dùng, sản xuất trong nước và xuất khẩu.

Các DNNN vừa là chủ thể kinh doanh, vừa là lực lượng kinh tế nòng cốt do Nhà nước sử dụng trong tác động tham gia các hoạt động kinh tế. Là chủ thể kinh doanh, các DNNN phải thực hiện hạch toán kinh tế, tự chủ về tài chính, hoạt động có hiệu quả để bảo đảm quá trình tái sản xuất mở rộng, bảo đảm gia tăng nguồn lực kinh tế mà Nhà nước đã đầu tư cho các DN này. Là lực lượng tham gia các hoạt động kinh tế như một công cụ của Nhà nước, các DNNN cần góp phần tạo ra sự ổn định kinh tế - xã hội, giúp Nhà nước đạt được các mục tiêu kinh tế, chính trị, xã hội.

Nhìn lại những năm qua, khi kinh tế thế giới suy thoái, thiên tai, dịch bệnh hoành hành, nhờ có sức mạnh của KTNN mà Việt Nam mới bảo đảm cân đối vĩ mô, các cân đối lớn của nền kinh tế, góp phần kiềm chế lạm phát, duy trì mức tăng trưởng khá cao. Cùng với tăng trưởng kinh tế, thành phần KTNN còn đóng góp tích cực vào việc bảo đảm an sinh xã hội, phát triển các lĩnh vực y tế, giáo dục, tạo việc làm, xóa đói, giảm nghèo, bảo đảm ổn định chính trị - xã hội, an ninh - quốc phòng, chủ quyền quốc gia, góp phần nâng cao vị thế của đất nước ở khu vực và trên thế giới...


Theo kết quả chính thức Tổng điều tra kinh tế năm 2017 được Tổng cục Thống kê công bố ngày 19-9-2018, tỷ suất sinh lời trên doanh thu (tính bằng tổng lợi nhuận trước thuế/tổng doanh thu) của doanh nghiệp nhà nước đạt 6,6%, trong khi tỷ suất này ở khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) là 6,7% và khu vực doanh nghiệp nhà nước chỉ đạt 1,9%; số lượng doanh nghiệp nhà nước ít, nhưng thuế và các khoản đã nộp lại cao nhất với trung bình 104 tỷ đồng/doanh nghiệp. Mức này được Tổng cục Thống kê đánh giá cao hơn nhiều so với khu vực FDI với mức trung bình là 18 tỷ đồng/doanh nghiệp và ở các doanh nghiệp ngoài nhà nước là 1 tỷ đồng/doanh nghiệp(4).
Tuy nhiên, khi Nhà nước nắm trong tay một khối lượng sở hữu khổng lồ thì chính những bất lợi (khuyết tật) của sở hữu nhà nước bắt nguồn từ đặc điểm của hình thức sở hữu này ngày càng bộc lộ và tạo nên xu hướng làm giảm tính hiệu quả của thành phần kinh tế này, kéo theo sự sụt giảm hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế. Chúng ta đang cơ cấu lại khu vực DNNN, theo đó tập trung vào những lĩnh vực then chốt, thiết yếu, những địa bàn quan trọng và an ninh - quốc phòng, những lĩnh vực mà DN thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư. Doanh nghiệp nhà nước tiến tới phải thật sự hoạt động theo cơ chế thị trường, lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ yếu; tự chủ, tự chịu trách nhiệm, cạnh tranh bình đẳng với DN thuộc các thành phần kinh tế khác theo quy định pháp luật.

Như vậy, có thể khẳng định việc xác định KTNN giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là đúng đắn, phù hợp với điều kiện của nước ta và là tiêu chí quan trọng bảo đảm tính định hướng XHCN cho nền kinh tế./.

------------------------------
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 83
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 73 - 74
(3) PGS, TS. Vũ Văn Phúc: Góp phần đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới đất nước, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 159
(4) Thời báo Kinh tế Việt Nam, số 217, ngày 10-9-2019


 

Hội nhập quốc tế có làm mất độc lập, tự chủ và bản sắc dân tộc?

TRẦN ĐỨC TIẾN
Thượng tá, ThS, Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng
18:24, ngày 18-11-2019

TCCS - Là một xu thế tất yếu, hội nhập quốc tế có sức cuốn hút mạnh mẽ, hàm chứa cả cơ hội lẫn thách thức đối với các quốc gia trên con đường phát triển. Với quan điểm phát huy nội lực, tranh thủ các điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển đất nước nhanh và bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam nhất quán đường lối chủ động, tích cực hội nhập quốc tế đi đôi với giữ vững độc lập, tự chủ và bản sắc dân tộc. Tuy nhiên, trước những diễn biến phức tạp, khó lường của tình hình thế giới, khu vực và sự chống phá của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị trong chiến lược “diễn biến hòa bình”, chúng ta cần kiên quyết đấu tranh, bảo vệ thành quả cách mạng, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, hiệu quả.

Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc phát biểu tại Phiên thảo luận cấp cao Đại hội đồng Liên hợp quốc Khóa 73 với chủ đề “Vì một thế giới hòa bình, công bằng và phát triển bền vững” _Ảnh: TTXVN

Thực chất của luận điệu “hội nhập quốc tế sẽ làm mất độc lập, tự chủ và bản sắc dân tộc”

Hội nhập quốc tế là quá trình liên kết, gắn kết giữa các quốc gia, vùng lãnh thổ với nhau thông qua việc tham gia các tổ chức, thiết chế, cơ chế, hoạt động hợp tác quốc tế vì mục tiêu phát triển của mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ, tạo thành sức mạnh tập thể giải quyết những vấn đề chung mà các bên cùng quan tâm(1). Về bản chất, hội nhập quốc tế là một hình thức phát triển cao của hợp tác quốc tế nhằm thực hiện mục tiêu và lợi ích chung trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Trong thời đại toàn cầu hóa và sự tác động mạnh mẽ của cách mạng khoa học và công nghệ, hội nhập quốc tế là tất yếu, là nhu cầu tồn tại và phát triển của các nước. Đối với Việt Nam, hội nhập quốc tế là định hướng chiến lược lớn nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Từ khi tham gia hội nhập quốc tế, chúng ta đã tạo lập, củng cố môi trường hòa bình, hợp tác, tranh thủ tối đa các điều kiện quốc tế thuận lợi, “góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, gia tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, giữ vững an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội; cải thiện đời sống nhân dân, củng cố niềm tin của các tầng lớp nhân dân vào công cuộc đổi mới; nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế”(2).

Song hiện nay, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị không ngừng lợi dụng quá trình hội nhập quốc tế, coi đó là tâm điểm để ráo riết thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng Việt Nam.

Trước hết, thông qua tiến trình hội nhập quốc tế, các thế lực thù địch đẩy mạnh các hoạt động chống phá. Lợi dụng Việt Nam tiến hành hội nhập quốc tế mà bắt đầu từ hội nhập kinh tế quốc tế, các thế lực thù địch thúc đẩy hình thành những yếu tố phi xã hội chủ nghĩa, gia tăng mặt trái của nền kinh tế thị trường, nhằm làm cho Nhà nước mất khả năng kiểm soát, điều hành nền kinh tế, từ khống chế về kinh tế để chuyển hóa và gây sức ép về chính trị. Chúng ngầm thâm nhập, móc nối với các đối tượng phản động, gây dựng lực lượng đối lập, mua chuộc, lôi kéo những cán bộ, đảng viên, quần chúng thoái hóa, biến chất, cơ hội chính trị, triệt để lợi dụng sơ hở của chính sách, khoét sâu mâu thuẫn nội bộ, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ngay từ bên trong. Chúng đưa ra các yêu cầu mang tính áp đặt phi lý, như đặt điều kiện để có “thỏa thuận”, “hợp tác” thì ta phải “cải cách”, “đổi mới” về tư tưởng, chính trị, pháp luật; phải thay thế chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh bằng hệ tư tưởng dân chủ tư sản; đòi Nhà nước xóa bỏ Điều 4 của Hiến pháp và một số điều về an ninh quốc gia trong Bộ luật Hình sự hiện hành; đòi thực hiện tự do báo chí, tự do ngôn luận theo tiêu chí phương Tây... nhằm tạo nên những tiền đề gây mất ổn định chính trị, mất độc lập, tự chủ của đất nước.

Tuyên truyền các luận điệu trái chiều, xuyên tạc với nội dung “hội nhập quốc tế sẽ làm mất độc lập, tự chủ và bản sắc dân tộc”. Thời gian gần đây, trên một số trang mạng xã hội, facebook, website cá nhân xuất hiện ngày càng nhiều những luận điệu suy diễn của một số đối tượng tự xưng là “yêu nước”, “nhà dân chủ”, “trí thức”, “học giả” dưới các hình thức “lời kêu gọi”, “tư vấn”, “phản biện”, “kiến nghị”, “góp ý”... nhằm bác bỏ, phủ nhận đường lối, quan điểm hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước ta. Từ việc tuyệt đối hóa và cho rằng độc lập, tự chủ là một “hằng số bất biến”, là không thể tương tác, dung hợp với hội nhập quốc tế, hội nhập quốc tế làm gia tăng sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước nên đã hội nhập quốc tế là không thể giữ được độc lập, tự chủ; muốn có độc lập, tự chủ thì không thể hội nhập quốc tế; càng hội nhập quốc tế một cách sâu rộng sẽ càng bị lệ thuộc vào các nước tư bản phát triển và không sớm thì muộn sẽ bị đi chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Có người đã ví hội nhập quốc tế là vô cùng nguy hiểm như “bơi ra biển lớn”, như bước vào “vòng xoáy thời cuộc”, cho nên đất nước sẽ bị “lạc phương hướng, mất tự chủ, không có đường thoát”. Hoặc họ “biện giải” rằng Việt Nam chưa có đủ các điều kiện nên khi hội nhập quốc tế, Đảng, Nhà nước ta đã “nhập khẩu nguy cơ”; thậm chí, cực đoan hơn, xem thế giới như một phức thể quá khó lường, cần “đề cao cảnh giác”, “khuyến cáo” nên đóng cửa khép kín, không cần hội nhập quốc tế. Lại có những người “tư vấn” với Đảng, Nhà nước hãy “vứt bỏ quan điểm” đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” vì nếu còn cảnh giác và chống “diễn biến hòa bình”, thì các nước phát triển  phương Tây sẽ không muốn và không dám hợp tác với Việt Nam...

Bằng những “lý sự” đó, những đối tượng này đưa ra “kết luận” rằng: Trong thời đại toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, không cần thiết và cũng không thể giữ vững được độc lập, tự chủ, bản sắc dân tộc. Cái “cớ” cho những luận điệu này là họ vin vào tác động tiêu cực của hội nhập quốc tế. Do đó, không ít người nhẹ dạ, thiếu hiểu biết, đã vội vã cổ xúy cho những luận điệu này. Sự suy diễn đó thực chất là cố tình nhìn nhận phiến diện, một chiều, ngụy biện, tuyệt đối hóa mặt trái, tác động tiêu cực của hội nhập quốc tế; là cách nhìn thiển cận, “thấy cây mà không thấy rừng”, không thấy rõ tính chất hai mặt, đan xen nhau cùng tồn tại giữa thời cơ và thách thức trong hội nhập quốc tế. Mục đích của họ là nhằm phá vỡ sự đồng thuận, dẫn đến hoài nghi, dao động, thiếu tin tưởng, cản trở không nhỏ đến tiến trình chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, giữ vững độc lập, tự chủ và bản sắc dân tộc của nước ta.

Nắm vững bản chất, nội hàm, giải quyết tốt mối quan hệ giữa giữ vững độc lập, tự chủ và bản sắc dân tộc với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế

Trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, giữa chủ động, tích cực hội nhập quốc tế với giữ gìn bản sắc dân tộc. Đây là mối quan hệ biện chứng khách quan, có sự tác động qua lại lẫn nhau, nảy sinh và ngày càng sâu sắc trong tiến trình hội nhập quốc tế, được Đảng xác định rõ trong hệ thống cương lĩnh, văn kiện, nghị quyết. Trong đó, giữ vững độc lập, tự chủ và bản sắc dân tộc giữ vai trò quyết định tiến trình hội nhập quốc tế; ngược lại, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế có sự tác động trở lại đối với việc giữ vững độc lập, tự chủ, phát huy bản sắc dân tộc. Bản chất, nội hàm của mối quan hệ này ngày càng được Đảng, Nhà nước, nhân dân ta nhận thức sâu sắc hơn, thực hiện tốt hơn trên thực tế, thể hiện ở những điểm cơ bản sau:

Thứ nhất, độc lập, tự chủ là cơ sở nền tảng, giữ vai trò quyết định tiến trình chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. Độc lập, tự chủ là vấn đề có tính nguyên tắc xuyên suốt, nhất quán, mang tính sống còn đối với mọi quốc gia trên thế giới, là nhân tố đóng vai trò quyết định trong mối quan hệ với hội nhập quốc tế. Hiện nay, độc lập, tự chủ được hiểu không phải là biệt lập với thế giới, đứng ngoài tiến trình hội nhập quốc tế. Độc lập là quyền dân tộc tự quyết và tự chủ là năng lực thực hiện quyền tự quyết ấy trên thực tế. Đó là tự mình xác định mục tiêu, hoạch định con đường, chiến lược phát triển, không chấp nhận bất cứ sự can thiệp, sắp đặt nào từ bên ngoài và điều này phải được thực thi trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại... Trong giai đoạn hiện nay, tất yếu các quốc gia, dân tộc đều tham gia quá trình hội nhập quốc tế để phát triển đất nước; hội nhập để phát triển, muốn phát triển phải hội nhập. Nhưng nếu không có độc lập, tự chủ thì không thể hội nhập quốc tế. Bởi để tham gia hội nhập quốc tế, trước hết mỗi quốc gia, dân tộc phải thực sự là một chủ thể trong quan hệ quốc tế, tức là phải có độc lập, tự chủ. Một quốc gia có độc lập, tự chủ thì mới quyết định được lộ trình, bước đi, cách thức, nội dung, biện pháp, phát huy được những lợi thế, hạn chế những tác động tiêu cực từ hội nhập quốc tế.

Thứ hai, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế tác động trở lại đối với việc giữ vững độc lập, tự chủ của đất nước trên hai góc độ tích cực và tiêu cực. Dưới góc độ tích cực, hội nhập quốc tế tạo ra tiền đề cho phát triển kinh tế - xã hội thông qua việc huy động các nguồn lực bên ngoài, tận dụng cơ hội để “đi trước, đón đầu”, ứng dụng những thành tựu khoa học - công nghệ hiện đại, mở rộng thị trường, phát huy mặt mạnh và lợi thế so sánh. Đây là những điều kiện thuận lợi có ý nghĩa quyết định để phát triển đất nước nhanh, bền vững. Trên cơ sở đó, nâng cao sức mạnh tổng hợp của quốc gia, góp phần giữ vững độc lập, tự chủ của đất nước. Hội nhập quốc tế sâu rộng sẽ mở ra cơ chế phối hợp chặt chẽ và thống nhất giữa các nước, các vùng lãnh thổ; hạn chế và đẩy lùi các nguy cơ khủng bố, xung đột, ly khai; giải quyết những vấn đề mang tính toàn cầu đã, đang đe dọa trực tiếp đến sự ổn định, phát triển của từng quốc gia, khu vực và thế giới; qua đó, ngăn chặn âm mưu, thủ đoạn, hành động xâm phạm độc lập, chủ quyền quốc gia. Thông qua hội nhập quốc tế, chúng ta nhận thức được lợi ích chung để thúc đẩy hợp tác với các nước, cũng như thấy rõ mặt mâu thuẫn, khác biệt để có đối sách xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa hợp tác với đấu tranh, giữa đối tác với đối tượng; tạo ra sự đan xen lợi ích sâu rộng với những quan hệ cân bằng có lợi cho đất nước. Tất nhiên, để làm được điều đó, chúng ta phải có năng lực tiếp nhận, biến cơ hội thành hiện thực và có các giải pháp khắc phục những tác động trái chiều của tiến trình hội nhập quốc tế, vừa giữ vững độc lập, tự chủ, vừa bảo đảm cho đất nước phát triển. Qua hơn 30 năm đổi mới và hội nhập quốc tế, chúng ta đã phát huy sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ sự ủng hộ rộng rãi của cộng đồng quốc tế trong giải quyết các tranh chấp về chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Đây là tác động tích cực, sự thống nhất giữa chủ động, tích cực hội nhập quốc tế với giữ vững độc lập, tự chủ của đất nước. Do đó, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế vừa là động lực, vừa là phương thức, là giải pháp tối ưu để giữ vững mục tiêu, nguyên tắc độc lập, tự chủ của đất nước.

Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực, hội nhập quốc tế cũng có những tác động tiêu cực đối với giữ vững độc lập, tự chủ của đất nước.

Một là, hội nhập quốc tế làm gia tăng sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các nước, gây khó khăn trong giữ vững độc lập, tự chủ, nhất là đối với các nước nhỏ có tiềm lực yếu trước các nước lớn có tiềm lực mạnh; trước hết là phụ thuộc về kinh tế do sự chi phối, áp đặt từ bên ngoài. Thực tiễn cho thấy, khi tham gia hội nhập quốc tế, sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các nước có thể chuyển hóa thành sự lệ thuộc của một số nước nghèo, kém phát triển vào nước lớn, có tiềm lực mạnh. Thêm vào đó, khi các nước lớn “ngầm bắt tay”, thỏa hiệp về lợi ích sẽ tác động không nhỏ đến vấn đề độc lập, chủ quyền của các nước nhỏ. Ngoài ra, trong hội nhập quốc tế, nếu không tỉnh táo, các nước chậm phát triển rất dễ “sập bẫy” nhập khẩu công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường sinh thái, ảnh hưởng đến phát triển nhanh và bền vững. Đây là tác động tiêu cực, những mâu thuẫn cần giải quyết giữa chủ động, tích cực hội nhập quốc tế với giữ vững độc lập, tự chủ của đất nước.

Hai là, hội nhập quốc tế tác động sâu sắc tới giữ gìn bản sắc dân tộc. Bản sắc dân tộc bao gồm những tinh hoa, cốt cách, giá trị bền vững của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp qua hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc, lòng nhân ái, khoan dung, trọn nghĩa vẹn tình; đức tính cần cù, sáng tạo, vượt khó, sự giản dị, tinh tế trong lối sống, ứng xử... Bản sắc đó là điều kiện tiền đề để Việt Nam hội nhập với thế giới. Giữ gìn bản sắc dân tộc là cơ sở để củng cố ý thức tự tôn dân tộc, là nền tảng cho sự phát triển bền vững và phát huy tính sáng tạo của dân tộc trong quá trình hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, hội nhập quốc tế là thời cơ, đồng thời cũng là những thách thức to lớn đối với bảo vệ, giữ gìn, phát huy, phát triển các giá trị truyền thống, bản sắc dân tộc. Sự tác động này rất phức tạp. Một mặt, khi hội nhập quốc tế, nhân dân ta có cơ hội tiếp cận, giao lưu với những giá trị văn hóa tiêu biểu của nhiều quốc gia trên thế giới, tiếp thu tinh hoa, trí tuệ, tiến bộ của nhân loại, từ đó có sự tiếp biến, kế thừa và phát huy những truyền thống cao quý, tốt đẹp của dân tộc, thúc đẩy tiềm năng sáng tạo trong nước, làm phong phú, sâu sắc thêm bản sắc dân tộc; mặt khác, quá trình này dễ dẫn đến tình trạng bị lai căng, đồng hóa, chứa đựng nguy cơ băng hoại những giá trị truyền thống, làm mất cốt cách và diện mạo tinh thần của quốc gia, xói mòn bản sắc dân tộc, tiềm ẩn những bất ổn về an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Nhưng với tinh thần “gạn đục khơi trong”, chúng ta chủ động tiếp thu có chọn lọc những giá trị chân - thiện - mỹ, những nhân tố phù hợp với đời sống văn hóa - tinh thần của dân tộc; qua đó giữ gìn, bảo vệ, phát huy và làm phong phú thêm bản sắc của dân tộc, không chấp nhận mưu đồ lợi dụng hội nhập quốc tế để áp đặt giá trị của các nước lớn.

Nhất quán chủ động, tích cực hội nhập quốc tế đi đôi với giữ vững độc lập, tự chủ và bản sắc dân tộc

Hội nhập quốc tế là quá trình phức tạp, một “sân chơi” với những tác động thuận - nghịch trong cục diện thế giới mới đang định hình. Tham gia hội nhập quốc tế, Việt Nam chấp nhận tham gia môi trường cạnh tranh gay gắt về lợi ích, ảnh hưởng, có sự chi phối của các nước lớn trong tình hình thế giới, khu vực diễn biến hết sức phức tạp, khó lường; tham gia cuộc đấu trí, đấu mưu, đấu pháp, đấu lực để phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Quá trình này luôn tồn tại hai mặt đan xen nhau giữa thuận lợi và khó khăn, thời cơ và thách thức, đồng thời chứa đựng nhiều mâu thuẫn. “Chìa khóa” để Việt Nam hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, giữ vững độc lập, tự chủ và bản sắc dân tộc là phải bảo đảm lợi ích của quốc gia, dân tộc gắn với lợi ích của các nước đối tác. Là một thành viên của cộng đồng quốc tế, Việt Nam chủ động tham gia “luật chơi” chung; tập trung giải quyết mâu thuẫn, bất đồng trên cơ sở luật pháp quốc tế với tinh thần mềm dẻo, linh hoạt, vừa hợp tác, vừa đấu tranh. Một mặt, thúc đẩy hợp tác, mở rộng và lấy hợp tác là chủ đạo để phát huy mặt tác động tích cực, sự thống nhất giữa hội nhập quốc tế với giữ vững độc lập, tự chủ, bản sắc dân tộc. Mặt khác, kiên quyết, kiên trì đấu tranh nhằm hạn chế, khắc phục những tác động tiêu cực, giải quyết mâu thuẫn và thu hẹp bất đồng. Trong tiến trình hội nhập quốc tế, Việt Nam vừa tìm kiếm cơ hội, tham khảo kinh nghiệm các nước để xây dựng những nhân tố mới phù hợp với đất nước, vừa bảo vệ, phát huy các thành quả, giá trị đã đạt được và đấu tranh loại bỏ các vật cản trên bước đường phát triển. Chúng ta chủ động, tích cực hội nhập quốc tế nhưng không để lợi ích quốc gia, dân tộc, độc lập, chủ quyền bị xâm hại; đổi mới chứ không đổi hướng, đổi đường. Quá trình này, Đảng ta luôn kiên định và vững vàng trên lập trường chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giữ vững các nguyên tắc đổi mới, phát triển kinh tế đi đôi với xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thực hiện tiến bộ, công bằng và an sinh xã hội. Thực hiện những bước đi thận trọng với đối sách mềm dẻo, khôn khéo, tránh bị rơi vào thế đối đầu hay bị cô lập, lệ thuộc. Chống cả hai khuynh hướng chủ quan, nóng vội hoặc dè dặt, cầm chừng trong hội nhập quốc tế. Không tuyệt đối hóa độc lập, tự chủ là “nhất thành bất biến”; ngược lại, cũng không đề cao thái quá cho rằng hội nhập quốc tế là “phương thuốc trị bách bệnh” để đất nước phát triển trong thời đại toàn cầu hóa.

Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc với các trưởng đoàn tham dự Hội nghị Thượng đỉnh Nhóm Các nền kinh tế phát triển và mới nổi hàng đầu thế giới (G20) tại Osaka của Nhật Bản _Ảnh: TTXVN

Trên thực tế, những năm qua Việt Nam đã chủ động, tích cực hội nhập quốc tế đi đôi với giữ vững độc lập, tự chủ và bản sắc dân tộc, thu nhiều kết quả to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Hội nhập quốc tế thực sự trở thành “động lực quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội, làm tăng sức mạnh tổng hợp của quốc gia; thúc đẩy hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; mở rộng thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu, tranh thủ được khối lượng lớn vốn đầu tư, công nghệ, tri thức, kinh nghiệm quản lý và các nguồn lực quan trọng khác; tạo thêm nhiều việc làm; nâng cao dân trí và cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân”(3). Tiến trình chủ động, tích cực hội nhập quốc tế đã đóng góp quan trọng vào việc giữ vững môi trường hòa bình, hợp tác, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội; quảng bá sâu rộng hình ảnh đất nước, con người Việt Nam trên trường quốc tế. Thông qua hội nhập quốc tế, chúng ta đã khai thác tối đa các nguồn lực bên ngoài, phát triển kinh tế nhanh và bền vững, tăng cường thế, lực, sức mạnh tổng hợp của quốc gia. Độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững trong bối cảnh tình hình quốc tế và khu vực có những diễn biến phức tạp. Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, chúng ta đã mở rộng và đưa quan hệ của nước ta với các đối tác đi vào chiều sâu, tạo thế cân bằng chiến lược và đan xen lợi ích, nâng cao vị thế, uy tín của đất nước trên trường quốc tế. Tính đến nay, Việt Nam chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao với 189 quốc gia trên thế giới; là nước ASEAN duy nhất có quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện với 5 nước Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc; có quan hệ kinh tế thương mại với trên 230 quốc gia và vùng lãnh thổ; là thành viên tích cực của trên 70 tổ chức quốc tế, khu vực với trên 100 cơ quan đại diện tại các quốc gia và vùng lãnh thổ ở khắp các châu lục; đã ký kết 16 hiệp định thương mại song phương, đa phương, trong đó có các hiệp định tự do thương mại thế hệ mới; hoàn tất ký kết các hiệp định quản lý, bảo vệ biên giới trên bộ với các nước láng giềng. Việt Nam chủ động tham gia và phát huy vai trò tại các cơ chế, diễn đàn, hợp tác song phương, đa phương, nhất là tại Cộng đồng ASEAN và Liên hợp quốc; trở thành thành viên có trách nhiệm và uy tín trong cộng đồng quốc tế; là nhân tố tích cực, chủ động đề xuất các sáng kiến, thúc đẩy các liên kết, tích cực hội nhập sâu rộng vào trật tự kinh tế, chính trị toàn cầu. Việc Việt Nam chính thức trở thành Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021 cho thấy sự tin tưởng, tín nhiệm và đánh giá cao của cộng đồng quốc tế trước những đóng góp tích cực, thực chất, có trách nhiệm của Việt Nam đối với tổ chức Liên hợp quốc nói chung và Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nói riêng trong suốt thời gian qua.

Trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta tiếp tục nhất quán triển khai mạnh mẽ định hướng chiến lược chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. “Bảo đảm hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân và cả hệ thống chính trị, đẩy mạnh hội nhập trên cơ sở phát huy tối đa nội lực, gắn kết chặt chẽ và thúc đẩy quá trình nâng cao sức mạnh tổng hợp, năng lực cạnh tranh của đất nước; hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế; hội nhập là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh, chủ động dự báo, xử lý linh hoạt mọi tình huống, không để rơi vào thế bị động, đối đầu, bất lợi”(4). Ngay trong quá trình này, Đảng ta đã từng bước hoàn thiện chiến lược, lộ trình, bước đi, xác định đồng bộ, hệ thống hóa mục tiêu, quan điểm chỉ đạo, chủ trương chiến lược, giải pháp cụ thể để chủ động, tích cực hội nhập quốc tế.

Trong hội nhập quốc tế, Việt Nam nhất quán nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp công việc nội bộ của nhau; không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực; giải quyết các bất đồng, tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế; kiên định lợi ích quốc gia là giá trị cốt lõi, là mục tiêu cao nhất trong quán triệt, xử lý mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế. Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế luôn được thực hiện đồng bộ trong một chiến lược tổng thể, có lộ trình, bước đi phù hợp với điều kiện thực tế và khả năng của đất nước, theo tinh thần “dĩ bất biến ứng vạn biến”. Giữ vững và thực hiện tốt phương châm đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa, là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Đổi mới tư duy, chuyển mạnh từ “mở rộng quan hệ, gia nhập và tham gia hợp tác quốc tế” sang “chủ động đóng góp, tích cực khởi xướng và tham gia định hình các cơ chế hợp tác”. Tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia và coi đây là yếu tố quyết định thành công của quá trình hội nhập quốc tế, đó là sức mạnh được tạo nên từ sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, của khối đoàn kết toàn dân tộc, của văn hóa, con người Việt Nam, sức mạnh của thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc. Chủ động phát hiện, ngăn chặn từ sớm, từ xa các nguy cơ; kiên định giữ vững độc lập, tự chủ và bản sắc dân tộc. Nhạy bén trong nghiên cứu nắm chắc tình hình, nâng cao năng lực dự báo, phục vụ đắc lực tiến trình hội nhập quốc tế, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc.

Như vậy, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế thể hiện tầm nhìn chiến lược, toàn diện của Đảng ta với nguyên tắc cơ bản và bao trùm là giữ vững độc lập, tự chủ, giữ gìn bản sắc dân tộc theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là vấn đề lý luận, thực tiễn quan trọng cần tiếp tục nghiên cứu làm rõ, thực hiện tốt trên thực tiễn, tạo sự thống nhất cao trong nhận thức, hành động và đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch. Giữ vững độc lập, tự chủ và bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu, vừa giữ vai trò quyết định đến tiến trình hội nhập quốc tế. Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, hiệu quả là phương thức, giải pháp phù hợp nhất để chuyển hóa ngoại lực thành nội lực nhằm phát triển đất nước, góp phần giữ vững độc lập, tự chủ và bản sắc dân tộc. Với những kết quả đạt được và kinh nghiệm trong nắm bắt thời cơ, vượt qua thách thức, chúng ta tin tưởng và khẳng định bằng đường lối chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, đất nước có thêm nguồn lực to lớn phục vụ phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, củng cố niềm tin của nhân dân, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, giữ vững ổn định chính trị, phát triển văn hóa - xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.

------------------------------

(1) Hướng dẫn chi tiết chuyên đề “Hội nhập quốc tế” ban hành kèm theo Hướng dẫn số 42-HD/BTGTW, ngày 1-9-2017, của Ban Tuyên giáo Trung ương
(2) Nghị quyết số 22-NQ/TW, ngày 10-4-2013, của Bộ Chính trị, Về hội nhập quốc tế
(3) Nghị quyết số 06-NQ/TW, ngày 5-11-2016, về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới
(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 154 - 155


“Tự do ngôn luận” hay “ngôn luận tự do” để xuyên tạc, kích động chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân

TS. NGUYễN TRI THứC
Tạp chí Cộng sản
11:20, ngày 29-12-2019

TCCS - Kể từ khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi, chính quyền về tay nhân dân, người dân Việt Nam mới biết đến các quyền cơ bản của mình, trong đó có quyền tự do ngôn luận. Trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, việc bày tỏ tự do ngôn luận càng được chú trọng, bảo đảm hơn. Tuy nhiên, thông tin trên không gian mạng thật - giả, tốt - xấu khó lường, các thế lực thù địch, phản động luôn tìm mọi cách lợi dụng tự do ngôn luận để phát ngôn tùy tiện, vô lối, nhằm lôi kéo, kích động gây bạo loạn lật đổ, với những chiêu bài hết sức tinh vi, thâm độc...

Tự do ngôn luận ở Việt Nam được đề cao, bảo đảm

“Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận và biểu đạt; bao gồm tự do giữ ý kiến mà không bị can thiệp, cũng như tự do tìm kiếm, thu nhận và truyền bá thông tin và tư tưởng bằng bất cứ phương tiện truyền thông nào và không giới hạn về biên giới”(1). Đó là nội dung chính của Điều 19, Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền (Tuyên ngôn thế giới về quyền con người), được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua và công bố theo Nghị quyết 271A (III), ngày 10-12-1948. Hơn 70 năm tồn tại, Tuyên ngôn vẫn còn nguyên giá trị, được đánh giá là bản tuyên ngôn có ý nghĩa nhân văn cao cả, đã, đang và sẽ còn là mục tiêu phấn đấu của toàn thể nhân loại.

Với mỗi quốc gia, dân tộc, việc kế thừa, phát triển, vận dụng, tuân thủ các giá trị của Tuyên ngôn có sự khác nhau nhất định, do chi phối bởi đặc thù về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa,... Nhưng có một điểm chung bắt buộc là, các quyền tự do ấy, phải trong khuôn khổ pháp luật, như chính Điều 29 và 30 của Tuyên ngôn quy định.

Các Mác và Ph. Ăng-ghen, trên quan điểm duy vật biện chứng, bằng sự khảo sát khách quan nhân quyền tư sản với tinh thần phê phán, đã đi đến khẳng định: “Quyền không bao giờ có thể ở mức cao hơn chế độ kinh tế và sự phát triển văn hóa do chế độ kinh tế đó quyết định”(2); tương ứng với những thời đại khác nhau và những cơ sở kinh tế - xã hội khác nhau thì có quyền khác nhau. Theo đó, quan niệm về tự do ngôn luận không bất biến, mà biến đổi trong lịch sử.

Ở Việt Nam, với tầm nhìn vượt thời đại, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sớm định hình tư tưởng về tự do ngôn luận. Trong Lời phát biểu tại Đại hội toàn quốc lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp, năm 1921, Người đã tố cáo thực dân Pháp bóp nghẹt quyền tự do ngôn luận đối với nhân dân An Nam: “Chúng tôi không có quyền tự do báo chí và tự do ngôn luận, ngay cả quyền tự do hội họp và lập hội cũng không có. Chúng tôi không có quyền cư trú và du lịch ra nước ngoài; chúng tôi phải sống trong cảnh ngu dốt tối tăm vì chúng tôi không có quyền tự do học tập. Ở Đông Dương, bọn thực dân tìm mọi cách để đầu độc chúng tôi bằng thuốc phiện và làm cho chúng tôi đần độn bằng rượu. Người ta đã làm chết hàng nghìn người An Nam và tàn sát hàng nghìn người khác để bảo vệ những lợi ích không phải của chính họ”(3). Vì vậy, trong Yêu sách của nhân dân An Nam, Nguyễn Ái Quốc kêu gọi các Chính phủ trong khối Đồng minh nói chung và Chính phủ Pháp nói riêng thừa nhận các quyền cơ bản của nhân dân An Nam, trong đó có quyền tự do ngôn luận: “Trong khi chờ cho nguyên tắc dân tộc sẽ từ lĩnh vực lý tưởng chuyển vào lĩnh vực hiện thực do chỗ quyền tự quyết thiêng liêng của các dân tộc được thừa nhận thật sự, nhân dân nước An Nam trước kia, nay là xứ Đông - Pháp, xin trình với các quý Chính phủ trong Đồng minh nói chung và với Chính phủ Pháp đáng kính nói riêng, những yêu sách khiêm tốn sau đây: ... 3. Tự do báo chí và tự do ngôn luận”(4). Nhất quán yêu sách đó, lãnh tụ Hồ Chí Minh trong Chương trình Việt Minh, chủ trương: “Chính phủ nhân dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà do Quốc dân đại hội cử lên sẽ thi hành những chính sách sau này: ...2. Ban bố các quyền tự do dân chủ cho nhân dân: Tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức, tự do tín ngưỡng, tự do đi lại trong nước, tự do xuất dương. Bỏ chế độ bắt phu và các chế độ áp bức do đế quốc đặt ra”(5).

Hiện thực hóa tư tưởng về tự do ngôn luận, chỉ hơn 1 năm sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, ngày 9-11-1946, Quốc hội đã thông qua Hiến pháp gồm 7 chương, 70 điều, kế thừa những tinh hoa văn hóa dân tộc và tư tưởng hiến chính của nhân loại, phù hợp với thực tiễn đất nước; trong đó, quyền tự do ngôn luận được hiến định ở Điều thứ 10: “Công dân Việt Nam có quyền: Tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức và hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài”. Thực thi Hiến pháp đầu tiên của nước ta nói chung và thực hiện quyền tự do ngôn luận nói riêng, chỉ 3 năm sau, trong bài Trả lời điện phỏng vấn của ông Walter Briggs, tháng 3-1949 đăng trên Báo Cứu quốc, số 1198, ngày 23-3-1949, Hồ Chí Minh đã khẳng định thành tựu quyền tự do ngôn luận rất rõ ràng: “Hỏi: Ở Việt Nam có tự do ngôn luận không (ngoài những ngôn luận phản quốc và thân thực dân Pháp)? Trả lời: Có”. Tiếp tục khẳng định quyền tự do ngôn luận trong Báo cáo về dự thảo Hiến pháp sửa đổi tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đọc ngày 18-12-1959, Người tiếp tục khẳng định, quyền tự do ngôn luận là một trong những quyền cơ bản của công dân...

Nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền tự do ngôn luận là quyền này phải đi đôi với nghĩa vụ và trách nhiệm cá nhân. Tự do ngôn luận, tự do tư tưởng là một giá trị cơ bản, quan trọng bậc nhất của quyền con người. Người giải thích: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do. Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Đó là một quyền lợi mà cũng là một nghĩa vụ của mọi người. Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền tự do phục tùng chân lý. Chân lý là cái gì có lợi cho Tổ quốc, cho nhân dân. Cái gì trái với lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân tức là không phải chân lý. Ra sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân - tức là phục tùng chân lý”(6).

Quán triệt và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền tự do ngôn luận, trong thời kỳ đổi mới, phù hợp với các Hiến pháp năm 1992 và năm 2013, các văn kiện của Đảng, Nhà nước(7) đều khẳng định và hiện thực hóa quyền tự do ngôn luận của công dân.

Có thể hiểu rằng, tự do ngôn luận là tự do phát biểu ý kiến của mình bàn bạc một công việc chung; là quyền của công dân được tham gia bàn bạc, thảo luận, đóng góp ý kiến vào những vấn đề chung của xã hội.

Thực tế, Việt Nam luôn phải đối mặt với các phần tử và thế lực thù địch cả ở trong và ngoài nước, trên nhiều lĩnh vực, mặt trận khác nhau, trong đó có mặt trận tư tưởng, thông tin. Các thế lực phản động, thù địch luôn tìm mọi cách để xuyên tạc, bịa đặt, bóp méo, vu khống các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta trên mọi lĩnh vực, phủ nhận các thành tựu đã đạt được, kể cả những thành tựu được bạn bè quốc tế ghi nhận, đánh giá cao.

Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, để phù hợp với thực tiễn, trong bối cảnh “thế giới phẳng”, toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, Việt Nam đã điều chỉnh, bổ sung, xây dựng nhiều đạo luật mới, đề cao, tôn trọng các quyền cơ bản, chính đáng của con người, trong đó có quyền tự do ngôn luận. Điều 25 Hiến pháp năm 2013 quy định rõ: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Hay như trong các luật được ban hành thời gian gần đây, như Luật Tiếp cận thông tin (năm 2013); Luật Báo chí (năm 2016); Luật An ninh mạng (năm 2018)..., quyền tự do ngôn luận luôn được tôn trọng và bảo đảm. Kể từ khi hòa mạng in-tơ-nét toàn cầu ngày 1-12-1997, Việt Nam liên tục thiết lập những kỷ lục mới, bảo đảm quyền tự do ngôn luận, báo chí, đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu tìm kiếm, trao đổi, thụ hưởng thông tin mọi lúc, mọi nơi, mọi mặt,... của người dân cả trên các phương tiện truyền thông đại chúng, cũng như truyền thông xã hội. Người dân Việt Nam có thể dễ dàng truy cập vào tất cả các trang web, báo chí trên thế giới; có thể bày tỏ mọi suy nghĩ, trăn trở, mong muốn chính đáng, hợp pháp, bảo đảm thuần phong mỹ tục, giá trị nhân văn, đạo đức,... của mình trên mạng xã hội hằng giờ, hằng ngày, thông qua việc viết bài, đăng ảnh, video clip. Mỗi người dân Việt Nam cũng đều có thể tiếp cận tin tức của các cơ quan thông tấn, báo chí lớn trên thế giới hay các trang cá nhân của mọi “công dân toàn cầu” mà không gặp phải bất cứ sự hạn chế, ngăn chặn, cấm đoán nào...


Tuy nhiên, in-tơ-nét cũng bị các thế lực thù địch, cơ hội chính trị lợi dụng chống phá, tạo những “trận địa giả”, những mũi tấn công đầy mưu đồ đen tối trên mặt trận tư tưởng, dưới chiêu bài “tự do ngôn luận”. Nhưng thực ra, đó không phải là một thứ “tự do ngôn luận” theo đúng ý nghĩa của từ này, không vì sự phát triển của xã hội mà là những lời lẽ, dòng chữ, hình ảnh, video clip chụp mũ, thêu dệt, xuyên tạc, áp đặt, chống phá đầy hằn học, hận thù, đen tối. Đó thực sự là thứ “ngôn luận tự do” bịa tạc, phóng tác, bôi nhọ, tô vẽ,... rẻ rúng, không có căn cứ, bất chấp luân thường, đạo lý và luật pháp.

Đấu tranh phản bác luận điệu sai trái, thù địch núp dưới những chiêu bài hết sức tinh vi, thâm độc trên không gian mạng của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị_Ảnh: minh họa


Không thể chấp nhận những thứ “ngôn luận tự do” bất chấp cả luật pháp và đạo lý... trong xã hội văn minh

Có thể nhận diện, thống kê rất dễ dàng rằng, các phần tử thù địch, cơ hội chính trị luôn tìm mọi cách để tạo dựng những thứ gọi là “tự do ngôn luận” theo cách hiểu ấu trĩ, hạn hẹp, đầy hằn học với mưu đồ xấu xa. Chúng dã tâm, chủ đích lựa chọn, lợi dụng những vấn đề nhiều người dân quan tâm, dễ gây bức xúc, dễ lan truyền rộng rãi trong xã hội để tạo dựng những kịch bản đen tối, chống phá bằng các bài viết, hình ảnh, video clip,... liên quan đến các vụ khiếu kiện đất đai, ô nhiễm môi trường, phản đối trạm thu phí BOT (xây dựng - vận hành - chuyển giao) giao thông, tụ tập đông người núp dưới cái gọi là “hành động yêu nước”,... nhằm gây rối an ninh, trật tự, “bất tuân dân sự”, phá hoại các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước ta; kích động, kêu gọi bạo động, lật đổ...

Lấy ví dụ cụ thể từ các vụ tụ tập phản đối tại các trạm thu phí BOT giao thông trong quý I-2019 tại nhiều địa phương trên cả nước. Trong các vụ này, rất nhiều người, trong đó có những người cầm đầu, cố tình liên tục “tường thuật trực tiếp”, thông qua tính năng livestream của mạng xã hội Facebook và xuyên tạc, nói xấu về hình thức đầu tư BOT, thậm chí cả về những quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước... Điều này gây ra sự phản ứng lan truyền mạnh mẽ trên cộng đồng mạng, khiến nhiều trạm thu phí BOT phải “xả trạm” trong nhiều giờ để bảo đảm giao thông được thông suốt, an ninh, trật tự xã hội không bị rối loạn. Hùa vào góp sức, một số báo mạng nước ngoài, những phần tử chống đối ở hải ngoại, cũng như trong nước dưới vỏ bọc mỹ miều là “chống BOT bẩn” liên tục đăng tải những thông tin xuyên tạc, lệch lạc, sai trái,... nhằm mục đích phá hoại. Khi những đối tượng vi phạm pháp luật bị bắt tạm giam, một số báo mạng điện tử nước ngoài thiếu thiện chí, nhất là những báo có phiên bản tiếng Việt và nhiều trang cá nhân trên mạng xã hội Facebook, YouTube,... đã chớp lấy để bình luận đầy hằn học, ác ý, cố tình hướng lái, lật ngược bản chất vấn đề, vu khống, kích động cộng đồng mạng phá hoại, gây mất an ninh trật tự, an toàn xã hội, cản trở giao thông cũng như sự phát triển kinh tế - xã hội, đời sống của người dân...

Nhìn rộng hơn, thử điểm lại một số vụ tụ tập đông người kích động, chống đối ở Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Bình Thuận, Nghệ An, Hà Tĩnh,... trong những năm gần đây, nhất là liên quan đến sự cố môi trường biển ở bốn tỉnh miền Trung để kêu gọi tụ tập đông người, biểu tình, gây mất an ninh, trật tự, chống đối, phá hoại,... thì thấy càng rõ bộ mặt của tổ chức phản động Việt Tân và những mưu đồ đen tối của chúng. Chúng tuyển mộ, đào tạo, lợi dụng những người thiếu hiểu biết, cả tin, bất mãn, có những khúc mắc trong cuộc sống,... để làm thuê cho chúng, thông qua các việc, như tuyên truyền, lôi kéo, kích động các vụ tụ tập đông người và giăng khẩu hiệu phản đối, dùng loa các loại để gào thét vô lối, gây rối, đập phá trụ sở các cơ quan công quyền, nhà máy,... làm mất an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Tại các vụ, việc, nhiều phần tử cực đoan, chống đối, vi phạm pháp luật đã bị bắt để giáo dục, nhiều trường hợp bị khởi tố và tạm giam, bị kết án nghiêm minh, thích đáng...

Nhân dịp này, những phần tử chống đối, phá hoại, các thế lực thù địch, vu khống, bịa đặt trắng trợn, rằng “Việt Nam đàn áp tự do ngôn luận”, “Bắt người nói xấu Đảng và tự do ngôn luận”, “Dân oan bị khước từ quyền tự do ngôn luận”, “Chuyện gì đang xảy ra với tự do ngôn luận ở Việt Nam”, “Việt Nam vẫn là quốc gia toàn trị, không có tự do ngôn luận”... Rõ ràng, chỉ thoạt nhìn vào tiêu đề các bài viết đó cũng thấy rõ sự bóp méo, xuyên tạc về quyền tự do ngôn luận tại Việt Nam - một quyền mà ngay sau Cách mạng Tháng Tám thành công đã được chế định trong Hiến pháp năm 1946 và được pháp luật cụ thể hóa kịp thời, phù hợp với tình hình phát triển của đất nước ta qua các thời kỳ, bắt nhịp với các bước tiến mang giá trị phổ quát của luật pháp quốc tế, đáp ứng yêu cầu chính đáng của đông đảo nhân dân...

Để bảo đảm tự do cho người này mà không phương hại đến tự do người khác, tất yếu phải có quy định của pháp luật. Quốc hội đã thông qua Luật An ninh mạng, bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1-1-2019, nhưng các thế lực thù địch lại rêu rao rằng Luật này “chống lại loài người”, “triệt tiêu dân chủ”, “đàn áp bất đồng chính kiến”, “mất quyền tự do ngôn luận”. Chúng cố tình không hiểu rằng “tự do được thừa nhận về mặt pháp lý tồn tại trong nhà nước dưới hình thức luật pháp. Luật pháp không phải là những biện pháp đàn áp chống lại tự do... Ngược lại, luật pháp là những tiêu chuẩn khẳng định rõ ràng, phổ biến, trong đó tự do có một số sự tồn tại vô ngã, có tính chất lý luận, không phụ thuộc vào sự tùy tiện của cá nhân riêng lẻ. Bộ luật là kinh thánh của tự do của nhân dân”(8).

Quốc hội đã thông qua Luật An ninh mạng, có hiệu lực từ ngày 1-1-2019 _Ảnh minh họa

Ngày 3-4-2019, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc ký Quyết định số 362/QĐ-TTg, Phê duyệt Quy hoạch phát triển và quản lý báo chí toàn quốc đến năm 2025. Đây là quyết định đã được chuẩn bị từ lâu, kỹ lưỡng, phù hợp với sự phát triển trong tình hình hiện nay. Quy hoạch báo chí là hết sức cần thiết, khi không ít cơ quan báo chí có những biểu hiện lệch lạc, xa rời tôn chỉ, mục đích, thương mại hóa, thông tin phiến diện, chỉ chú trọng những mặt trái, tiêu cực,... trong xã hội, thiếu tính giáo dục, thậm chí phản tác dụng, lan truyền những điều xấu. Việc tiến hành quy hoạch, sắp xếp lại hệ thống báo chí tại Việt Nam là để báo chí hoạt động chuyên nghiệp, lớn mạnh hơn, bắt kịp sự phát triển của báo chí thế giới... Thế nhưng, ngay lập tức, lại xuất hiện trên mạng xã hội, đặc biệt là các phiên bản tiếng Việt của một số cơ quan báo chí nước ngoài những thông tin hết sức quy chụp, thiếu căn cứ... Họ ra sức bịa đặt, vu khống rằng: “Quy hoạch báo chí đến năm 2025: Giảm số lượng, vẫn kiểm soát chặt” (RFA, ngày 3-4-2019), “Quy hoạch báo chí ‘theo kiểu coi báo chí là công cụ’?” (BBC, ngày 9-4-2019), “Quy hoạch báo chí “vi hiến”, sẽ “làm thất nghiệp” hàng nghìn nhà báo?” (VOA, ngày 9-4-2019)... Tương tự, các trang mạng xã hội của các cá nhân, tổ chức chống đối, gây rối, phản động, cũng hùa theo rằng, “Việt Nam không có nền báo chí độc lập”, “Quy hoạch báo chí gây tranh cãi”, “Quy hoạch báo chí - phóng viên mất việc, độc giả mất lựa chọn?”...

Thành tựu được thừa nhận và đường cùng của thứ gọi là “ngôn luận tự do”

Để phản bác, khẳng định những thứ “ngôn luận tự do” vô lối mà các phần tử, thế lực thù địch, phản động bóp méo, thổi phồng, lan truyền rộng rãi trên không gian mạng, không gì thuyết phục hơn là nêu ra những kết quả, thành tựu mà Việt Nam đã đạt được, được bàn bè quốc tế ghi nhận, đánh giá cao.

Việt Nam đã từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật, về cơ bản đáp ứng được yêu cầu đặt ra cho việc thúc đẩy, bảo vệ và phát triển quyền con người, quyền công dân, trong đó có quyền tự do ngôn luận. Vì lẽ đó, Việt Nam được bầu làm Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2008 - 2009), thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2014 - 2016), thành viên Hội đồng Kinh tế - Xã hội Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2016  - 2018), thành viên Hội đồng Chấp hành Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2015 - 2019). Theo kết quả bầu chọn tại khóa họp thứ 73 Đại hội đồng Liên hợp quốc công bố ngày 7-6-2019, Việt Nam nhận được 192/193 phiếu ủng hộ, vượt xa mốc tối thiểu 129/193, chính thức trúng cử vào ghế Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020  - 2021. Đó là những bằng chứng thuyết phục nhất khẳng định ở Việt Nam có tự do ngôn luận, phản bác những kẻ rắp tâm phá hoại đất nước bằng thứ “ngôn luận tự do” đầy hằn học, xấu xa, thiếu căn cứ...

Trong khi tình hình thế giới biến động phức tạp, khó lường về nhiều mặt thì sự phát triển kinh tế - xã hội, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của Việt Nam vẫn luôn đạt mức tăng trưởng tốp đầu so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Đặc biệt, trong 9 tháng đầu năm 2019, GDP tăng 6,98% - mức tăng cao nhất trong vòng 9 năm qua. Lạm phát tiếp tục được kiểm soát ở mức thấp, bình quân 9 tháng tăng 2,5% - mức tăng thấp nhất trong 3 năm qua. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng 10,3%, đặc biệt khu vực ngoài nhà nước chiếm tỷ trọng 45,3%, tăng 16,9%. Vốn FDI thực hiện cao nhất trong nhiều năm trở lại đây, ước đạt 14,2 tỷ USD, tăng 7,3%. Thu ngân sách nhà nước tăng cao (10,1%), bội chi còn 3,4% GDP, nợ công còn dưới 57% GDP... Đó là những số liệu minh chứng một cách thuyết phục về sự phát triển kinh tế  - xã hội của Việt Nam, cũng như môi trường đầu tư thuận lợi, an toàn, hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là sự xuất hiện ngày càng nhiều các tập đoàn kinh tế lớn trên thế giới...

Lâu nay, câu nói “một nửa cái bánh mì vẫn là bánh mì, nhưng một nửa sự thật thì không phải là sự thật” đã rất quen thuộc, được thừa nhận rộng rãi trên thế giới. Điều này không có gì phải bàn cãi. Và với báo chí - truyền thông, một trong những nguyên tắc quan trọng hàng đầu trong hoạt động của mình là phản ánh sự thật khách quan, tôn trọng sự thật một cách tuyệt đối, toàn vẹn. Chính vì thế, việc những đối tượng, tổ chức phản động lợi dụng, nhân danh “một nửa sự thật” kiểu cắt xén để tô vẽ, thêm thắt, đắp bồi,... theo sự tưởng tượng, kịch bản mà chúng sắp đặt sẵn, cố tình tạo ra thì rõ ràng đó là sự dối trá, bịp bợm, cố tình xuyên tạc nhằm mục đích chống phá xấu xa.

Trên tinh thần xây dựng đất nước, rõ ràng, mỗi người Việt Nam đều có quyền bày tỏ lòng yêu nước của mình, góp ý, phản biện những chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước... Thế nhưng, việc phát ngôn tự do, vô lối, xuyên tạc, kích động gây rối, đập phá tài sản, vi phạm pháp luật là những hành động đáng lên án, cần phải ngăn chặn kịp thời, xử lý nghiêm minh. Bởi con người biết tuân theo pháp luật mới là con người nhận thức được đầy đủ về tự do. Kiểm soát được hành vi của mình một cách có ý thức thì con người mới thật sự có tự do. Tự do là quyền của con người nhưng đó không phải là tự do vô lối, tùy tiện, vô chính phủ, mà nó chỉ được bảo đảm khi con người nhận thức đúng đắn quy luật khách quan và hành động phù hợp pháp luật - giao kèo, thỏa ước về tự do của tập thể, của cộng đồng, của xã hội.

Phải thừa nhận rằng, ở bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới cũng luôn tồn tại những hạn chế, yếu kém nhất định, bên cạnh sự tiến bộ, phát triển, do chế định của điều kiện cụ thể. Vấn đề là mỗi quốc gia sẽ có sự nhìn nhận, khắc phục những mặt hạn chế đó một cách kịp thời, thấu đáo, toàn diện, quyết liệt,... để luôn tạo ra môi trường tốt đẹp cho sự phát triển, tiến bộ, vững bền, tránh bị xuyên tạc, bóp méo, lợi dụng nhằm công kích, phá hoại... Tại Việt Nam, qua những sự việc gần đây có thể thấy rằng, người dân cũng cần phải được vận động, tuyên truyền nâng cao nhận thức về tự do một cách đúng đắn, xác định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ công dân, biết phân biệt đúng - sai, tốt - xấu, xây dựng - phá hoại,... để từ đó tự trang bị, bảo vệ mình trước những kẻ lợi dụng lòng yêu nước, lợi dụng bức xúc của nhân dân để kích động chống phá. Phải làm cho người dân thấy rõ rằng, tự do không có nghĩa là tùy tiện, vô lối, muốn làm gì thì làm. Tự do ngôn luận đích thực phản ánh năng lực nhận thức và khả năng tự chủ bản thân cả về mặt phát ngôn và hành động. Suy cho cùng, hành động đúng đắn mới là thước đo chính xác về giá trị đích thực của tự do ngôn luận. Không thể nói “tự do nguôn luận” mà hành động lại phá hoại tự do của người khác, tự do xã hội. Tự do chỉ mở rộng cùng nhịp bước với nâng cao hiểu biết của con người về các quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy của con người, phải vận động cùng chiều với quyền và lợi ích chính đáng của quốc gia - dân tộc, để từ đó làm chủ chính mình và hành động tự do. Tự do được hình thành, tồn tại trong mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội, cá nhân và Nhà nước. Lòng yêu nước cần phải được thể hiện với thái độ đúng mực, bình tĩnh, kiềm chế, được kiểm soát,... để không tái diễn những hành vi quá khích, đập phá, hủy hoại tài sản của Nhà nước, tổ chức, doanh nghiệp trong và ngoài nước, đi ngược lại những chủ trương, chính sách đúng đắn trong phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước ta.

Một số giải pháp trước mắt...

Trước những diễn biến mới trên mặt trận tư tưởng, ngày 22-10-2018, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 35-NQ/TW về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới. Tiếp đó, ngày 25-3-2019, Ban Bí thư ban hành Kế hoạch số 14-KH/TW thực hiện Nghị quyết số 35. Theo Kế hoạch số 14, việc tổ chức thực hiện Nghị quyết số 35 cần gắn với việc tiếp tục quán triệt, tổ chức thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, kết luận, quy định của Đảng có liên quan. Riêng vấn đề chống lại việc lợi dụng “tự do ngôn luận” để tùy ý “ngôn luận tự do” nhằm lôi kéo, kích động, gây bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, phản động, chúng tôi xin đề xuất một số giải pháp cơ bản như sau:

Thứ nhất, sớm kiện toàn việc xây dựng lực lượng chuyên trách theo hướng tinh gọn, đủ mạnh theo tinh thần Nghị quyết số 35-NQ/TW. Đồng thời, phát huy cao nhất trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp, trước hết là của người đứng đầu trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch... Lực lượng chuyên trách là những người chủ lực, tiên phong trong việc thực hiện nhất quán, đồng bộ, hiệu quả các mục tiêu, quan điểm cũng như các nhiệm vụ, giải pháp đã được nêu rõ trong Nghị quyết số 35-NQ/TW, với kế hoạch trước mắt, lâu dài, cùng lộ trình ngắn hạn, trung hạn, dài hạn và những trường hợp đột xuất phù hợp với tình hình thực tiễn một cách linh động, khoa học, sát hợp.

Việc hình thành lực lượng chuyên trách, tinh nhuệ trên mọi lĩnh vực, để có thể kịp thời phát hiện, bóc trần những âm mưu, thủ đoạn mà thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị cố tình gây ra và đấu tranh chống lại những âm mưu đen tối bằng nhiều phương thức khác nhau, trên cả các phương tiện truyền thông đại chúng, cũng như trên không gian mạng, giúp đông đảo người dân hiểu rõ bản chất của thông tin, miễn nhiễm với thứ “ngôn luận tự do” vô lối, trái pháp luật và nhận ra, hiểu rõ dã tâm của những phần tử quá khích, kích động, chống phá...

Thứ hai, các cơ quan, đơn vị được giao nhiệm vụ có trách nhiệm tăng cường công tác tuyên truyền nội dung của Nghị quyết số 35-NQ/TW, Kế hoạch số 14-KH/TW một cách thường xuyên, sáng tạo, khoa học, dễ nhớ, dễ hiểu, tránh khô cứng, sáo mòn, giáo điều, khó đi vào cuộc sống. Cần tuyên truyền sâu rộng, thiết thực 4 nhiệm vụ thường xuyên tại Kế hoạch số 14-KH/TW đã được xác định rõ, đó là: Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, tăng cường thông tin tích cực; đẩy mạnh công tác nghiên cứu, hoàn thiện hệ thống lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong tình hình mới; đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác phổ biến, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức lý luận chính trị; tăng cường quản lý, giáo dục cán bộ, đảng viên, xử lý nghiêm minh những trường hợp vi phạm... Đồng thời, các cấp, các ngành chức năng cần kịp thời cung cấp thông tin chính xác, khách quan để đấu tranh phản bác, định hướng dư luận trước những thông tin trái với chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, giúp cấp ủy cơ sở có sự định hướng kịp thời...

Thứ ba, tiếp tục hoàn thiện thể chế chính sách, đặc biệt là về hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế, công bằng xã hội,... để tạo gốc rễ, nền tảng vững chắc góp phần đẩy mạnh công cuộc phát triển đất nước. Có như thế, mới không tạo ra những “kẽ hở”, những “khoảng trống” cho việc hình thành, phát sinh, tồn tại “nhóm lợi ích”, những quan tham, tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực trong xã hội... Bên cạnh đó, cần phát huy những kết quả tích cực đã đạt được trong phát triển kinh tế  - xã hội những năm qua, để tạo đà cho những sự bứt phá tiếp theo, với kỳ vọng sẽ đạt được những thành tựu nổi bật hơn nữa trong thúc đẩy đà tăng trưởng, nâng cao đời sống, bảo đảm an sinh xã hội cho người dân, rút ngắn khoảng cách phát triển giữa các vùng, miền trong cả nước...

 Thứ tư, đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực từ Trung ương đến địa phương, tránh tình trạng “trên nóng, dưới lạnh”. Có thể khẳng định rằng, việc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong thời gian qua đã đạt được nhiều kết quả tích cực, lấy lại niềm tin của đông đảo quần chúng nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước. Rõ ràng, đây là vấn đề hệ trọng, là mối quan tâm lớn của toàn Đảng, toàn dân nên không thể nóng vội, mắc sai lầm. Nhưng cũng vì thế mà không thể “chùng xuống”, không thể thiếu quyết liệt trong chỉ đạo, thực hiện, nhất là việc đẩy nhanh tiến độ xác minh, điều tra, xử lý các vụ, việc, vụ án tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp, được nhân dân quan tâm.

Thứ năm, xây dựng, thiết lập hệ thống các giải pháp tuyên truyền đồng bộ, sát hợp, hiệu quả trên các phương tiện thông tin đại chúng, trên không gian mạng, góp phần nhận diện, chủ động đấu tranh sớm, kịp thời, hiệu quả trước mọi thủ đoạn tấn công, phá hoại của các thế lực thù địch. Các cơ quan báo chí cần tổ chức thông tin cân bằng hơn, tăng cường thông tin về các mặt tích cực, tốt đẹp trong xã hội, tránh tình trạng mất cân bằng thông tin, khiến các thế lực thù địch, phản động dựa vào đó và nhân danh “tự do ngôn luận” để xuyên tạc, vu khống đất nước bằng những gam màu xám... Các cơ quan báo chí cần tăng cường thời lượng cho các chuyên mục đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, tránh chỉ dồn việc cho vài cơ quan báo chí vốn lâu nay chuyên đảm trách vấn đề này... Đồng thời, cần thiết phải hình thành, duy trì hoạt động hiệu quả các trang thông tin trên mạng xã hội, nhất là trên mạng xã hội Facebook được tổ chức khoa học, bài bản, với đội ngũ phụ trách chuyên nghiệp nhằm kịp thời, chủ động nhận diện, đấu tranh bài bản, khoa học, xác đáng, thuyết phục, hiệu quả trước các âm mưu, thủ đoạn, hành động chống phá của các thế lực thù địch, phản động...

Thứ sáu, cần kịp thời phát hiện, nhận diện để đấu tranh, nghiêm trị những phần tử phá hoại núp dưới danh nghĩa “yêu nước”, “nhân quyền”, “đòi công lý cho nhân dân” để kích động, tạo lập các mầm mống gây bạo loạn, lật đổ,... trên tất cả các phương diện, hình thức khác nhau. Phải khu biệt, cô lập, xác định đúng đối tượng phản động, phá hoại, kích động, chủ mưu trong từng vụ, việc, cũng như đã cố tình vi phạm cả thời gian dài, có hệ thống để đưa ra xét xử nghiêm minh trước pháp luật...

Có như thế, việc “tự do ngôn luận” ở Việt Nam mới không bị lợi dụng, xuyên tạc, bóp méo, tùy ý chuyển tải thứ “ngôn luận tự do” vô lối nhằm lôi kéo, kích động gây mất an ninh trật tự, phá hoại đất nước, kêu gọi bạo loạn lật đổ... Rồi dần dần, bằng sức đề kháng mạnh mẽ của mọi tầng lớp nhân dân, thứ “ngôn luận tự do” rẻ tiền, hằn học, chống đối đó mới không còn khả năng tồn tại và bị triệt tiêu, trả lại môi trường lành mạnh cho tự do ngôn luận chân chính, vì sự phát triển bền vững của đất nước.

------------------------------

(1) Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền, 1948, Nxb. Lao động - Xã hội, Hà Nội, 2011, tr. 410
(2) C.  Mác và Ph.  Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t. 19, tr. 36
(3), (4) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t. 1, tr. 34 - 35, 468
(5) Hồ Chí Minh, Toàn tập, sđd, t. 3, tr. 629
(6) Hồ Chí Minh, Toàn tập, sđd, t. 10, tr. 378
(7) Như: “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” năm 1991, “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (bổ sung, phát triển năm 2011), và trực tiếp là Chỉ thị số 12-CT/TW, ngày 12-7-1992, của Ban Bí thư, Chỉ thị số 41/2004/CT-TTg, ngày 2-12-2004, của Thủ tướng Chính phủ, Chỉ thị số 44-CT/TW, ngày 20-7-2010, của Ban Bí thư; “Đề án đưa nội dung quyền con người vào chương trình giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân” theo Quyết định số 1309/QĐ-TTg, ngày 5-9-2017 và “Đề án nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền về quyền con người” theo Quyết định số 16/QĐ-TTg, ngày 2-3-2018; đặc biệt là Kết luận của Ban Bí thư khóa XII về tiếp tục thực hiện hiệu quả Chỉ thị số 44-CT/TW...
(8) C. Mác, Ph. Ăng ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 1, tr. 95