Về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước

TS. Phạm Việt Dũng
Tạp chí Cộng sản
21:10, ngày 25-12-2019
TCCS - Thời gian qua, trong khi kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ thì hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước nhìn chung vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém. Thực tế này làm nảy sinh những ý kiến trái chiều về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, trong đó có những ý kiến cho rằng, kinh tế nhà nước không nên giữ vai trò chủ đạo; rằng, chủ trương của Đảng về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước đã “phá sản”; rằng nên tư nhân hóa nền kinh tế và chỉ cần tập trung phát triển kinh tế tư nhân là đủ,... Bài viết xin được bàn luận xung quanh những vấn đề này.

Doanh nghiệp nhà nước tiên phong trong các ngành, lĩnh vực trọng yếu, liên quan đến an ninh, quốc phòng _Ảnh: baogiaothong.vn

Kinh tế nhà nước không chỉ là doanh nghiệp nhà nước

Kinh tế nhà nước (KTNN) được hiểu bao gồm các cấu thành sau: 1- Bộ phận doanh nghiệp (DN) gồm các DN mà Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ và DN mà Nhà nước nắm cổ phần hoặc phần vốn chi phối; 2- Bộ phận phi DN, ngoài các tài sản thuộc sở hữu nhà nước còn bao gồm cả đất đai, rừng, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên, tư liệu sản xuất, ngân sách nhà nước, dự trữ quốc gia...

Như vậy, KTNN không chỉ là doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Thành phần KTNN bao gồm các yếu tố thuộc sở hữu nhà nước và các yếu tố thuộc sở hữu toàn dân mà Nhà nước được giao quyền đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý, trong đó có DNNN. Kinh tế nhà nước và DNNN có điểm chung đều là phần tài sản thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lý, phục vụ lợi ích toàn dân. Tuy nhiên, KTNN có phạm vi, vai trò rộng lớn hơn DNNN, nó không chỉ dựa trên hiệu quả sản xuất, kinh doanh của khu vực DNNN mà còn là tập hợp sức mạnh kinh tế thể hiện trên các ngành, lĩnh vực trọng yếu từ các định chế tài chính, pháp luật, sức mạnh quản lý đến điều hành của hệ thống chính trị. Việc khẳng định vị thế và xây dựng KTNN giữ vai trò chủ đạo không có nghĩa là các DNNN sẽ giữ vị trí chi phối trong các ngành, lĩnh vực kinh tế chủ chốt của nền kinh tế, cũng như độc quyền trên nhiều lĩnh vực. Các DNNN, lực lượng nòng cốt của thành phần KTNN sẽ cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Tuy nhiên, với trọng trách của mình, các DNNN sẽ tiên phong trong các lĩnh vực, ngành mũi nhọn, cần vốn lớn, đòi hỏi công nghệ tiên tiến, hiện đại, những lĩnh vực mà tư nhân không thể làm được hoặc không muốn làm, những ngành, lĩnh vực trọng yếu, liên quan đến an ninh - quốc phòng,...

Với phạm vi rộng lớn như vậy, sở hữu nhà nước và KTNN giữ vị trí trọng yếu, vai trò quan trọng trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, tạo nền tảng cơ bản để phát triển mọi ngành, lĩnh vực, thành phần kinh tế và loại hình DN trong nền kinh tế quốc dân.

Vai trò của kinh tế nhà nước ở các nước tư bản phát triển

Ngay ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa, khu vực KTNN cũng có vai trò quan trọng và tùy theo chiến lược quản lý của từng quốc gia, khu vực này có phạm vi và tỷ trọng khác nhau.

Tuy nhiên, sự nhận thức về vị trí, vai trò của khu vực KTNN có những bước thăng trầm khác nhau. Vai trò của KTNN bắt đầu được coi trọng từ sau cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 - 1933, đặc biệt nhận thức về khu vực này rõ nhất vào giai đoạn từ thập niên 70 của thế kỷ XX - thời kỳ ảnh hưởng của các lý thuyết “Phúc lợi quốc gia”, “Nền kinh tế thị trường xã hội”... Ở giai đoạn này, nhiều nước bên cạnh việc chấp nhận tăng cường trách nhiệm của nhà nước đối với xã hội và chủ trương đẩy mạnh sự can thiệp của nhà nước vào thị trường thông qua các hình thức và công cụ thông thường của nhà nước (ban hành pháp luật, điều tiết kinh tế, kiểm tra, kiểm soát), còn thông qua nhà nước trực tiếp sở hữu một khối lượng khổng lồ cơ sở vật chất, sử dụng tài chính, tác động vào những lĩnh vực dịch vụ mà trước đây do xã hội tự giải quyết theo cơ chế thị trường... Về quy mô, trên thực tế ở các nước này, sở hữu nhà nước rất lớn, bao gồm 4 mảng chính: 1- Sở hữu nhà nước về đất đai, tài nguyên, hệ thống giao thông; 2- Các DNNN và doanh nghiệp hỗn hợp có cổ phần nhà nước chi phối; 3- Tài chính nhà nước theo nghĩa rộng nó bao gồm toàn bộ phần thu nhập quốc dân huy động vào ngân sách nhà nước; còn theo nghĩa hẹp, nó chỉ bao gồm các chi tiêu có tính chất kinh tế để đầu tư phát triển hoặc chi tiêu cho các dịch vụ công cộng; 4- Các tổ chức cung ứng dịch vụ công cộng, như trường học, bệnh viện, thư viện, công trình thể thao, văn hóa...Nhiều nước có sử dụng khu vực tư nhân đầu tư vào kết cấu hạ tầng giao thông theo hình thức BOT nhưng sau thời hạn khai thác, các công trình này đều chuyển giao về sở hữu nhà nước.

Mặc dù Mỹ tự coi mình là nền kinh tế thị trường tự do, nhưng toàn bộ sở hữu nhà nước ở Mỹ vào cuối thập niên 80 chiếm 20% tổng tài sản quốc gia. Tỷ trọng chi ngân sách của Chính phủ Mỹ trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của nước này đã tăng từ 26,8% năm 1960 lên 41,3% năm 2010. Giai đoạn khủng hoảng kinh tế, tài chính toàn cầu 2008 - 2009, Chính phủ Mỹ đã sử dụng công cụ kinh tế của mình bằng cách chi tới 700 tỷ USD để cứu vãn nền tài chính quốc gia thông qua mua lại các khoản nợ xấu của ngân hàng, kích thích tài chính, thúc đẩy tăng trưởng,...

Ở một số nước G7 khác, tỷ trọng sở hữu nhà nước còn cao hơn, đều ở mức khoảng 30% tổng tài sản quốc gia. Riêng về đất đai, quy mô sở hữu nhà nước ở các nước phương Tây là rất lớn.

Đặc biệt, KTNN ở các nước tư bản có vai trò quan trọng trong cung ứng dịch vụ công, giao thông, công viên, bảo đảm an ninh công cộng,... Chẳng hạn với nước Anh vốn được coi là nơi khai sinh của lý thuyết kinh tế thị trường tự do và là một trong những nơi đầu tiên chấp thuận cho tư nhân tham gia phát triển kết cấu hạ tầng công cộng. Nhưng đến năm 2018, Chính phủ Anh đã quyết định dừng hẳn các dự án về kết cấu hạ tầng tư nhân hóa với lý do các dự án công có tư nhân tham gia tốn phí hơn so với các dự án công chỉ do nhà nước thực hiện.

Như vậy, có thể thấy, ngay ở các nước tư bản có nền kinh tế thị trường phát triển cao, KTNN nói chung và DNNN nói riêng vẫn có vai trò rất quan trọng, là một trong những công cụ quản lý vĩ mô giúp khắc phục những khuyết tật của kinh tế thị trường. Mức độ, phạm vi khu vực KTNN, DNNN không cố định mà được xác lập trên cơ sở yêu cầu của việc phát triển kinh tế - xã hội.

Hiểu vai trò “chủ đạo” của KTNN như thế nào cho đúng?

Đại hội X của Đảng khẳng định vai trò chủ đạo của KTNN trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN): “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân”(1).

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), do Đại hội XI của Đảng thông qua, khẳng định “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển”(2).

Điều 51 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 28-11-2013, khẳng định: “Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo”.

Nói đến vai trò chủ đạo của KTNN trong nền kinh tế là nói đến tầm quan trọng và tính chất quyết định của nó đối với đường hướng phát triển của một quốc gia; thành phần KTNN nắm giữ những vị trí then chốt của nền kinh tế và là lực lượng có khả năng can thiệp, điều tiết, hướng dẫn, giúp đỡ, liên kết, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác cùng phát triển.

Đại hội X cũng chỉ rõ vai trò chủ đạo của KTNN: một là, KTNN là lực lượng vật chất giúp Nhà nước định hướng XHCN nền kinh tế quốc dân; hai là, KTNN là sức mạnh đằng sau các chính sách điều tiết của Nhà nước; ba là, hoạt động của KTNN là để tạo môi trường phát triển chung cho mọi thành phần kinh tế, chứ không phải chỉ cho riêng DNNN; bốn là, khẳng định lại một lần nữa KTNN rộng hơn DNNN, hay nói cách khác, DNNN chỉ là một bộ phận của KTNN(3).

Khi đưa ra đường lối đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, với nhiều thành phần kinh tế, Đảng ta xác định các thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, trong đó KTNN đóng vai trò chủ đạo chứ không “lãnh đạo” đối với các thành phần kinh tế khác. Việc khẳng định thành phần KTNN giữ vai trò chủ đạo không có nghĩa là phân biệt, đối xử hay hạn chế vai trò và sự phát triển của các thành phần kinh tế khác, mà các thành phần kinh tế đều có mối quan hệ biện chứng với nhau, đan xen, liên kết với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, thành phần kinh tế này làm tiền đề cho thành phần kinh tế khác phát triển.

Như vậy, việc khẳng định vai trò chủ đạo của KTNN không có nghĩa là quay về quan niệm cũ, coi việc phát triển sở hữu nhà nước là mục tiêu phát triển kinh tế, hoặc cho rằng, muốn xây dựng chế độ mới, cần trước hết phát triển sở hữu nhà nước (cải tạo quan hệ sản xuất), mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Đối với nước ta, việc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường đòi hỏi khu vực tư nhân cần phải được bình đẳng phát triển và dần được khẳng định vị trí, do vậy KTNN mặc dù vẫn giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhưng phạm vi, mức độ và hình thức cần có sự thay đổi cơ bản. Kinh tế nhà nước chỉ cần duy trì và phát triển ở những nơi cần thiết, có vai trò hỗ trợ, dẫn đường bảo đảm cho sự phát triển ổn định của xã hội; khu vực nào mà các thành phần kinh tế khác có thể phát triển và hoạt động có hiệu quả hơn thì sẽ không cần sự hiện diện của KTNN. Mặt khác, tính định hướng XHCN của nền kinh tế nước ta luôn đòi hỏi phải xác định một số lĩnh vực trọng yếu thực hiện mục tiêu chính trị - xã hội.

Nhiều doanh nghiệp nhà nước đi đầu về đổi mới công nghệ, có đóng góp quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước _Ảnh: phunuvietnam.vn

Tại sao kinh tế nhà nước cần giữ vai trò chủ đạo ở Việt Nam?

Không thể phủ nhận sự phát triển của các nước tư bản đã mang lại nhiều kết quả tích cực, nhưng cùng với đó luôn tồn tại một số xu hướng khách quan sau:

- Công bằng xã hội đã trở thành đòi hỏi tất yếu của chính bản thân sự phát triển kinh tế. Công bằng để phát triển và phát triển để thực hiện công bằng không chỉ là khẩu hiệu mang tính đạo đức mà còn là động lực mạnh mẽ, yếu tố nội sinh của sự phát triển kinh tế. Tất nhiên, công bằng ở đây không phải theo nghĩa cào bằng, đánh đồng siêng năng với biếng nhác, tích cực với tiêu cực, làm ăn hiệu quả với kém cỏi,... điều đó sẽ dẫn tới triệt tiêu động lực phấn đấu của con người.

- Cùng với tăng trưởng kinh tế là yêu cầu về tiến bộ xã hội. Tăng trưởng kinh tế mà đời sống tinh thần, đạo đức xuống cấp sẽ đe dọa ngay đến sự phát triển bền vững của kinh tế. Yếu tố khách quan của cuộc sống đặt ra là tăng trưởng kinh tế phải đi liền với tiến bộ xã hội. Tiến bộ xã hội là kết quả nhưng đồng thời cũng là động lực, yếu tố nội tại của sự phát triển kinh tế.

- Tăng trưởng kinh tế phải đi cùng với sự ổn định về chính trị và về xã hội. Chính sự ổn định trên các lĩnh vực này lại là tiền đề để phát triển kinh tế.

Phát triển kinh tế mà không bảo đảm các xu hướng phát triển này tất yếu sẽ dẫn đến đổ vỡ. Nhà nước tư sản với bản chất là đại diện và bảo vệ quyền lợi chủ yếu cho một nhóm người, mà trước hết là giới chủ sẽ không bao giờ bảo đảm được tuyệt đối sự phát triển của các xu hướng đó. Để làm được điều này, nền kinh tế đó phải chịu sự chi phối của một nhà nước thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chỉ có nhà nước đó mới bảo đảm được lợi ích của đại đa số nhân dân lao động, mới định hướng vào sự phát triển của từng cá nhân, đồng thời là sự phát triển của tập thể, cộng đồng và xã hội. Và, để bảo đảm được lợi ích của đại đa số nhân dân lao động, KTNN - chủ yếu dựa trên chế độ sở hữu toàn dân mà Nhà nước là đại diện - phải giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế đó. Đây cũng thể hiện rõ bản chất, đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, hoàn toàn khác với kinh tế thị trường ở các nước tư bản chủ nghĩa, được xây dựng trên cơ sở sở hữu tư bản độc quyền.

Bên cạnh đó, vai trò chủ đạo của KTNN còn có những ý nghĩa sau đối với kinh tế Việt Nam:

Thứ nhất, là đầu tàu, hướng dẫn, dẫn dắt các hình thức sở hữu khác trong việc phát triển các lĩnh vực đặc biệt, như các lĩnh vực cần nhiều vốn đầu tư, có hàm lượng khoa học cao, một số lĩnh vực đặc biệt mới hình thành. Trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, ngày càng xuất hiện nhu cầu hình thành một số lĩnh vực mới đòi hỏi vốn đầu tư lớn, công nghệ cao mà tự nó rất khó phát triển. Trong điều kiện các quan hệ thị trường mới được phát triển, khu vực tư nhân còn nhỏ bé, chưa có khả năng đầu tư lớn, khu vực sở hữu nhà nước tất yếu phải đảm nhận vai trò đầu tàu, dẫn dắt trong những lĩnh vực mới này. Khi thực hiện vai trò này, không có nghĩa là sở hữu nhà nước giữ vai trò thống trị độc quyền vĩnh viễn mà vai trò đầu tàu, dẫn dắt thể hiện ở chỗ, khi các hình thức sở hữu khác đủ sức tham gia và có khả năng tham gia có hiệu quả, Nhà nước kịp thời rút vốn ra khỏi lĩnh vực đã đầu tư, để tiếp tục thực hiện vai trò của mình trong việc đầu tư vào những lĩnh vực mới khác.

Thứ hai, bảo đảm phát triển năng lực cạnh tranh của quốc gia. Do lịch sử phát triển, KTNN đã đảm nhận một loạt ngành cạnh tranh. Khi khu vực tư nhân chưa kịp phát triển, Nhà nước phải trực tiếp tham gia và đầu tư phát triển, hỗ trợ các DN đầu đàn trong giai đoạn đầu. Khi khu vực tư nhân lớn mạnh dần, KTNN dần dần rút hoặc chuyển đổi sở hữu và về lâu dài, KTNN có thể không cần giữ vai trò chủ đạo ở lĩnh vực có lợi thế cạnh tranh.

Thứ ba, đối với an ninh quốc gia, KTNN thể hiện vai trò chủ đạo ở hai nội dung cơ bản sau: 1- Nắm giữ những ngành đặc biệt quan trọng liên quan đến quốc phòng, an ninh quốc gia (sản xuất, sửa chữa vũ khí, trang bị chuyên dùng cho quốc phòng, an ninh,...). 2- Tham gia nắm giữ một số vị trí thiết yếu, quan trọng để giữ vững định hướng xã hội, làm đối trọng trong hội nhập kinh tế quốc tế (bán buôn lương thực, xăng dầu; sản xuất điện; khai thác khoáng sản quan trọng; một số sản phẩm cơ khí, điện tử, công nghệ thông tin quan trọng; bảo trì đường sắt, sân bay,...).Thứ tư, về mặt xã hội, do bản chất về mặt sở hữu và mục đích hoạt động, KTNN có vai trò quan trọng trong gánh vác chức năng xã hội. Vai trò này thể hiện ở chỗ, KTNN phải đảm nhận những ngành ở những địa bàn khó khăn có ý nghĩa chính trị - xã hội mà tư nhân không muốn đầu tư, thực hiện sự bảo đảm cân bằng về đầu tư phát triển theo vùng, miền, đảm nhận các ngành sản xuất hàng hóa công cộng thiết yếu, thực hiện các chính sách an sinh xã hội, các chương trình xóa đói, giảm nghèo,...

Thực tế vai trò của kinh tế nhà nước ở Việt Nam thời gian qua

Ở Việt Nam, KTNN ngày càng khẳng định vai trò, vị thế của mình trong các thành phần kinh tế. Do bản chất và mục đích hoạt động, nên thành phần KTNN có vai trò chính trị - xã hội to lớn. Các DN trong thành phần KTNN luôn tiên phong trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; đóng vai trò quan trọng trong một số ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế, như viễn thông, than, điện, xăng dầu, khai khoáng, tài chính, ngân hàng và các dịch vụ công thiết yếu bảo đảm nhu cầu tiêu dùng, sản xuất trong nước và xuất khẩu.

Các DNNN vừa là chủ thể kinh doanh, vừa là lực lượng kinh tế nòng cốt do Nhà nước sử dụng trong tác động tham gia các hoạt động kinh tế. Là chủ thể kinh doanh, các DNNN phải thực hiện hạch toán kinh tế, tự chủ về tài chính, hoạt động có hiệu quả để bảo đảm quá trình tái sản xuất mở rộng, bảo đảm gia tăng nguồn lực kinh tế mà Nhà nước đã đầu tư cho các DN này. Là lực lượng tham gia các hoạt động kinh tế như một công cụ của Nhà nước, các DNNN cần góp phần tạo ra sự ổn định kinh tế - xã hội, giúp Nhà nước đạt được các mục tiêu kinh tế, chính trị, xã hội.

Nhìn lại những năm qua, khi kinh tế thế giới suy thoái, thiên tai, dịch bệnh hoành hành, nhờ có sức mạnh của KTNN mà Việt Nam mới bảo đảm cân đối vĩ mô, các cân đối lớn của nền kinh tế, góp phần kiềm chế lạm phát, duy trì mức tăng trưởng khá cao. Cùng với tăng trưởng kinh tế, thành phần KTNN còn đóng góp tích cực vào việc bảo đảm an sinh xã hội, phát triển các lĩnh vực y tế, giáo dục, tạo việc làm, xóa đói, giảm nghèo, bảo đảm ổn định chính trị - xã hội, an ninh - quốc phòng, chủ quyền quốc gia, góp phần nâng cao vị thế của đất nước ở khu vực và trên thế giới...


Theo kết quả chính thức Tổng điều tra kinh tế năm 2017 được Tổng cục Thống kê công bố ngày 19-9-2018, tỷ suất sinh lời trên doanh thu (tính bằng tổng lợi nhuận trước thuế/tổng doanh thu) của doanh nghiệp nhà nước đạt 6,6%, trong khi tỷ suất này ở khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) là 6,7% và khu vực doanh nghiệp nhà nước chỉ đạt 1,9%; số lượng doanh nghiệp nhà nước ít, nhưng thuế và các khoản đã nộp lại cao nhất với trung bình 104 tỷ đồng/doanh nghiệp. Mức này được Tổng cục Thống kê đánh giá cao hơn nhiều so với khu vực FDI với mức trung bình là 18 tỷ đồng/doanh nghiệp và ở các doanh nghiệp ngoài nhà nước là 1 tỷ đồng/doanh nghiệp(4).
Tuy nhiên, khi Nhà nước nắm trong tay một khối lượng sở hữu khổng lồ thì chính những bất lợi (khuyết tật) của sở hữu nhà nước bắt nguồn từ đặc điểm của hình thức sở hữu này ngày càng bộc lộ và tạo nên xu hướng làm giảm tính hiệu quả của thành phần kinh tế này, kéo theo sự sụt giảm hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế. Chúng ta đang cơ cấu lại khu vực DNNN, theo đó tập trung vào những lĩnh vực then chốt, thiết yếu, những địa bàn quan trọng và an ninh - quốc phòng, những lĩnh vực mà DN thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư. Doanh nghiệp nhà nước tiến tới phải thật sự hoạt động theo cơ chế thị trường, lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ yếu; tự chủ, tự chịu trách nhiệm, cạnh tranh bình đẳng với DN thuộc các thành phần kinh tế khác theo quy định pháp luật.

Như vậy, có thể khẳng định việc xác định KTNN giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là đúng đắn, phù hợp với điều kiện của nước ta và là tiêu chí quan trọng bảo đảm tính định hướng XHCN cho nền kinh tế./.

------------------------------
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 83
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 73 - 74
(3) PGS, TS. Vũ Văn Phúc: Góp phần đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới đất nước, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 159
(4) Thời báo Kinh tế Việt Nam, số 217, ngày 10-9-2019


 

Hội nhập quốc tế có làm mất độc lập, tự chủ và bản sắc dân tộc?

TRẦN ĐỨC TIẾN
Thượng tá, ThS, Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng
18:24, ngày 18-11-2019

TCCS - Là một xu thế tất yếu, hội nhập quốc tế có sức cuốn hút mạnh mẽ, hàm chứa cả cơ hội lẫn thách thức đối với các quốc gia trên con đường phát triển. Với quan điểm phát huy nội lực, tranh thủ các điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển đất nước nhanh và bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam nhất quán đường lối chủ động, tích cực hội nhập quốc tế đi đôi với giữ vững độc lập, tự chủ và bản sắc dân tộc. Tuy nhiên, trước những diễn biến phức tạp, khó lường của tình hình thế giới, khu vực và sự chống phá của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị trong chiến lược “diễn biến hòa bình”, chúng ta cần kiên quyết đấu tranh, bảo vệ thành quả cách mạng, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, hiệu quả.

Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc phát biểu tại Phiên thảo luận cấp cao Đại hội đồng Liên hợp quốc Khóa 73 với chủ đề “Vì một thế giới hòa bình, công bằng và phát triển bền vững” _Ảnh: TTXVN

Thực chất của luận điệu “hội nhập quốc tế sẽ làm mất độc lập, tự chủ và bản sắc dân tộc”

Hội nhập quốc tế là quá trình liên kết, gắn kết giữa các quốc gia, vùng lãnh thổ với nhau thông qua việc tham gia các tổ chức, thiết chế, cơ chế, hoạt động hợp tác quốc tế vì mục tiêu phát triển của mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ, tạo thành sức mạnh tập thể giải quyết những vấn đề chung mà các bên cùng quan tâm(1). Về bản chất, hội nhập quốc tế là một hình thức phát triển cao của hợp tác quốc tế nhằm thực hiện mục tiêu và lợi ích chung trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Trong thời đại toàn cầu hóa và sự tác động mạnh mẽ của cách mạng khoa học và công nghệ, hội nhập quốc tế là tất yếu, là nhu cầu tồn tại và phát triển của các nước. Đối với Việt Nam, hội nhập quốc tế là định hướng chiến lược lớn nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Từ khi tham gia hội nhập quốc tế, chúng ta đã tạo lập, củng cố môi trường hòa bình, hợp tác, tranh thủ tối đa các điều kiện quốc tế thuận lợi, “góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, gia tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, giữ vững an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội; cải thiện đời sống nhân dân, củng cố niềm tin của các tầng lớp nhân dân vào công cuộc đổi mới; nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế”(2).

Song hiện nay, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị không ngừng lợi dụng quá trình hội nhập quốc tế, coi đó là tâm điểm để ráo riết thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng Việt Nam.

Trước hết, thông qua tiến trình hội nhập quốc tế, các thế lực thù địch đẩy mạnh các hoạt động chống phá. Lợi dụng Việt Nam tiến hành hội nhập quốc tế mà bắt đầu từ hội nhập kinh tế quốc tế, các thế lực thù địch thúc đẩy hình thành những yếu tố phi xã hội chủ nghĩa, gia tăng mặt trái của nền kinh tế thị trường, nhằm làm cho Nhà nước mất khả năng kiểm soát, điều hành nền kinh tế, từ khống chế về kinh tế để chuyển hóa và gây sức ép về chính trị. Chúng ngầm thâm nhập, móc nối với các đối tượng phản động, gây dựng lực lượng đối lập, mua chuộc, lôi kéo những cán bộ, đảng viên, quần chúng thoái hóa, biến chất, cơ hội chính trị, triệt để lợi dụng sơ hở của chính sách, khoét sâu mâu thuẫn nội bộ, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ngay từ bên trong. Chúng đưa ra các yêu cầu mang tính áp đặt phi lý, như đặt điều kiện để có “thỏa thuận”, “hợp tác” thì ta phải “cải cách”, “đổi mới” về tư tưởng, chính trị, pháp luật; phải thay thế chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh bằng hệ tư tưởng dân chủ tư sản; đòi Nhà nước xóa bỏ Điều 4 của Hiến pháp và một số điều về an ninh quốc gia trong Bộ luật Hình sự hiện hành; đòi thực hiện tự do báo chí, tự do ngôn luận theo tiêu chí phương Tây... nhằm tạo nên những tiền đề gây mất ổn định chính trị, mất độc lập, tự chủ của đất nước.

Tuyên truyền các luận điệu trái chiều, xuyên tạc với nội dung “hội nhập quốc tế sẽ làm mất độc lập, tự chủ và bản sắc dân tộc”. Thời gian gần đây, trên một số trang mạng xã hội, facebook, website cá nhân xuất hiện ngày càng nhiều những luận điệu suy diễn của một số đối tượng tự xưng là “yêu nước”, “nhà dân chủ”, “trí thức”, “học giả” dưới các hình thức “lời kêu gọi”, “tư vấn”, “phản biện”, “kiến nghị”, “góp ý”... nhằm bác bỏ, phủ nhận đường lối, quan điểm hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước ta. Từ việc tuyệt đối hóa và cho rằng độc lập, tự chủ là một “hằng số bất biến”, là không thể tương tác, dung hợp với hội nhập quốc tế, hội nhập quốc tế làm gia tăng sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước nên đã hội nhập quốc tế là không thể giữ được độc lập, tự chủ; muốn có độc lập, tự chủ thì không thể hội nhập quốc tế; càng hội nhập quốc tế một cách sâu rộng sẽ càng bị lệ thuộc vào các nước tư bản phát triển và không sớm thì muộn sẽ bị đi chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Có người đã ví hội nhập quốc tế là vô cùng nguy hiểm như “bơi ra biển lớn”, như bước vào “vòng xoáy thời cuộc”, cho nên đất nước sẽ bị “lạc phương hướng, mất tự chủ, không có đường thoát”. Hoặc họ “biện giải” rằng Việt Nam chưa có đủ các điều kiện nên khi hội nhập quốc tế, Đảng, Nhà nước ta đã “nhập khẩu nguy cơ”; thậm chí, cực đoan hơn, xem thế giới như một phức thể quá khó lường, cần “đề cao cảnh giác”, “khuyến cáo” nên đóng cửa khép kín, không cần hội nhập quốc tế. Lại có những người “tư vấn” với Đảng, Nhà nước hãy “vứt bỏ quan điểm” đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” vì nếu còn cảnh giác và chống “diễn biến hòa bình”, thì các nước phát triển  phương Tây sẽ không muốn và không dám hợp tác với Việt Nam...

Bằng những “lý sự” đó, những đối tượng này đưa ra “kết luận” rằng: Trong thời đại toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, không cần thiết và cũng không thể giữ vững được độc lập, tự chủ, bản sắc dân tộc. Cái “cớ” cho những luận điệu này là họ vin vào tác động tiêu cực của hội nhập quốc tế. Do đó, không ít người nhẹ dạ, thiếu hiểu biết, đã vội vã cổ xúy cho những luận điệu này. Sự suy diễn đó thực chất là cố tình nhìn nhận phiến diện, một chiều, ngụy biện, tuyệt đối hóa mặt trái, tác động tiêu cực của hội nhập quốc tế; là cách nhìn thiển cận, “thấy cây mà không thấy rừng”, không thấy rõ tính chất hai mặt, đan xen nhau cùng tồn tại giữa thời cơ và thách thức trong hội nhập quốc tế. Mục đích của họ là nhằm phá vỡ sự đồng thuận, dẫn đến hoài nghi, dao động, thiếu tin tưởng, cản trở không nhỏ đến tiến trình chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, giữ vững độc lập, tự chủ và bản sắc dân tộc của nước ta.

Nắm vững bản chất, nội hàm, giải quyết tốt mối quan hệ giữa giữ vững độc lập, tự chủ và bản sắc dân tộc với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế

Trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, giữa chủ động, tích cực hội nhập quốc tế với giữ gìn bản sắc dân tộc. Đây là mối quan hệ biện chứng khách quan, có sự tác động qua lại lẫn nhau, nảy sinh và ngày càng sâu sắc trong tiến trình hội nhập quốc tế, được Đảng xác định rõ trong hệ thống cương lĩnh, văn kiện, nghị quyết. Trong đó, giữ vững độc lập, tự chủ và bản sắc dân tộc giữ vai trò quyết định tiến trình hội nhập quốc tế; ngược lại, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế có sự tác động trở lại đối với việc giữ vững độc lập, tự chủ, phát huy bản sắc dân tộc. Bản chất, nội hàm của mối quan hệ này ngày càng được Đảng, Nhà nước, nhân dân ta nhận thức sâu sắc hơn, thực hiện tốt hơn trên thực tế, thể hiện ở những điểm cơ bản sau:

Thứ nhất, độc lập, tự chủ là cơ sở nền tảng, giữ vai trò quyết định tiến trình chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. Độc lập, tự chủ là vấn đề có tính nguyên tắc xuyên suốt, nhất quán, mang tính sống còn đối với mọi quốc gia trên thế giới, là nhân tố đóng vai trò quyết định trong mối quan hệ với hội nhập quốc tế. Hiện nay, độc lập, tự chủ được hiểu không phải là biệt lập với thế giới, đứng ngoài tiến trình hội nhập quốc tế. Độc lập là quyền dân tộc tự quyết và tự chủ là năng lực thực hiện quyền tự quyết ấy trên thực tế. Đó là tự mình xác định mục tiêu, hoạch định con đường, chiến lược phát triển, không chấp nhận bất cứ sự can thiệp, sắp đặt nào từ bên ngoài và điều này phải được thực thi trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại... Trong giai đoạn hiện nay, tất yếu các quốc gia, dân tộc đều tham gia quá trình hội nhập quốc tế để phát triển đất nước; hội nhập để phát triển, muốn phát triển phải hội nhập. Nhưng nếu không có độc lập, tự chủ thì không thể hội nhập quốc tế. Bởi để tham gia hội nhập quốc tế, trước hết mỗi quốc gia, dân tộc phải thực sự là một chủ thể trong quan hệ quốc tế, tức là phải có độc lập, tự chủ. Một quốc gia có độc lập, tự chủ thì mới quyết định được lộ trình, bước đi, cách thức, nội dung, biện pháp, phát huy được những lợi thế, hạn chế những tác động tiêu cực từ hội nhập quốc tế.

Thứ hai, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế tác động trở lại đối với việc giữ vững độc lập, tự chủ của đất nước trên hai góc độ tích cực và tiêu cực. Dưới góc độ tích cực, hội nhập quốc tế tạo ra tiền đề cho phát triển kinh tế - xã hội thông qua việc huy động các nguồn lực bên ngoài, tận dụng cơ hội để “đi trước, đón đầu”, ứng dụng những thành tựu khoa học - công nghệ hiện đại, mở rộng thị trường, phát huy mặt mạnh và lợi thế so sánh. Đây là những điều kiện thuận lợi có ý nghĩa quyết định để phát triển đất nước nhanh, bền vững. Trên cơ sở đó, nâng cao sức mạnh tổng hợp của quốc gia, góp phần giữ vững độc lập, tự chủ của đất nước. Hội nhập quốc tế sâu rộng sẽ mở ra cơ chế phối hợp chặt chẽ và thống nhất giữa các nước, các vùng lãnh thổ; hạn chế và đẩy lùi các nguy cơ khủng bố, xung đột, ly khai; giải quyết những vấn đề mang tính toàn cầu đã, đang đe dọa trực tiếp đến sự ổn định, phát triển của từng quốc gia, khu vực và thế giới; qua đó, ngăn chặn âm mưu, thủ đoạn, hành động xâm phạm độc lập, chủ quyền quốc gia. Thông qua hội nhập quốc tế, chúng ta nhận thức được lợi ích chung để thúc đẩy hợp tác với các nước, cũng như thấy rõ mặt mâu thuẫn, khác biệt để có đối sách xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa hợp tác với đấu tranh, giữa đối tác với đối tượng; tạo ra sự đan xen lợi ích sâu rộng với những quan hệ cân bằng có lợi cho đất nước. Tất nhiên, để làm được điều đó, chúng ta phải có năng lực tiếp nhận, biến cơ hội thành hiện thực và có các giải pháp khắc phục những tác động trái chiều của tiến trình hội nhập quốc tế, vừa giữ vững độc lập, tự chủ, vừa bảo đảm cho đất nước phát triển. Qua hơn 30 năm đổi mới và hội nhập quốc tế, chúng ta đã phát huy sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ sự ủng hộ rộng rãi của cộng đồng quốc tế trong giải quyết các tranh chấp về chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Đây là tác động tích cực, sự thống nhất giữa chủ động, tích cực hội nhập quốc tế với giữ vững độc lập, tự chủ của đất nước. Do đó, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế vừa là động lực, vừa là phương thức, là giải pháp tối ưu để giữ vững mục tiêu, nguyên tắc độc lập, tự chủ của đất nước.

Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực, hội nhập quốc tế cũng có những tác động tiêu cực đối với giữ vững độc lập, tự chủ của đất nước.

Một là, hội nhập quốc tế làm gia tăng sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các nước, gây khó khăn trong giữ vững độc lập, tự chủ, nhất là đối với các nước nhỏ có tiềm lực yếu trước các nước lớn có tiềm lực mạnh; trước hết là phụ thuộc về kinh tế do sự chi phối, áp đặt từ bên ngoài. Thực tiễn cho thấy, khi tham gia hội nhập quốc tế, sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các nước có thể chuyển hóa thành sự lệ thuộc của một số nước nghèo, kém phát triển vào nước lớn, có tiềm lực mạnh. Thêm vào đó, khi các nước lớn “ngầm bắt tay”, thỏa hiệp về lợi ích sẽ tác động không nhỏ đến vấn đề độc lập, chủ quyền của các nước nhỏ. Ngoài ra, trong hội nhập quốc tế, nếu không tỉnh táo, các nước chậm phát triển rất dễ “sập bẫy” nhập khẩu công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường sinh thái, ảnh hưởng đến phát triển nhanh và bền vững. Đây là tác động tiêu cực, những mâu thuẫn cần giải quyết giữa chủ động, tích cực hội nhập quốc tế với giữ vững độc lập, tự chủ của đất nước.

Hai là, hội nhập quốc tế tác động sâu sắc tới giữ gìn bản sắc dân tộc. Bản sắc dân tộc bao gồm những tinh hoa, cốt cách, giá trị bền vững của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp qua hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc, lòng nhân ái, khoan dung, trọn nghĩa vẹn tình; đức tính cần cù, sáng tạo, vượt khó, sự giản dị, tinh tế trong lối sống, ứng xử... Bản sắc đó là điều kiện tiền đề để Việt Nam hội nhập với thế giới. Giữ gìn bản sắc dân tộc là cơ sở để củng cố ý thức tự tôn dân tộc, là nền tảng cho sự phát triển bền vững và phát huy tính sáng tạo của dân tộc trong quá trình hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, hội nhập quốc tế là thời cơ, đồng thời cũng là những thách thức to lớn đối với bảo vệ, giữ gìn, phát huy, phát triển các giá trị truyền thống, bản sắc dân tộc. Sự tác động này rất phức tạp. Một mặt, khi hội nhập quốc tế, nhân dân ta có cơ hội tiếp cận, giao lưu với những giá trị văn hóa tiêu biểu của nhiều quốc gia trên thế giới, tiếp thu tinh hoa, trí tuệ, tiến bộ của nhân loại, từ đó có sự tiếp biến, kế thừa và phát huy những truyền thống cao quý, tốt đẹp của dân tộc, thúc đẩy tiềm năng sáng tạo trong nước, làm phong phú, sâu sắc thêm bản sắc dân tộc; mặt khác, quá trình này dễ dẫn đến tình trạng bị lai căng, đồng hóa, chứa đựng nguy cơ băng hoại những giá trị truyền thống, làm mất cốt cách và diện mạo tinh thần của quốc gia, xói mòn bản sắc dân tộc, tiềm ẩn những bất ổn về an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Nhưng với tinh thần “gạn đục khơi trong”, chúng ta chủ động tiếp thu có chọn lọc những giá trị chân - thiện - mỹ, những nhân tố phù hợp với đời sống văn hóa - tinh thần của dân tộc; qua đó giữ gìn, bảo vệ, phát huy và làm phong phú thêm bản sắc của dân tộc, không chấp nhận mưu đồ lợi dụng hội nhập quốc tế để áp đặt giá trị của các nước lớn.

Nhất quán chủ động, tích cực hội nhập quốc tế đi đôi với giữ vững độc lập, tự chủ và bản sắc dân tộc

Hội nhập quốc tế là quá trình phức tạp, một “sân chơi” với những tác động thuận - nghịch trong cục diện thế giới mới đang định hình. Tham gia hội nhập quốc tế, Việt Nam chấp nhận tham gia môi trường cạnh tranh gay gắt về lợi ích, ảnh hưởng, có sự chi phối của các nước lớn trong tình hình thế giới, khu vực diễn biến hết sức phức tạp, khó lường; tham gia cuộc đấu trí, đấu mưu, đấu pháp, đấu lực để phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Quá trình này luôn tồn tại hai mặt đan xen nhau giữa thuận lợi và khó khăn, thời cơ và thách thức, đồng thời chứa đựng nhiều mâu thuẫn. “Chìa khóa” để Việt Nam hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, giữ vững độc lập, tự chủ và bản sắc dân tộc là phải bảo đảm lợi ích của quốc gia, dân tộc gắn với lợi ích của các nước đối tác. Là một thành viên của cộng đồng quốc tế, Việt Nam chủ động tham gia “luật chơi” chung; tập trung giải quyết mâu thuẫn, bất đồng trên cơ sở luật pháp quốc tế với tinh thần mềm dẻo, linh hoạt, vừa hợp tác, vừa đấu tranh. Một mặt, thúc đẩy hợp tác, mở rộng và lấy hợp tác là chủ đạo để phát huy mặt tác động tích cực, sự thống nhất giữa hội nhập quốc tế với giữ vững độc lập, tự chủ, bản sắc dân tộc. Mặt khác, kiên quyết, kiên trì đấu tranh nhằm hạn chế, khắc phục những tác động tiêu cực, giải quyết mâu thuẫn và thu hẹp bất đồng. Trong tiến trình hội nhập quốc tế, Việt Nam vừa tìm kiếm cơ hội, tham khảo kinh nghiệm các nước để xây dựng những nhân tố mới phù hợp với đất nước, vừa bảo vệ, phát huy các thành quả, giá trị đã đạt được và đấu tranh loại bỏ các vật cản trên bước đường phát triển. Chúng ta chủ động, tích cực hội nhập quốc tế nhưng không để lợi ích quốc gia, dân tộc, độc lập, chủ quyền bị xâm hại; đổi mới chứ không đổi hướng, đổi đường. Quá trình này, Đảng ta luôn kiên định và vững vàng trên lập trường chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giữ vững các nguyên tắc đổi mới, phát triển kinh tế đi đôi với xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thực hiện tiến bộ, công bằng và an sinh xã hội. Thực hiện những bước đi thận trọng với đối sách mềm dẻo, khôn khéo, tránh bị rơi vào thế đối đầu hay bị cô lập, lệ thuộc. Chống cả hai khuynh hướng chủ quan, nóng vội hoặc dè dặt, cầm chừng trong hội nhập quốc tế. Không tuyệt đối hóa độc lập, tự chủ là “nhất thành bất biến”; ngược lại, cũng không đề cao thái quá cho rằng hội nhập quốc tế là “phương thuốc trị bách bệnh” để đất nước phát triển trong thời đại toàn cầu hóa.

Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc với các trưởng đoàn tham dự Hội nghị Thượng đỉnh Nhóm Các nền kinh tế phát triển và mới nổi hàng đầu thế giới (G20) tại Osaka của Nhật Bản _Ảnh: TTXVN

Trên thực tế, những năm qua Việt Nam đã chủ động, tích cực hội nhập quốc tế đi đôi với giữ vững độc lập, tự chủ và bản sắc dân tộc, thu nhiều kết quả to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Hội nhập quốc tế thực sự trở thành “động lực quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội, làm tăng sức mạnh tổng hợp của quốc gia; thúc đẩy hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; mở rộng thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu, tranh thủ được khối lượng lớn vốn đầu tư, công nghệ, tri thức, kinh nghiệm quản lý và các nguồn lực quan trọng khác; tạo thêm nhiều việc làm; nâng cao dân trí và cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân”(3). Tiến trình chủ động, tích cực hội nhập quốc tế đã đóng góp quan trọng vào việc giữ vững môi trường hòa bình, hợp tác, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội; quảng bá sâu rộng hình ảnh đất nước, con người Việt Nam trên trường quốc tế. Thông qua hội nhập quốc tế, chúng ta đã khai thác tối đa các nguồn lực bên ngoài, phát triển kinh tế nhanh và bền vững, tăng cường thế, lực, sức mạnh tổng hợp của quốc gia. Độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững trong bối cảnh tình hình quốc tế và khu vực có những diễn biến phức tạp. Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, chúng ta đã mở rộng và đưa quan hệ của nước ta với các đối tác đi vào chiều sâu, tạo thế cân bằng chiến lược và đan xen lợi ích, nâng cao vị thế, uy tín của đất nước trên trường quốc tế. Tính đến nay, Việt Nam chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao với 189 quốc gia trên thế giới; là nước ASEAN duy nhất có quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện với 5 nước Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc; có quan hệ kinh tế thương mại với trên 230 quốc gia và vùng lãnh thổ; là thành viên tích cực của trên 70 tổ chức quốc tế, khu vực với trên 100 cơ quan đại diện tại các quốc gia và vùng lãnh thổ ở khắp các châu lục; đã ký kết 16 hiệp định thương mại song phương, đa phương, trong đó có các hiệp định tự do thương mại thế hệ mới; hoàn tất ký kết các hiệp định quản lý, bảo vệ biên giới trên bộ với các nước láng giềng. Việt Nam chủ động tham gia và phát huy vai trò tại các cơ chế, diễn đàn, hợp tác song phương, đa phương, nhất là tại Cộng đồng ASEAN và Liên hợp quốc; trở thành thành viên có trách nhiệm và uy tín trong cộng đồng quốc tế; là nhân tố tích cực, chủ động đề xuất các sáng kiến, thúc đẩy các liên kết, tích cực hội nhập sâu rộng vào trật tự kinh tế, chính trị toàn cầu. Việc Việt Nam chính thức trở thành Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021 cho thấy sự tin tưởng, tín nhiệm và đánh giá cao của cộng đồng quốc tế trước những đóng góp tích cực, thực chất, có trách nhiệm của Việt Nam đối với tổ chức Liên hợp quốc nói chung và Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nói riêng trong suốt thời gian qua.

Trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta tiếp tục nhất quán triển khai mạnh mẽ định hướng chiến lược chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. “Bảo đảm hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân và cả hệ thống chính trị, đẩy mạnh hội nhập trên cơ sở phát huy tối đa nội lực, gắn kết chặt chẽ và thúc đẩy quá trình nâng cao sức mạnh tổng hợp, năng lực cạnh tranh của đất nước; hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế; hội nhập là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh, chủ động dự báo, xử lý linh hoạt mọi tình huống, không để rơi vào thế bị động, đối đầu, bất lợi”(4). Ngay trong quá trình này, Đảng ta đã từng bước hoàn thiện chiến lược, lộ trình, bước đi, xác định đồng bộ, hệ thống hóa mục tiêu, quan điểm chỉ đạo, chủ trương chiến lược, giải pháp cụ thể để chủ động, tích cực hội nhập quốc tế.

Trong hội nhập quốc tế, Việt Nam nhất quán nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp công việc nội bộ của nhau; không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực; giải quyết các bất đồng, tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế; kiên định lợi ích quốc gia là giá trị cốt lõi, là mục tiêu cao nhất trong quán triệt, xử lý mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế. Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế luôn được thực hiện đồng bộ trong một chiến lược tổng thể, có lộ trình, bước đi phù hợp với điều kiện thực tế và khả năng của đất nước, theo tinh thần “dĩ bất biến ứng vạn biến”. Giữ vững và thực hiện tốt phương châm đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa, là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Đổi mới tư duy, chuyển mạnh từ “mở rộng quan hệ, gia nhập và tham gia hợp tác quốc tế” sang “chủ động đóng góp, tích cực khởi xướng và tham gia định hình các cơ chế hợp tác”. Tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia và coi đây là yếu tố quyết định thành công của quá trình hội nhập quốc tế, đó là sức mạnh được tạo nên từ sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, của khối đoàn kết toàn dân tộc, của văn hóa, con người Việt Nam, sức mạnh của thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc. Chủ động phát hiện, ngăn chặn từ sớm, từ xa các nguy cơ; kiên định giữ vững độc lập, tự chủ và bản sắc dân tộc. Nhạy bén trong nghiên cứu nắm chắc tình hình, nâng cao năng lực dự báo, phục vụ đắc lực tiến trình hội nhập quốc tế, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc.

Như vậy, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế thể hiện tầm nhìn chiến lược, toàn diện của Đảng ta với nguyên tắc cơ bản và bao trùm là giữ vững độc lập, tự chủ, giữ gìn bản sắc dân tộc theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là vấn đề lý luận, thực tiễn quan trọng cần tiếp tục nghiên cứu làm rõ, thực hiện tốt trên thực tiễn, tạo sự thống nhất cao trong nhận thức, hành động và đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch. Giữ vững độc lập, tự chủ và bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu, vừa giữ vai trò quyết định đến tiến trình hội nhập quốc tế. Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, hiệu quả là phương thức, giải pháp phù hợp nhất để chuyển hóa ngoại lực thành nội lực nhằm phát triển đất nước, góp phần giữ vững độc lập, tự chủ và bản sắc dân tộc. Với những kết quả đạt được và kinh nghiệm trong nắm bắt thời cơ, vượt qua thách thức, chúng ta tin tưởng và khẳng định bằng đường lối chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, đất nước có thêm nguồn lực to lớn phục vụ phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, củng cố niềm tin của nhân dân, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, giữ vững ổn định chính trị, phát triển văn hóa - xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.

------------------------------

(1) Hướng dẫn chi tiết chuyên đề “Hội nhập quốc tế” ban hành kèm theo Hướng dẫn số 42-HD/BTGTW, ngày 1-9-2017, của Ban Tuyên giáo Trung ương
(2) Nghị quyết số 22-NQ/TW, ngày 10-4-2013, của Bộ Chính trị, Về hội nhập quốc tế
(3) Nghị quyết số 06-NQ/TW, ngày 5-11-2016, về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới
(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 154 - 155


“Tự do ngôn luận” hay “ngôn luận tự do” để xuyên tạc, kích động chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân

TS. NGUYễN TRI THứC
Tạp chí Cộng sản
11:20, ngày 29-12-2019

TCCS - Kể từ khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi, chính quyền về tay nhân dân, người dân Việt Nam mới biết đến các quyền cơ bản của mình, trong đó có quyền tự do ngôn luận. Trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, việc bày tỏ tự do ngôn luận càng được chú trọng, bảo đảm hơn. Tuy nhiên, thông tin trên không gian mạng thật - giả, tốt - xấu khó lường, các thế lực thù địch, phản động luôn tìm mọi cách lợi dụng tự do ngôn luận để phát ngôn tùy tiện, vô lối, nhằm lôi kéo, kích động gây bạo loạn lật đổ, với những chiêu bài hết sức tinh vi, thâm độc...

Tự do ngôn luận ở Việt Nam được đề cao, bảo đảm

“Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận và biểu đạt; bao gồm tự do giữ ý kiến mà không bị can thiệp, cũng như tự do tìm kiếm, thu nhận và truyền bá thông tin và tư tưởng bằng bất cứ phương tiện truyền thông nào và không giới hạn về biên giới”(1). Đó là nội dung chính của Điều 19, Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền (Tuyên ngôn thế giới về quyền con người), được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua và công bố theo Nghị quyết 271A (III), ngày 10-12-1948. Hơn 70 năm tồn tại, Tuyên ngôn vẫn còn nguyên giá trị, được đánh giá là bản tuyên ngôn có ý nghĩa nhân văn cao cả, đã, đang và sẽ còn là mục tiêu phấn đấu của toàn thể nhân loại.

Với mỗi quốc gia, dân tộc, việc kế thừa, phát triển, vận dụng, tuân thủ các giá trị của Tuyên ngôn có sự khác nhau nhất định, do chi phối bởi đặc thù về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa,... Nhưng có một điểm chung bắt buộc là, các quyền tự do ấy, phải trong khuôn khổ pháp luật, như chính Điều 29 và 30 của Tuyên ngôn quy định.

Các Mác và Ph. Ăng-ghen, trên quan điểm duy vật biện chứng, bằng sự khảo sát khách quan nhân quyền tư sản với tinh thần phê phán, đã đi đến khẳng định: “Quyền không bao giờ có thể ở mức cao hơn chế độ kinh tế và sự phát triển văn hóa do chế độ kinh tế đó quyết định”(2); tương ứng với những thời đại khác nhau và những cơ sở kinh tế - xã hội khác nhau thì có quyền khác nhau. Theo đó, quan niệm về tự do ngôn luận không bất biến, mà biến đổi trong lịch sử.

Ở Việt Nam, với tầm nhìn vượt thời đại, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sớm định hình tư tưởng về tự do ngôn luận. Trong Lời phát biểu tại Đại hội toàn quốc lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp, năm 1921, Người đã tố cáo thực dân Pháp bóp nghẹt quyền tự do ngôn luận đối với nhân dân An Nam: “Chúng tôi không có quyền tự do báo chí và tự do ngôn luận, ngay cả quyền tự do hội họp và lập hội cũng không có. Chúng tôi không có quyền cư trú và du lịch ra nước ngoài; chúng tôi phải sống trong cảnh ngu dốt tối tăm vì chúng tôi không có quyền tự do học tập. Ở Đông Dương, bọn thực dân tìm mọi cách để đầu độc chúng tôi bằng thuốc phiện và làm cho chúng tôi đần độn bằng rượu. Người ta đã làm chết hàng nghìn người An Nam và tàn sát hàng nghìn người khác để bảo vệ những lợi ích không phải của chính họ”(3). Vì vậy, trong Yêu sách của nhân dân An Nam, Nguyễn Ái Quốc kêu gọi các Chính phủ trong khối Đồng minh nói chung và Chính phủ Pháp nói riêng thừa nhận các quyền cơ bản của nhân dân An Nam, trong đó có quyền tự do ngôn luận: “Trong khi chờ cho nguyên tắc dân tộc sẽ từ lĩnh vực lý tưởng chuyển vào lĩnh vực hiện thực do chỗ quyền tự quyết thiêng liêng của các dân tộc được thừa nhận thật sự, nhân dân nước An Nam trước kia, nay là xứ Đông - Pháp, xin trình với các quý Chính phủ trong Đồng minh nói chung và với Chính phủ Pháp đáng kính nói riêng, những yêu sách khiêm tốn sau đây: ... 3. Tự do báo chí và tự do ngôn luận”(4). Nhất quán yêu sách đó, lãnh tụ Hồ Chí Minh trong Chương trình Việt Minh, chủ trương: “Chính phủ nhân dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà do Quốc dân đại hội cử lên sẽ thi hành những chính sách sau này: ...2. Ban bố các quyền tự do dân chủ cho nhân dân: Tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức, tự do tín ngưỡng, tự do đi lại trong nước, tự do xuất dương. Bỏ chế độ bắt phu và các chế độ áp bức do đế quốc đặt ra”(5).

Hiện thực hóa tư tưởng về tự do ngôn luận, chỉ hơn 1 năm sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, ngày 9-11-1946, Quốc hội đã thông qua Hiến pháp gồm 7 chương, 70 điều, kế thừa những tinh hoa văn hóa dân tộc và tư tưởng hiến chính của nhân loại, phù hợp với thực tiễn đất nước; trong đó, quyền tự do ngôn luận được hiến định ở Điều thứ 10: “Công dân Việt Nam có quyền: Tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức và hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài”. Thực thi Hiến pháp đầu tiên của nước ta nói chung và thực hiện quyền tự do ngôn luận nói riêng, chỉ 3 năm sau, trong bài Trả lời điện phỏng vấn của ông Walter Briggs, tháng 3-1949 đăng trên Báo Cứu quốc, số 1198, ngày 23-3-1949, Hồ Chí Minh đã khẳng định thành tựu quyền tự do ngôn luận rất rõ ràng: “Hỏi: Ở Việt Nam có tự do ngôn luận không (ngoài những ngôn luận phản quốc và thân thực dân Pháp)? Trả lời: Có”. Tiếp tục khẳng định quyền tự do ngôn luận trong Báo cáo về dự thảo Hiến pháp sửa đổi tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đọc ngày 18-12-1959, Người tiếp tục khẳng định, quyền tự do ngôn luận là một trong những quyền cơ bản của công dân...

Nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền tự do ngôn luận là quyền này phải đi đôi với nghĩa vụ và trách nhiệm cá nhân. Tự do ngôn luận, tự do tư tưởng là một giá trị cơ bản, quan trọng bậc nhất của quyền con người. Người giải thích: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do. Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Đó là một quyền lợi mà cũng là một nghĩa vụ của mọi người. Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền tự do phục tùng chân lý. Chân lý là cái gì có lợi cho Tổ quốc, cho nhân dân. Cái gì trái với lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân tức là không phải chân lý. Ra sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân - tức là phục tùng chân lý”(6).

Quán triệt và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền tự do ngôn luận, trong thời kỳ đổi mới, phù hợp với các Hiến pháp năm 1992 và năm 2013, các văn kiện của Đảng, Nhà nước(7) đều khẳng định và hiện thực hóa quyền tự do ngôn luận của công dân.

Có thể hiểu rằng, tự do ngôn luận là tự do phát biểu ý kiến của mình bàn bạc một công việc chung; là quyền của công dân được tham gia bàn bạc, thảo luận, đóng góp ý kiến vào những vấn đề chung của xã hội.

Thực tế, Việt Nam luôn phải đối mặt với các phần tử và thế lực thù địch cả ở trong và ngoài nước, trên nhiều lĩnh vực, mặt trận khác nhau, trong đó có mặt trận tư tưởng, thông tin. Các thế lực phản động, thù địch luôn tìm mọi cách để xuyên tạc, bịa đặt, bóp méo, vu khống các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta trên mọi lĩnh vực, phủ nhận các thành tựu đã đạt được, kể cả những thành tựu được bạn bè quốc tế ghi nhận, đánh giá cao.

Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, để phù hợp với thực tiễn, trong bối cảnh “thế giới phẳng”, toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, Việt Nam đã điều chỉnh, bổ sung, xây dựng nhiều đạo luật mới, đề cao, tôn trọng các quyền cơ bản, chính đáng của con người, trong đó có quyền tự do ngôn luận. Điều 25 Hiến pháp năm 2013 quy định rõ: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Hay như trong các luật được ban hành thời gian gần đây, như Luật Tiếp cận thông tin (năm 2013); Luật Báo chí (năm 2016); Luật An ninh mạng (năm 2018)..., quyền tự do ngôn luận luôn được tôn trọng và bảo đảm. Kể từ khi hòa mạng in-tơ-nét toàn cầu ngày 1-12-1997, Việt Nam liên tục thiết lập những kỷ lục mới, bảo đảm quyền tự do ngôn luận, báo chí, đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu tìm kiếm, trao đổi, thụ hưởng thông tin mọi lúc, mọi nơi, mọi mặt,... của người dân cả trên các phương tiện truyền thông đại chúng, cũng như truyền thông xã hội. Người dân Việt Nam có thể dễ dàng truy cập vào tất cả các trang web, báo chí trên thế giới; có thể bày tỏ mọi suy nghĩ, trăn trở, mong muốn chính đáng, hợp pháp, bảo đảm thuần phong mỹ tục, giá trị nhân văn, đạo đức,... của mình trên mạng xã hội hằng giờ, hằng ngày, thông qua việc viết bài, đăng ảnh, video clip. Mỗi người dân Việt Nam cũng đều có thể tiếp cận tin tức của các cơ quan thông tấn, báo chí lớn trên thế giới hay các trang cá nhân của mọi “công dân toàn cầu” mà không gặp phải bất cứ sự hạn chế, ngăn chặn, cấm đoán nào...


Tuy nhiên, in-tơ-nét cũng bị các thế lực thù địch, cơ hội chính trị lợi dụng chống phá, tạo những “trận địa giả”, những mũi tấn công đầy mưu đồ đen tối trên mặt trận tư tưởng, dưới chiêu bài “tự do ngôn luận”. Nhưng thực ra, đó không phải là một thứ “tự do ngôn luận” theo đúng ý nghĩa của từ này, không vì sự phát triển của xã hội mà là những lời lẽ, dòng chữ, hình ảnh, video clip chụp mũ, thêu dệt, xuyên tạc, áp đặt, chống phá đầy hằn học, hận thù, đen tối. Đó thực sự là thứ “ngôn luận tự do” bịa tạc, phóng tác, bôi nhọ, tô vẽ,... rẻ rúng, không có căn cứ, bất chấp luân thường, đạo lý và luật pháp.

Đấu tranh phản bác luận điệu sai trái, thù địch núp dưới những chiêu bài hết sức tinh vi, thâm độc trên không gian mạng của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị_Ảnh: minh họa


Không thể chấp nhận những thứ “ngôn luận tự do” bất chấp cả luật pháp và đạo lý... trong xã hội văn minh

Có thể nhận diện, thống kê rất dễ dàng rằng, các phần tử thù địch, cơ hội chính trị luôn tìm mọi cách để tạo dựng những thứ gọi là “tự do ngôn luận” theo cách hiểu ấu trĩ, hạn hẹp, đầy hằn học với mưu đồ xấu xa. Chúng dã tâm, chủ đích lựa chọn, lợi dụng những vấn đề nhiều người dân quan tâm, dễ gây bức xúc, dễ lan truyền rộng rãi trong xã hội để tạo dựng những kịch bản đen tối, chống phá bằng các bài viết, hình ảnh, video clip,... liên quan đến các vụ khiếu kiện đất đai, ô nhiễm môi trường, phản đối trạm thu phí BOT (xây dựng - vận hành - chuyển giao) giao thông, tụ tập đông người núp dưới cái gọi là “hành động yêu nước”,... nhằm gây rối an ninh, trật tự, “bất tuân dân sự”, phá hoại các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước ta; kích động, kêu gọi bạo động, lật đổ...

Lấy ví dụ cụ thể từ các vụ tụ tập phản đối tại các trạm thu phí BOT giao thông trong quý I-2019 tại nhiều địa phương trên cả nước. Trong các vụ này, rất nhiều người, trong đó có những người cầm đầu, cố tình liên tục “tường thuật trực tiếp”, thông qua tính năng livestream của mạng xã hội Facebook và xuyên tạc, nói xấu về hình thức đầu tư BOT, thậm chí cả về những quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước... Điều này gây ra sự phản ứng lan truyền mạnh mẽ trên cộng đồng mạng, khiến nhiều trạm thu phí BOT phải “xả trạm” trong nhiều giờ để bảo đảm giao thông được thông suốt, an ninh, trật tự xã hội không bị rối loạn. Hùa vào góp sức, một số báo mạng nước ngoài, những phần tử chống đối ở hải ngoại, cũng như trong nước dưới vỏ bọc mỹ miều là “chống BOT bẩn” liên tục đăng tải những thông tin xuyên tạc, lệch lạc, sai trái,... nhằm mục đích phá hoại. Khi những đối tượng vi phạm pháp luật bị bắt tạm giam, một số báo mạng điện tử nước ngoài thiếu thiện chí, nhất là những báo có phiên bản tiếng Việt và nhiều trang cá nhân trên mạng xã hội Facebook, YouTube,... đã chớp lấy để bình luận đầy hằn học, ác ý, cố tình hướng lái, lật ngược bản chất vấn đề, vu khống, kích động cộng đồng mạng phá hoại, gây mất an ninh trật tự, an toàn xã hội, cản trở giao thông cũng như sự phát triển kinh tế - xã hội, đời sống của người dân...

Nhìn rộng hơn, thử điểm lại một số vụ tụ tập đông người kích động, chống đối ở Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Bình Thuận, Nghệ An, Hà Tĩnh,... trong những năm gần đây, nhất là liên quan đến sự cố môi trường biển ở bốn tỉnh miền Trung để kêu gọi tụ tập đông người, biểu tình, gây mất an ninh, trật tự, chống đối, phá hoại,... thì thấy càng rõ bộ mặt của tổ chức phản động Việt Tân và những mưu đồ đen tối của chúng. Chúng tuyển mộ, đào tạo, lợi dụng những người thiếu hiểu biết, cả tin, bất mãn, có những khúc mắc trong cuộc sống,... để làm thuê cho chúng, thông qua các việc, như tuyên truyền, lôi kéo, kích động các vụ tụ tập đông người và giăng khẩu hiệu phản đối, dùng loa các loại để gào thét vô lối, gây rối, đập phá trụ sở các cơ quan công quyền, nhà máy,... làm mất an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Tại các vụ, việc, nhiều phần tử cực đoan, chống đối, vi phạm pháp luật đã bị bắt để giáo dục, nhiều trường hợp bị khởi tố và tạm giam, bị kết án nghiêm minh, thích đáng...

Nhân dịp này, những phần tử chống đối, phá hoại, các thế lực thù địch, vu khống, bịa đặt trắng trợn, rằng “Việt Nam đàn áp tự do ngôn luận”, “Bắt người nói xấu Đảng và tự do ngôn luận”, “Dân oan bị khước từ quyền tự do ngôn luận”, “Chuyện gì đang xảy ra với tự do ngôn luận ở Việt Nam”, “Việt Nam vẫn là quốc gia toàn trị, không có tự do ngôn luận”... Rõ ràng, chỉ thoạt nhìn vào tiêu đề các bài viết đó cũng thấy rõ sự bóp méo, xuyên tạc về quyền tự do ngôn luận tại Việt Nam - một quyền mà ngay sau Cách mạng Tháng Tám thành công đã được chế định trong Hiến pháp năm 1946 và được pháp luật cụ thể hóa kịp thời, phù hợp với tình hình phát triển của đất nước ta qua các thời kỳ, bắt nhịp với các bước tiến mang giá trị phổ quát của luật pháp quốc tế, đáp ứng yêu cầu chính đáng của đông đảo nhân dân...

Để bảo đảm tự do cho người này mà không phương hại đến tự do người khác, tất yếu phải có quy định của pháp luật. Quốc hội đã thông qua Luật An ninh mạng, bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1-1-2019, nhưng các thế lực thù địch lại rêu rao rằng Luật này “chống lại loài người”, “triệt tiêu dân chủ”, “đàn áp bất đồng chính kiến”, “mất quyền tự do ngôn luận”. Chúng cố tình không hiểu rằng “tự do được thừa nhận về mặt pháp lý tồn tại trong nhà nước dưới hình thức luật pháp. Luật pháp không phải là những biện pháp đàn áp chống lại tự do... Ngược lại, luật pháp là những tiêu chuẩn khẳng định rõ ràng, phổ biến, trong đó tự do có một số sự tồn tại vô ngã, có tính chất lý luận, không phụ thuộc vào sự tùy tiện của cá nhân riêng lẻ. Bộ luật là kinh thánh của tự do của nhân dân”(8).

Quốc hội đã thông qua Luật An ninh mạng, có hiệu lực từ ngày 1-1-2019 _Ảnh minh họa

Ngày 3-4-2019, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc ký Quyết định số 362/QĐ-TTg, Phê duyệt Quy hoạch phát triển và quản lý báo chí toàn quốc đến năm 2025. Đây là quyết định đã được chuẩn bị từ lâu, kỹ lưỡng, phù hợp với sự phát triển trong tình hình hiện nay. Quy hoạch báo chí là hết sức cần thiết, khi không ít cơ quan báo chí có những biểu hiện lệch lạc, xa rời tôn chỉ, mục đích, thương mại hóa, thông tin phiến diện, chỉ chú trọng những mặt trái, tiêu cực,... trong xã hội, thiếu tính giáo dục, thậm chí phản tác dụng, lan truyền những điều xấu. Việc tiến hành quy hoạch, sắp xếp lại hệ thống báo chí tại Việt Nam là để báo chí hoạt động chuyên nghiệp, lớn mạnh hơn, bắt kịp sự phát triển của báo chí thế giới... Thế nhưng, ngay lập tức, lại xuất hiện trên mạng xã hội, đặc biệt là các phiên bản tiếng Việt của một số cơ quan báo chí nước ngoài những thông tin hết sức quy chụp, thiếu căn cứ... Họ ra sức bịa đặt, vu khống rằng: “Quy hoạch báo chí đến năm 2025: Giảm số lượng, vẫn kiểm soát chặt” (RFA, ngày 3-4-2019), “Quy hoạch báo chí ‘theo kiểu coi báo chí là công cụ’?” (BBC, ngày 9-4-2019), “Quy hoạch báo chí “vi hiến”, sẽ “làm thất nghiệp” hàng nghìn nhà báo?” (VOA, ngày 9-4-2019)... Tương tự, các trang mạng xã hội của các cá nhân, tổ chức chống đối, gây rối, phản động, cũng hùa theo rằng, “Việt Nam không có nền báo chí độc lập”, “Quy hoạch báo chí gây tranh cãi”, “Quy hoạch báo chí - phóng viên mất việc, độc giả mất lựa chọn?”...

Thành tựu được thừa nhận và đường cùng của thứ gọi là “ngôn luận tự do”

Để phản bác, khẳng định những thứ “ngôn luận tự do” vô lối mà các phần tử, thế lực thù địch, phản động bóp méo, thổi phồng, lan truyền rộng rãi trên không gian mạng, không gì thuyết phục hơn là nêu ra những kết quả, thành tựu mà Việt Nam đã đạt được, được bàn bè quốc tế ghi nhận, đánh giá cao.

Việt Nam đã từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật, về cơ bản đáp ứng được yêu cầu đặt ra cho việc thúc đẩy, bảo vệ và phát triển quyền con người, quyền công dân, trong đó có quyền tự do ngôn luận. Vì lẽ đó, Việt Nam được bầu làm Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2008 - 2009), thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2014 - 2016), thành viên Hội đồng Kinh tế - Xã hội Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2016  - 2018), thành viên Hội đồng Chấp hành Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2015 - 2019). Theo kết quả bầu chọn tại khóa họp thứ 73 Đại hội đồng Liên hợp quốc công bố ngày 7-6-2019, Việt Nam nhận được 192/193 phiếu ủng hộ, vượt xa mốc tối thiểu 129/193, chính thức trúng cử vào ghế Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020  - 2021. Đó là những bằng chứng thuyết phục nhất khẳng định ở Việt Nam có tự do ngôn luận, phản bác những kẻ rắp tâm phá hoại đất nước bằng thứ “ngôn luận tự do” đầy hằn học, xấu xa, thiếu căn cứ...

Trong khi tình hình thế giới biến động phức tạp, khó lường về nhiều mặt thì sự phát triển kinh tế - xã hội, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của Việt Nam vẫn luôn đạt mức tăng trưởng tốp đầu so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Đặc biệt, trong 9 tháng đầu năm 2019, GDP tăng 6,98% - mức tăng cao nhất trong vòng 9 năm qua. Lạm phát tiếp tục được kiểm soát ở mức thấp, bình quân 9 tháng tăng 2,5% - mức tăng thấp nhất trong 3 năm qua. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng 10,3%, đặc biệt khu vực ngoài nhà nước chiếm tỷ trọng 45,3%, tăng 16,9%. Vốn FDI thực hiện cao nhất trong nhiều năm trở lại đây, ước đạt 14,2 tỷ USD, tăng 7,3%. Thu ngân sách nhà nước tăng cao (10,1%), bội chi còn 3,4% GDP, nợ công còn dưới 57% GDP... Đó là những số liệu minh chứng một cách thuyết phục về sự phát triển kinh tế  - xã hội của Việt Nam, cũng như môi trường đầu tư thuận lợi, an toàn, hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là sự xuất hiện ngày càng nhiều các tập đoàn kinh tế lớn trên thế giới...

Lâu nay, câu nói “một nửa cái bánh mì vẫn là bánh mì, nhưng một nửa sự thật thì không phải là sự thật” đã rất quen thuộc, được thừa nhận rộng rãi trên thế giới. Điều này không có gì phải bàn cãi. Và với báo chí - truyền thông, một trong những nguyên tắc quan trọng hàng đầu trong hoạt động của mình là phản ánh sự thật khách quan, tôn trọng sự thật một cách tuyệt đối, toàn vẹn. Chính vì thế, việc những đối tượng, tổ chức phản động lợi dụng, nhân danh “một nửa sự thật” kiểu cắt xén để tô vẽ, thêm thắt, đắp bồi,... theo sự tưởng tượng, kịch bản mà chúng sắp đặt sẵn, cố tình tạo ra thì rõ ràng đó là sự dối trá, bịp bợm, cố tình xuyên tạc nhằm mục đích chống phá xấu xa.

Trên tinh thần xây dựng đất nước, rõ ràng, mỗi người Việt Nam đều có quyền bày tỏ lòng yêu nước của mình, góp ý, phản biện những chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước... Thế nhưng, việc phát ngôn tự do, vô lối, xuyên tạc, kích động gây rối, đập phá tài sản, vi phạm pháp luật là những hành động đáng lên án, cần phải ngăn chặn kịp thời, xử lý nghiêm minh. Bởi con người biết tuân theo pháp luật mới là con người nhận thức được đầy đủ về tự do. Kiểm soát được hành vi của mình một cách có ý thức thì con người mới thật sự có tự do. Tự do là quyền của con người nhưng đó không phải là tự do vô lối, tùy tiện, vô chính phủ, mà nó chỉ được bảo đảm khi con người nhận thức đúng đắn quy luật khách quan và hành động phù hợp pháp luật - giao kèo, thỏa ước về tự do của tập thể, của cộng đồng, của xã hội.

Phải thừa nhận rằng, ở bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới cũng luôn tồn tại những hạn chế, yếu kém nhất định, bên cạnh sự tiến bộ, phát triển, do chế định của điều kiện cụ thể. Vấn đề là mỗi quốc gia sẽ có sự nhìn nhận, khắc phục những mặt hạn chế đó một cách kịp thời, thấu đáo, toàn diện, quyết liệt,... để luôn tạo ra môi trường tốt đẹp cho sự phát triển, tiến bộ, vững bền, tránh bị xuyên tạc, bóp méo, lợi dụng nhằm công kích, phá hoại... Tại Việt Nam, qua những sự việc gần đây có thể thấy rằng, người dân cũng cần phải được vận động, tuyên truyền nâng cao nhận thức về tự do một cách đúng đắn, xác định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ công dân, biết phân biệt đúng - sai, tốt - xấu, xây dựng - phá hoại,... để từ đó tự trang bị, bảo vệ mình trước những kẻ lợi dụng lòng yêu nước, lợi dụng bức xúc của nhân dân để kích động chống phá. Phải làm cho người dân thấy rõ rằng, tự do không có nghĩa là tùy tiện, vô lối, muốn làm gì thì làm. Tự do ngôn luận đích thực phản ánh năng lực nhận thức và khả năng tự chủ bản thân cả về mặt phát ngôn và hành động. Suy cho cùng, hành động đúng đắn mới là thước đo chính xác về giá trị đích thực của tự do ngôn luận. Không thể nói “tự do nguôn luận” mà hành động lại phá hoại tự do của người khác, tự do xã hội. Tự do chỉ mở rộng cùng nhịp bước với nâng cao hiểu biết của con người về các quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy của con người, phải vận động cùng chiều với quyền và lợi ích chính đáng của quốc gia - dân tộc, để từ đó làm chủ chính mình và hành động tự do. Tự do được hình thành, tồn tại trong mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội, cá nhân và Nhà nước. Lòng yêu nước cần phải được thể hiện với thái độ đúng mực, bình tĩnh, kiềm chế, được kiểm soát,... để không tái diễn những hành vi quá khích, đập phá, hủy hoại tài sản của Nhà nước, tổ chức, doanh nghiệp trong và ngoài nước, đi ngược lại những chủ trương, chính sách đúng đắn trong phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước ta.

Một số giải pháp trước mắt...

Trước những diễn biến mới trên mặt trận tư tưởng, ngày 22-10-2018, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 35-NQ/TW về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới. Tiếp đó, ngày 25-3-2019, Ban Bí thư ban hành Kế hoạch số 14-KH/TW thực hiện Nghị quyết số 35. Theo Kế hoạch số 14, việc tổ chức thực hiện Nghị quyết số 35 cần gắn với việc tiếp tục quán triệt, tổ chức thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, kết luận, quy định của Đảng có liên quan. Riêng vấn đề chống lại việc lợi dụng “tự do ngôn luận” để tùy ý “ngôn luận tự do” nhằm lôi kéo, kích động, gây bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, phản động, chúng tôi xin đề xuất một số giải pháp cơ bản như sau:

Thứ nhất, sớm kiện toàn việc xây dựng lực lượng chuyên trách theo hướng tinh gọn, đủ mạnh theo tinh thần Nghị quyết số 35-NQ/TW. Đồng thời, phát huy cao nhất trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp, trước hết là của người đứng đầu trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch... Lực lượng chuyên trách là những người chủ lực, tiên phong trong việc thực hiện nhất quán, đồng bộ, hiệu quả các mục tiêu, quan điểm cũng như các nhiệm vụ, giải pháp đã được nêu rõ trong Nghị quyết số 35-NQ/TW, với kế hoạch trước mắt, lâu dài, cùng lộ trình ngắn hạn, trung hạn, dài hạn và những trường hợp đột xuất phù hợp với tình hình thực tiễn một cách linh động, khoa học, sát hợp.

Việc hình thành lực lượng chuyên trách, tinh nhuệ trên mọi lĩnh vực, để có thể kịp thời phát hiện, bóc trần những âm mưu, thủ đoạn mà thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị cố tình gây ra và đấu tranh chống lại những âm mưu đen tối bằng nhiều phương thức khác nhau, trên cả các phương tiện truyền thông đại chúng, cũng như trên không gian mạng, giúp đông đảo người dân hiểu rõ bản chất của thông tin, miễn nhiễm với thứ “ngôn luận tự do” vô lối, trái pháp luật và nhận ra, hiểu rõ dã tâm của những phần tử quá khích, kích động, chống phá...

Thứ hai, các cơ quan, đơn vị được giao nhiệm vụ có trách nhiệm tăng cường công tác tuyên truyền nội dung của Nghị quyết số 35-NQ/TW, Kế hoạch số 14-KH/TW một cách thường xuyên, sáng tạo, khoa học, dễ nhớ, dễ hiểu, tránh khô cứng, sáo mòn, giáo điều, khó đi vào cuộc sống. Cần tuyên truyền sâu rộng, thiết thực 4 nhiệm vụ thường xuyên tại Kế hoạch số 14-KH/TW đã được xác định rõ, đó là: Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, tăng cường thông tin tích cực; đẩy mạnh công tác nghiên cứu, hoàn thiện hệ thống lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong tình hình mới; đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác phổ biến, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức lý luận chính trị; tăng cường quản lý, giáo dục cán bộ, đảng viên, xử lý nghiêm minh những trường hợp vi phạm... Đồng thời, các cấp, các ngành chức năng cần kịp thời cung cấp thông tin chính xác, khách quan để đấu tranh phản bác, định hướng dư luận trước những thông tin trái với chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, giúp cấp ủy cơ sở có sự định hướng kịp thời...

Thứ ba, tiếp tục hoàn thiện thể chế chính sách, đặc biệt là về hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế, công bằng xã hội,... để tạo gốc rễ, nền tảng vững chắc góp phần đẩy mạnh công cuộc phát triển đất nước. Có như thế, mới không tạo ra những “kẽ hở”, những “khoảng trống” cho việc hình thành, phát sinh, tồn tại “nhóm lợi ích”, những quan tham, tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực trong xã hội... Bên cạnh đó, cần phát huy những kết quả tích cực đã đạt được trong phát triển kinh tế  - xã hội những năm qua, để tạo đà cho những sự bứt phá tiếp theo, với kỳ vọng sẽ đạt được những thành tựu nổi bật hơn nữa trong thúc đẩy đà tăng trưởng, nâng cao đời sống, bảo đảm an sinh xã hội cho người dân, rút ngắn khoảng cách phát triển giữa các vùng, miền trong cả nước...

 Thứ tư, đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực từ Trung ương đến địa phương, tránh tình trạng “trên nóng, dưới lạnh”. Có thể khẳng định rằng, việc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong thời gian qua đã đạt được nhiều kết quả tích cực, lấy lại niềm tin của đông đảo quần chúng nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước. Rõ ràng, đây là vấn đề hệ trọng, là mối quan tâm lớn của toàn Đảng, toàn dân nên không thể nóng vội, mắc sai lầm. Nhưng cũng vì thế mà không thể “chùng xuống”, không thể thiếu quyết liệt trong chỉ đạo, thực hiện, nhất là việc đẩy nhanh tiến độ xác minh, điều tra, xử lý các vụ, việc, vụ án tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp, được nhân dân quan tâm.

Thứ năm, xây dựng, thiết lập hệ thống các giải pháp tuyên truyền đồng bộ, sát hợp, hiệu quả trên các phương tiện thông tin đại chúng, trên không gian mạng, góp phần nhận diện, chủ động đấu tranh sớm, kịp thời, hiệu quả trước mọi thủ đoạn tấn công, phá hoại của các thế lực thù địch. Các cơ quan báo chí cần tổ chức thông tin cân bằng hơn, tăng cường thông tin về các mặt tích cực, tốt đẹp trong xã hội, tránh tình trạng mất cân bằng thông tin, khiến các thế lực thù địch, phản động dựa vào đó và nhân danh “tự do ngôn luận” để xuyên tạc, vu khống đất nước bằng những gam màu xám... Các cơ quan báo chí cần tăng cường thời lượng cho các chuyên mục đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, tránh chỉ dồn việc cho vài cơ quan báo chí vốn lâu nay chuyên đảm trách vấn đề này... Đồng thời, cần thiết phải hình thành, duy trì hoạt động hiệu quả các trang thông tin trên mạng xã hội, nhất là trên mạng xã hội Facebook được tổ chức khoa học, bài bản, với đội ngũ phụ trách chuyên nghiệp nhằm kịp thời, chủ động nhận diện, đấu tranh bài bản, khoa học, xác đáng, thuyết phục, hiệu quả trước các âm mưu, thủ đoạn, hành động chống phá của các thế lực thù địch, phản động...

Thứ sáu, cần kịp thời phát hiện, nhận diện để đấu tranh, nghiêm trị những phần tử phá hoại núp dưới danh nghĩa “yêu nước”, “nhân quyền”, “đòi công lý cho nhân dân” để kích động, tạo lập các mầm mống gây bạo loạn, lật đổ,... trên tất cả các phương diện, hình thức khác nhau. Phải khu biệt, cô lập, xác định đúng đối tượng phản động, phá hoại, kích động, chủ mưu trong từng vụ, việc, cũng như đã cố tình vi phạm cả thời gian dài, có hệ thống để đưa ra xét xử nghiêm minh trước pháp luật...

Có như thế, việc “tự do ngôn luận” ở Việt Nam mới không bị lợi dụng, xuyên tạc, bóp méo, tùy ý chuyển tải thứ “ngôn luận tự do” vô lối nhằm lôi kéo, kích động gây mất an ninh trật tự, phá hoại đất nước, kêu gọi bạo loạn lật đổ... Rồi dần dần, bằng sức đề kháng mạnh mẽ của mọi tầng lớp nhân dân, thứ “ngôn luận tự do” rẻ tiền, hằn học, chống đối đó mới không còn khả năng tồn tại và bị triệt tiêu, trả lại môi trường lành mạnh cho tự do ngôn luận chân chính, vì sự phát triển bền vững của đất nước.

------------------------------

(1) Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền, 1948, Nxb. Lao động - Xã hội, Hà Nội, 2011, tr. 410
(2) C.  Mác và Ph.  Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t. 19, tr. 36
(3), (4) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t. 1, tr. 34 - 35, 468
(5) Hồ Chí Minh, Toàn tập, sđd, t. 3, tr. 629
(6) Hồ Chí Minh, Toàn tập, sđd, t. 10, tr. 378
(7) Như: “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” năm 1991, “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (bổ sung, phát triển năm 2011), và trực tiếp là Chỉ thị số 12-CT/TW, ngày 12-7-1992, của Ban Bí thư, Chỉ thị số 41/2004/CT-TTg, ngày 2-12-2004, của Thủ tướng Chính phủ, Chỉ thị số 44-CT/TW, ngày 20-7-2010, của Ban Bí thư; “Đề án đưa nội dung quyền con người vào chương trình giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân” theo Quyết định số 1309/QĐ-TTg, ngày 5-9-2017 và “Đề án nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền về quyền con người” theo Quyết định số 16/QĐ-TTg, ngày 2-3-2018; đặc biệt là Kết luận của Ban Bí thư khóa XII về tiếp tục thực hiện hiệu quả Chỉ thị số 44-CT/TW...
(8) C. Mác, Ph. Ăng ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 1, tr. 95


Khoác áo “chủ nghĩa khách quan” trong nghiên cứu khoa học - Mối nguy hại cần bóc trần và loại bỏ

HOÀNG CHÍ BẢO
GS, TS, chuyên gia cao cấp, nguyên Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương
15:43, ngày 24-10-2019

TCCS - Chủ nghĩa khách quan theo nghĩa đúng đắn, thực chất của khái niệm này chính là thái độ, quan điểm tôn trọng sự thật khách quan, luôn xuất phát từ hiện thực khách quan, tức là thực tiễn để nghiên cứu. Tôn trọng “cái khách quan”, hiện thực khách quan đòi hỏi phải nhận thức hiện thực khách quan đúng với bản chất của nó. Khoác áo “chủ nghĩa khách quan” trong nghiên cứu khoa học, nhất là trong nghiên cứu lý luận chính trị rất nguy hại, bởi hệ quả mà nó gây ra tác động tiêu cực trực tiếp tới nhận thức, niềm tin và hành động của giới nghiên cứu khoa học. Và yêu cầu nghiêm túc đặt ra với người nghiên cứu là phải tôn trọng sự thật khách quan, bảo vệ chân lý khách quan và tỏ rõ lập trường, quan điểm nhất quán trong nghiên cứu, trung thực về đạo đức, trung thành với chân lý.

Yêu cầu tối quan trọng đặt ra với người nghiên cứu là phải tôn trọng sự thật khách quan, bảo vệ chân lý và tỏ rõ lập trường, quan điểm nhất quán, trung thực về đạo đức _Nguồn: khoahocphattrien.vn

V. I.  Lê-nin coi quan điểm thực tiễn, quan điểm đời sống là quan điểm cơ bản, số một, hàng đầu của lý luận nhận thức. Tôn trọng “cái khách quan”, hiện thực khách quan đòi hỏi phải nhận thức hiện thực khách quan đúng với bản chất của nó. Chủ nghĩa khách quan chân chính xa lạ với “chủ nghĩa tự nhiên” vốn coi mọi biểu hiện, thậm chí một biểu hiện đơn lẻ, nhất thời, tạm thời, bộ phận, cục bộ nào đó của sự vật, hiện tượng đều là bản chất của sự vật, hiện tượng đó. Chủ nghĩa tự nhiên đã tầm thường hóa khoa học và nghiên cứu khoa học. Trên phương diện nhận thức, những người theo chủ nghĩa tự nhiên đã xa rời lập trường khách quan khoa học. Họ không nhìn nhận sự vật, hiện tượng trong tính hệ thống, trong quá trình vận động và phát triển của nó, mà chỉ trong tính hệ thống - chỉnh thể, trong quá trình, tiến trình của các sự kiện thì bản chất của sự vật, hiện tượng mới bộc lộ ra. Không nhận thấy tính biện chứng đó, nên chủ nghĩa tự nhiên là siêu hình trong tư duy và phương pháp tư duy. Trên quan điểm nghiên cứu, trước hết là quan điểm tư tưởng, chủ nghĩa tự nhiên chẳng những xa rời quan điểm khách quan khoa học với yêu cầu nghiêm ngặt của tư duy biện chứng, phép biện chứng duy vật mà còn đối lập với chủ nghĩa khách quan, biểu hiện trong hình thái “chủ nghĩa chủ quan” với giáo điều và tư biện mà C. Mác đã từng phê phán. Chủ nghĩa chủ quan còn gắn liền với những biểu hiện duy ý chí và tất yếu không tránh khỏi việc xa rời quan điểm duy vật biện chứng, rơi vào chủ nghĩa duy tâm chủ quan. Những người bị chi phối bởi quan điểm này trong nghiên cứu khoa học sẽ không tránh khỏi sai lầm từ những giả thuyết khoa học, những nhận định, đánh giá, đến những kết luận mà họ đưa ra với những thiên kiến và cực đoan, chẳng những không phản ánh chân thực hiện thực khách quan mà còn làm sai lạc nó, thậm chí xuyên tạc nó. Chủ nghĩa chủ quan là nguyên nhân dẫn đến sai lầm trong nghiên cứu khoa học đối với nhà nghiên cứu, cần phải khắc phục, vượt qua trong mọi lĩnh vực khoa học, đặc biệt trong nghiên cứu khoa học xã hội - nhân văn và lý luận. Tác hại của chủ nghĩa chủ quan gây ra không chỉ trong địa hạt nhận thức mà còn trong đời sống thực tiễn. Nó không định hướng và thúc đẩy phát triển mà trái lại còn có thể dẫn tới kìm hãm sự phát triển, thậm chí phản phát triển, kéo dài sự trì trệ, lạc hậu - một vật cản, một điểm nghẽn của phát triển. Ngay ở thời kỳ mở đầu công cuộc đổi mới, Đảng ta đã kịp nhận ra tình trạng lạc hậu của lý luận, sự chậm trễ của khoa học xã hội - nhân văn không theo kịp đà phát triển của thực tiễn, thậm chí đi sau cuộc sống đang biến đổi mau lẹ(1). Nghị quyết số 01-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa VII về công tác lý luận của Đảng trong giai đoạn hiện nay ra đời từ năm 1992, cách đây gần ba thập niên, cho đến nay vẫn còn nguyên tính thời sự.

Việc phê phán chủ nghĩa chủ quan duy ý chí, bệnh giáo điều, chủ nghĩa kinh nghiệm đã tạo xung lực cho đổi mới tư duy và thúc đẩy đổi mới xã hội, từ đổi mới kinh tế đến đổi mới chính trị và hệ thống chính trị ngay trong những bước đi đầu tiên của đổi mới ở nước ta. Đó là một nỗ lực đột phá, mở đường cho nghiên cứu lý luận, nghiên cứu khoa học xã hội - nhân văn được phát triển trên quan điểm khách quan khoa học, tôn trọng quy luật khách quan, chủ nghĩa khách quan đích thực, với phương châm nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật. Đây không chỉ là thái độ nghiêm túc trong khoa học mà còn là thái độ trung thực trong chính trị, dũng cảm tự phê phán và phê phán của Đảng ta để thúc đẩy đổi mới trong xã hội. Cách đây hơn bảy thập niên, từ năm 1947, với bút danh X.Y.Z, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết tác phẩm nổi tiếng “Sửa đổi lối làm việc”, đặt nền móng tư tưởng lý luận cho đổi mới trong điều kiện Đảng đã cầm quyền. Mở đầu tác phẩm, Người đặt vấn đề “phê bình và sửa chữa”. Người nêu ra ba căn bệnh nguy hiểm mà trước hết là bệnh chủ quan(2). Đây là bệnh về nhận thức, do yếu kém lý luận lại mắc thói coi khinh lý luận của không ít cán bộ, đảng viên mà sinh ra. Người nhấn mạnh, phải ra sức học tập, nâng cao trình độ lý luận và phương pháp tư duy, phương pháp tư tưởng, phương pháp công tác thì mới sửa chữa được căn bệnh này. Người còn nghiêm khắc chỉ trích bệnh hẹp hòi. Bệnh này thuộc về quan hệ, về dùng người, về cán bộ và chính sách cán bộ. Bệnh này rất nguy hiểm vì nó ngăn trở đoàn kết trong Đảng, trong quan hệ giữa Đảng với nhân dân(3). Bệnh thứ ba là thói ba hoa, thuộc về cách nói và cách viết.

Nếu chủ quan, chủ nghĩa chủ quan duy ý chí thuộc về nhận thức do những yếu kém, hạn chế về trình độ lý luận, tách rời lý luận với thực tiễn, xa rời quan điểm khách quan khoa học mà sinh ra thì khoác áo “chủ nghĩa khách quan” trong nghiên cứu khoa học lại không chỉ là vấn đề nhận thức mà còn phức tạp và nguy hại hơn, bởi đây là một khuynh hướng tư tưởng, thể hiện thái độ, quan điểm nhân danh khách quan khoa học để truyền bá những tư tưởng xa lạ với khoa học vào trong nhận thức của quần chúng, xuyên tạc sự thật và chân lý, lung lạc niềm tin của quần chúng, làm suy yếu nền tảng tư tưởng của Đảng và ý thức hệ xã hội nói chung, không phải vô tình mà có dụng ý về chính trị, dẫn tới nguy cơ mất phương hướng chính trị trong hoạt động lãnh đạo và cầm quyền của Đảng.

Thực tế cho thấy, khoác áo “chủ nghĩa khách quan” trong nghiên cứu khoa học, nhất là trong nghiên cứu lý luận chính trị là nguy hại nhất, bởi hệ quả mà nó gây ra tác động tiêu cực trực tiếp tới nhận thức, niềm tin và hành động của đa số quần chúng, trong đó có cả giới trí thức và thế hệ trẻ, thậm chí thâm nhập vào đời sống chính trị trong Đảng, trong cán bộ, đảng viên.

Từ thực tế đó, việc nhận diện và phê phán những biểu hiện khoác áo “chủ nghĩa khách quan” trong nghiên cứu khoa học cần phải được chú trọng đặc biệt vào lĩnh vực nghiên cứu lý luận chính trị, trong công tác tư tưởng, lý luận của Đảng, trong giới lý luận.

Nhận diện, phê phán để vạch rõ những sai trái, xuyên tạc sự thật lịch sử, những quan điểm lệch lạc, gieo rắc sự hoài nghi, tâm lý hoài nghi trong quần chúng đối với lý tưởng, mục tiêu và con đường mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn. Phê phán để đấu tranh chống lại sự truyền bá những thông tin giả dối (thông tin xấu, độc) với động cơ, mục đích xấu, nhân danh sự thật để xuyên tạc sự thật, kích động và lừa mị dân chúng, nhân danh khách quan để che đậy thái độ và hành vi chủ quan, bề ngoài tỏ ra tôn trọng sự thật khách quan, nhưng thực chất bên trong là phủ nhận sự thật khách quan với bản chất đích thực của nó, với xu hướng phát triển tất yếu của nó.

Những người khoác áo “chủ nghĩa khách quan” trong nghiên cứu khoa học thường bám vào những hiện tượng, những sự kiện nào đó nổi lên trên bề mặt cuộc sống, tuy có thật về hiện tượng nhưng lại không thật về bản chất, cố ý nhấn mạnh, tuyệt đối hóa nó, tách rời, cô lập nó khỏi những hiện tượng, sự kiện khác trong toàn bộ quá trình và tiến trình lịch sử, dùng thiên kiến chủ quan để quy nó thành bản chất, giải thích sai lạc nguyên nhân, tính chất của những hiện tượng, sự kiện mà họ đề cập tới, cốt làm cho mọi người ngộ nhận, tin theo những điều mà họ tuyên truyền, coi đó là đúng đắn, là chân lý.

C. Mác phân biệt rất rõ những hiện tượng giả đánh lừa bản chất mà ông gọi là những “giả tượng” và để nhận biết đúng bản chất của sự thật, cần phải lọc bỏ những “giả tượng” ấy khỏi những hiện tượng đích thực phản ánh bản chất. Bám lấy những “giả tượng” và quy nó thành bản chất, những người khoác áo “chủ nghĩa khách quan” trong nghiên cứu khoa học đã phạm vào một sai lầm cố ý, đó là đem cái giả khách quan thay thế cho cái khách quan đích thực, khoác áo “chủ nghĩa khách quan” để từ bỏ khách quan khoa học, để theo đuổi một chủ nghĩa chủ quan xa lạ, đối lập với chủ nghĩa khách quan đích thực.

Đã khoác áo “chủ nghĩa khách quan” thì không còn là khách quan nữa và những ai khoác áo ấy để “nghiên cứu khoa học” thì cũng không còn là nghiên cứu khoa học theo đúng ý nghĩa chân chính. Yêu cầu nghiêm túc đặt ra với người nghiên cứu là phải tôn trọng sự thật khách quan, bảo vệ chân lý khách quan và tỏ rõ lập trường, quan điểm nhất quán trong nghiên cứu, trung thực về đạo đức, trung thành với lý tưởng. Từ năm 1927, khi viết “Đường cách mệnh”, Nguyễn Ái Quốc đặt lên hàng đầu vấn đề “tư cách của người cách mệnh”, trong đó Người nhấn mạnh “phải giữ chủ nghĩa cho vững”(4). Người còn khẳng định, bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chân chính cách mạng nhất, triệt để và mau mắn thắng lợi nhất là chủ nghĩa Lê-nin (Mác - Lê-nin) và trong lịch sử các cuộc cách mạng trên thế giới, chỉ có Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 do V. I.  Lê-nin và Đảng vô sản kiểu mới lãnh đạo mới là cuộc cách mạng đến nơi (tức là triệt để), đi tới thắng lợi, làm lọt lòng nước Nga Xô Viết xã hội chủ nghĩa, khai sinh ra chủ nghĩa xã hội hiện thực lần đầu tiên trên thế giới, mở ra một thời đại mới trong lịch sử, soi sáng con đường cách mạng giải phóng dân tộc để từng bước quá độ tới chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam. Vững tin vào chân lý, Người còn khẳng định, phải theo chủ nghĩa Mác - Lê-nin và noi gương Cách mạng Tháng Mười Nga. Làm cách mạng, tất yếu phải có Đảng lãnh đạo, Đảng phải có chủ nghĩa làm cốt. Đảng không có chủ nghĩa giống như người không có trí khôn(5). Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã xác tín những luận điểm khoa học của Nguyễn Ái Quốc trong “Đường cách mệnh” là đúng đắn, chân xác. Điều đó càng khẳng định bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin(6), giá trị, sức sống và tầm vóc lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê-nin - vấn đề lý luận cốt yếu nhất mà những người khoác áo “chủ nghĩa khách quan” trong nghiên cứu khoa học đang ra sức công kích nó, cố tình xuyên tạc để phủ nhận nó. Họ cho rằng, C.  Mác và Ph.  Ăng-ghen sống trong thế kỷ XIX, học thuyết của các ông đã cách xa hiện tại tới gần hai thế kỷ, đã trở nên lạc hậu, lỗi thời, đã không còn đúng nếu soi vào thực tiễn biến đổi vô cùng nhanh chóng của thế giới ngày nay. Họ còn cho rằng, những điều Mác và chủ nghĩa Mác phê phán chủ nghĩa tư bản cùng lắm cũng chỉ đúng trong thời đại của các ông, còn hiện tại chủ nghĩa tư bản không như vậy nữa, nó vẫn đang tồn tại và phát triển, đang tạo ra sự phồn vinh, trình độ văn minh, hiện đại, bởi vậy cần phải theo nó chứ không phải chạy theo “lý thuyết cộng sản” xa vời, chưa biết đến bao giờ mới có được. Họ còn ra sức tuyên truyền rằng, cách mạng bạo lực, chuyên chính vô sản đã dẫn tới đổ máu “không cần thiết”, đó không phải là con đường phát triển “nhân đạo” và “nhân văn”, “không dân chủ” mà chỉ dẫn đến “chuyên chế độc tài”. Họ bám vào sự kiện sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu để cho rằng sự sụp đổ đó là do áp dụng chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Họ coi sự biến xảy ra ở Liên Xô và Đông Âu vào thập niên 90 của thế kỷ trước là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội, sự “phá sản”, sự “kết thúc” của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, và chỉ có chủ nghĩa tư bản mới là trường cửu, mới là mô hình cần lựa chọn! Từ đó, nhân danh những sự kiện, sự thật mà họ gọi là “khách quan” đó để quy kết rằng, Việt Nam theo đuổi chủ nghĩa Mác - Lê-nin là sai lầm, con đường mà Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn theo hệ tư tưởng Mác - Lê-nin đã dẫn tới những hy sinh to lớn mà đất nước vẫn lạc hậu, vẫn kém phát triển so với các nước trên thế giới. Phát triển theo một con đường khác với thâm ý từ bỏ chủ nghĩa xã hội, phát triển tư bản chủ nghĩa cũng có nghĩa là phủ nhận vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản, xuyên tạc và phủ nhận những cống hiến lịch sử của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thậm chí còn dùng mọi thủ đoạn lừa mị, kích động, bôi nhọ cuộc đời và sự nghiệp vĩ đại, cao thượng của Người bằng những thông tin bịa đặt, giả dối hòng lung lạc niềm tin của quần chúng, gây thù địch với Đảng và nhân dân ta, nhất là đối với thế hệ trẻ. Các thế lực chống đối tin rằng, chỉ có hạ bệ thần tượng Hồ Chí Minh thì mới có thể đánh đổ được Đảng ta, bởi họ thừa biết lý tưởng và mục tiêu cao quý mà Đảng và Bác Hồ lựa chọn, tư tưởng - đạo đức - phong cách của Hồ Chí Minh có ảnh hưởng sâu xa như thế nào đối với Đảng và nhân dân ta, có sức sống mãnh liệt như thế nào trong đời sống tinh thần của dân tộc Việt Nam. Từ đó, những người khoác áo “chủ nghĩa khách quan” trong “nghiên cứu khoa học” mà thực chất là “giả khoa học”, là lợi dụng cái gọi là “nghiên cứu”, “tìm tòi”, “sáng tạo” trong khoa học để ra sức tuyên truyền, xuyên tạc có ác ý nhằm làm vẩn đục bầu không khí tinh thần của xã hội, tác động vào sự chệch hướng con đường phát triển của đất nước. Đây là những biểu hiện rất phức tạp trong cuộc đấu tranh tư tưởng hiện nay.

Những quan điểm sai trái, đối lập, thù địch đó nếu không bị vạch trần và phê phán, nếu để nó lan truyền trong xã hội thì có thể làm tăng thêm mức độ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng và nhân dân ta do chính sự tiếp sức từ những người khoác áo “chủ nghĩa khách quan” với những luận điệu tinh vi, đánh tráo khái niệm, lập lờ giữa hiện tượng với bản chất nhằm phá hoại niềm tin, đức tin của quần chúng. Chúng ra sức khai thác những hiện tượng, những diễn biến sôi động trong đời sống xã hội, ngay cả những vấn đề trong nội tình của Đảng gần đây và hiện nay để xuyên tạc và chống đối. Như vậy, khoác áo “chủ nghĩa khách quan” không chỉ là “giả khoa học” mà còn là “giả chính trị”, “giả cách mạng”. Từ những việc làm ấy, họ cũng không thể che đậy được diện mạo “giả đạo đức” mà những ai có đầu óc khách quan khoa học, có lương tâm, phẩm giá và trách nhiệm với nhân dân, với đất nước, với dân tộc và với Đảng đều có thể nhận ra để có thái độ, có tiếng nói phê phán, để bảo vệ sự thật và lẽ phải, để tỏ rõ sự trung thực đạo đức trong khoa học và chính trị của mình trước sự nghiệp đổi mới - hội nhập - phát triển của đất nước.

Ngoài những vấn đề lý luận thuộc về chủ nghĩa, học thuyết, về lý tưởng, mục tiêu và con đường phát triển có tầm ảnh hưởng lớn, có tác động trực tiếp tới đường lối chiến lược, tới nền tảng tư tưởng, tinh thần của Đảng, của chế độ ta mà các thế lực thù địch, chống đối đang tập trung mọi nỗ lực để xuyên tạc, phủ nhận, chúng còn không bỏ qua việc khai thác những sự kiện cụ thể hằng ngày để hòng “tiếp thêm sức mạnh” cho mục đích phá hoại của chúng, lôi kéo những người nhẹ dạ cả tin vào hùa với chúng. Thủ đoạn và cách làm của chúng cũng không khó nhận ra, vẫn là lấy hiện tượng làm bản chất, cố tình che lấp phần sáng và tỏa sáng trong bức tranh xã hội, cố tình làm đậm nét hơn, gây kịch tính hơn từ những phần tối, lấp khuất trong bức tranh đó, cố tình tạo ra những cái giả bản chất để làm sai lạc cách nhìn, cách đánh giá của một bộ phận quần chúng, tạo ra “một hiệu ứng tinh thần kiểu khác” theo mong muốn của chúng nhằm phá hoại sự thống nhất nhận thức, thống nhất tư tưởng, thống nhất hành động của chúng ta trong công cuộc đổi mới hiện nay. Xin dẫn chứng một vài ví dụ:

- Việc Đảng ta đang nêu cao quyết tâm chính trị và bằng hành động cách mạng mạnh mẽ để chống bằng được nạn tham nhũng, đưa các đại án tham nhũng ra xét xử công khai, xử lý nghiêm khắc theo pháp luật của Nhà nước pháp quyền và kỷ luật của Đảng đối với những tội phạm, kể cả không ít cán bộ cao cấp đã thoái hóa, biến chất, được toàn Đảng, toàn dân ủng hộ thì những thế lực chống đối thù địch lại cố tình rêu rao, xuyên tạc rằng, đó là tình trạng đấu đá, tranh giành quyền lực trong Đảng, là dấu hiệu báo trước tình trạng tan rã Đảng và coi tham nhũng là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, của đảng cầm quyền, rồi lại coi đó là hậu quả tất yếu của việc một đảng duy nhất cầm quyền để kích động tâm lý đòi đa nguyên, đa đảng, lập các đảng đối lập, cổ xúy thuyết “tam quyền phân lập” để tấn công vào nền tảng tư tưởng, vào nguyên tắc chính thể của Nhà nước ta, kích động bất ổn chính trị, xung đột quyền lực...

- Những biểu hiện tiêu cực trong giáo dục và nhà trường, trong đó có bạo lực học đường, xâm hại tình dục trẻ em, sự hư hỏng về đạo đức của một số nhỏ giáo viên cùng hiện tượng gian lận trong thi cử xảy ra ở một vài địa phương, một số cơ sở giáo dục có liên quan tới chạy điểm, nâng điểm cho con cái của một số cán bộ đã bị phanh phui, đã bị xử lý nghiêm khắc thì lại bị những thế lực chống đối và những dư luận trái chiều tiếp tay cho chúng xuyên tạc rằng, đó là bản chất của nhà trường, của nền giáo dục xã hội đã hỏng đến tận gốc!

- Những tệ nạn và tiêu cực xã hội gắn với một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái, những bất minh, bất chính trong lợi ích nhóm, những hiện tượng chạy chức, chạy quyền trong công tác cán bộ mà Đảng kiên quyết xử lý, siết chặt kỷ luật, kỷ cương, loại bỏ những “sâu mọt” ra khỏi bộ máy, bảo đảm cho Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh mà nhân dân đang hết lòng tin tưởng ủng hộ Đảng thì lại bị chúng quy thành bản chất của chế độ, bản chất của Đảng, gieo rắc sự hoài nghi và kích động sự chống đối, nhất là trong bối cảnh Đảng ta đang chuẩn bị đại hội đảng các cấp, tiến tới Đại hội XIII của Đảng...

Vậy, sự thật là thế nào và thực chất, bản chất của vấn đề là ở đâu?

Hãy bắt đầu từ thái độ, quan điểm của Đảng ta với tất cả sự quang minh chính đại của Đảng cách mạng, người cách mạng như chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Từ buổi đầu của thời kỳ đổi mới (Đại hội VI năm 1986) cho đến nay, Đảng ta luôn nhấn mạnh và nhất quán rằng, nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, tôn trọng sự thật khách quan. Xây dựng niềm tin khoa học, kiên định lý tưởng, mục tiêu và con đường đã chọn, giữ vững bản lĩnh chính trị, giữ vững phương hướng chính trị, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa - đó chính là thái độ khoa học và cách mạng của Đảng ta. Đây là cơ sở để nhận rõ và khẳng định những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác  - Lê-nin, của di sản tư tưởng Hồ Chí Minh. Niềm tin và sự khẳng định này của Đảng ta là có cơ sở vững chắc từ thế giới quan khoa học và cách mạng, từ thực tiễn lịch sử xã hội trên thế giới và thực tiễn đấu tranh cách mạng ở nước ta từ khi có Đảng lãnh đạo, có sự truyền bá và dẫn dắt của Chủ tịch Hồ Chí Minh trên “Đường cách mệnh”.

Sự thật là, chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh không hề lỗi thời, lạc hậu và việc Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng của Đảng, kim chỉ nam hành động của cách mạng Việt Nam để kiên trì lý tưởng, mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là quyết định đúng, là sự lựa chọn sáng suốt, là trung thành một cách sáng tạo chứ không mù quáng, giáo điều như những sự xuyên tạc ác ý. Chúng ta bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trên cơ sở phát triển sáng tạo, làm phong phú, sống động lý luận cách mạng từ thực tiễn, không biệt phái mà biết tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa trong những thành tựu tư tưởng nhân loại, làm cho di sản kinh điển Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh ngày càng trở nên sống động hơn trong dòng chảy văn hóa nhân loại, tiếp biến để phát triển. Quy luật này được Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng hết sức sáng tạo và Đảng ta kế thừa, phát huy trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay.

Dù chủ nghĩa Mác cách xa gần hai thế kỷ, dù thế giới đã và đang biến đổi nhanh chóng, thậm chí có cả những đột biến (hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới tan rã, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, trật tự thế giới thay đổi, chủ nghĩa tư bản đã trở thành chủ nghĩa tư bản hiện đại...), song không vì thế mà chủ nghĩa Mác  - Lê-nin trở nên lỗi thời, bị thực tiễn vượt qua như những thế lực thù địch vẫn thường rêu rao. Chủ nghĩa tư bản dù là chủ nghĩa tư bản hiện đại vẫn không hề thay đổi bản chất. Vì vậy, không vì những sự biến chính trị xảy ra ở Liên Xô, Đông Âu mà chủ nghĩa tư bản có thể được xem như là con đường, mô hình phát triển cần phải lựa chọn chứ không phải và không thể phủ định. Luận điệu này chỉ thể hiện sự truyền bá quan điểm tư sản, chống phá chủ nghĩa xã hội, đánh lạc hướng dư luận xã hội mà thôi. Những kết luận và những dự báo khoa học của chủ nghĩa Mác  - Lê-nin về tính không thể có triển vọng của chủ nghĩa tư bản, về xu thế, triển vọng tích cực của chủ nghĩa xã hội, rằng những nhân tố xã hội chủ nghĩa ngày càng xuất hiện và chín muồi trong lòng chủ nghĩa tư bản một cách khách quan, tất yếu, bắt nguồn sâu xa từ sự phát triển của lực lượng sản xuất có tính toàn cầu. Nó trở thành nhân tố phủ định quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa trong quan hệ sản xuất của xã hội tư sản. Giai cấp công nhân hiện đại với xu hướng khách quan tri thức hóa công nhân và trí thức hóa công nhân làm cho sứ mệnh lịch sử thế giới của nó càng thể hiện rõ trong hoàn cảnh mới, điều kiện mới. Nó là sự phát triển chất lượng mới so với giai cấp công nhân truyền thống (giai cấp vô sản) để thực hiện vai trò cách mạng của nó chứ không phải “giai cấp công nhân biến mất”, “sứ mệnh lịch sử thay đổi thế giới là thuộc về tầng lớp trí thức tinh hoa chứ không phải công nhân” như những luận điệu xuyên tạc đậm màu sắc kỹ trị.

Khẳng định chân giá trị của chủ nghĩa Mác, vạch trần những thủ đoạn xuyên tạc hòng phủ nhận chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa xã hội khoa học về mặt học thuyết, chủ nghĩa xã hội hiện thực trong đổi mới, cải cách để phục hưng và phát triển về mặt con đường và mô hình, chúng ta nhớ tới những luận điểm sáng suốt của V. I.  Lê-nin. Ông từng nói, rằng những kẻ chống Mác, phủ nhận chủ nghĩa Mác một cách vô lối, thật ra là những kẻ hiểu biết về Mác và chủ nghĩa Mác tồi nhất. Đặc biệt là, V. I.  Lê-nin đã phát hiện thấy, sức sống và ảnh hưởng rộng lớn của chủ nghĩa Mác buộc những kẻ chống Mác cũng phải khoác áo mác-xít. Lại có một thực tế khác, ngay những học giả tư sản trong các nước tư bản chủ nghĩa, những người có đầu óc khách quan khoa học đã có cái nhìn thật khách quan để thấy những khuyết tật không thể sửa chữa do nó là bản chất của chủ nghĩa tư bản. Họ đem lại một tiếng nói khách quan, một thái độ phê phán khách quan đối với chủ nghĩa tư bản, rằng nó không thể không lỗi thời, nó không thể không bị thay thế trong sự lựa chọn mà lịch sử đặt ra, thế kỷ XXI sẽ không thể hình dung được nếu không có sự hiện diện của chủ nghĩa Mác, Mác vẫn là nhà tư tưởng lỗi lạc, kiệt xuất của nhiều thời đại, rằng cho tới nay vẫn chưa thấy một thiên tài tư tưởng trí tuệ nào có thể vượt qua Mác, thay thế Mác.

Là một nhà tư tưởng mác-xít sáng tạo và hiện đại, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã chỉ dẫn, học tập, nghiên cứu chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa Mác - Lê-nin không phải là thuộc lòng câu chữ mà cốt là nắm lấy tinh thần và phương pháp để ứng xử với con người và công việc, để độc lập và sáng tạo tìm tòi câu trả lời cho những vấn đề đặt ra của thực tiễn cách mạng.

Tinh thần cách mạng và phương pháp khoa học là chiếc chìa khóa mà chủ nghĩa Mác - Lê-nin đưa ra, cho ta công cụ tin cậy để giải thích thế giới và cải tạo thế giới. Những vấn đề cụ thể, những trường hợp cụ thể mà các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê-nin đưa ra làm đối tượng phân tích có thể không còn phù hợp trong những hoàn cảnh, điều kiện lịch sử mới cần phải điều chỉnh nhận thức, “làm mới” nhận thức, tri thức của mình nhưng rất nhiều tư tưởng, luận điểm của các nhà kinh điển trong các tác phẩm của các ông vẫn tiếp tục soi sáng con đường đi của các dân tộc, trong đó có Việt Nam.

Đặc biệt là, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhìn nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin không chỉ là khoa học mà còn là đạo đức, là văn hóa - vốn là những cái mãi mãi còn giá trị, sức sống, ý nghĩa khai sáng, thức tỉnh đối với chúng ta ngày nay. Từ đây, có thể nhận thức một cách khách quan, khoa học về chủ nghĩa xã hội, cắt nghĩa một cách trung thực lịch sử thăng trầm, số phận và triển vọng của nó.

Không thể đồng nhất giản đơn sự đổ vỡ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu với sự đổ vỡ của chủ nghĩa xã hội, càng không thể từ sự kiện này mà cho rằng chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã phá sản, đã kết thúc và việc áp dụng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là sai lầm, cần phải từ bỏ để lựa chọn một con đường phát triển khác như những ai nhân danh chủ nghĩa khách quan nêu ra.

Trên thực tế, hoàn toàn không phải như vậy!

Chủ nghĩa xã hội với tính cách là lý tưởng, mục tiêu, là học thuyết lý luận, là một chế độ xã hội kiểu mới không đổ vỡ, chỉ có sự đổ vỡ của mô hình xã hội chủ nghĩa ở những nước cụ thể, khi một kiểu mô hình này không còn động lực phát triển, lại bị suy thoái và biến dạng. Sự đổ vỡ này có nguyên nhân từ những nhận thức chủ nghĩa Mác - Lê-nin một cách giáo điều, xơ cứng và máy móc, xa rời những nguyên lý cơ bản, những chân giá trị của chủ nghĩa Mác - Lê-nin chứ không phải do chủ nghĩa, học thuyết Mác - Lê-nin gây ra.

V. I.  Lê-nin đã từng nhấn mạnh, phân tích cụ thể một tình hình cụ thể, đó là bản chất, linh hồn sống của chủ nghĩa Mác. Chân lý là cụ thể nên cách mạng phải sáng tạo. Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã cho thấy, khi vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê-nin với tinh thần sáng tạo, độc lập, tự chủ thì cách mạng phát triển và thắng lợi, trái lại khi phạm vào sai lầm giáo điều, chủ quan, máy móc, xa rời thực tiễn, làm trái quy luật khách quan, làm mất sinh khí của lý luận cách mạng thì không tránh khỏi thất bại. Kinh nghiệm thành công và không thành công trong việc giải quyết các vấn đề lý luận và thực tiễn trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các nước, trong đó có Việt Nam cho thấy rõ điều đó.

Vấn đề đặt ra một cách khách quan là ở chỗ, không phải là từ bỏ chủ nghĩa xã hội mà phải vượt qua những sai lầm, hạn chế, khuyết tật mà những người cộng sản và các đảng cộng sản đã mắc phải, nhất là khi đã cầm quyền trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội để cải tổ, cải cách, đổi mới chủ nghĩa xã hội một cách có nguyên tắc, có phương pháp, làm cho chủ nghĩa xã hội được kiến tạo, được định hướng và định hình đúng với bản chất tốt đẹp của nó.

Điều đó cũng có nghĩa là, không phải từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, mà trái lại, phải từ bỏ những nhận thức giáo điều, thậm chí những cách hiểu sai, làm sai, dẫn tới làm biến dạng, giản lược và làm nghèo nàn chủ nghĩa Mác - Lê-nin, chủ nghĩa xã hội khoa học. Phải “thanh toán” những sự biến dạng lệch lạc đó, trở lại đúng với tinh thần và phương pháp của chủ nghĩa Mác như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra, đồng thời phát triển sáng tạo nó phù hợp với thực tiễn ngày nay. Thái độ khách quan khoa học đòi hỏi như vậy và cũng chỉ như vậy mới có thể vạch trần những mưu toan khoác áo “chủ nghĩa khách quan” trong nghiên cứu khoa học, trong đấu tranh tư tưởng, lý luận cũng như trong đời sống chính trị, tinh thần của xã hội hiện nay. Đây là vấn đề căn bản nhất, có thể nói đây là vấn đề của mọi vấn đề. Giải quyết được vấn đề nền tảng, gốc rễ này là cơ sở tư tưởng, lý luận để giải quyết các vấn đề khác có tính chất phái sinh và hệ quả.

Như đã nói, những luận điệu xuyên tạc, giả trá, những suy luận võ đoán, chủ quan, coi một đảng cầm quyền như Đảng ta là nguyên nhân dẫn tới độc đoán chuyên quyền, là không thể có dân chủ, là dẫn đến tham nhũng và suy thoái, rồi quy những hiện tượng tiêu cực trong kinh tế, chính trị, xã hội, giáo dục,... là bản chất của xã hội ta, do sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng gây ra,... thực chất là những sự thóa mạ lịch sử, xúc phạm tới Đảng, dân tộc và nhân dân ta, bộc lộ rõ những mưu toan thù địch và chống đối, phá hoại sự nghiệp đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đi ngược lại xu thế của tiến bộ và phát triển, không thể không phê phán.

Thực tiễn, như V. I.  Lê-nin nhận xét, cao hơn lý luận, nó rộng lớn, đa dạng, phổ biến mà không một lý luận nào có thể khái quát đầy đủ được. Chỉ có thực tiễn mới cho ta câu trả lời chính xác và tin cậy về những vấn đề mà cuộc sống đặt ra.

Thực tiễn cách mạng, đổi mới, phát triển của Việt Nam trong hơn ba thập niên qua, tự nó đã khẳng định tính đúng đắn của đường lối đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa do Đảng khởi xướng. Sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng cùng với sức mạnh đại đoàn kết của toàn dân tộc là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Đó cũng là sự khẳng định những quan điểm, nguyên tắc cơ bản của đổi mới, của chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, nổi bật ở những điểm sau đây:

- Khẳng định độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là lý tưởng, mục tiêu mà Đảng, Bác Hồ và nhân đân ta đã lựa chọn. Đổi mới được dẫn dắt bởi lý tưởng, mục tiêu đó, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng sẽ xây dựng thành công xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

- Khẳng định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng, là kim chỉ nam hành động của cách mạng Việt Nam.

- Khẳng định vai trò lãnh đạo và cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội.

Những điều khẳng định đó là sự thật khách quan, được thực tiễn xác nhận và nhân dân thừa nhận, đồng tình, ủng hộ, ra sức thực hiện và bảo vệ với sức mạnh của dân chủ, đoàn kết  đồng thuận.

Thực tiễn ấy, sức mạnh ấy tự nó cũng đã bác bỏ, phủ định những luận điệu xuyên tạc, những quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, chống phá cách mạng, của những ai khoác áo “chủ nghĩa khách quan”, nhân danh nghiên cứu khoa học nhưng lại không vì một nền khoa học chân chính, phụng sự Tổ quốc và nhân dân, trái lại, dù vô tình hay cố ý, họ đã làm phương hại tới niềm tin, tới sự thống nhất ý chí và hành động của nhân dân, do đó không thể không phê phán và bác bỏ./. (Còn nữa)

---------------------------------

(1) Xem: Nghị quyết số 01-NQ/TW, ngày 28-3-1992, của Bộ Chính trị khóa VII, về “Công tác lý luận trong giai đoạn hiện nay”
(2), (3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 5, tr. 273 - 275, 276 - 279
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 2, tr.  280  - 281
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 2, tr. 289
(6) Hoàng Chí Bảo (chủ biên): Bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010


 

Nhận diện những phương thức, thủ đoạn,

biểu hiện chống phá mới của các thế lực thù địch

trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận hiện nay

Hà Linh
11:35, ngày 28-09-2019

TCCS - Mục đích chống phá Đảng ta của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận ở các thời kỳ không thay đổi. Nhưng do những đặc điểm mới của tình hình chính trị, kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại hiện nay, nên các phương thức, thủ đoạn, biểu hiện chống phá của chúng có nhiều thay đổi, tinh vi, phức tạp hơn khiến nhiều cán bộ, đảng viên không dễ dàng nhận biết để đấu tranh ngăn chặn, bác bỏ kịp thời, có hiệu quả.

Mục đích cao nhất, có tính chiến lược của các thế lực thù địch chống phá Đảng ta trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận là nhằm làm cho Đảng và nhân dân ta xa rời, từ bỏ mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; xa rời, từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tức là làm cho cán bộ, đảng viên ta từ bỏ nền tảng tư tưởng - vũ khí tinh thần, từ bỏ thế giới quan, phương pháp luận khoa học, kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng. Thực hiện mục đích đó, chúng dùng mọi âm mưu, thủ đoạn, phương thức tinh vi, xảo quyệt thích ứng với mọi tình hình, mọi đối tượng, mọi thời điểm, hoàn cảnh khác nhau. Công tác đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận của Đảng và Nhà nước ta vì thế cũng vô cùng phức tạp, đặt ra nhiều vấn đề mới cần phải có tư duy mới và hành động hiệu quả hơn.

Trong thực tế thật khó có thể tách bạch âm mưu, thủ đoạn, phương thức chống phá của các thế lực thù địch về tư tưởng, lý luận đối với Đảng và nhân dân ta hiện nay. Chúng được tiến hành đan xen, ẩn hiện trong nhau rất tinh vi, khó xác định dưới nhiều màu sắc, cấp độ khác nhau, lẫn lộn thật - giả, đúng  - sai... khiến người ta khó phân biệt, dễ lầm lẫn, khó đấu tranh.

Tuy nhiên, chúng ta có thể nhận diện âm mưu, thủ đoạn chống phá của chúng ở những biểu hiện chính sau:

Một là, phủ nhận, chống phá vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Trên phương diện tư tưởng, lý luận, chúng luôn tìm mọi cách phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chúng tung ra những luận điệu cho rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam độc quyền lãnh đạo là “mất dân chủ”, là “chuyên chế”, “đặc quyền, đặc lợi”, là “bóp nghẹt dân chủ”...; rằng, phải thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập mới có “dân chủ” trong Đảng và trong đời sống xã hội. Chúng đòi hủy bỏ Điều 4 Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phủ nhận quyền lãnh đạo của Đảng. Đây là mục tiêu không mới nhưng chúng kiên trì với thủ đoạn “mưa dầm thấm lâu” bằng những chiêu trò mới, hòng thực hiện đến cùng việc chống phá Đảng ta.

Từ tuyên truyền theo kiểu lô-gíc hình thức rằng, “có nhiều đảng cạnh tranh mới là dân chủ” chúng lờ đi mục đích của Đảng ta là kiên trì đấu tranh xóa bỏ mọi bất công, mang lại quyền bình đẳng, thực hiện dân chủ, quyền làm chủ thực sự cho nhân dân. Gần 90 năm qua, Đảng đã lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng, đưa nhân dân ta từ thân phận nô lệ thành người tự do, làm chủ  và xây dựng đất nước không ngừng phát triển như ngày nay, sánh vai với các nước trên thế giới. Âm mưu chống phá vai trò lãnh đạo tuyệt đối của Đảng với nhiều “lý sự” trắng trợn hòng lôi kéo những người thiếu hiểu biết, bất mãn ngộ nhận tin theo, đòi “đa nguyên, đa đảng” dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau. Chúng tỏ ra “khách quan”, “bảo vệ quyền lợi chính đáng” của người dân, “bênh vực dân” nên làm cho không ít người ngộ nhận tin theo. Âm mưu rất thâm độc, có tính chiến lược này của chúng được thực hiện bằng nhiều thủ đoạn mới, kết hợp cả tư tưởng, lý luận, chính trị, kinh tế để chống phá ta từ bên trong kết hợp với bên ngoài, làm một bộ phận cán bộ, đảng viên tha hóa, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, từng bước làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng.

Hai là, chống phá nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng.

Âm mưu, thủ đoạn phủ nhận nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng ta - chủ nghĩa Mác  - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, được chúng tiến hành từ lâu. Đặc biệt, từ khi hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới lâm vào khủng hoảng, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, các thế lực thù địch đã “chớp thời cơ”, coi đây là “thời cơ vàng” tấn công nhằm xóa bỏ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của các đảng cộng sản ở các nước kiên trì phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam.

Hiện nay, trước công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế của nước ta, các thế lực thù địch ra sức cổ vũ cho “chủ nghĩa tự do”, thị trường tuyệt đối, làm giàu bằng bất cứ giá nào, phủ nhận những quan điểm lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Bằng âm mưu, thủ đoạn tinh vi, chúng đưa ra cách “lập luận” kiểu lô-gíc hình thức, rằng chủ nghĩa Mác ra đời cách đây đã hơn 150 năm, bối cảnh lịch sử hiện đã thay đổi cho nên Đảng Cộng sản Việt Nam không thể cứ khư khư giữ lấy “cái học thuyết đã lỗi thời đó” làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của mình. Từ đấy, chúng xuyên tạc rằng, một đảng lấy tư tưởng, lý luận đã “lạc hậu, lỗi thời” thì không thể có cơ sở để lãnh đạo đất nước phát triển khi thực tế khách quan đã thay đổi. Chúng trắng trợn bác bỏ tư tưởng Hồ Chí Minh và cho rằng Hồ Chí Minh “không phải là nhà tư tưởng” mà chỉ là “nhà hoạt động thực tiễn” nên không có tư tưởng Hồ Chí Minh. Chúng lờ đi những giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh giàu chất lý luận về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người đã soi đường cho dân tộc ta và ảnh hưởng đến nhiều dân tộc khác trên thế giới trong cuộc đấu tranh tự giải phóng.

Bằng âm mưu, thủ đoạn lấy tư duy hình thức thay cho phương pháp tư duy biện chứng, chúng chống phá, bác bỏ hệ thống tư tưởng, lý luận của Đảng ta; chống phá, bác bỏ nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Chúng còn trắng trợn phủ nhận những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử mà Đảng và nhân dân ta đạt được qua hơn 30 năm đổi mới. Những thành tựu đó đã làm thay đổi lớn bộ mặt đời sống kinh tế - xã hội, giữ vững con đường đi lên chủ nghĩa xã hội được cả thế giới thừa nhận và ngợi ca. Thế nhưng, chúng vẫn lừa bịp, lố bịch mê hoặc, lôi kéo không ít người do thiếu hiểu biết, trình độ tư tưởng, lý luận hạn chế đã ngộ nhận tin theo chúng. Thủ đoạn “mưa dầm thấm lâu” của chúng được tiến hành dưới nhiều hình thức một cách kiên trì, gây chia rẽ, kích động, lôi kéo từng cá nhân bất mãn đến một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhân dân thiếu hiểu biết, thiếu bản lĩnh vững vàng tin theo chúng. Rõ ràng, âm mưu, thủ đoạn tấn công bằng tư tưởng, lý luận để làm thay đổi nhận thức, thay đổi niềm tin của con người là rất thâm độc và tinh vi, xảo quyệt. Âm mưu, thủ đoạn này đã từng được các thế lực thù địch thực hiện có hiệu quả ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa trước đây và được chúng tích cực áp dụng trong điều kiện hiện nay.

Ba là, chống phá đường lối độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của Đảng và nhân dân ta.

Các thế lực thù địch luôn coi đường lối độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của Đảng và nhân dân ta là mục tiêu chống phá. Thực hiện mục tiêu ấy, chúng dùng mọi thủ đoạn xuyên tạc, bác bỏ, chống phá. Mặc dù “lý lẽ” đã cũ rích, nhưng chúng vẫn không từ bỏ, luôn rêu rao rằng lý luận chủ nghĩa Mác  - Lê-nin “đã sai lầm”, “lỗi thời”, “lạc hậu”, thể hiện ở sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Chúng dẫn ra các hiện tượng, hình thức, trái với bản chất để mê hoặc, lôi kéo những người thiếu hiểu biết khoa học, như “lý sự” rằng: “đã kinh tế thị trường thì đâu còn là chủ nghĩa xã hội”; “chủ nghĩa xã hội không phải là cái đích của loài người đi tới”; “chủ nghĩa tư bản là trường cửu”; Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam “bảo thủ” duy trì con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là “trái với quy luật”, “không phù hợp với thời đại mới” v.v và v.v..

Chúng cố lờ đi những cơ sở khoa học, tính khách quan của quy luật phát triển xã hội là chỉ có kết hợp giải phóng giai cấp với giải phóng dân tộc và giải phóng con người thì cách mạng mới đạt được kết quả trọn vẹn. Chúng không thấy con đường đổi mới, hội nhập quốc tế, độc lập, tự chủ là sự sáng tạo của Đảng và nhân dân ta để đưa đất nước ngày càng phát triển, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Chúng gây nên hoài nghi vào quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; xuyên tạc những đặc điểm, đặc trưng, mô hình xã hội mà chúng ta xây dựng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; phủ nhận giá trị những thành tựu đạt được trong hơn 30 năm đổi mới của đất nước. Chúng cố tình quên đi những biện pháp, con đường, hình thức, bước đi, nhiệm vụ trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội đầy sáng tạo của nhân dân ta. Tất cả những điều đó với âm mưu của chúng nhằm đẩy người nghe rơi vào tâm trạng hoài nghi, thất vọng, suy giảm niềm tin, rồi đi đến xa rời, từ bỏ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Chúng gieo rắc tâm lý trông chờ, dựa dẫm, cầu mong sự giúp đỡ của nước ngoài, đi theo con đường tư bản chủ nghĩa thì giàu nhanh hơn, sung sướng hơn một cách ảo tưởng, hoài vọng.

Bốn là, chia rẽ khối đoàn kết trong Đảng, trong nhân dân.

Các thế lực thù địch luôn tấn công hòng phá vỡ khối đoàn kết thống nhất trong Đảng, khối đồng thuận xã hội, gây nên sự ly tán, chia rẽ, suy giảm sức mạnh của Đảng, của nhân dân. Chúng chia rẽ nội bộ Đảng, giữa cơ quan Đảng, chính quyền các cấp, bịa đặt về sự hình thành “phe này”, “phái nọ” để gây hoang mang trong nhân dân. Chúng lợi dụng việc thực hiện công khai, minh bạch của Đảng trong đấu tranh chống tham nhũng và xử lý nghiêm minh một số cán bộ, đảng viên vi phạm để chia rẽ nội bộ. Chúng xuyên tạc rằng “đây chỉ là sự thanh trừ phe này, phe nọ”, không thấy đây chính là quá trình làm trong sạch Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng có tính quy luật trên đường phát triển, là việc làm phù hợp với lòng dân, được toàn Đảng, toàn dân đồng tình ủng hộ. Chúng ra sức kích động chia rẽ, gây mất đoàn kết giữa các dân tộc, các tôn giáo; giữa cán bộ và nhân dân; giữa đảng viên và quần chúng... Chúng thổi phồng những sai lầm, thiếu sót của một số cán bộ, đảng viên rồi đi đến khái quát một cách hàm hồ, nói xấu Đảng, gây mất lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Chúng ra sức lợi dụng lòng yêu nước của nhân dân để kích động gây bất ổn chính trị  - xã hội; lợi dụng các bức xúc của nhân dân chưa được giải quyết kịp thời để kích động tụ tập đông người gây mất trật tự, an ninh, xung đột xã hội, làm cho nhân dân không tin cán bộ, đảng viên, dẫn đến không tin Đảng, tìm “con đường khác”, “cách sống khác” do chúng vẽ ra. Đây là âm mưu, thủ đoạn phá hoại ta từ bên trong, từ trong nội bộ, từ trong lòng dân, từ trong tư tưởng, tình cảm của con người trong xã hội.

Năm là, cản trở sự phát triển của đất nước.

Các thế lực thù địch luôn có âm mưu, thủ đoạn cản trở sự phát triển của đất nước, phủ nhận những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo suốt hơn 30 năm qua. Chúng tuyên truyền những luận điệu xuyên tạc trái với quan điểm, nghị quyết, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta. Chúng kết hợp chống phá đường lối chính trị với chống phá trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Trong từng lĩnh vực, chúng khai thác triệt để những sơ hở, yếu kém của ta để xuyên tạc, nói xấu, móc nối với các thế lực thù địch bên ngoài cản trở mọi hoạt động của ta. Chúng tạo cơ hội hoặc tiếp tay cho các cá nhân, tổ chức gây rối, các hoạt động tội phạm, các hoạt động trái với đạo đức, thuần phong mỹ tục của dân tộc, gây rối loạn, bất ổn xã hội.

Bên cạnh đó, chúng cổ vũ, tiếp tay cho các hiện tượng tiêu cực, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng dẫn đến “tự chuyển hóa” của một số cán bộ, đảng viên với những biểu hiện, như tự xa rời, phai nhạt mục tiêu, lý tưởng của Đảng, chạy theo “lợi ích nhóm”, “chủ nghĩa tư bản thân hữu”... Chúng tuyên truyền, cổ vũ lối sống thực dụng, hưởng lạc, tôn thờ đồng tiền, chủ nghĩa cá nhân, bất chấp đạo lý, pháp luật, kỷ cương, hòng tạo nên tình trạng xã hội rối loạn, bất ổn, gây mất lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước

Các thế lực thù địch luôn tấn công hòng phá vỡ khối đoàn kết thống nhất trong Đảng, khối đồng thuận xã hội, gây nên sự ly tán, chia rẽ _Ảnh: Tư liệu

Cùng với những âm mưu, thủ đoạn trên, các thế lực thù địch đã thực hiện các phương thức mới chống phá ta trong lĩnh vực tư tưởng, lý luận hiện nay một cách tinh vi, phức tạp, có thể khái quát ở những điểm chính sau:

Thứ nhất, chúng luôn chủ động tấn công, chống phá ta bất cứ lúc nào, bằng mọi hình thức.

Các thế lực thù địch tận dụng các phương tiện thông tin hiện đại bằng cách lập những trang mạng xã hội, có bộ máy chuyên nghiệp rỉ rả tuyên truyền xuyên tạc, chống phá ta dưới nhiều hình thức suốt đêm ngày để lừa bịp nhân dân theo phương châm “nói nhiều rồi sẽ tin”. Phương thức, biểu hiện mới của các thế lực thù địch chống phá trong lĩnh vực tư tưởng, lý luận là khi còn ở dạng dự thảo, lấy ý kiến rộng rãi của nhân dân thì chúng “kiến nghị”, đề xuất hướng lái theo mục tiêu, ý đồ của chúng; khi đường lối, chủ trương mới ban hành thì chúng chủ động tuyên truyền bới móc, xuyên tạc gây hoài nghi trong quần chúng nhân dân. Chúng luôn nắm bắt kịp thời bất kỳ chủ trương, biện pháp hoạt động mới nào của ta từ cấp Trung ương xuống địa phương để xuyên tạc, bóp méo, chống phá một cách trắng trợn. Các thế lực thù địch rất “nhạy bén” trong phương thức tiến hành chống phá ở mọi nơi, mọi lúc, đặc biệt lợi dụng các thời điểm chuẩn bị tổ chức đại hội các cấp, bầu cử Quốc hội, ban hành luật... Bởi vì tư tưởng, lý luận là lĩnh vực rất nhạy cảm, đi trước dẫn đường cho hành động của con người. Có thể thấy, nhanh nhạy linh hoạt, chọn thời điểm để gia tăng cường độ chống phá là phương thức hoạt động chống phá nổi bật của các thế lực thù địch đối với ta trong lĩnh vực tư tưởng, lý luận hiện nay. Chúng có cả kế hoạch, đầu tư kinh phí, tổ chức, bộ máy, công nghệ, thiết bị máy móc hiện đại thường xuyên chống phá.

Thứ hai, kiên trì chống phá.

Trong xã hội hiện đại, mọi sự vật, hiện tượng đều diễn ra và biến đổi rất nhanh chóng, không ngừng. Trong lĩnh vực tư tưởng, lý luận cũng diễn ra như vậy, cho dù nó vẫn có tính ổn định tương đối. Các thế lực thù địch luôn kiên trì bám sát mục tiêu, đối tượng mà chúng nhằm vào để chuyển hóa tư tưởng, lý luận, thực hiện âm mưu chống phá ta. Song song với hoạt động chống phá ta một cách thường xuyên, trắng trợn hằng ngày, chúng có sẵn kế hoạch, chương trình dài hạn, chiến lược chống phá ta về tư tưởng, lý luận.

Thứ ba, chống phá tinh vi, bịa đặt trắng trợn.

Các thế lực thù địch thường cập nhật, theo dõi rất kỹ lưỡng các vấn đề tư tưởng, lý luận của ta để tìm ra những mâu thuẫn giữa nhận thức và hành động; giữa lý luận và thực tiễn để khoét sâu những “nghịch lý”, những “độ chênh” giữa tư tưởng, lý luận với thực tiễn để gây hoài nghi, mất lòng tin của cán bộ, đảng viên, nhân dân. Chúng tung ra những thông tin lập lờ giữa đúng và sai, giữa thật và giả, kể cả bịa đặt trắng trợn để gây hoài nghi trong nhân dân. Thậm chí, chúng dựng lên những sự việc, sự kiện không có thật, gây hoang mang, thất thiệt trong quần chúng nhân dân.

Thứ tư, chống phá với những phương thức đa dạng, nhiều chiều.

Các thế lực thù địch xác định một trong những mục tiêu chống phá Đảng và nhân dân ta trong lĩnh vực tư tưởng, lý luận là nhằm thủ tiêu tinh thần, ý chí cách mạng của nhân dân. Vì thế, chúng sẵn sàng dùng mọi phương thức, biện pháp, phương tiện, hình thức có thể để thực hiện. Tuyên truyền miệng, các phương tiện truyền thông hiện đại, mạng xã hội, các loại hình văn hóa, nghệ thuật, xuất bản, báo chí,... đều được chúng tận dụng tối đa.


Chúng thông qua các hoạt động “khoa học”, giáo dục, đào tạo, các “diễn đàn” để tán phát các quan điểm sai trái, phản động, xuyên tạc, chống phá ta. Chúng đầu tư kinh phí dưới dạng “hỗ trợ nhân đạo”, các tổ chức phi chính phủ để tuyên truyền, lôi kéo nhân dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa. Chúng tổ chức truyền đạo, lập đạo trái pháp luật, tuyên truyền mê tín dị đoan để mê hoặc, lôi kéo những người kém hiểu biết. Chúng mua chuộc cán bộ dưới nhiều hình thức, như tổ chức “tham quan”, “du lịch”, “hội nghị”, “đầu tư dự án”, “đào tạo”... cũng như các “mồi nhử” kinh tế khác khá “hấp dẫn” làm mê muội nhiều người; không loại trừ cả những hình thức ép buộc, giả danh cán bộ để lừa dối, tán phát các luận điệu sai trái, đối lập với quan điểm của Đảng.

Có thể nói, trong điều kiện hiện nay, dưới tác động của nhiều lợi ích, nhiều xu thế phức tạp của quá trình toàn cầu hóa, của sự phát triển khoa học, công nghệ..., các thế lực thù địch đang thực hiện những âm mưu, thủ đoạn, phương thức mới chống phá Đảng và nhân dân ta trong lĩnh vực tư tưởng, lý luận với sự đan xen nhiều lĩnh vực: kinh tế với chính trị, tư tưởng, lý luận, văn hóa, xã hội, đối ngoại. Vì thế, trong cuộc đấu tranh này đòi hỏi chúng ta vừa đề cao cảnh giác, chủ động tấn công, đổi mới tư duy, có phương thức, biện pháp thích hợp, vừa tổ chức hiệp đồng chặt chẽ các lực lượng, phát huy thế mạnh, tăng cường tuyên truyền sâu rộng, kịp thời, chính xác các quan điểm, tư tưởng, lý luận của Đảng, phản bác mạnh mẽ, quyết liệt để kịp thời ngăn chặn sự chống phá về tư tưởng, lý luận của các thế lực thù địch dưới bất cứ màu sắc nào. Điều cốt lõi là làm cho tư tưởng, lý luận của Đảng thấm sâu trong mọi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, để chính họ là những chủ thể mạnh mẽ, vững chắc làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn, phương thức chống phá của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận./.