Phủ nhận, xuyên tạc nguyên tắc tập trung dân chủ - thủ đoạn quen thuộc của các thế lực thù địch nhằm làm suy yếu sức mạnh Đảng Cộng sản  

PGS, TS. NGUYỄN VĂN GIANG
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
13:11, ngày 31-01-2020

TCCS - Ngay từ khi mới xuất hiện và được các đảng cộng sản vận dụng vào quá trình hoạt động của mình, nguyên tắc tập trung dân chủ luôn chịu sự xuyên tạc, chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch. Do đó, phân tích rõ những sự xuyên tạc trên cơ sở đối chiếu, đánh giá những nội dung của nguyên tắc này từ thực tiễn để người cộng sản vững tin vào tính đúng đắn của nguyên tắc tập trung dân chủ, đồng thời hạn chế những sai lầm trong thực tiễn vận dụng nguyên tắc, là việc làm có ý nghĩa cấp bách cả về lý luận và thực tiễn.

Trong quá trình đấu tranh xây dựng chính đảng độc lập của giai cấp vô sản, C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã rất chú trọng xác định nguyên tắc tổ chức của đảng. Vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác vào cuộc đấu tranh xây dựng chính đảng kiểu mới của giai cấp công nhân ở nước Nga, V.I. Lê-nin đã phát triển tư tưởng của C. Mác, Ph. Ăng-ghen và xác định nguyên tắc tổ chức cơ bản của đảng cộng sản là tập trung dân chủ. Với sự thành công của Đảng Cộng sản (b) Nga trong Cách mạng Tháng Mười, nguyên tắc tập trung dân chủ trở thành nguyên tắc tổ chức phổ biến của các đảng cộng sản trong Quốc tế III. Ngay từ tháng 10 năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam (khi đó là Đảng Cộng sản Đông Dương) đã quy định cách tổ chức của Đảng trong Điều lệ: Đảng “tổ chức theo lối dân chủ tập trung”(1). Từ đó đến nay, trong Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng.

Cho đến trước khi Đảng Cộng sản Liên Xô cải tổ, nguyên tắc tập trung dân chủ với vị trí là nguyên tắc tổ chức cơ bản của các đảng cộng sản dường như không có gì phải bàn đến nữa. Nhưng từ khi Đảng Cộng sản Liên Xô và các đảng cộng sản cầm quyền ở các nước Đông Âu cải tổ thất bại dẫn đến khủng hoảng, sụp đổ, phong trào cộng sản rơi vào thời kỳ khủng hoảng, suy thoái, đã xuất hiện nhiều ý kiến nghi ngờ về nguồn gốc, sự cần thiết, bản chất của nguyên tắc tập trung dân chủ, thậm chí còn kết tội cho nguyên tắc này là một nguyên nhân làm cho các đảng cộng sản cầm quyền thất bại. Ngay ở Việt Nam, đã có một số ý kiến công khai phê phán nguyên tắc tập trung dân chủ và đề nghị Đảng từ bỏ nguyên tắc đó với những lập luận dường như “rất lô-gíc”, “khách quan”. Vậy những phê phán đó là đúng hay đây là một thủ đoạn hòng làm suy yếu, tan rã các đảng cộng sản? Cần nhìn nhận những luận điệu đó như thế nào? Sau đây là một số luận điệu xuyên tạc, phủ nhận nguyên tắc tập trung dân chủ và sự thật:

1- Nguyên tắc tập trung dân chủ “không phải của chủ nghĩa Mác” mà “do V.I. Lê-nin đặt ra”, chủ yếu hướng tới “tập trung”, “dân chủ” chỉ là “thứ yếu”, là “hình thức” (?!)

Lấy lý do thời C. Mác và Ph. Ăng-ghen chưa có tên gọi nguyên tắc tập trung dân chủ, một số người cho rằng, nguyên tắc tập trung dân chủ không phải của chủ nghĩa Mác mà do V.I. Lê-nin đặt ra. Có người cho rằng chỉ “tính tuổi” cho nguyên tắc tập trung dân chủ từ năm 1905, và nguyên tắc này, theo V.I.  Lê-nin, chủ yếu hướng tới “tập trung”, còn “dân chủ” chỉ là “thứ yếu”, là “hình thức”. Quan điểm này là sai lầm do bỏ qua những dữ liệu lịch sử và thực chất cũng phụ họa cho luận điệu phủ nhận nguyên tắc tập trung dân chủ, chia tách, đối lập chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa Lê-nin, gây nghi ngờ giá trị, hiệu quả nguyên tắc tập trung dân chủ khi gắn nó với V.I. Lê-nin, tức là với Đảng Cộng sản Liên Xô - một đảng cộng sản đã thất bại vì xa rời nguyên tắc tập trung dân chủ.

Đúng là C. Mác và Ph. Ăng-ghen chưa gọi nguyên tắc tổ chức của đảng cộng sản là tập trung dân chủ. Năm 1885, sau 33 năm Liên đoàn những người cộng sản - chính đảng cách mạng đầu tiên của giai cấp công nhân giải tán, nói về cách tổ chức của Liên đoàn, Ph. Ăng-ghen khẳng định: “Bản thân tổ chức cũng hoàn toàn dân chủ, với những người lãnh đạo được bầu ra và luôn luôn có thể bị bãi miễn”(2). Điều đó cho thấy, Ph. Ăng-ghen chưa đưa ra tên gọi tập trung dân chủ. Tuy vậy, không vì thế mà giản đơn cho rằng nguyên tắc tập trung dân chủ của đảng cộng sản không phải do C. Mác và Ph. Ăng-ghen đề ra. Nghiên cứu các tư liệu liên quan cho thấy, tuy chưa gọi tên là nguyên tắc tập trung dân chủ nhưng tư tưởng xây dựng một đảng vô sản trên cơ sở những nội dung cốt lõi của nguyên tắc tập trung dân chủ đã được Ph. Ăng-ghen và C. Mác thể hiện rõ trong Điều lệ Liên đoàn những người cộng sản từ năm 1847.

Một mặt, Điều lệ Liên đoàn quy định: Tất cả hội viên của Liên đoàn đều bình đẳng; cơ quan lãnh đạo các cấp của Liên đoàn từ chi bộ đến Đại hội Liên đoàn do bầu cử lập ra. “Các ủy viên ban chấp hành khu bộ và Ban chấp hành trung ương được bầu hằng năm, có quyền được bầu lại và có thể bị những người bầu ra mình bãi miễn bất cứ lúc nào”(3)... Đây chính là những nội dung của chế độ dân chủ trong nguyên tắc tập trung dân chủ mà ngày nay, Đảng ta đang thực hiện.

Mặt khác, Điều lệ lại quy định Liên đoàn là một tổ chức theo chế độ tập trung rất chặt chẽ, như: Liên đoàn chỉ có một hệ thống tổ chức thống nhất; Đại hội Liên đoàn hàng năm là cơ cấu tổ chức có vị trí, quyền lực cao nhất của Liên đoàn. Điều 5 của Điều lệ Liên đoàn do chính C. Mác và Ph. Ăng-ghen trực tiếp tham gia soạn thảo quy định: “Về cơ cấu, Liên đoàn gồm chi bộ, khu bộ, tổng khu bộ, Ban chấp hành trung ương và Đại hội”(4). Đại hội có quyền lực lập pháp đối với toàn Liên đoàn; các khu bộ của một nước hoặc một tỉnh phải phục tùng một tổng khu bộ; các tổng khu bộ phải báo cáo công tác với cơ quan quyền lực tối cao là Đại hội, còn giữa các kỳ đại hội thì báo cáo với Ban chấp hành trung ương. Hội viên của Liên đoàn phải phục tùng các nghị quyết của Liên đoàn; “không tham gia vào mọi tổ chức - tổ chức chính trị hoặc tổ chức dân tộc - chống cộng sản”(5).

Như vậy, với những quy định về cách tổ chức của Liên đoàn những người cộng sản nêu trên cho thấy, cách tổ chức “hoàn toàn dân chủ” mà Ph. Ăng-ghen nói tới chính là nguyên tắc tập trung dân chủ. Thực tế đó chứng tỏ, đối với C. Mác và Ph. Ăng-ghen, nguyên tắc tập trung dân chủ không chỉ là tư tưởng mà đã được vận dụng vào thực tiễn tổ chức, hoạt động của chính đảng cách mạng của giai cấp công nhân.

Tuy nhiên, cũng cần chú ý xem vì sao C.  Mác và Ph. Ăng-ghen nhấn mạnh tính chất “hoàn toàn dân chủ” (mà chưa nói rõ về mặt tập trung) trong nguyên tắc tổ chức chính đảng của giai cấp công nhân như vậy? Một trong những lý do được Ph. Ăng-ghen chỉ ra là do khi đó, trong phong trào công nhân có một số lãnh tụ muốn xây dựng chính đảng của giai cấp công nhân thành một tổ chức âm mưu, độc tài, điển hình như: Uây-ling (Weitling) với “chủ nghĩa cộng sản của giáo hội nguyên thủy”, Uy-lích (Willich) với “một thứ đạo Hồi cộng sản chủ nghĩa” cùng tham vọng “thực hiện chế độ độc tài chính trị không kém gì chế độ độc tài quân sự”(6). Vì vậy, theo Ph. Ăng-ghen, với cách tổ chức chính đảng của giai cấp công nhân “hoàn toàn dân chủ, với những người lãnh đạo được bầu ra và luôn luôn có thể bị bãi miễn; chỉ điều đó thôi cũng đủ chấm dứt mọi manh tâm manh động - tức là những manh tâm đòi hỏi một chế độ độc tài”(7) mà một số lãnh tụ của phong trào công nhân lúc đó theo đuổi.

Như vậy, sự nhấn mạnh về dân chủ trong tổ chức của đảng công nhân mà C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã khẳng định chính là do bối cảnh tình hình của đảng và phong trào công nhân lúc đó đòi hỏi. Sau này, V.I. Lê-nin không chỉ phát triển tư tưởng của C. Mác và Ph. Ăng-ghen về nguyên tắc tập trung dân chủ, đặt tên cho nguyên tắc này mà còn nêu một mẫu mực về cách thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong thực tiễn cách mạng. Trong tình hình phức tạp của cuộc đấu tranh thành lập Đảng Công nhân Dân chủ - Xã hội Nga đầu thế kỷ XX do những xu hướng tự do vô chính phủ, đòi lập đảng theo chế độ tự trị, chế độ liên bang, V.I. Lê-nin đã hết sức đề cao yêu cầu về chế độ tập trung, kỷ luật trong Đảng, đấu tranh kiên trì, không khoan nhượng với những quan điểm cơ hội đó, nhằm xây dựng chính đảng kiểu mới của giai cấp công nhân thật sự là đội tiên phong có tổ chức chặt chẽ, đủ sức lãnh đạo cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân. V.I. Lê-nin khẳng định: Kinh nghiệm “thấy rằng chế độ tập trung tuyệt đối và kỷ luật hết sức nghiêm minh của giai cấp vô sản là một trong những điều kiện căn bản để chiến thắng giai cấp tư sản”(8). Hơn nữa, V.I. Lê-nin còn chỉ rõ rằng trong điều kiện đảng hoạt động bí mật, đầy khó khăn, nguy hiểm, không thể việc gì của đảng cũng mang ra thảo luận được, do đó tuy đảng công nhân “chủ trương theo chế độ tập trung dân chủ”(9) nhưng trong điều kiện đó không thể thực hiện đầy đủ chế độ dân chủ. Ngay cả giai đoạn đầu sau khi giai cấp công nhân giành được chính quyền, trong thời kỳ sự phản kháng của giai cấp thống trị cũ còn gay gắt thì cũng không thể thực hiện dân chủ đầy đủ được. Theo V.I. Lê-nin, kinh nghiệm nước Nga cho thấy: “Trong thời kỳ nội chiến gay gắt hiện nay, đảng cộng sản chỉ có thể hoàn thành nhiệm vụ của mình nếu đảng được tổ chức một cách tập trung nhất, nếu trong đảng có một kỷ luật sắt, gần giống như kỷ luật quân sự, và nếu Trung ương đảng là một cơ quan có uy tín mạnh mẽ, có quyền lực rộng rãi, được toàn thể đảng viên tin cậy”(10). Chính điều này làm cho một số người ngộ nhận cho rằng, trong tư tưởng của V.I. Lê-nin về nguyên tắc tập trung dân chủ thì “tập trung” là chính, là mục tiêu, còn “dân chủ” chỉ là thứ yếu, là hình thức.

Sau khi Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, giành được chính quyền, đảng cộng sản trở thành đảng cầm quyền, chuyển sự tập trung sang lãnh đạo việc xây dựng, củng cố chính quyền, đảng có điều kiện thuận lợi hơn để tổ chức hoạt động, đồng thời cũng đứng trước những nguy cơ về nạn quan liêu, tham nhũng, lạm quyền, V.I. Lê-nin lập tức kiến nghị phải mở rộng dân chủ trong Đảng. Người đòi hỏi tổ chức đại hội đảng mỗi năm một lần để tạo diễn đàn dân chủ thảo luận công việc của Đảng và giải quyết các vấn đề mới đặt ra, đồng thời thường xuyên kiện toàn cơ quan lãnh đạo của Đảng. Năm 1920, khi cuộc nội chiến đã đến hồi kết thúc, V.I. Lê-nin nhận định: “Tình hình chung của nước cộng hòa đã được cải thiện đến mức là giờ đây chúng ta đã có được điều kiện thảo luận một cách rất bình tĩnh... Vô luận thế nào thì giờ đây chúng ta cũng đã ở vào tình hình là có thể và phải tiến hành đến cùng những cuộc thảo luận hiện nay đang được tiến hành, không tự hạn chế mình chút nào... giờ đây chúng ta phấn đấu để làm sao trong đảng và trong quân đội công cuộc dân chủ hóa sẽ được đẩy mạnh”(11). Người yêu cầu tăng cường tổ chức các hội nghị toàn thể đảng viên nhằm phát huy tính chủ động của các đảng viên; lập ra những cơ quan văn đàn có khả năng thực hiện một cách có hệ thống và rộng rãi hơn nữa việc phê bình những sai lầm của đảng và nói chung việc phê bình trong nội bộ đảng (những trang báo tranh luận, v. v.); thảo ra những quy tắc thực tiễn hoàn toàn chính xác về những biện pháp xóa bỏ tình trạng bất bình đẳng (trong điều kiện sinh hoạt, về mức lương,...) giữa một bên là các “chuyên gia”, và những cán bộ có chức trách, và một bên là quần chúng, vì tình trạng bất bình đẳng này vi phạm dân chủ; thành lập Ban kiểm tra song song với Ban chấp hành trung ương(12)... Những tư tưởng và hoạt động của V.I. Lê-nin cho thấy một mẫu mực về vận dụng tư tưởng và kinh nghiệm của C. Mác và Ph. Ăng-ghen trong thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tình hình cụ thể.


Hiện nay, Đảng ta đang nhấn mạnh về mở rộng, phát huy dân chủ trong Đảng, trong toàn xã hội cũng xuất phát từ yêu cầu của công cuộc đổi mới và tình hình thực tế là chế độ dân chủ trong Đảng còn nhiều hạn chế, cần tập trung khắc phục. Sự nhấn mạnh về mở rộng dân chủ đó cũng hoàn toàn không có nghĩa là Đảng ta hiện nay chỉ đề cao dân chủ và coi nhẹ tập trung, kỷ cương, kỷ luật.

2- Nguyên tắc tập trung dân chủ đã “lỗi thời” (?!)

Họ cho rằng, nguyên tắc tập trung dân chủ chỉ phù hợp với hoạt động của Đảng khi chưa giành được chính quyền, trong hoạt động bí mật, hoặc khi lãnh đạo chiến tranh cần có kỷ luật chặt chẽ, tập trung, thống nhất cao độ. Còn trong điều kiện hòa bình, Đảng cầm quyền, lãnh đạo xây dựng, đòi hỏi phải mở rộng dân chủ, phát huy tối đa sáng tạo cá nhân như hiện nay, nguyên tắc tập trung dân chủ đã lỗi thời, không còn phù hợp nữa. Đây là một quan điểm sai lầm và hoàn toàn sai trái, xuyên tạc nguyên tắc tập trung dân chủ từ bản chất. Tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ là vấn đề thuộc về bản chất của đảng cộng sản. Là đội tiền phong chiến đấu của giai cấp công nhân, đảng cộng sản phải có tổ chức chặt chẽ, tập trung, thống nhất, chứ không thể là một tổ chức lỏng lẻo, vô chính phủ; là liên minh tự nguyện của những người cùng chung chí hướng cộng sản, đấu tranh để xây dựng chủ nghĩa xã hội - một xã hội giương cao ngọn cờ tự do, dân chủ, công bằng và bảo vệ phẩm giá con người; đảng cộng sản lại phải có tổ chức dân chủ mới phù hợp với bản chất và mục đích ấy. Bởi vậy, xa rời nguyên tắc tập trung dân chủ là xa rời bản chất của đảng cộng sản. Nguyên tắc tập trung dân chủ nằm ngay trong bản chất của đảng cộng sản.

Đồ họa: Vũ Duy

Với Đảng Cộng sản Việt Nam, nhiệm vụ, sứ mệnh lịch sử của Đảng là lãnh đạo cuộc đấu tranh xóa bỏ áp bức, bất công, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa và tiến tới chủ nghĩa cộng sản. Lãnh đạo một sự nghiệp mới mẻ, vĩ đại, phức tạp, khó khăn chưa từng có, một mặt, Đảng phải tổ chức, hoạt động một cách dân chủ để phát huy mọi tiềm năng, lực lượng của đảng viên, tổ chức đảng mới mong thành công; mặt khác, cuộc đấu tranh xây dựng xã hội mới thực chất là cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt mà lợi thế so sánh lực lượng đang có lợi cho các thế lực thù địch, đòi hỏi Đảng phải có tổ chức cao mới có sức mạnh bảo đảm cho thắng lợi; muốn vậy, Đảng phải tổ chức tập trung, thống nhất, kỷ luật nghiêm minh. Thử hỏi, nếu cho phép đảng viên trong Đảng không phải chấp hành nghị quyết của Đảng, đảng viên được tự do truyền bá ý kiến cá nhân trái với quan điểm của Đảng thì tình hình sẽ ra sao? Chắc chắn sẽ bắt đầu một thời kỳ rối loạn và sụp đổ bi thảm. Nguyên tắc tập trung dân chủ không chỉ tạo cho Đảng kỷ luật thống nhất, nghiêm minh, mà còn tạo cơ chế hữu hiệu nhất để phát huy mọi sáng kiến, sáng tạo, khai thác mọi trí tuệ của đảng viên, của cơ sở. Do vậy, trong điều kiện nào cũng phải phát huy cao độ dân chủ và đồng thời, phải có sự tập trung thống nhất. Không thể có việc Đảng chỉ cần tổ chức chặt chẽ, lãnh đạo thống nhất trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền, còn trong thời kỳ lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội thì tổ chức, hoạt động lại lỏng lẻo.

Qua thực tiễn đấu tranh xây dựng và bảo vệ xã hội mới sau Cách mạng Tháng Mười Nga, V.I. Lê-nin đã từng chỉ rõ sai lầm của những người “phái tả” ở Nga lúc đó ngây thơ đòi phá hủy các chính đảng vì cho là vô dụng trong giai đoạn xây dựng chế độ mới sau khi cách mạng đã giành được chính quyền: “... họ hãy thử chuẩn bị (rồi thực hiện)... mà không cần một đảng tập trung chặt chẽ và có kỷ luật sắt, không cần biết cách làm chủ đ­ược mọi lĩnh vực, mọi ngành và mọi loại công tác chính trị và văn hóa xem sao. Kinh nghiệm thực tiễn sẽ sớm mở mắt cho họ”(13). Sau này, trong quá trình cải tổ, những người lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô đã bỏ qua lời dạy của V.I. Lê-nin, không nắm vững bản chất của Đảng, dẫn đến chấp nhận đa nguyên chính trị, từ bỏ nguyên tắc tập trung dân chủ nên đã bị các thế lực thù địch và bọn cơ hội tấn công làm tan rã Đảng. Do vậy, ở mọi thời kỳ cách mạng, trong mọi điều kiện, hoàn cảnh đều phải thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, chỉ khác ở cách thực hiện nội dung và phạm vi áp dụng do tình hình, nhiệm vụ của Đảng trong mỗi thời kỳ. Giữ vững tập trung dân chủ không chỉ nhằm mở rộng dân chủ, phát huy mạnh mẽ dân chủ mà còn phải giữ gìn tính tập trung thống nhất, tính kỷ luật chặt chẽ nghiêm minh của Đảng.

3- Nguyên tắc tập trung dân chủ “không có thật”, “dân chủ không thể đi đôi với tập trung” (?!)

Những người theo quan điểm này cho rằng, “tập trung” và “dân chủ” là hai mặt đối lập, luôn có xu hướng phủ định, triệt tiêu nhau. Nếu thực hiện tập trung sẽ tất yếu dẫn đến thu hẹp dân chủ, triệt tiêu dân chủ; ngược lại, nếu muốn thực hiện dân chủ thì phải từ bỏ tập trung. Từ lập luận đó, họ xuyên tạc rằng, tập trung dân chủ là “nguyên tắc không có thật”, “dân chủ” không thể đi đôi với “tập trung”.

Cùng loại luận điệu này còn có quan điểm cho rằng “tập trung” là danh từ, là chính, còn “dân chủ” chỉ là tính từ, là cái bổ nghĩa cho tập trung. Hoặc quan điểm cho rằng bản chất gốc rễ của tập trung dân chủ là tập trung quan liêu, vì tập trung là mục đích, dân chủ chỉ là phương tiện, do vậy, có rất nhiều phương tiện để đạt được mục đích, thành ra “dân chủ” chỉ là một loại “phương tiện” mà thôi. Rõ ràng, luận điệu này đã tầm thường hóa dân chủ, mưu đồ để phá hoại và làm cho chúng ta từ bỏ nguyên tắc tập trung dân chủ. Việc chia cắt nguyên tắc vốn thống nhất, hoặc đem dân chủ đối lập với tập trung là không hiểu đúng nguyên tắc tập trung dân chủ. Với những cách lập luận sai trái này, họ hoặc không hiểu bản chất nguyên tắc tập trung dân chủ, hoặc cố tình lừa dối người khác để hạ bệ nguyên tắc tập trung dân chủ.

Trong nguyên tắc tập trung dân chủ, hai mặt “tập trung” và “dân chủ” không tách rời nhau mà quy định lẫn nhau, không phân định danh từ, tính từ, không quy định mặt nào quan trọng hơn mặt nào mà tập trung trên cơ sở dân chủ, dân chủ dưới sự chỉ đạo của tập trung. Dân chủ trong nguyên tắc tập trung dân chủ không đối lập với tập trung mà chỉ đối lập với quan liêu, chuyên chế, độc tài. Tập trung càng không đối lập với dân chủ. Nó chỉ đối lập với phân tán, cục bộ, bè phái, tự do vô chính phủ mà thôi. Tập trung đúng đắn sẽ làm tăng sức mạnh của dân chủ. Dân chủ đúng đắn phải dựa trên cơ sở tập trung. Dân chủ tách rời tập trung sẽ thành vô chính phủ. Tập trung không trên cơ sở dân chủ sẽ thành tập trung quan liêu, độc tài. Muốn có tập trung dân chủ thì phải bảo đảm dân chủ thực chất, đồng thời đề cao kỷ luật, tăng cường chế độ trách nhiệm. Như vậy, trong nguyên tắc tập trung dân chủ, “tập trung” và “dân chủ” thống nhất với nhau, tương tác đồng thuận với nhau chứ không phải là hai mặt đối lập loại trừ nhau như các luận điểm sai trái đã rêu rao.

4- Nguyên tắc tập trung dân chủ là một “nguyên tắc sai lầm”, “làm mất dân chủ” và “tất yếu dẫn đến tập trung quan liêu, chuyên chế, tình trạng vô trách nhiệm” (?!)

Lập luận này xuyên tạc rằng, nguyên tắc tập trung dân chủ chỉ đúng trên lý thuyết, chứ trong thực tế không thể thực hiện được, càng thực hiện thì hiện tượng chuyên quyền độc đoán trong bộ máy lãnh đạo càng nhiều, quan điểm này đã bám lấy những hiện tượng vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ trong thực tế, có những trường hợp vi phạm nghiêm trọng gây ra hậu quả tai hại, để phủ nhận nguyên tắc này. Họ đã lẫn lộn giữa những hiện tượng vi phạm nguyên tắc với bản chất của nguyên tắc.

Với luận điệu sai trái này, tập trung dân chủ chỉ là “một thứ chế độ tập quyền, độc đoán bảo thủ, kìm hãm tư duy sáng tạo”. Họ ra sức tán dương thực hiện dân chủ tự do, dân chủ vô hạn độ, dân chủ cực đoan; ủng hộ nhiều phe nhóm đối lập để đấu tranh, bàn cãi; sử dụng chiêu bài “dân chủ”, “đa nguyên” cổ vũ cho những bất đồng ý kiến trong Đảng để chia rẽ Đảng. Họ cố tình tỏ ra không hiểu, hoặc cố tình xuyên tạc bản chất của nguyên tắc, họ cố tình “bới lông tìm vết” bằng việc dẫn ra những ví dụ về sai lầm, về quan liêu độc đoán, về việc mất dân chủ của một số người trong bộ máy của Đảng để “quy chụp”, để đòi phải thay nguyên tắc tập trung dân chủ. Một số cán bộ, đảng viên còn ngộ nhận rằng tập trung càng cao thì dân chủ càng giảm, muốn tăng cường dân chủ thì phải giảm bớt tập trung; còn giữ lại nguyên tắc tập trung dân chủ thì bản chất của nó không thể khắc phục được tệ độc đoán, gia trưởng, quan liêu... 

5- Phải “bỏ chế độ thiểu số phục tùng đa số”, “cho đảng viên được nói và làm khác với nghị quyết của Đảng” mới có “dân chủ”, “sáng tạo” (?!)

Ý kiến sai lầm này cho rằng, cái mới bao giờ cũng là thiểu số nên chế độ thiểu số phục tùng đa số của nguyên tắc tập trung dân chủ làm triệt tiêu cái mới, cái sáng tạo, vì vậy, cần bỏ chế độ thiểu số phục tùng đa số, cho phép đảng viên được nói và làm khác với nghị quyết của Đảng thì mới có dân chủ, sáng tạo. Đây là một cách nhìn phiến diện, sai lầm về nguyên tắc tập trung dân chủ. Đúng là cái mới lúc ban đầu thường là thiểu số, nhưng trong nội dung nguyên tắc tập trung dân chủ đã có cơ chế bảo vệ cái mới là chế độ bảo lưu ý kiến thuộc về thiểu số nên không thể nói nguyên tắc tập trung dân chủ làm triệt tiêu cái mới, cái sáng tạo. Trên thực tế, nhiều ý kiến thuộc về thiểu số đã được bảo lưu, bảo đảm quyền của đảng viên và bảo vệ được cái mới.

Nguyên tắc tập trung dân chủ không chỉ tạo cho Đảng kỷ luật thống nhất, nghiêm minh, mà còn tạo cơ chế hữu hiệu nhất để phát huy mọi sáng kiến, sáng tạo, khai thác mọi trí tuệ của đảng viên, của cơ sở _Nguồn: Vietnamplus.vn


Cần lưu ý rằng, trong nguyên tắc tập trung dân chủ, thiểu số phục tùng đa số là nội dung cốt lõi, đặc trưng của dân chủ trong Đảng. Chính chế độ này mới quy định các chế độ khác trong nguyên tắc tập trung dân chủ, như: Đảng viên phải chấp hành nghị quyết của tổ chức đảng; đảng viên phải nói và làm theo nghị quyết; cấp dưới phải phục tùng cấp trên... Nếu bỏ chế độ thiểu số phục tùng đa số thực chất chính là bỏ chế độ tập trung trong nguyên tắc tập trung dân chủ, và do đó, là bỏ nguyên tắc tập trung dân chủ.

***

Như vậy, thực chất tất cả những cách nhìn trên về nguyên tắc tập trung dân chủ đều nhằm đi tới xóa bỏ nguyên tắc tập trung dân chủ. Chính vì vậy, chúng ta phải nhìn sâu vào bản chất của những quan điểm sai lầm và những luận điệu chống phá này mà cảnh giác với những âm mưu, thủ đoạn, những khuynh hướng tự phát, tự do vô chính phủ, chia rẽ, phá hoại nội bộ Đảng cả ở trong nước và ngoài nước. Với những kinh nghiệm chống phá phong trào cộng sản, các thế lực thù địch đang ra sức tấn công vào nguyên tắc tập trung dân chủ và sẽ lợi dụng bất kỳ sự buông lỏng nào trong thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng để phá hoại sự thống nhất của Đảng, gây ra tình trạng vô chính phủ, tạo dựng lực lượng đối lập với Đảng. Bởi vậy, cần phê phán mọi mưu toan bác bỏ nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng, kiên quyết khắc phục những thiếu sót, tổ chức thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ. Không vì những vấp váp, sai lầm mà dao động, phủ nhận nguyên tắc này. Tuy nhiên, để bảo vệ nguyên tắc tập trung dân chủ, bác bỏ những luận điệu, những âm mưu sai trái nêu trên của các thế lực thù địch, chúng ta cũng cần nhìn thẳng vào sự thật, nhận ra những khuyết điểm trong quá trình thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ và có giải pháp kiên quyết khắc phục./.

------------------------------

(1) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t. 2, tr. 119
(2) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Tuyển tập, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1984, t. 6, tr. 339
(3), (4), (5) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 4, tr. 735, 733, 732
(6), (7) C.  Mác và Ph.  Ăng-ghen: Tuyển tập, Sđd, t.  6, tr. 346, 339
(8) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1977, t. 41, tr. 7
(9) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 36, tr. 185
(10) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 41, tr. 253
(11), (12) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 41, tr. 340 - 342, 348
(13) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 41, tr. 116


Đổi mới chính trị nhưng không làm thay đổi chế độ chính trị

PGS, TS. VŨ HOÀNG CÔNG
Tổng Biên tập Tạp chí Lý luận chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
11:03, ngày 06-01-2020

Đất nước đổi mới và phát triển nhanh chóng trong hơn 30 năm qua _Ảnh: Tư liệu

TCCS - Hơn 30 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đất nước ta có nhiều đổi mới cả về kinh tế, xã hội và chính trị. Tại mỗi kỳ đại hội Đảng, báo cáo chính trị đều đề cập tới thành tựu cũng như phương hướng tiếp tục đổi mới chính trị. Điều này khiến cho một số người băn khoăn: “Liệu đổi mới chính trị có dẫn đến thay đổi chế độ chính trị?”. Bên cạnh những suy tư chân thành như vậy, một số kẻ xấu cũng nhân đây rêu rao “Việt Nam đang thay đổi chế độ chính trị, ngày càng xa rời chủ nghĩa xã hội!”. Trước những suy tư và ngộ nhận nói trên, sau đây bài viết góp phần khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam đã và tiếp tục lãnh đạo đổi mới chính trị, nhưng không phải là thay đổi chế độ chính trị.

Việt Nam đã đổi mới chính trị

Để thấy được sự đổi mới chính trị ở Việt Nam trong hơn 30 năm qua, có thể xem xét những biểu hiện của nó trên 3 phương diện: 1- Đổi mới tư duy chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam; 2- Đổi mới thể chế chính trị, cụ thể là đổi mới Hiến pháp và pháp luật; 3- Những biểu hiện dân chủ hóa trong đời sống chính trị thực tế. Trên tất cả các phương diện đó, có rất nhiều sự đổi mới, nhưng tựu trung là hướng đến một nền chính trị ngày càng dân chủ đầy đủ hơn.

 Thứ nhất, đổi mới tư duy chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Tổng kết 10 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, Đại hội VIII của Đảng (năm 1996) khẳng định, trước hết, Đảng ta đã đổi mới tư duy chính trị, thể hiện ở việc nhận thức rõ hơn về tình hình thế giới, từ đó đổi mới chủ trương, đường lối đối ngoại và đổi mới tổ chức cũng như phương thức hoạt động của hệ thống chính trị.

Đúng là mọi sự đều phải bắt nguồn từ nhận thức. Ngay từ năm 1986, mặc dù đây là thời điểm hệ thống xã hội chủ nghĩa do Liên Xô đứng đầu vẫn còn tồn tại, có sức mạnh cân bằng với phương Tây do Mỹ đứng đầu, song từ tình hình thế giới và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội sau năm 1975, Đảng ta đã bước đầu thấy rõ cần có sự thay đổi mạnh mẽ tư duy về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, trong đó bao hàm thay đổi nhận thức về chính trị quốc tế. Từ nhận thức đó, Đảng và Nhà nước ta đã chủ động hướng đến bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, Mỹ và gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Tư duy này càng được củng cố với việc Việt Nam dần xóa bỏ thế bị bao vây cấm vận và thế bị cô lập trên trường quốc tế. Với đường lối đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế, đến nay Việt Nam đã là thành viên có uy tín của nhiều tổ chức quốc tế và khu vực, có quan hệ ngoại giao với 189 quốc gia, quan hệ thương mại với 200 quốc gia và vùng lãnh thổ, là một trong 12 thành viên đầu tiên của Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP).

Song song với đổi mới tư duy về chính trị quốc tế, tư duy mới về chủ nghĩa xã hội, về dân chủ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về đại đoàn kết toàn dân tộc và vai trò của các giai cấp, tầng lớp nhân dân trong xây dựng đất nước,... ngày càng được củng cố, trở thành cốt lõi trong tư duy chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam. “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” năm 1991 và “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (bổ sung, phát triển năm 2011) là quá trình hoàn thiện nhận thức về chủ nghĩa xã hội thấm đậm tư tưởng Hồ Chí Minh. Điều quan trọng là những tư duy mới này không phải chỉ là tư duy chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam với tư cách là đảng cầm quyền, mà còn là nhận thức chung của cả xã hội, định hướng cho hoạt động của Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội và mỗi người dân.

Thứ hai, đổi mới thể chế chính trị.

Đổi mới tư duy chính trị với những nội dung cơ bản nêu trên được chuyển thành những thay đổi về mặt thể chế. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam và các tổ chức chính trị  - xã hội đã được sửa đổi theo sự đổi mới của tư duy chính trị. Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001), Hiến pháp năm 2013 và hàng chục đạo luật khác đã thể chế hóa về mặt pháp lý tư duy chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam, tạo thành khuôn khổ thể chế cho đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị. Có thể thấy sự đổi mới của thể chế chính trị như sau:

Mối quan hệ giữa Nhà nước với nhân dân: Điều 2 Hiến pháp năm 2013 ghi: “1-  Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. 2-  Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”. 

Hiến pháp khẳng định, nhân dân thực hiện quyền dân chủ không chỉ thông qua Nhà nước, qua tổ chức đại diện khác, mà còn bằng hình thức trực tiếp. Luật về bầu cử đại biểu Quốc hội và hội đồng nhân dân từ năm 1992 đến nay đều cho phép công dân có quyền tự ứng cử. Những văn bản quy định về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về thủ tục hành chính, về bầu cử đại biểu Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, về chế độ trách nhiệm của người được bầu; những văn bản pháp luật bảo đảm quyền làm chủ của công dân, như: Pháp lệnh Khiếu nại, tố cáo (nay là Luật Khiếu nại và Luật Tố cáo); Pháp lệnh Thanh tra (nay được nâng thành Luật Thanh tra), Luật Báo chí (sửa đổi), Luật Xuất bản (sửa đổi), Pháp lệnh về phòng, chống tham nhũng (nay là Luật Phòng, chống tham nhũng), đặc biệt là Quy chế Dân chủ ở cơ sở (sau nâng thành Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn)..., tất cả đã minh chứng sự thay đổi mạnh mẽ trong thể chế chính trị Việt Nam theo hướng ngày càng dân chủ hơn.

Mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Qua sự sàng lọc của lịch sử, Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội ở Việt Nam. Với địa vị đó, đã có lúc Đảng bao biện, làm thay Nhà nước (như tự phê bình của Đảng). Từ năm 1991, “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” đã khẳng định, Đảng lãnh đạo Nhà nước, nhưng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật. Điều này được khẳng định lại tại Điều 4 Hiến pháp năm 2013. Cùng với phát triển tư duy về nhà nước pháp quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn tìm tòi để giải quyết tốt nhất mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước. Thực tiễn cho thấy, trong sự phát triển của đất nước không thể không có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhưng đồng thời không thể không có sự lãnh đạo của Đảng. Đảng phải lãnh đạo xây dựng nhà nước pháp quyền, đồng thời tuân thủ quyền hạn của Nhà nước pháp quyền. Nghị quyết của Đảng không thay cho pháp luật; quyết định của Đảng không thay cho quyết định của cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước. Đảng viên của Đảng phải thông qua bầu cử trực tiếp của cử tri hoặc bầu cử gián tiếp của đại biểu nhân dân mới trở thành người nắm giữ các chức vụ nhà nước và có quyền lực nhà nước.

Về mặt tổ chức, trong các cơ quan nhà nước đều có cấp ủy đảng là hạt nhân lãnh đạo, như đảng đoàn, ban cán sự đảng, đảng ủy..., nhưng không vì thế mà các đảng viên giữ cương vị đứng đầu các cơ quan nhà nước khi vi phạm pháp luật có thể tránh khỏi bị xử lý nghiêm khắc cả về mặt đảng và chính quyền.

Mối quan hệ giữa nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội với Đảng: “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (bổ sung, phát triển năm 2011) và Hiến pháp năm 2013 đều khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động, là đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng chịu sự giám sát của nhân dân và chịu trách nhiệm trước nhân dân về mọi quyết định của mình. Đây là những khẳng định rất mới, thể hiện mối quan hệ hai chiều giữa người lãnh đạo và người chịu sự lãnh đạo; giữa đại biểu cho một bộ phận và đại biểu cho toàn thể dân tộc.

Mối quan hệ giữa Đảng với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội cũng thể hiện rõ hơn tinh thần dân chủ. Điều đó được thể hiện trong các quy định của pháp luật, của Điều lệ Đảng, cũng như trong các quy định của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Theo đó, Đảng dựa vào Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, đồng thời chịu sự giám sát, phản biện xã hội của các tổ chức này. 

Thứ ba, những biểu hiện dân chủ hóa trong đời sống chính trị thực tế.

Với sự đổi mới tư duy chính trị và đổi mới thể chế chính trị, thực tiễn đời sống chính trị của đất nước trong hơn 3 thập niên qua đã khởi sắc theo hướng ngày càng dân chủ hơn, đúng như Đảng ta đã xác định từ Đại hội VII (năm 1991): Thực chất của đổi mới hệ thống chính trị chính là vấn đề dân chủ hóa.

Trong các kỳ bầu cử đại biểu Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, có nhiều công dân ngoài Đảng tự ứng cử và không ít người đã trúng cử. Đã có nhiều hơn đại biểu cho khối doanh nhân tham gia cơ quan quyền lực nhà nước. Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp ngày càng thể hiện rõ hơn quyền lực của cơ quan đại biểu của nhân dân trong lập pháp, giám sát và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và địa phương. Bộ máy hành chính nhà nước từ Trung ương đến địa phương đang đổi mới theo hướng công khai, minh bạch, hiệu lực, hiệu quả. Chính phủ đang phấn đấu không chỉ là người phục vụ nhân dân, phục vụ doanh nghiệp, mà còn là người kiến tạo phát triển. Bộ máy tư pháp đã có những cải cách quan trọng, thể hiện rõ hơn vai trò bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, có trách nhiệm với sinh mệnh của người bị xử oan, sai.

Để ngày càng xứng đáng là đảng duy nhất cầm quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam đã và đang, một mặt, tăng cường xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; mặt khác, quyết liệt đấu tranh với tham nhũng, lãng phí. Chưa khi nào công tác kiểm tra, kỷ luật đảng được tiến hành mạnh mẽ như hiện nay. Chỉ trong nhiệm kỳ Đại hội XII, đến nay đã có gần 70 cán bộ cao cấp thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý và hàng nghìn người khác bị kỷ luật với những hình thức khác nhau. Hầu như tất cả số đó đều liên quan tới tham nhũng. Đáng chú ý là, cuộc đấu tranh chống tham nhũng đã được đông đảo nhân dân, các phương tiện thông tin đại chúng ủng hộ, hưởng ứng, và điều đó càng làm tăng thêm uy tín của Đảng.

Hoạt động giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội đối với Đảng, Nhà nước trong những năm qua đã mạnh mẽ hơn. Vai trò của báo chí ngày càng trở nên quan trọng trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Hiện nay, trên khắp đất nước, bên cạnh các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội chính thống, đã có hàng trăm tổ chức tự nguyện của các tầng lớp, giai cấp có phạm vi hoạt động trong cả nước; hàng nghìn tổ chức hoạt động trong phạm vi địa phương được thành lập và có đóng góp đáng kể vào phát triển kinh tế, xã hội của các vùng, miền.

Dân chủ hóa trên lĩnh vực kinh tế ngày càng rõ nét với sự lớn mạnh không ngừng của thành phần kinh tế tư nhân và môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp. Kinh tế tư nhân đã thực sự trở thành một trong những động lực quan trọng của phát triển đất nước và tiếp tục được tạo điều kiện thuận lợi để phát triển.

Tất cả những đổi thay đó là điều không thể phủ nhận, ngay cả đối với một số người Việt Nam sinh sống ở nước ngoài đã nhiều năm chống đối Đảng, Nhà nước ta. Ghi nhận sự đổi mới chính trị cả trong tư duy chính trị lẫn thể chế chính trị và đời sống chính trị thực tế, nhiều tổ chức quốc tế, nhiều quốc gia đã thiết lập và phát triển quan hệ chính trị tốt đẹp với Việt Nam. Điều này đã được Đảng Cộng sản Việt Nam khái quát tại Đại hội XII: Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và cả hệ thống chính trị được đẩy mạnh. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa. Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao.

Đổi mới chính trị ở Việt Nam đã và sẽ không làm thay đổi chế độ chính trị, mà làm cho chế độ chính trị ngày càng thể hiện rõ hơn sự tiến bộ và phù hợp với điều kiện, đặc điểm của đất nước Việt Nam

Những đổi mới về chính trị như đã nêu ở trên có làm thay đổi chế độ chính trị của Việt Nam hay không? Câu trả lời là “không!”. Đó là khẳng định và quyết tâm của Đảng Cộng sản Việt Nam và cũng là nguyện vọng của đa số người dân Việt Nam.

Để thấy rõ căn cứ khoa học và thực tiễn của vấn đề này, trước hết, cần hiểu được các khái niệm “chế độ chính trị” và “chế độ chính trị của Việt Nam hiện nay”, và vì sao chế độ chính trị của Việt Nam hiện nay lại là sự lựa chọn của Đảng Cộng sản Việt Nam và đại đa số nhân dân Việt Nam; thứ hai, chế độ chính trị của Việt Nam hiện nay có tương thích, phù hợp và thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hay không?

Về các khái niệm “chế độ chính trị” và “chế độ chính trị của Việt Nam hiện nay”.

Khái niệm “chế độ chính trị” đã xuất hiện từ lâu trong sách, báo chính trị, song thật khó tìm được một định nghĩa hoàn chỉnh về nó. Ngay cả C. Mác và Ph. Ăng-ghen cũng không đưa ra định nghĩa về khái niệm này. Cũng như C. Mác và Ph. Ăng-ghen, V.I.  Lê-nin rất ít khi sử dụng khái niệm “chế độ chính trị”. V.I.  Lê-nin cũng không đưa ra định nghĩa về nó. Do vậy, chỉ có thể thông qua văn cảnh của V.I.  Lê-nin mà nhận biết nội hàm của khái niệm này. Chẳng hạn, trong “Thư gửi Đại hội Đảng Cộng sản (b) Nga lần thứ XIII”, năm 1922, V.I.  Lê-nin viết: “Tôi rất muốn đề nghị Đại hội lần này quy định một số thay đổi trong chế độ chính trị của chúng ta”(1). Trong tác phẩm “Bàn về chế độ hợp tác xã”, V.I.  Lê-nin nói: “Người ta quên mất rằng, do đặc điểm của chế độ chính trị nước ta mà hợp tác xã ở nước ta có một ý nghĩa hết sức đặc biệt. Nếu không kể những tô nhượng... thì thường thường trong hoàn cảnh nước ta, chế độ hợp tác xã là hoàn toàn đồng nhất với chủ nghĩa xã hội”(2). Nói tới chế độ chính trị của nước Nga Xô-viết, V.I.  Lê-nin coi đó là sự tồn tại thực tế của chính quyền Xô-viết, là vai trò độc quyền lãnh đạo của một đảng cộng sản duy nhất ở Nga, hay nói rộng hơn, là sự độc quyền lãnh đạo của giai cấp công nhân và liên minh giữa giai cấp công nhân và giai cấp nông dân.

Tuy không định nghĩa “chế độ chính trị”, nhưng khi nói đến nó, các nhà kinh điển mác-xít muốn trả lời cho câu hỏi: Quyền lực nhà nước đang nằm trong tay giai cấp nào và cá nhân nào; nó được hình thành theo phương thức nào (chiếm đoạt hay bầu cử) và được thực hành theo nguyên tắc nào (độc đoán hay dân chủ)?

Theo nhà nghiên cứu khoa học chính trị người Anh An-đrây Hây-út (Andrew Haywood), các nhà nghiên cứu khoa học chính trị đều thừa nhận việc đề cập đến nội hàm khái niệm “chế độ chính trị” là khó thống nhất và cần phải dựa vào nhiều tiêu chí, trong đó có một số tiêu chí thường được đưa ra nhằm trả lời các câu hỏi sau: 1- Ai cai trị? Sự tham gia chính trị chỉ có nhóm tinh hoa, nhóm ưu tiên hay bao gồm toàn thể nhân dân? 2- Làm thế nào để đạt được sự hài lòng? Sự tuân thủ chính phủ dựa trên sự đe dọa, cưỡng bức hay là sự thỏa thuận? 3- Quyền lực của chính phủ là tập trung hay phân tán? Hình thức nào để kiểm tra và cân bằng quyền lực trong hệ thống chính trị? 4- Quyền lực chính phủ bị đòi hỏi và chuyển giao như thế nào? Đó là chế độ mở và cạnh tranh hay độc quyền? 5- Cái gì làm cân bằng giữa Nhà nước và cá nhân? Sự phân bổ quyền và trách nhiệm giữa Chính phủ và công dân là thế nào? 6-  Sự phát triển mức sống vật chất thế nào? Sự phân phối của cải có bình đẳng không? 7-  Đời sống kinh tế được tổ chức ra sao? Kinh tế đi theo cơ chế thị trường hay cơ chế kế hoạch? Vai trò kinh tế của Nhà nước thế nào? 8- Làm thế nào để chế độ ổn định, tồn tại qua thời gian và có năng lực đáp ứng đòi hỏi và thách thức mới?

Cũng có cách phân chia chế độ chính trị theo hình thức nhà nước, như quân chủ tuyệt đối, quân chủ lập hiến, cộng hòa tổng thống, cộng hòa nghị viện, cộng hòa nửa tổng thống...

Ngoài ra, có thể phân chế độ chính trị theo thái độ ủng hộ hay không ủng hộ tự do dân sự. Theo đó, có thể phân thành chế độ vô chính phủ, chế độ thiểu quyền, chế độ toàn trị.

Trong thực tiễn đời sống chính trị - xã hội, các nhà nước thường xác định chế độ chính trị của mình qua quốc hiệu và hiến pháp (mặc dù trong thực tế, có thể không đạt được). Tùy theo mỗi nước, hiến pháp sẽ cụ thể hóa chế độ chính trị trong lời nói đầu, hay trong một số điều khoản nhất định, trong một chương, thậm chí trong nhiều chương, nhất là các chương về quyền hạn, nhiệm vụ của các thiết chế nhà nước cụ thể, như tổng thống, nghị viện, tòa án.... 

Hiến pháp nước Mỹ, từ văn bản đầu tiên (năm 1789) cho đến ngày nay với nhiều lần được bổ sung, không có chương nào quy định về chế độ chính trị, song qua toàn bộ các điều của Hiến pháp, người ta thấy được tinh thần cộng hòa và dân chủ mà nhà nước Mỹ và xã hội Mỹ sẽ đi theo.

Như vậy, từ khoa học chính trị, khoa học pháp lý và từ thực tiễn của các nước trên thế giới, có thể hiểu “chế độ chính trị” là khái niệm dùng để chỉ toàn bộ những nguyên tắc cơ bản điều chỉnh tổ chức và hoạt động của nhà nước, mối quan hệ giữa nhà nước và công dân, giữa nhà nước và các tổ chức chính trị; điều chỉnh các quá trình chính trị cơ bản của đất nước, qua đó thể hiện bản chất giai cấp của quyền lực chính trị trong xã hội.

Nói về chế độ chính trị của Việt Nam, Hiến pháp Việt Nam năm 1946 có chương đầu là “Chính thể” (thể chế chính trị), trong đó chỉ nêu 3 điều ngắn gọn, khẳng định những điều cơ bản, tối quan trọng mà đất nước đã và sẽ phấn đấu hướng đến là Dân chủ, Cộng hòa và Thống nhất lãnh thổ.

Hiến pháp Việt Nam năm 1959 có tên chương I là “Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa”, trong đó có 8 điều cụ thể hóa về chế độ chính trị. Tiếp theo, chương II có tên là “Chế độ kinh tế và xã hội”.

Các bản Hiến pháp Việt Nam năm 1980 và năm 1992 có tên chương I là “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Chế độ chính trị”, với nhiều điều quy định. Tiếp theo, chương II có tên là “Chế độ kinh tế”.

Hiến pháp Việt Nam năm 2013 có tên chương I  là “Chế độ chính trị”, với 13 điều quy định một cách toàn diện, bao trùm, từ vấn đề độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ đến các vấn đề về bản chất và nguyên tắc tổ chức nhà nước, vị trí, vai trò của nhân dân, của Đảng Cộng sản Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam, nguyên tắc đối ngoại của Nhà nước Việt Nam, trách nhiệm của Nhà nước trong bảo vệ và phát triển quyền con người, quyền công dân, trừng trị các hành vi chống lại độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và sự nghiệp bảo vệ, xây dựng đất nước...

Đó là những điều khẳng định những thành quả mà cách mạng nước ta đạt được trong nhiều thập niên đấu tranh giành độc lập và xây dựng đất nước, nhất là qua hơn 3 thập niên tiến hành công cuộc đổi mới đất nước. Đó cũng là lý tưởng, mục đích mà cả dân tộc hướng tới và cần phát huy hơn nữa. Đó vừa là những nguyên tắc có tính chỉ đạo xuyên suốt việc tiếp tục xây dựng các quy định pháp luật cụ thể, vừa là những nguyên tắc điều chỉnh ngay các hoạt động thực tiễn của công dân, Nhà nước và Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền. Do đó, Hiến pháp năm 2013 sau khi được hàng triệu lượt cá nhân, tổ chức góp ý và được Quốc hội thông qua, đã chứng minh cho sự thống nhất, đồng lòng với Đảng Cộng sản Việt Nam của đại đa số nhân dân ta.

Cũng giống chế độ chính trị của bất kỳ quốc gia nào, chế độ chính trị của Việt Nam hiện nay là sản phẩm của quá trình phát triển, hoàn thiện và sẽ tiếp tục được phát triển, hoàn thiện.

Phát triển, hoàn thiện chế độ chính trị ở Việt Nam không cản trở quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế của đất nước, mà càng làm cho đất nước độc lập, tự chủ, giàu mạnh, phồn vinh, người dân được tự do, hạnh phúc.

Chủ nghĩa Mác khẳng định, suy cho cùng, kinh tế quyết định chính trị. Theo quy luật tiến hóa của loài người, các chế độ chính trị sẽ ngày càng tiến bộ vì con người. Sự phát triển của thế giới ngày nay trên nền tảng của quan hệ kinh tế thị trường toàn cầu hóa với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư khiến nhiều quốc gia phải đổi mới, không chỉ về kinh tế mà cả về chính trị. Việt Nam đang trên đà tích cực, chủ động hội nhập quốc tế cũng sẽ tiếp tục đổi mới chính trị. Báo cáo chính trị tại Đại hội XII của Đảng đã nêu lên những phương hướng cơ bản của công cuộc xây dựng đất nước, mà theo nghĩa rộng của khái niệm, đều thể hiện sự phát triển và hoàn thiện đổi mới chính trị. Theo nghĩa hẹp, có thể coi 4 phương hướng sau (cũng do Đại hội XII của Đảng đề ra) đều liên quan trực tiếp tới đổi mới chính trị, đó là: Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân; xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.

Trên mỗi phương hướng nêu lên, Đảng ta đề ra nhiều giải pháp cụ thể. Có những giải pháp đã được thực hiện từ nhiều năm trước; có những giải pháp mới hơn hoặc mạnh mẽ hơn, được cụ thể hóa bằng những nghị quyết hội nghị Trung ương trong thời gian gần đây và trở thành hành động thực tế. Có thể nói, việc Đảng ta đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong thời gian vừa qua là mạnh mẽ chưa từng có, có ý nghĩa không chỉ làm trong sạch bộ máy của Đảng, Nhà nước, mà còn làm tăng sự tin tưởng và ủng hộ của nhân dân đối với Đảng. Cũng như vậy, đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng chính phủ điện tử, tiến tới chính phủ số để phục vụ tốt hơn cho doanh nghiệp và người dân, kiến tạo phát triển vừa tạo được sự ủng hộ của người dân và cộng đồng quốc tế đối với Nhà nước Việt Nam, vừa thực sự thúc đẩy phát triển kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.


Cộng đồng quốc tế đã thừa nhận sự đổi mới và phát triển nhanh chóng của Việt Nam trong hơn 30 năm qua gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Việt Nam đã bước vào ngưỡng phát triển trung bình của thế giới, có nhiều thành tựu trong xóa đói, giảm nghèo, tạo lập sự công bằng, không để ai bị gạt ra bên lề của sự phát triển, cũng như trong thực hiện bình đẳng giới... Cộng đồng quốc tế sẽ tiếp tục ủng hộ mạnh mẽ một Việt Nam ổn định về chính trị, phấn đấu vì sự giàu mạnh của đất nước, hạnh phúc của nhân dân.

Chính trị là lĩnh vực nhạy cảm, không chỉ liên quan tới việc quyền lực nhà nước, quyền lực chính trị nằm trong tay ai, mà còn liên quan trực tiếp tới tự do, hạnh phúc của mỗi người dân, vận mệnh của cả đất nước, dân tộc. Đổi mới chính trị vừa là yêu cầu từ cuộc sống, vừa là nhu cầu từ chính bản chất của Đảng, Nhà nước ta. Bởi vậy, đổi mới chính trị đòi hỏi phải giữ vững những nguyên tắc làm thành chế độ chính trị, đồng thời phải có sự khéo léo của đội ngũ những người lãnh đạo. Đó là những thách thức lớn đối với Đảng Cộng sản Việt Nam và cũng là trách nhiệm của mỗi công dân Việt Nam chân chính./.

----------------------------------

 (1), (2) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 45, tr. 393, 427


Âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch với văn hóa, văn nghệ chỉ là sự cường điệu, “báo động giả” hay thực sự đáng báo động?

ĐINH XUÂN DŨNG
GS, TS, Hội đồng Lý luận phê bình văn học nghệ thuật Trung ương
17:15, ngày 09-10-2019

TCCS - Trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, đất nước ta đã và đang có nhiều cơ hội để phát triển, nhưng cũng phải đối mặt với không ít nguy cơ, thách thức. Một trong những thách thức, nguy cơ đã được Đảng ta chỉ ra là âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch với những thủ đoạn mới, trong đó có việc chúng triệt để sử dụng các phương tiện truyền thông để tấn công mạnh mẽ hơn về tư tưởng - văn hóa và coi đây là mũi nhọn chống phá Đảng và chế độ ta. Vậy đặc điểm, những biểu hiện của âm mưu này ra sao? Cần có giải pháp ứng phó như thế nào? Đó là những câu hỏi bức thiết cần được giải đáp hiện nay.

1-  Hiện nay, trong dư luận xã hội và trong giới trí thức, văn nghệ sĩ đang có những nhận định, ý kiến khác nhau về tác động của âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch với văn hóa, văn nghệ nước ta. Có ý kiến khẳng định mạnh mẽ, “báo động” về tác hại trực tiếp và thực trạng rất phức tạp của “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực có nhiều đặc thù này. Cũng có ý kiến cho rằng, các thế lực thù địch thực hiện âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” chủ yếu trên lĩnh vực chính trị, tổ chức, nhân sự, ngoại giao..., còn nói “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực văn hóa, văn nghệ thì chỉ là sự cường điệu, thậm chí là “báo động giả”. Vậy cần bình tĩnh, tỉnh táo khi nhận diện những biểu hiện của “diễn biến hòa bình”, đánh giá những tác động, ảnh hưởng của “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực văn hóa, văn nghệ.

Có thể thấy rằng, nghiên cứu, đánh giá tác động của âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” với văn hóa, văn nghệ không đơn thuần là vấn đề chính trị mà đó vừa là vấn đề của chính trị, vừa là vấn đề của khoa học. Do vậy, không thể giản đơn, máy móc, quy chụp và cũng không thể lảng tránh, không nhận ra tác động tinh vi, phức tạp của “diễn biến hòa bình” đối với lĩnh vực này. Tuy nhiên, quá trình nghiên cứu, đánh giá cần tránh hai khuynh hướng sau: Một là, mất cảnh giác hoặc phủ nhận tác động của “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực văn hóa, văn nghệ. Hai là, quy chụp với cách nhìn máy móc, cứng nhắc, không hiểu biết đầy đủ về bản thân văn hóa, văn nghệ trong thời kỳ mới với rất nhiều vấn đề đặt ra trong thực tiễn, đòi hỏi sự tham gia trực tiếp của văn hóa, văn nghệ, góp phần vào sự phát triển của con người và xã hội.

2- Có âm mưu và thủ đoạn “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực văn hóa, văn nghệ không? Đây là một câu hỏi tưởng như đơn giản nhưng đòi hỏi phải tìm được câu trả lời trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn.

Ngay từ năm 1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra, cùng với âm mưu xâm lăng nước ta bằng quân sự, các nước đế quốc còn thực hiện âm mưu xóa bỏ những giá trị truyền thống, tinh hoa văn hóa tốt đẹp của dân tộc ta. Nhận định của Bác là sáng suốt, bởi đến nay, mặc dù thế giới đã thay đổi nhanh chóng, tương quan và hình thái xã hội trên toàn cầu đã có nhiều biến đổi, nhưng có thể thấy các nghị quyết, văn kiện của Đảng và Nhà nước ta trong mấy nhiệm kỳ gần đây đều vẫn nhấn mạnh các thế lực thù địch tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” đối với nước ta. Thực tế, không ít các nhà nghiên cứu nước ngoài từng đưa ra những lo ngại, băn khoăn rằng, trong quá khứ Việt Nam có đủ khả năng chống trả ảnh hưởng của văn hóa nước ngoài, nhưng hiện nay liệu người Việt Nam sẽ có những biện pháp gì để chống lại thông tin xấu, độc từ các nước phương Tây nhằm hạn chế tối đa những tác động xấu đối với xã hội và con người... Không phải vô cớ mà Tổng thống Mỹ R. Nich-xơn, khi thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” đối với các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô (trước đây) đã lớn tiếng tuyên bố khâu quyết định có ý nghĩa chiến lược là bằng mọi cách “tước bỏ vũ khí tư tưởng của đối phương” và coi tư tưởng, văn hóa, văn nghệ như là “cửa mở” của “cuộc chiến tranh không có khói súng”, các “cuộc cách mạng sắc màu”, “cách mạng nhung”... để đi đến “chiến thắng không cần chiến tranh”...

Hiện nay, nhiều thông tin toàn diện, trong đó có nhiều minh chứng cụ thể đã cho chúng ta thấy rõ hơn các âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch đối với Việt Nam. Thông qua các phương tiện truyền thông, mạng xã hội, các blogger đã tấn công cá nhân các nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản và toàn bộ hệ thống chính trị - xã hội Việt Nam, chiến lược chung là nhằm tạo ra sự mất ổn định kinh tế - chính trị - xã hội. Hoạt động này đã và đang được thực hiện một cách ráo riết cùng với việc lợi dụng các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức núp dưới chiêu bài bảo vệ “nhân quyền” và không ít người đã nhận được “hỗ trợ”, “tài trợ” từ các cơ quan nước ngoài, các tổ chức văn hóa, thậm chí trực tiếp từ chính phủ một số nước phương Tây. Về văn hóa, toàn bộ vũ khí văn hóa chống lại “nền tảng tư tưởng” đã được thiết kế, “sản xuất” ở phương Tây, sau đó được “cấy ghép” vào các nước ở Trung và Nam Mỹ, khu vực Nam Phi, vào Trung Quốc, Nga và ngày càng nhiều ở Việt Nam.

Như vậy, dù vẫn còn những người nghi ngờ, lảng tránh, “bỏ qua”, thậm chí cho là “báo động giả”, nhưng thực tế cho thấy, âm mưu của các thế lực thù địch hòng thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” chống phá Việt Nam là có thật, thậm chí “sản phẩm” này còn được đề ra, được xác định thực hiện trong một thời gian dài, có lộ trình cụ thể và đã được đưa lên thành chiến lược trong thời kỳ mới từ những năm 80 của thế kỷ XX đến nay. Trong chiến lược đó, tư tưởng, văn hóa, văn nghệ luôn là “cửa mở”, “cửa đột phá để tước bỏ vũ khí tư tưởng của đối phương”, từ đó nhằm đánh gục đối phương từ bên trong, từ bên trên, từ gốc “nền tảng tư tưởng”.

3- Những năm qua, cuộc “đọ sức” giữa âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch trên lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật với lực lượng hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, văn nghệ ở nước ta (lãnh đạo, quản lý, sáng tác, biểu diễn...) diễn ra tưởng như thầm lặng nhưng thực ra rất quyết liệt, phức tạp, vừa trực tiếp, vừa gián tiếp.

Mặc dù các thế lực thù địch, cơ hội chính trị hoạt động chống phá ngày càng ráo riết, nhưng cần phải khẳng định rằng, văn hóa, văn nghệ của chúng ta vẫn phát triển đúng hướng, góp phần tích cực vào sự nghiệp chung của dân tộc. Lực lượng sáng tạo và hoạt động trên lĩnh vực này, theo nhận định sáng suốt của Đảng và nhân dân, là những người tin cậy, trung thành, có nhiều đóng góp, có tình yêu đất nước, dân tộc, nhân dân, tâm huyết với sự nghiệp đổi mới và với nghề nghiệp. Nhận định đó là khách quan, trung thực và đã được minh chứng trong thực tiễn.

Mặc dù các thế lực thù địch, cơ hội chính trị chống phá ngày càng ráo riết, nhưng lĩnh vực văn hóa, văn nghệ của chúng ta vẫn phát triển đúng hướng, góp phần tích cực vào sự nghiệp chung của dân tộc _Ảnh Tư liệu

Tuy nhiên, cũng không thể lảng tránh một thực tế là tác động của âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực văn hóa, văn nghệ đã thể hiện ngày càng rõ hơn, tinh vi hơn, cả trực tiếp lẫn gián tiếp trong các khâu của quá trình sáng tạo, quản lý, quảng bá, truyền bá lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật. Đã xuất hiện những “tác phẩm” có dụng ý chính trị rõ rệt phủ định con đường và sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta, thông qua việc bôi đen hiện thực lịch sử hoặc dùng những “hình tượng” mang tính ẩn dụ đen tối nhằm giễu nhại con đường cách mạng của dân tộc mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Vũ Thư Hiên, Bùi Tín những năm trước đây, nhóm “mở miệng” trong những năm cuối thế kỷ XX và cả truyện ngắn của một số cây bút trẻ gần đây đã bộc lộ rõ khuynh hướng này. Hùa theo khuynh hướng đó là những người làm phê bình, giới thiệu đã tìm cách đề cao các loại “tác phẩm” như vậy, coi đó là “trung thực”, là “sức mạnh” của bên lề, của ngoại vi đang tấn công để “giải” (hóa giải) trung tâm, là sự “sáng tạo” và “phát hiện” độc đáo. Thực chất, họ đã dùng những thủ pháp nghệ thuật để vu cáo, xuyên tạc, bôi bẩn các giá trị văn hóa dân tộc, các thành tựu cách mạng cả trong quá khứ và hiện tại.

Thực tế cho thấy, để đi tới thắng lợi hoàn toàn, độc lập dân tộc và thống nhất đất nước, trong suốt 30 năm (từ năm 1945 đến năm 1975), dân tộc ta đã phải trải qua muôn vàn hy sinh, gian khổ tận cùng. Đó là sự thật lịch sử, và sự hy sinh đó không phải vô ích, vô nghĩa. Chúng ta không hề muốn chiến tranh nhưng kẻ thù đem gươm, súng đến đất nước này thì “giặc dùng đạn bom ta giáng trả bằng đạn bom”, vì sự mất còn của cả dân tộc, vì độc lập, tự do và thống nhất Tổ quốc. Chân lý lịch sử đó là rõ ràng nhưng các thế lực thù địch, những kẻ cơ hội chính trị và một số người trẻ “ngây thơ” đã tìm cách xuyên tạc chân lý đó. Một số tác phẩm văn học, nghệ thuật đã miêu tả cuộc chiến tranh chính nghĩa của dân tộc ta toàn một màu đen tối, chết chóc, bi kịch, vô nghĩa; phủ định sạch trơn những sáng tạo văn hóa, văn nghệ trong thời kỳ chiến tranh, coi đó là “minh họa”, là tô hồng, là cao hơn, là đứng trên hiện thực. Chúng ta không phủ nhận những hạn chế lịch sử của mảng văn học, nghệ thuật trong chiến tranh nhưng không thể nhân danh “đổi mới” để bôi nhọ cuộc chiến đấu chính nghĩa của dân tộc bằng việc chỉ miêu tả mặt đen tối, sự chết chóc và tha hóa con người trong chiến tranh. Khuynh hướng này chỉ là phiến diện, chưa trung thực với lịch sử.

Đã từ lâu, ở phương Tây và ở Mỹ lan truyền một thông tin rằng, cuộc chiến tranh ở Việt Nam là do bị “giật dây” hoặc đó là một cuộc “nội chiến”. Những năm gần đây, luận điệu đó được “sản xuất” bởi một số chính trị gia phương Tây và đã nhanh chóng được “nhập khẩu” vào Việt Nam, tác động đến suy nghĩ, nhận định của một số trí thức, văn nghệ sĩ. Luận điệu đó đã đi vào một vài “sản phẩm” nghiên cứu, một số sáng tác, phê bình văn học, nghệ thuật. Ở một vài tác phẩm, các tác giả đã cố tình cài cắm luận điệu “nhập khẩu” đó như là một sự “phát hiện mới” của mình. Có lẽ, do phần lớn trong số họ đều là những người đứng ngoài cuộc chiến đấu nên không hiểu được khát vọng sâu thẳm của hàng triệu người Việt Nam đã chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do và thống nhất Tổ quốc, hoặc có người chạy theo “mốt thời thượng” về chính trị mà không am hiểu, thậm chí “không muốn hiểu” sự thật lịch sử đã được thừa nhận từ lâu. Thực tế đã chứng minh luận điệu của ai đó cho rằng cuộc kháng chiến giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước của nhân dân Việt Nam là “chiến tranh ủy nhiệm” hoàn toàn là sự “ngây thơ” hoặc cố tình xuyên tạc lịch sử.

Năm 1965, đế quốc Mỹ đem quân ồ ạt vào miền Nam nước ta, bắt đầu chiến lược “chiến tranh cục bộ”. Nhưng chỉ vài năm sau, chiến lược đó thất bại thảm hại. Tổng thống Mỹ công khai tuyên bố chuyển sang chiến lược mới “Việt Nam hóa chiến tranh”, nghĩa là Mỹ vẫn chủ mưu, vẫn viện trợ, trang bị “tận răng” cho quân đội và chính quyền Sài Gòn. Âm mưu này thâm độc hơn nhưng ngay từ đầu đã mang dấu hiệu thất bại. Đầu năm 1975, khi chúng ta mở chiến dịch giải phóng hoàn toàn miền Nam, chính quyền Sài Gòn đã kêu gào Mỹ viện trợ tiền và vũ khí và khi không đạt được sự cầu cứu thảm hại đó, chính họ đã “đổ lỗi” cho Mỹ về sự sụp đổ của mình. Mặc dù vậy, tại sao lại vẫn có người cố tình miêu tả, bình luận cuộc chiến này là “nội chiến”. Phải chăng họ đã “ăn phải bả” của một số chính trị gia phương Tây?

Những năm gần đây, rải rác xuất hiện một số sáng tác tập trung miêu tả, khắc họa những con người bi quan, bế tắc, tâm trạng trống rỗng, không tin và không tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống. Nhân vật trong các tác phẩm đó thường là thanh niên hay những người ở độ tuổi mới lớn. Chúng ta không phủ nhận trong xã hội hiện nay có một bộ phận nhỏ rơi vào tâm trạng đó. Song cường điệu điều đó để đi tới sự phủ định những điều tốt đẹp của cuộc sống, tạo ra bức tranh thê thảm của xã hội, reo giắc trong thế hệ trẻ sự bế tắc là trái với bản chất nhân văn của văn học, nghệ thuật. Ví dụ như lời một số ca khúc trong đĩa “Cái nường 8X” của nhạc sĩ Ngọc Đại với 9 bài hát mà hầu hết lời lẽ đều toát lên một tâm trạng uất ức, tức tối, căm giận với những ca từ, như “Thôi chào nhé. Chào vĩnh biệt những mùa xuân thật là thê thảm. Những mùa xuân thật là dã man. Những mùa xuân tối tăm, bệnh hoạn. Những mùa xuân đã chết rồi trong trái tim của anh và em và cũng có thể của cả một dân tộc. Chết dần, chết mòn, chết thật rồi....”(bài Vĩnh biệt). “ Mùa xuân thật là ngu ngốc, chán ngắt, buồn nôn”, “phí hoài, chán ngắt, bước chân mộng du...” (bài Thông điệp hoa hồng)... Đây là những bài hát đi ngược lại thuần phong, mỹ tục của người Việt Nam, tuyên truyền chống Tổ quốc, chống nhân dân, bôi xấu, xuyên tạc chế độ. Có thể thấy, đó là quan niệm lệch lạc của cá nhân nghệ sĩ, vậy “diễn biến hòa bình” ở đâu? Phải chăng đó chính là việc truyền bá chủ nghĩa hư vô, bi quan, trầm cảm và hoài nghi. Mục tiêu chính của nó là làm nảy sinh sự bất mãn, làm sai lệch tư tưởng, làm suy yếu chủ nghĩa yêu nước trong thế hệ trẻ. Tác động tai hại, thâm độc của âm mưu “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật chính là như vậy.

4- Sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Song trong tiến trình đó, có lúc chúng ta có khuyết điểm, hạn chế. Nhiều năm nay, đặc biệt là thời gian gần đây, chúng ta đang kiên quyết chỉnh đốn, làm trong sạch Đảng và hệ thống chính trị, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu... Chưa bao giờ chúng ta yêu cầu văn hóa, văn nghệ phải “tô hồng” cuộc sống. Trong lễ kỷ niệm 70 năm Ngày thành lập Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam (tháng 7-2018), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định, văn học, nghệ thuật trực tiếp tham gia sự nghiệp đổi mới đất nước, miêu tả cho hay, cho chân thật, sinh động và có sức thuyết phục sự nảy sinh và phát triển cái mới, cái tốt đẹp, cao cả trong đời sống, dũng cảm, nghiêm khắc lên án, phê phán những cái xấu xa, thấp hèn, sự thoái hóa, biến chất, tham nhũng, thói hư, tật xấu, tệ nạn xã hội, qua đó góp phần tích cực vào thắng lợi của sự nghiệp phát triển con người, phát triển đất nước. Đó chính là nhiệm vụ chủ yếu của văn học, nghệ thuật Việt Nam hôm nay và nhiều năm tới. Qua đó cũng thể hiện quan điểm và tư duy biện chứng, xuất phát từ thực tiễn của Đảng ta trên cơ sở thấu hiểu sâu sắc sứ mệnh, chức năng của văn học, nghệ thuật.

Thế nhưng, chịu sự tác động của âm mưu “diễn biến hòa bình” và bản thân “tự diễn biến” theo chiều hướng xấu, một số văn nghệ sĩ đã chỉ chú trọng “phanh phui” mặt tiêu cực, góc tối, cái xấu của xã hội và con người với một giọng điệu giễu nhại đầy ác ý và vô cảm. Số lượng “tác phẩm” loại này không nhiều nhưng tác hại lại rất lớn, vì nó đánh phá vào niềm tin của con người, nó dẫn dụ một bộ phận cán bộ, quần chúng tự tách mình ra khỏi cuộc sống, tự coi mình là vô can để có quyền phủ định, giễu nhại, phán xét. Đó chính là những kẻ cơ hội chính trị trong hoạt động văn hóa, văn nghệ.

Thực tiễn cho thấy, từ khi chúng ta bắt đầu thực hiện công cuộc đổi mới, đã xuất hiện những phần tử cơ hội. Họ tự tách ra khỏi đội ngũ, tỏ ra lo lắng nhưng huênh hoang coi mình là sáng suốt rồi khoái trá đầy ác ý chờ đợi sự thất bại mới của những người không quản nguy hiểm, dũng cảm khai phá con đường mới.

Những năm trước đây, do hoàn cảnh chiến tranh và do hạn chế chủ quan, chúng ta chưa có sự đánh giá khách quan, toàn diện về mảng văn hóa, văn nghệ ở miền Nam vùng Mỹ - ngụy  chiếm đóng. Đó là một tổng thể phức tạp bao gồm nhiều khuynh hướng khác nhau, tiến bộ và lạc hậu, cách mạng, yêu nước và phản động, dân tộc và ngoại lai... Những năm gần đây, chúng ta bắt đầu có cách nhìn mới, tạo dựng sự hòa hợp để tạo nên sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Từ mục tiêu trong sáng đó, chúng ta đã và đang nhìn nhận lại và có những đánh giá mới, tìm ra những giá trị tốt đẹp, tiến bộ, yêu nước, tinh thần dân tộc, nhân văn trong một số tác phẩm của mảng văn hóa, văn nghệ trên. Công việc đó chưa thể hoàn kết. Song lợi dụng bối cảnh đó, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị và cả những người thiếu sự tỉnh táo đã tái bản và đề cao thiếu chọn lọc cả những tác phẩm có ý đồ chính trị và tư tưởng sai lầm, phản dân tộc, chống chế độ. Người ta tưởng rằng, nhân dịp này có thể đánh tráo trắng - đen, phải - trái, để truyền bá trong công chúng những tác phẩm như vậy nhằm “chiêu tuyết” một số tác phẩm, tác giả đã bị lịch sử, nhân dân phê phán. Đây là một loại hoạt động tinh vi trong âm mưu “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực văn hóa, văn nghệ. Ở một vài trường đại học, việc xuất hiện khuynh hướng chọn các tác phẩm trên làm đề tài nghiên cứu luận văn, luận án cho thấy chúng ta còn lơ là, chủ quan với xu hướng có tác hại lâu dài này. Để làm rõ ý đồ xấu của những kẻ lợi dụng trên, xin trích một đoạn trong bài viết của Thu Tứ - con trai của Võ Phiến, một nhà văn đã có những biểu hiện, quan điểm chính trị sai lầm trong một số sáng tác của mình ở miền Nam thời chống Mỹ: “Chẳng ai muốn chỉ ra cái sai của người đẻ ra mình! Chúng tôi làm việc này vì vừa được biết một tổ chức phi chính quyền trong nước đang có kế hoạch tích cực phổ biến những tác phẩm của nhà văn Võ Phiến chứa đựng nội dung chính trị sai lầm. E rằng việc làm của họ có thể khiến một số người đọc hoang mang, ảnh hưởng tới đoàn kết dân tộc, chúng tôi quyết định tự mình phản bác nội dung này... Sẽ hết nhóm nọ đến phe kia những lúc nào đó đem vận dụng văn nghiệp Võ Phiến một cách có hại cho đất nước. Phải làm cho thật rõ về cái phần nội dung chính trị sai lầm trong văn nghiệp ấy ngay từ bây giờ”(1).

5- Hiện nay, nước ta đang tích cực, chủ động hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng, khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, là bạn và đối tác tin cậy, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Đó là một đòi hỏi và cũng là nhu cầu khách quan. Sự phát triển mạnh mẽ của các phương tiện truyền thông, mạng xã hội, in-tơ-nét,... đang tác động hằng ngày vào nước ta, đem lại những tri thức mới, hiện đại, cập nhật, đồng thời cũng du nhập vào nước ta những sản phẩm độc hại, phản văn hóa, phản thẩm mỹ và phản động về mặt tư tưởng. Đây là con đường mà các thế lực thù địch trong và ngoài nước, những phần tử cơ hội tìm cách “nhập khẩu” những quan điểm thù địch, sai trái vào nước ta, trong đó có không ít những sản phẩm văn hóa, văn nghệ. Một bộ phận quần chúng, nhất là thanh niên đang bị chi phối bởi các sản phẩm loại đó, nhất là trên các trang điện tử, mạng xã hội và trong hoạt động xuất bản. Không ít bản thảo không được xuất bản bằng các bản in chính thống đã được đưa lên mạng, gây nhiễu loạn trong nhận thức chính trị và cảm thụ thẩm mỹ của một bộ phận “cư dân” mạng. Nếu không có sự tỉnh táo và biện pháp cương quyết thì sẽ có nhiều loại sản phẩm kiểu đó tiếp tục xuất hiện.

Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 22-10-2018, của Bộ Chính trị về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới” đã khẳng định, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác có hiệu quả các quan điểm sai trái, thù địch là một nội dung cơ bản, hệ trọng, sống còn của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Trong cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, văn hóa, văn nghệ là một lĩnh vực cực kỳ quan trọng, tinh tế và nhạy cảm. Vì thế, bảo vệ vững chắc, chủ động, kiên định và linh hoạt lĩnh vực này là góp phần trực tiếp bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Với ý nghĩa và vị trí đó, cần phải khẳng định rõ ràng rằng, đây là cuộc đấu tranh để bảo vệ con người, “giành giật” con người cho chủ nghĩa xã hội và cho khát vọng Chân - Thiện  - Mỹ của chính con người./.

----------------------

(1)  Xem  https://www.nhandan.com.vn/binhluan/binh-luan-phe-phan/item/24502802-truong-hop-vo-phien.html


 

Lại mấy chứng bệnh “vĩ cuồng” về những vấn đề chính trị Việt Nam

Nhị Lê
15:18, ngày 06-10-2019

Chốc đà đã mấy mươi niên!

Vẫn nhớ những “khuôn mặt tư tưởng” đã quen. Và, vẫn hiện tồn qua đó những “linh hồn tư tưởng” với các luận đề cũng trở nên quá nhàm nhưng lại ảo vọng thành những “vĩ nhân” trong chuyện làm huyên náo “học thuật chính trị”...

Rốt cuộc, tất cả đã rơi tõm vào im ắng, và chẳng ai còn nhớ gì các vị nữa.

Chẳng hiểu có phải vì cả thẹn bởi những chuyện đó hay không mà ít năm nay các vị cũ ấy và lác đác thêm vài dung mạo nữa bỗng dưng đùng đùng tự lăng-xê mình bằng cái trò “đốt đền Ác-tê-mi”, khiến không ít người, dù hiền nhất, cũng phải bực mình.

Các vị ấy “đốt đền Ác-tê-mi” kiểu gì?

Bằng cách, qua đài báo của các thế lực thù địch ở hải ngoại, họ hô hoán toáng lên; và đồng thời, “du thuyết cao đàm khoát luận” khắp nơi để huyên truyền, để ầm ỹ phát tán cái “tâm huyết”, để trương ra tá hỏa trên sách báo hải ngoại, trên mạng xã hội những sự “uyên bác” của mình bằng những cuộc “tọa đàm nhỏ” hay dưới dạng những “huyết thư về Việt Nam”(!)

Các vị ấy nói những gì?

Nhìn tổng thể, kỳ thực, chúng ta thấy rất nhiều ý kiến cũ mèm hay đại loại như vậy trong hàng đống sách báo chống chủ nghĩa xã hội, chống Việt Nam của đủ hạng người trong và ngoài nước, đã mấy mươi năm nay.

Mặc nhiên vậy, điều chúng ta buộc lòng phải trao đổi ở đây là, liệu tất cả những điều “tâm huyết”, “khuyến nghị” của họ có thực sự đúng đắn không?; có “hoàn toàn vô tư, trong sáng”, như đã từng khuếch trương trong các lời “phi lộ” của họ không?

Trước hết, đó là chung quanh vấn đề định hướng xã hội chủ nghĩa

Họ cho rằng, việc Đảng Cộng sản Việt Nam đưa ra định hướng xã hội chủ nghĩa là “thừa”, là “vô nghĩa”, do đó “chỉ cần đặt vấn đề xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh là đủ, cần gì phải định hướng xã hội chủ nghĩa”(!)

Xin thưa rằng, 89 năm qua, dưới ngọn cờ của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự lựa chọn mục tiêu chủ nghĩa xã hội của Đảng và nhân dân Việt Nam, xét về lô-gíc, là một tất yếu khách quan; xét về lịch sử, là hoàn toàn phù hợp với sự vận động của cách mạng Việt Nam; xét về xu thế phát triển của thời đại và xét về nhu cầu, là hoàn toàn xuất phát từ điều kiện cụ thể của một nước thuộc địa, nửa phong kiến và nguyện vọng của nhân dân lao động Việt Nam.

Hẳn ai cũng đều biết, chẳng cứ gì xã hội xã hội chủ nghĩa, mà bất cứ xã hội nào khác, trong tiến trình phát triển của mình đều cần có một sự hoạch định từ phương hướng đến bước đi. Ở tầm vĩ mô, lịch sử thế giới càng về cuối thế kỷ XX càng trở nên rất rõ ràng, là thời kỳ lịch sử phát triển rút ngắn, với gia tốc mạnh mẽ chưa từng thấy; đồng thời xu thế toàn cầu hóa, quốc tế hóa về kinh tế với tốc độ chóng mặt tạo nên một thế giới chỉnh thể vừa hợp tác, vừa đấu tranh hết sức phức tạp giữa các quốc gia, dân tộc. Bối cảnh đó đã làm xuất hiện tính đa dạng của sự phát triển và sự phát triển có tính ngắn hạn. Thực tiễn nóng bỏng và gay gắt trong cuộc chạy đua để tìm hướng đi và giải pháp phát triển, và nhất là khi nhân loại bước vào thế kỷ XXI đã bật lên hàng loạt vấn đề mới mẻ và xác nhận rằng, sẽ chỉ còn lại những quốc gia, dân tộc nào đã xác định rõ rệt và đúng đắn hướng đi, có một nội lực đủ mạnh, bền vững và đủ khả năng thích ứng nhằm tiến tới hội nhập hiệu quả vào thế giới. Trong số những bài học ấy, bài học về lựa chọn mục tiêu và hoạch định phương hướng phát triển trở thành bài học có ý nghĩa căn bản, then chốt, có ý nghĩa tồn vong trước hết đối với bất cứ quốc gia, dân tộc nào. Đó chính là vấn đề có tính thời đại về tư tưởng phát triển đúng hướng, mạnh mẽ và bền vững.

Việt Nam trên con đường phát triển của mình không nằm ngoài quy luật ấy.

Đối với Việt Nam, định hướng xã hội chủ nghĩa không chỉ dừng lại ở tiền đề, mục tiêu, mà rộng lớn và sâu sắc hơn, nó còn bao hàm sự nhận thức tất cả các tính quy luật, bản chất của chủ nghĩa xã hội quy định toàn bộ sự vận động của xã hội Việt Nam hướng tới mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội được thể hiện thông qua con đường, phương thức, bước đi và hệ giải pháp theo những nguyên tắc xã hội chủ nghĩa.

Xây dựng chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp hoàn toàn mới mẻ trong lịch sử nên quá trình nhận thức và tổ chức thực tiễn sẽ hết sức khó khăn, lâu dài, thậm chí có cả những khúc quanh co, thất bại tạm thời. Bởi vậy, xét về nhu cầu thông thường tối thiểu, định hướng xã hội chủ nghĩa là một tất yếu. Chúng ta có thể giả định con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội là con đường thẳng để có thể hình dung rõ đâu là bước đầu, đâu là bước tiếp theo, đâu là bước cuối cùng để tránh khỏi lạc đường và mất phương hướng. Thực tiễn phát triển cho thấy, phương pháp chắc chắn nhất và cần thiết nhất để thực sự có được thói quen xem xét vấn đề đó một cách đúng đắn, và không để lạc hướng trong rất nhiều chi tiết, hoặc trong rất nhiều ý kiến đối lập nhau - điều quan trọng nhất là không nên quên mối liên hệ lịch sử căn bản; là xem xét mỗi vấn đề theo quan điểm sau đây: một hiện tượng nhất định đã xuất hiện trong lịch sử như thế nào, hiện tượng đó đã trải qua những giai đoạn phát triển chủ yếu nào, và đứng trên quan điểm của sự phát triển đó để xem xét hiện nay nó đã trở thành như thế nào.

Nhưng trên thực tế, con đường đó không phải là con đường thẳng tắp, trơn tru mà nó rất quanh co, phức tạp. Để tránh chủ quan, duy ý chí, muốn đốt cháy giai đoạn dẫn tới tình trạng làm cho con đường đó càng phức tạp, quanh co hơn, thậm chí chệch hướng, nên không thể không hoạch định những giới hạn cho phép, trong khả năng cụ thể, vững vàng đi tới mục tiêu đã vạch ra. Đó chính là quá trình định hướng xã hội chủ nghĩa.

Do đó, sự thống nhất về nhận thức, sự đồng tâm về tư tưởng, sự tỉnh táo và đúng đắn trong việc xử lý các cảnh huống có ý nghĩa hết sức to lớn, thậm chí có vai trò quyết định. Đặc biệt, việc khắc phục và ngăn ngừa những khuynh hướng tự phát, vô chính phủ, nhất là chủ nghĩa cơ hội và chủ nghĩa thực dụng, là chệch hướng xã hội chủ nghĩa, ở đây, là vấn đề vừa mang tầm chiến lược, vừa có tính nóng bỏng, cấp bách. Vì vậy, để xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong bối cảnh hiện nay, rõ ràng không thể không bao hàm định hướng xã hội chủ nghĩa.

Tầm cỡ, quy mô, tốc độ và chiều sâu của công cuộc đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, trong bối cảnh thời đại hiện nay, càng đòi hỏi nghiêm ngặt phải giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Hơn nữa, cho dù hiện nay xu thế toàn cầu hóa, quốc tế hóa về kinh tế có phát triển đến đâu đi nữa thì vẫn nguyên vẹn còn đó cuộc đấu tranh quốc gia, đấu tranh dân tộc, dù dưới hình thức này hay khác. Và dù chúng ta có “mở cửa”, “hội nhập” thế giới đến đâu đi nữa thì trong điều kiện phức tạp ấy, phải có nguyên tắc. Nguyên tắc tối cao là bảo vệ triệt để lợi ích dân tộc tối thượng, lợi ích quốc gia tối cao theo nguyên tắc xã hội chủ nghĩa. Do đó, hiển nhiên là không thể có “mở cửa”, “hội nhập” chủ động, đúng đắn và hiệu quả, nếu không bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền quốc gia, không giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó không chỉ là yêu cầu có tính nguyên tắc, là nhu cầu nội tại trọng yếu, thường xuyên của tiến trình phát triển đất nước mà còn quyết định sự thành bại của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay, quyết định sự “mất, còn” của dân tộc Việt Nam. Bởi, nếu xa rời mục tiêu chủ nghĩa xã hội sẽ dẫn tới “những lệch lạc trong chủ trương, chính sách và chỉ đạo thực tiễn, sẽ đưa tới nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa” và như thế “sẽ phải trả giá rất đắt, có khi không cứu vãn được”, như Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng khẳng định. Do đó, nhất định phải tiến hành định hướng xã hội chủ nghĩa.

Nói khái lược, Việt Nam định hướng xã hội chủ nghĩa là quá trình xác định những giới hạn, những “độ” tồn tại lịch sử cụ thể của chủ nghĩa xã hội bắt đầu từ điểm xuất phát tới mục tiêu cuối cùng, mà nếu vượt ra ngoài những giới hạn, những “độ” ấy có thể và tất yếu xuất hiện một chế độ xã hội khác với chủ nghĩa xã hội. Nghĩa là, thực chất của toàn bộ quá trình định hướng xã hội chủ nghĩa là hoạch định một hành lang hoạt động cho phép, phù hợp thực tế và những quy luật khách quan, với những tiêu chí xác định, thông qua một cơ chế thích hợp xuyên suốt sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, từ điểm xuất phát tới đích cuối cùng nhằm đạt hiệu quả mong muốn, chứ quyết không phải thứ tù mù “chủ nghĩa nào cũng được miễn là giàu mạnh” (!). Đó chính là nhiệm vụ trung tâm của quá trình định hướng xã hội chủ nghĩa.

Nghĩa là chúng ta không ngừng kiến lập và phát triển: Tầm nhìn chiến lược - Định vị chiến lược quốc gia - Xây dựng quyết sách phát triển chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội Việt Nam chính là định hướng xã hội chủ nghĩa vậy!

Bởi vậy, một cách hiển nhiên, định hướng xã hội chủ nghĩa là một tất yếu, một nhu cầu, một phương án phát triển duy nhất đúng đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc; và hơn nữa, nó cần luôn được xem xét, bổ sung và hoàn chỉnh không ngừng.

Quả đúng rằng, khi người ta lén lút đưa dã tâm và núp dưới danh nghĩa cái gọi là khoa học mưu toan bài xích chủ nghĩa xã hội, thì nói như V.I. Lê-nin, tự nó đã lòi ra cái đuôi kỳ thị vô lối, thậm chí là cái đuôi hằn học của những kẻ đối lập về ý thức hệ.

Thứ hai là chung quanh vấn đề bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Họ cho rằng, “Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là một điều kỳ quặc, trái quy luật”(!)

C. Mác đã đưa ra một luận điểm nổi tiếng: Lịch sử là một quá trình phát triển tự nhiên. Ai cũng biết, luận điểm này xuất phát từ vai trò của nhân tố kinh tế rằng: Không một chế độ xã hội nào lại tự bị diệt vong khi tất cả những lực lượng sản xuất mà chế độ xã hội đó tạo địa bàn đầy đủ cho sự phát triển, vẫn còn chưa phát triển, và những quan hệ sản xuất mới cao hơn không bao giờ xuất hiện khi những điều kiện tồn tại vật chất của những quan hệ đó còn chưa chín muồi trong lòng bản thân xã hội cũ. Kết luận này của C. Mác là hoàn toàn chính xác, nếu xét ở tầm bao quát lịch sử, mang tính khuynh hướng của một thời đại.

Nhưng, nếu xét ở những trường hợp đặc thù, tại một thời điểm lịch sử cụ thể, thì không phải bao giờ kinh tế cũng là cái duy nhất quyết định. Bởi, kết luận trên của C. Mác là một kết luận có tính triết học - lịch sử. Hơn nữa, như đã biết, trong điều kiện cụ thể, C. Mác chú ý nhấn mạnh nhân tố kinh tế , và Người xem nó trong tư cách khi “xét cho đến cùng” mà thôi. Vì, C. Mác thừa hiểu rằng, sự phát sinh, tồn tại, phát triển của một chế độ xã hội không chỉ phát sinh từ các điều kiện kinh tế, mà còn bắt nguồn từ các vấn đề không thể tách biệt là xã hội, chính trị... Còn ai đó chỉ cố bám vào cái luận đề “không tất yếu về kinh tế” để nhằm bài xích “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa” của Việt Nam, chẳng khác gì cái xu hướng muốn giải đáp những vấn đề cụ thể bằng cách phát triển một cách đơn thuần lô-gíc chân lý chung... là một cách lập luận tầm thường hóa chủ nghĩa Mác và chỉ chế giễu một cách mù quáng chủ nghĩa duy vật biện chứng mà thôi. Vả nữa, “cả tôi lẫn Mác chưa bao giờ khẳng định như thế, - Ph. Ăng-ghen viết như thế - còn ai đó xuyên tạc luận điểm này theo ý nghĩa kinh tế là nhân tố quyết định duy nhất thì người đó biến lời khẳng định này thành một câu trống rỗng, trừu tượng, vô nghĩa”.

Thực tế cho thấy, vô số các quốc gia ở vào tình thế như vậy. Khi V. I. Lê-nin tuyên bố: “Chủ nghĩa cộng sản là chính quyền xô-viết cộng với điện khí hóa toàn quốc” thì không ít người phương Tây thiếu thiện chí cho rằng, đó là trò không tưởng. Song chỉ 15 năm sau đó, Liên Xô trở thành một nước công nghiệp hùng mạnh. Rõ ràng, ở những trường hợp cụ thể nhất định, thì khoa học và ý chí thực sự đã làm biến đổi kinh tế. Và nữa, cuộc Cách mạng tư sản Pháp năm 1789 chẳng hạn. Cuộc cách mạng này nổ ra khi trong lòng xã hội Pháp lực lượng sản xuất đại diện cho phương thức sản xuất mới còn chưa phát triển tới trình độ để mâu thuẫn gay gắt với quan hệ sản xuất phong kiến. Ở thời đoạn này, người ta thấy nổi bật lên vai trò của những tư tưởng đi tiên phong. Vì hàng chục năm trước đó, các nhà lý luận, các nhà tư tưởng như J. Rút-xô, C. Mông-te- xki-ơ, Vôn-te (bút danh của Francois-Marie Arouet), Đ. Đi-đrô và các nhà kinh tế, như J. Ma-bli, Mô-ren-li... đã phê phán chế độ phong kiến, cổ vũ tư tưởng dân chủ tư sản đó sao.

Từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga (năm 1917), một loạt nước châu Á và khu vực Mỹ La-tinh đã xây dựng các chế độ xã hội chủ nghĩa ở một xuất phát điểm về trình độ sức sản xuất thấp hơn nước Nga đương thời rất nhiều. Rõ ràng, lịch sử là một quá trình tự nhiên, nếu “xét cho đến cùng”, khi lấy nhân tố kinh tế để bao quát lịch sử là hoàn toàn đúng. Song, trong nhiều trường hợp lịch sử cụ thể, như đã thấy, hoặc lúc này nhân tố kinh tế là quyết định, hay lúc khác nhân tố tư tưởng, ý chí lại đóng vai trò tiên phong. Cho nên, nếu cứ khư khư xem cái nhãn hiệu gọi là “tất yếu kinh tế” để gán cho bất cứ mọi sự vật, hiện tượng lịch sử khác nhau thì chẳng khác gì cái lối đã từng bị Ph. Ăng-ghen chỉ trích, “dùng đòn bẩy để kết cấu theo kiểu của phái Hê-ghen”, chẳng khác gì tự giam mình vào “một khuôn mẫu đúc sẵn, theo đó người ta đẽo gọt những sự kiện lịch sử tùy theo ý muốn”. Rốt cuộc, “... họ đã phạm phải những điều hết sức kỳ quái” và “rối rắm một cách lạ lùng”, như Ph. Ăng-ghen từng nói.

Các hình thái kinh tế - xã hội thông thường được xây dựng như một quá trình tiệm tiến và liên tục từ thấp đến cao, bước sau phải bao gồm các bước trước có tính chất tuần tự. Nhưng, sự tiến hóa trong lịch sử nhân loại, bên cạnh đó, lại diễn ra với những bước nhảy vọt. Chẳng hạn, người Giéc-manh từ xã hội thị tộc chuyển thẳng lên xã hội phong kiến, không qua chế độ chiếm hữu nô lệ. Hy Lạp, La Mã cổ đại tạo ra chế độ chiếm hữu nô lệ điển hình, nhưng không xây dựng xã hội phong kiến. Và người Giéc-manh lại không phải là người tiên phong “tiến lên” chế độ tư bản mà đó lại là người Ăng-lô Sắc-xông... Còn hầu hết các nước ở châu Á, châu Phi, khu vực Mỹ La-tinh đều không trải qua các hình thái kinh tế - xã hội phát triển. Cụ thể là, không có nước nào lúc đó tiến lên chủ nghĩa tư bản. Cơ sở của đại đa số các xã hội này vẫn là các công xã nông thôn tồn tại trong lịch sử cho tới thế kỷ XIX và một phần còn kéo sang thế kỷ XX.

Rõ ràng, một chế độ xã hội cụ thể khi đã suy tàn, xét trong tiến trình phát triển tự nhiên, có thể tiến lên hai hoặc thậm chí ba hình thái kinh tế - xã hội cao hơn, chứ nhất thiết không phải chỉ tiến lên một hình thái cao hơn liền kề với nó. Nghĩa là, không nhất thiết tiến lên một cách tuần tự, mà tiến lên với bước nhảy vọt. Từ chế độ xã hội nguyên thủy, nước này có thể tiến lên xã hội theo kiểu “phương thức sản xuất châu Á”, như Ấn Độ, Ai Cập; nước khác bước sang chế độ chiếm hữu nô lệ, như trường hợp Hy Lạp; nước khác nữa lại nhảy vọt lên chế độ phong kiến, như Giéc-manh... Cùng xuất phát từ chế độ phong kiến nửa thuộc địa như Trung Quốc hoặc thuộc địa nửa phong kiến như Việt Nam, nhưng các nước này không tiến lên chủ nghĩa tư bản mà đều tiến lên chủ nghĩa xã hội. Điển hình là, nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào vượt qua hai nấc thang trong tiến trình phát triển lịch sử tự nhiên để đi lên chủ nghĩa xã hội. Như vậy rằng, cùng với hiện tượng tuần tự của lịch sử còn nổi bật lên hiện tượng lịch sử nhảy vọt, như chúng ta đã thấy. Nói cách khác, đó là sự phát triển đứt đoạn trong liên tục, tuần tự kết hợp với nhảy vọt biện chứng của lịch sử(1).

Cho nên, tiến hóa là cái bên trong (giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất) cộng với thời cơ phát triển bứt phá. Do đó, việc “bỏ qua” một hay nhiều giai đoạn là vấn đề mang tính quy luật và là hiện thực, chỉ có điều còn tùy thuộc vào khả năng hiện thực bên trong với sự liên kết nguồn động lực với bên ngoài và chớp đúng thời cơ phát triển mà thôi. Một quốc gia còn ở trình độ tiền tư bản chủ nghĩa vẫn có thể tiến lên xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa, chứ không nhất thiết phải kinh qua chế độ tư bản chủ nghĩa một cách tuần tự cứng nhắc hay nhất thành bất biến nào đó, như mấy ai vẫn khư khư nghĩ. Nước Việt Nam trong tiến trình phát triển của mình cũng không nằm ngoài tính quy luật và thực tiễn lịch sử có tính phổ biến ấy. Đó là biện chứng của lịch sử.

Cách đây tròn 99 năm, chung quanh vấn đề “bỏ qua” này, tại diễn đàn Đại hội lần thứ II của Quốc tế cộng sản, V.I. Lê-nin đã luận chứng rất rõ ràng: Đối với dân tộc lạc hậu hiện nay đang trên con đường giải phóng và chiến tranh đã có một bước tiến bộ, mà khẳng định rằng nền kinh tế quốc dân của những dân tộc đó nhất định phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, chúng ta có cho như vậy là đúng hay không? Chúng tôi cho rằng không đúng. Và trên thực tế, các nước Trung Quốc, Việt Nam, Cu-ba, Cộng hòa Dân chủ nhân dân Triều Tiên, Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào... đã chuẩn bị toàn diện cho mình những điều kiện cần và đủ để thực hiện sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội theo phương thức “bỏ qua” đầy thuyết phục này.

Đó là tất yếu lịch sử.

Vậy là, không chỉ trên phương diện lý luận, mà rõ ràng cả trên bình diện lịch sử đã chứng minh hết sức chắc chắn và phong phú, chỉ có điều trái với những suy nghĩ đầy kỳ quặc và thiếu thiện ý của những ai đó về vấn đề “bỏ qua” này ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội mà thôi. Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, chứ không bỏ qua những thành quả văn minh của loài người (kinh tế, khoa học công nghệ...) được tạo ra dưới chủ nghĩa tư bản.

Thứ ba là vấn đề Việt Nam phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Cách nay hơn ba năm (tháng 1-2016), có vị khăng khăng rằng: “Làm gì có nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà tìm” (!)

Xin được nói ngay, cách nay hơn 18 năm, tức là sau 15 năm đổi mới và thực thi kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, từ thực tiễn, đồng chí U. Côi-chi-ô, Trưởng Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Nhật Bản, tham dự Đại hội IX của Đảng Đảng Cộng sản Việt Nam, nhận định: “Đường lối đổi mới trong đó kết hợp kinh tế thị trường với kế hoạch, tiến lên chủ nghĩa xã hội trên cơ sở công nhận sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế là con đường của những người mở đường mới mẻ trong lịch sử. Chúng tôi hy vọng rằng Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam, đã từng chiến thắng trong cuộc đấu tranh đầy gian khổ trước đây, sẽ thành công trước thách thức mới trên chặng đường mà chưa một ai đi qua”(2), thì há còn gì để nghi ngờ nữa?

Vả nữa, hiện nay, ai cũng biết, đến nay Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 189/193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc, là thành viên tích cực của hơn 70 tổ chức quốc tế và khu vực; thiết lập quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với 30 nước... Đặc biệt, đối ngoại đa phương được nâng tầm, Việt Nam chủ động, tích cực tham gia các công việc chung của quốc tế theo phương châm chuyển từ “tham gia tích cực” sang “chủ động đóng góp xây dựng, định hình luật chơi chung”, bảo đảm được các lợi ích thiết thân của Việt Nam tại các diễn đàn quan trọng, như Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Liên hợp quốc, Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Diễn đàn Hợp tác Á - Âu (ASEM). Việt Nam đã thực sự là thành viên tích cực của cộng đồng quốc tế trên cả ba cấp độ: song phương, khu vực và toàn cầu. Việc tổ chức thành công Năm APEC 2017 là minh chứng sống động cho thấy hoạt động đối ngoại đa phương của Việt Nam đã được nâng lên một tầm cao mới, qua đó bảo vệ và thúc đẩy hiệu quả các lợi ích chiến lược về an ninh, phát triển của Việt Nam, đồng thời thể hiện tinh thần của “thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”.

Việc Việt Nam được bầu với số phiếu rất cao vào Hội đồng Nhân quyền, Hội đồng Kinh tế - xã hội, Ủy ban Luật pháp quốc tế của Liên hợp quốc, Ủy ban Di sản thế giới của UNESCO... cho thấy mức độ tin cậy của cộng đồng quốc tế đối với Việt Nam trong việc gánh vác trách nhiệm chung.

Hoạt động đối ngoại được triển khai mạnh mẽ và sâu rộng theo tinh thần Nghị quyết số 06-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII “Về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới”. Việt Nam cùng các nước thành viên kiên trì nền tảng hướng tới một Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). Việt Nam cũng đang cùng các nước tích cực thúc đẩy đàm phán Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP), đẩy mạnh các hoạt động ngoại giao vận động và thúc đẩy Liên minh châu Âu sớm ký kết, phê chuẩn và triển khai thực hiện Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA). Lãnh đạo các nước đối tác cũng nhất trí cùng Việt Nam triển khai một cách hiệu quả Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh kinh tế Á - Âu. Nên nhớ, ngay từ năm 2015, Việt Nam đã thúc đẩy quan hệ kinh tế, thương mại, đầu tư với 224 thị trường tại tất cả châu lục, há chẳng đủ để thấy thực lực và sức mạnh của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam sao hay còn cần gì nữa!?

Mười một nước thành viên CPTPP chụp ảnh chung sau khi ký hiệp định CPTPP tại Chile (năm 2018) _Nguồn: Reuters

Thị trường và kinh tế thị trường ra đời cách đây hơn 1.300 năm. Từ thế kỷ XVI trở đi, sự phát triển của khoa học - kỹ thuật mạnh mẽ chưa từng thấy và với tốc độ ngày càng lớn. Giai cấp tư sản tìm mọi cách tận dụng nó để đẩy nhanh tốc độ phát triển của lực lượng sản xuất, nói như C. Mác, điên cuồng thực hiện mưu đồ “xâm lấn khắp hoàn cầu”, điên cuồng mở rộng và chiếm đoạt thị trường thế giới nhằm tìm kiếm lợi nhuận tối đa cho mình. Qua năm thế kỷ, sau bốn cuộc cách mạng kỹ thuật, sự mở rộng và chiếm đoạt thị trường và đẩy nhanh kinh tế thị trường được giai cấp tư sản coi như một mục đích sống còn của nó, đến mức nhắc đến kinh tế thị trường là không ít người nhầm lẫn và ngỡ tưởng nó là thứ của riêng chủ nghĩa tư bản, thậm chí đồng nhất nó với chính chủ nghĩa tư bản, chứ không hiểu một cách rành rẽ và tường tận rằng, nó chỉ là một thành tựu của nền văn minh nhân loại mà giai cấp tư sản đang nắm lấy, nhằm áp đặt những giá trị của thể chế tư bản chủ nghĩa, tức kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa lên toàn nhân loại.

Tới cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, sự phát triển tột bậc của quá trình quốc tế hóa lực lượng sản xuất chuyển thành toàn cầu hóa kinh tế và giai cấp tư sản vẫn đang nắm quyền thao túng. Trong bối cảnh đó, kinh tế thị trường phát triển mạnh mẽ với quy mô, tính chất và phát huy tác dụng chưa từng thấy, tới mức có thể hình dung toàn cầu là một thị trường khổng lồ, dưới sự bành trướng của chủ nghĩa tư bản. Theo đó, hơn bao giờ hết, phát triển kinh tế thị trường một cách ồ ạt, tự do, tức là kinh tế thị trường tự do... để chiếm đoạt lấy càng nhiều lợi nhuận càng tốt. Và, hơn bao giờ hết, vai trò và sự tác yêu tác quái của chủ nghĩa tư bản trong cơn lốc toàn cầu hóa thông qua kinh tế cũng khủng khiếp và tàn bạo chưa từng thấy, đang trở thành “cái thòng lọng” hữu hình hoặc vô hình đe dọa đối với tất cả các quốc gia, dân tộc trong thời đại ngày nay, tất cả nhằm bành trướng trật tự tư sản: tự do chiếm đoạt, tự do bóc lột, tự do xâm lược, tự do khủng bố, tự do gian lận trong bầu cử, tự do phân biệt chủng tộc,... Giai cấp tư sản đang cố sức bảo vệ những thứ quyền đó và chừng nào những tai họa đó chưa bị đập tan, chưa bị thay thế thì chừng đó giai cấp tư sản vẫn áp đặt sự thống trị lên đông đảo nhân dân lao động, nô dịch các quốc gia, dân tộc khác bởi những thứ “tự do”: tự do thất nghiệp, tự do bị bóc lột, tự do bị chết đói, bị chà đạp một cách tự do, bị xâm lược một cách trắng trợn và vô cớ,... Điều đó giải thích vì sao, tại các nước tư bản chủ nghĩa, dù chỉ chiếm hơn 1% số dân nhưng những người giàu - những nhà tư sản đã sở hữu hơn 62% tổng số của cải xã hội. Đó cũng chính là hệ quả tự nhiên của nền chính trị tư sản trên chính lãnh địa của nó và đối với các quốc gia, dân tộc khác, trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.

Vậy là, kinh tế thị trường không phải là cái riêng của chủ nghĩa tư bản, mà là thành tựu chung của văn minh nhân loại. Nó đã từng tồn tại và phát triển qua các phương thức sản xuất khác nhau. Như vậy, trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, kinh tế thị trường tồn tại là tất yếu. Trung Quốc đang xây dựng nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Việt Nam đang hoàn thiện thể chế, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Vậy thì nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là gì? Nói giản lược, nó là một kiểu tổ chức nền kinh tế vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật vận động của kinh tế thị trường, vừa dựa trên và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và tính chất xã hội chủ nghĩa, thể hiện một cách toàn vẹn và tập trung trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối.

Theo đó, Việt Nam đã và đang thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, giải phóng tối đa sức sản xuất, huy động mọi nguồn lực (nội lực và ngoại lực) nhằm mục tiêu hàng đầu là nâng cao hiệu quả kinh tế và xã hội, cải thiện không ngừng đời sống mọi mặt của nhân dân; chủ động đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác và các thành phần kinh tế khác, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế tư nhân vừa là một bộ phận cấu thành, vừa là động lực, kinh tế hợp tác trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân; tạo dựng khung pháp lý thuận lợi và môi trường chính trị - xã hội ổn định và môi trường sản xuất, kinh doanh tự do, bình đẳng, phù hợp với thông lệ quốc tế, để tất cả các thành phần kinh tế hoạt động tốt nhất; tiếp tục xác lập, củng cố và không ngừng nâng cao địa vị làm chủ của người lao động trong nền sản xuất xã hội, thực hiện công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển,...; thực hiện nhiều hình thức phân phối, trong đó lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế làm chủ yếu, đồng thời dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào kết quả sản xuất, kinh doanh, phân phối và phân phối lại một cách hợp lý các nguồn thu nhập, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói, giảm nghèo; tăng trưởng kinh tế gắn chặt với bảo vệ môi trường sinh thái và bảo đảm an sinh xã hội; tăng cường vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước; giữ vững độc lập tự chủ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế;...

Nghĩa là chúng ta chỉ coi kinh tế thị trường là phương tiện, là cách thức để xây dựng những cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội gắn chặt với việc không ngừng nâng cao đời sống toàn diện của nhân dân, chứ tuyệt nhiên không phải là mục đích giành lấy lợi nhuận tối đa bằng mọi giá như chủ nghĩa tư bản đã và cố sức làm. Nói cách khác, cụ thể hơn, dưới chủ nghĩa tư bản, kinh tế thị trường tồn tại như một thể chế được bảo đảm bởi chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, được đẩy nhanh bằng tốc độ hàng hóa hóa, tiền tệ hóa mọi thứ, kể cả nhân phẩm, đạo đức con người, đồng tiền giữ ngôi chúa tể chế ngự và chi phối hết thảy nhằm sinh lợi tối đa cho giai cấp tư sản, thì dưới chủ nghĩa xã hội, kinh tế thị trường được sử dụng như một phương tiện để đẩy nhanh tốc độ phát triển của nền kinh tế nhằm phục vụ toàn thể nhân dân lao động trên nền tảng sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất chủ yếu.

Điều cần nhấn mạnh là, ai đó còn băn khoăn về vấn đề bóc lột trong lộ trình chúng ta phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đúng. Chúng ta hiểu rằng, tiến hành phát triển kinh tế thị trường, trong bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nên không thể ảo tưởng ngay lập tức triệt để xóa bỏ bóc lột. Như thế là chủ quan. Nhưng phải nói và thực tiễn chứng minh rằng, nếu dưới chủ nghĩa tư bản, phát triển kinh tế thị trường, việc bóc lột được ví như một con lắc đơn có biên độ dao động khuếch đại dần, thì chúng ta nỗ lực bằng mọi phương thức làm cho con lắc đơn đó dao động với biên độ tắt dần theo quy luật: ngăn chặn mọi sự tha hóa con người, không còn tình trạng bần cùng hóa, bảo đảm sự bình đẳng các thành phần kinh tế,... Đó là con đường đi tới thủ tiêu mọi sự nô dịch dân tộc và xóa bỏ tình trạng người bóc lột người. Đó là sự khác biệt về chất giữa nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam đang xây dựng và phát triển.

Không chỉ có một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang phát triển mạnh mẽ ở Việt Nam mà về vị thế, nó tiếp tục được phát triển và không ngừng hoàn thiện với tư cách là mô hình kinh tế tổng quát của Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Và trên thực tế, nó đã đưa Việt Nam lên vị trí cao ở châu Á và thứ nhất khu vực Đông Nam Á về tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế suốt nhiều năm liền cho tới nay. Năm 2018, các tổ chức kinh tế quốc tế thừa nhận tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam đạt 7,08%, mức cao nhất trong 10 năm gần đây.

Trên nền tảng kinh tế phát triển, tháng 7-2019, HSBC Expat vừa công bố Bảng Xếp hạng tổng thể khảo sát chuyên gia nước ngoài về nơi sống và làm việc tốt nhất năm

2019, Việt Nam lọt vào top 10 quốc gia đứng đầu, từ vị trí thứ 19 vào năm 2018, với 71% số chuyên gia nước ngoài cho rằng, họ tự tin về nền kinh tế Việt Nam, đồng thời 76% số đó cho rằng, yên tâm về tình hình chính trị ổn định.

Trên hết, nhiều chuyên gia nước ngoài nhận thấy, môi trường làm việc tại Việt Nam rất thuận lợi. Việt Nam đứng thứ ba sau Thụy Sĩ và Ba Lan trong chỉ số phụ Kỳ vọng cá nhân - chỉ số tổng kết quan điểm của chuyên gia nước ngoài về nền kinh tế thị trường, cơ hội phát triển nghề nghiệp và mức độ ảnh hưởng đối với những người mới chuyển tới sinh sống và làm việc. Việt Nam cũng đứng thứ tư trong danh sách các nước có số chuyên gia nước ngoài có kinh nghiệm đến làm việc nhiều nhất, sau Ấn Độ, Trung Quốc và In-đô-nê-xi-a.


Và, mới đây, ngày 7-6-2019, với số phiếu 192/193 phiếu, Việt Nam đã chính thức trở thành Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021. Đây là số phiếu cao kỷ lục, chưa từng có trong lịch sử 75 năm phát triển của Liên hợp quốc.

Nếu kinh tế thị trường là thành quả của chung nhân loại, phát triển mạnh mẽ dưới chủ nghĩa tư bản và đem lại tiềm lực rất lớn cho chính chế độ tư bản chủ nghĩa (mà người ta thường gọi là kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa), thì trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là điều hết sức bình thường, rõ ràng. Điều quyết định cơ bản là, nếu dưới chủ nghĩa tư bản, kinh tế thị trường được xem là mục tiêu, thì dưới thể chế xã hội chủ nghĩa của chúng ta nó chỉ là công cụ, phương tiện để thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” mà thôi. Để làm phản đề cho sự bôi nhọ hoặc bác bỏ định hướng xã hội chủ nghĩa và thực tiễn phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, tối thiểu xin được dẫn lời bình của bộ phim dài 30 phút, với nhan đề “Chào buổi sáng, Việt Nam” (Guten Morgen, Vietnam) của Đài Truyền hình Đức 3 Sat, ngày 18-11-2011: Với mức tăng trưởng kinh tế từ 5% đến 9% trong suốt thập niên qua và thu nhập bình quân đầu người tăng gấp đôi trong khoảng thời gian này, Việt Nam là một trong những nước có sự phát triển kinh tế kỳ diệu ở châu Á; là quốc gia thành công nhất trên thế giới trong cuộc xóa đói, giảm nghèo.

Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa để Việt Nam không rơi vào quyết định luận kinh tế, kinh tế vị kinh tế, tiền vì tiền, điều mà các thể chế tư sản đang sử dụng kinh tế thị trường nhằm chiếm đoạt ngày càng nhiều lợi nhuận cá nhân nhưng không bao giờ thỏa lòng tham. Nếu vứt bỏ định hướng xã hội chủ nghĩa, thì nguyên vẹn chỉ là thứ kinh tế thị trường hoang dã hay kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, như bất cứ ai đều thấy, và như vậy Việt Nam càng không xác quyết và theo đuổi. Điều đó cũng càng không phải là chuyện “Việt Nam phát triển kinh tế thị trường là quyết tâm trượt sang con đường tư bản chủ nghĩa”(!), như ai đó lo ngại và bài xích, cách đây hơn ba mươi năm.

Do đó, Việt Nam phát triển kinh tế thị trường tất yếu phải bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, tức kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nó vừa là yêu cầu, là nhu cầu, vừa là tất yếu, là thời cơ gắn liền với thách thức đối với Việt Nam trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Về điều này, Đảng Cộng sản Nhật Bản cho rằng: “Tiến lên chủ nghĩa xã hội thông qua kinh tế thị trường là phương hướng phát triển có tính quy luật của chủ nghĩa xã hội”; “Quá trình tìm tòi mới tiến lên chủ nghĩa xã hội thông qua kinh tế thị trường ở Việt Nam và Trung Quốc đang trở thành một hướng đi quan trọng của thế giới trong thế kỷ XXI”(3)./.

---------------------------

(1) Xem: Nhị Lê: Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001; Một số vấn đề lý luận và thực tiễn qua 30 năm đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2015...

(2) Lời chào mừng Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 57

(3) Báo cáo của Ban Đối ngoại Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về Đại hội lần thứ XXVIII của Đảng Cộng sản Nhật Bản, ngày 1-2-2004


Không sao chép học thuyết phân quyền một cách rập khuôn, máy móc

TRầN NGọC ĐƯờNG
GS, TS, Viện Nghiên cứu lập pháp
00:20, ngày 21-09-2019

TCCS - Học thuyết phân quyền là sự phủ định biện chứng đối với các nhà nước chuyên chế tập quyền, đánh dấu sự cáo chung của chế độ quân chủ chuyên chế, độc tài, đặt nền móng cho sự hình thành các nhà nước dân chủ. Đây cũng là học thuyết có ý nghĩa về phương diện kỹ thuật pháp lý sâu sắc trong tổ chức quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Việc giao quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân cho các nhánh quyền lực nhà nước khác nhau (lập pháp, hành pháp, tư pháp) làm cho quá trình phân công lao động quyền lực minh bạch, chuyên môn hóa, hiệu quả và hiệu lực hoạt động của các quyền ngày càng cao; hạn chế sự lộng quyền, lạm quyền của quyền lực nhà nước; nhân dân có điều kiện kiểm soát quyền lực nhà nước của mình và giữa các quyền có sự kiểm soát lẫn nhau.

1- Tư tưởng “Tam quyền phân lập” được các nhà hiền triết đề xướng từ thời La Mã cổ đại, nhưng với tư cách là một học thuyết, có thể nói nó là sản phẩm của nền dân chủ phương Tây, gắn liền với cuộc đấu tranh của giai cấp tư sản chống lại sự độc đoán, chuyên quyền của kiểu tổ chức quyền lực nhà nước phong kiến với toàn bộ quyền lực nhà nước tập trung vào tay một người là Vua. Theo quan niệm vua là con Trời, thể theo lòng Trời mà làm vua, ý vua là pháp luật cao nhất. Có thể xem, học thuyết phân quyền có giá trị về chính trị - kỹ thuật pháp lý to lớn trong tổ chức quyền lực nhà nước. Bởi hạt nhân hợp lý nhất của học thuyết này là quan niệm quyền lực nhà nước không được tập trung vào một người hay một cơ quan mà được cấu thành từ ba quyền cơ bản - lập pháp, hành pháp và tư pháp. Ba quyền được giao cho ba cơ quan khác nhau, có nhiệm vụ, quyền hạn độc lập tương đối với nhau. Giữa ba quyền này có sự kiểm soát, thậm chí có sự kiềm chế, đối trọng lẫn nhau. Dựa trên học thuyết tam quyền phân lập, hơn hai thế kỷ nay, các nhà nước tư sản phương Tây đã tổ chức quyền lực nhà nước của mình. Tuy nhiên, việc vận dụng học thuyết này ở các nước là hết sức đa dạng, muôn màu, muôn vẻ. Cũng phân chia quyền lực nhà nước thành lập pháp, hành pháp và tư pháp nhưng nhiệm vụ và quyền hạn cũng như cách thức tổ chức mỗi quyền thì ở từng nước quy định rất khác nhau. Có nước thì phân quyền cứng rắn theo chính thể cộng hòa tổng thống (như nước Mỹ); có nước thì phân quyền mềm dẻo theo chính thể cộng hòa đại nghị (như Đức) hay chính thể quân chủ lập hiến (như nước Anh); ngược lại, có nước phân quyền lưỡng tính theo chính thể cộng hòa lưỡng tính (như Nga, Pháp). Cũng tổ chức quyền lực nhà nước gồm ba quyền, nhưng có nước giữa quyền lập pháp và quyền hành pháp không có sự độc lập đối trọng chế ước lẫn nhau (như nước Anh) mà dựa vào phe đối lập thiểu số trong nghị viện. Có nước giữa quyền lập pháp và quyền hành pháp lại độc lập, kiềm chế và đối trọng một cách cứng rắn (như nước Mỹ); có nước kiềm chế đối trọng một cách mềm dẻo giữa các quyền (như ở Đức). Việc vận dụng học thuyết tam quyền phân lập vào tổ chức quyền lực nhà nước ở các nước tư sản rất khác nhau. Bởi tổ chức quyền lực nhà nước về phương diện chính trị và kỹ thuật pháp lý phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như tương quan lực lượng giữa các giai cấp, nhất là trong nội bộ của giai cấp cầm quyền, đặc thù của cuộc đấu tranh giai cấp ở trong nước và trên trường quốc tế, tư tưởng lập hiến của những người đương thời,... Tất cả các yếu tố đó đều là những nhân tố chi phối và ảnh hưởng đến việc vận dụng học thuyết phân quyền trong tổ chức quyền lực nhà nước của mỗi nước. Vì thế, không thể nói phân quyền theo mô hình của nước này thì tốt, còn theo mô hình của nước kia thì không tốt, theo mô hình này thì dân chủ, theo mô hình kia thì không có dân chủ. Vì thế, tuyệt nhiên không có sự sao chép, rập khuôn, máy móc mô hình phân quyền của nước này cho nước kia; đòi hỏi tổ chức quyền lực nhà nước của nước này phải giống nước kia mới có dân chủ và nhân quyền như một số người mong muốn.

Tuy đa dạng như phân tích ở trên, nhưng hiện nay trên thế giới có thể khái quát có hai mô hình phân quyền điển hình. Đó là phân quyền mềm dẻo thuộc chính thể cộng hòa đại nghị hoặc chính thể quân chủ lập hiến (Đức, Anh,...) và phân quyền cứng rắn thuộc chính thể cộng hòa tổng thống không phổ biến ở các nước (như Mỹ). Phân quyền mềm dẻo có đặc trưng cơ bản là giữa hành pháp và lập pháp không có sự phân quyền một cách rõ rệt. Quyền hành pháp thuộc về đảng hoặc liên minh các đảng chiến thắng sau bầu cử và vì thế nghị viện do đảng hoặc liên minh các đảng thắng cử nắm giữ hành pháp. Ngược lại, phân quyền cứng rắn có đặc trưng là giữa lập pháp và hành pháp có sự phân quyền một cách rõ rệt và có sự kiềm chế, đối trọng lẫn nhau. Mô hình phân quyền mềm dẻo có thể dẫn chính phủ đến lạm quyền (vì đa số nghị sĩ trong nghị viện thuộc về hành pháp), nhưng đổi lại mọi quyết định ở nghị trường được thông qua một cách nhanh chóng, còn sự lạm quyền của chính phủ nếu có thể xảy ra thì được hạn chế bằng ý kiến thiểu số của nghị sĩ đối lập, kiểm soát của nhân dân thông qua các phương tiện thông tin đại chúng và thiết chế tư pháp độc lập. Mô hình phân quyền cứng rắn ở Mỹ bảo đảm không có cơ quan nào nắm trọn vẹn quyền lực nhà nước trong tay mình, lấn át hoặc chi phối hoàn toàn hoạt động của các cơ quan nhà nước khác. Quyền lực nhà nước và quyền lực của từng cơ quan đều bị giới hạn trong một phạm vi xác định và chịu sự kiềm chế từ phía cơ quan nhà nước khác. Tuy nhiên, phân quyền cứng rắn cũng bộc lộ nhiều hạn chế. Ví dụ như tổng thống (hành pháp) được quyền phủ quyết các đạo luật của nghị viện, làm cho hoạt động lập pháp bị kéo dài, tốn kém. Ngược lại, nghị viện có quyền phê duyệt dự án ngân sách hoạt động của chính phủ, nghĩa là nghị viện có thể làm ảnh hưởng đến hoạt động của chính phủ và tổng thống (như trì hoãn việc thông qua ngân sách buộc chính phủ phải đóng cửa). Do việc giao cho mỗi nhánh quyền lực những phương tiện kiềm chế đối trọng đối với quyền kia đã đẻ ra việc thỏa thuận ngầm hoặc thỏa hiệp giữa các nhánh quyền lực về lợi ích. Và do có sự thỏa hiệp này mà hoạt động của nghị viện (lập pháp) và hoạt động của hành pháp (tổng thống) không bảo đảm một cách chắc chắn sự thỏa hiệp giữa phe phái đó là luôn luôn thể hiện được ý chí và nguyện vọng của toàn thể nhân dân. Ví dụ như Chính phủ Mỹ trong năm đầu của Tổng thống Đô-nan Trăm phải đóng cửa, gây thiệt hại hàng chục triệu đô-la cho người dân Mỹ.

Như vậy, không có một mô hình phân quyền nào có ưu thế vượt trội và ngay các nước tổ chức quyền lực nhà nước dựa trên một mô hình nào đó thì cũng vẫn có sự khác nhau. Ví dụ, cũng tổ chức quyền lực nhà nước theo mô hình phân quyền mềm dẻo, nhưng ở Anh, ở Đức, ở I-ta-li-a,... lại rất khác nhau. Ở Anh, người đứng đầu nhà nước là nữ hoàng Anh (của chế độ quân chủ nhưng quyền lực chỉ mang tính tượng trưng) quyền lập pháp và hành pháp thuộc Đảng Bảo thủ hay Công Đảng tùy thuộc Đảng nào thắng cử sau các cuộc bầu cử. Ngược lại, ở Đức hoặc ở I-ta-li-a thì quyền lập pháp và hành pháp phổ biến thuộc về đảng chiếm nhiều phiếu nhất liên minh với một hay một số đảng hoặc lực lượng để có đa số dân bầu cử. Ở các nước này, do luật bầu cử quy định nên khó có một đảng chiếm được đa số ghế ngay sau cuộc bầu cử, do đó phải liên minh với một hoặc một số đảng để có đa số ghế trong nghị viện.

Từ tất cả những thực tế ở trên có thể thấy rằng: Học thuyết phân quyền (hay học thuyết tam quyền phân lập theo bản dịch tiếng Trung) có ý nghĩa chính trị và kỹ thuật pháp lý trong tổ chức quyền lực nhà nước đều được vận dụng ở các nước, nhưng việc vận dụng thì muôn màu, muôn vẻ ở các nước khác nhau, dựa trên tinh thần nội dung của học thuyết phân quyền mà không rập khuôn, máy móc. Do đó, không thể nói áp dụng mô hình phân quyền của nước này dân chủ hơn nước kia. Vấn đề cơ bản là dựa trên những yếu tố phổ quát nhất của học thuyết phân quyền, vận dụng phù hợp với đặc thù của mỗi nước sao cho phát huy tốt hiệu lực và hiệu quả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân trong quản lý nhà nước và phát huy nhân tố con người trong đời sống nhà nước và đời sống xã hội ở nước đó.

2- Đối với nước ta, việc tham khảo, vận dụng học thuyết phân quyền trong tổ chức quyền lực nhà nước được tiến hành thận trọng, phù hợp với đặc thù của cuộc đấu tranh giành, giữ, bảo vệ và xây dựng chính quyền nhà nước thuộc về nhân dân và được thể hiện một cách sinh động trong các bản Hiến pháp - đạo Luật gốc về tổ chức quyền lực nhà nước.

Hiến pháp năm 1946 - Hiến pháp đầu tiên của nước ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Trưởng Ban Soạn thảo, xét về phương diện tổ chức quyền lực nhà nước có thể nói đã thể hiện sự vận dụng tinh thần và nội dung học thuyết phân quyền một cách sáng tạo phù hợp với đặc thù và tương quan lực lượng trong cuộc đấu tranh giành và giữ chính quyền nhà nước non trẻ lúc bấy giờ với bốn yếu tố cơ bản: 1- Quyền lực nhà nước được cấu thành từ quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp;2- Ba quyền này có sự phân chia nhiệm vụ và quyền hạn; 3-  Nhiệm vụ, quyền hạn của ba quyền này có tính độc lập tương đối với nhau;  4- Giữa ba quyền này có sự kiểm soát và chế ước lẫn nhau. Lời nói đầu của Hiến pháp năm 1946 đã viết “Nhiệm vụ của dân tộc ta trong giai đoạn này là bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và kiến thiết quốc gia trên nền tảng dân chủ. Được quốc dân giao cho trách nhiệm thảo bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Quốc hội nhận thấy rằng Hiến pháp Việt Nam phải ghi lấy những thành tích vẻ vang của Cách mạng và phải xây dựng trên những nguyên tắc dưới đây:

- Đoàn kết toàn dân không phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp, tôn giáo.

- Đảm bảo các quyền tự do dân chủ.

- Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân”.

Theo đó, quyền lực nhà nước được tổ chức thành ba quyền, gồm: “Nghị viện nhân dân (lập pháp) là cơ quan có quyền cao nhất, do công dân Việt Nam bầu ra. Ba năm một lần” (Điều 22, 24), có nhiệm vụ “giải quyết mọi vấn đề chung cho toàn quốc, đặt ra các pháp luật, biểu quyết ngân sách, chuẩn y các hiệp ước mà Chính phủ ký với nước ngoài” (Điều 23); “Chính phủ (hành pháp) là cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc” (Điều 43); “có nhiệm vụ trực tiếp quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội trong cả nước” (Điều 52); “Tòa án là cơ quan tư pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa” (Điều 63); có nhiệm vụ xét xử. Đặc biệt chế định Chủ tịch nước vừa là người đứng đầu nhà nước (nguyên thủ quốc gia), vừa là người đứng đầu Chính phủ (hành pháp) được Hiến pháp giao nhiệm vụ và quyền hạn rất lớn “có quyền yêu cầu Nghị viện thảo luận lại Luật của Nghị viện trong vòng 10 ngày sau khi nhận được thông tri” (Điều 31); và “không phải chịu một trách nhiệm nào, trừ khi phạm tội phản quốc)” (Điều 50). Ngược lại, “Nghị viện có quyền kiểm soát và phê bình Chính phủ” (Khoản c, Điều 36); “truy tố Chủ tịch, Phó chủ tịch hay một nhân viên Nội các về tội phản quốc, Nghị viện lập một Tòa án đặc biệt để xét xử” (Điều 51). Đây chính là chế định pháp lý Hiến định về kiềm chế và chế ước lẫn nhau giữa lập pháp và hành pháp nhằm bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng đối với bộ máy nhà nước non trẻ trong điều kiện đấu tranh giai cấp gay gắt và phức tạp lúc bấy giờ. Chủ tịch Hồ Chí Minh với tư cách là Trưởng ban soạn thảo Hiến pháp năm 1946 vốn có uy tín cá nhân tuyệt đối, đã ý thức sâu sắc trong việc xây dựng chế định Chủ tịch nước. Xem xét chế định pháp lý Hiến định này gắn với hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ có thể khẳng định rằng, nhờ những quy định Hiến pháp về Chủ tịch nước có nhiều quyền hành trong Hiến pháp năm 1946 mà sự lãnh đạo của Đảng đối với bộ máy nhà nước được bảo đảm thực hiện trong thực tế. Ở đây, sự lãnh đạo của Đảng được bảo đảm bằng người đứng đầu Đảng, đồng thời là người đứng đầu bộ máy nhà nước, thông qua đó mà đường lối, chính sách, quan điểm của Đảng được thực hiện và trở thành hiện thực trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Bởi như chúng ta đã biết, sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, chính quyền nhà nước non trẻ đứng trước tình thế như “ngàn cân treo sợi tóc”. Ngay trong Nghị viện, có đến 72 người là thành viên của Việt quốc, Việt cách; bên ngoài một lực lượng lớn phản động quốc tế và tay sai tràn vào nước ta, âm mưu thành lập chính quyền bù nhìn tay sai đế quốc. Trước tình hình đó, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, một mặt, có chủ trương mang tính chất sách lược, quyết định tuyên bố “tự giải tán” Đảng Cộng sản Đông Dương (mà thực chất là rút lui vào hoạt động bí mật); mặt khác, khẩn trương tổ chức Tổng Tuyển cử bầu Quốc hội để ban hành Hiến pháp nhằm thực hiện một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là xây dựng một chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân. Nhờ bộ máy nhà nước đề cao vai trò của cá nhân người đứng đầu mà quyền lực nhà nước được thực thi một cách nhanh nhạy, đáp ứng kịp thời việc xây dựng và củng cố chính quyền non trẻ lúc bấy giờ.

Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời sau cuộc tuyển cử đầu tiên trong cả nước ngày 6 tháng 1 năm 1946 _Ảnh: Tư liệu TTXVN

Nghiên cứu các quy định của Hiến pháp năm 1946 có thể thấy nhiều điểm tương đồng với mô hình tổ chức quyền lực nhà nước của nhiều nước dân chủ và pháp quyền phương Tây lúc bấy giờ. Hiến pháp không quy định nguyên tắc phân quyền, nhưng việc phân công quyền lực nhà nước rất rõ ràng, minh bạch. Chủ tịch nước có quyền phủ quyết tương đối (yêu cầu thảo luận lại luật trong vòng 10 ngày) giống như chính thể tổng thống, Chủ tịch nước được miễn trừ trách nhiệm (như chính thể nội các); quyền bất tín nhiệm của Nghị viện đối với nội các. Các quy định này nhằm hình thành cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước giữa các nhánh lập và hành pháp.

Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược cải tạo xã hội chủ nghĩa (XHCN) và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp của cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội. Cả hai bản Hiến pháp ra đời trong điều kiện các nước XHCN đã trở thành một hệ thống đối lập với hệ thống các nước tư bản chủ nghĩa. Vì thế, Hiến pháp năm 1959 và Hiến pháp năm 1980 là những Hiến pháp tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa. Với nguyên tắc này, tất cả quyền lực nhà nước cũng thuộc về nhân dân, nhưng tập trung vào Quốc hội và hội đồng nhân dân (HĐND). Sau khi nhân dân bầu ra Quốc hội và HĐND các cấp thì quyền lực nhà nước của mình được ủy quyền cho Quốc hội và HĐND. Quốc hội và HĐND thay mặt nhân dân quyết định những vấn đề quan trọng của cả nước và ở địa phương theo từng cấp. Vì thế, quyền lực nhà nước tập quyền vào các cơ quan dân cử; không có sự phân quyền một cách minh bạch giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp. Mô hình này phù hợp với điều kiện đất nước có chiến tranh và nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp; và đây cũng là mô hình tổ chức quyền lực nhà nước tổng thể của hệ thống các nước XHCN lúc bấy giờ. Nước ta không thể tổ chức quyền lực nhà nước thoát ly mô hình tổng thể này. Với nguyên tắc tập quyền XHCN, bộ máy nhà nước đã góp phần quan trọng trong việc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược của Nhà nước ta lúc bấy giờ là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà ở miền Nam. Tuy nhiên, tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc này cũng bộc lộ một số nhược điểm. Đó là quyền lực nhà nước không được phân công nhiệm vụ một cách minh bạch nên có sự dựa dẫm, ỷ lại giữa các quyền, không phát huy hết trách nhiệm của mỗi quyền; nhân dân  - chủ thể của quyền lực nhà nước chỉ thực hiện quyền lực nhà nước thông qua cơ quan dân cử, không có điều kiện để đánh giá và kiểm soát hiệu lực và hiệu quả hoạt động của mỗi quyền, dẫn đến bộ máy nhà nước trì trệ, kém năng động.

Nhận thức sâu sắc những hạn chế của nguyên tắc tập quyền XHCN trong điều kiện đổi mới, Đảng ta đã tiến hành tổng kết thực tiễn và từng bước cải cách bộ máy nhà nước trên những nhận thức lý luận mới. Trước hết trong các văn kiện của Đảng và Nhà nước đã đề ra chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta - bước đột phá về nhận thức, mở ra cơ sở lý luận để từng bước thận trọng chuyển từ tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc tập quyền XHCN sang tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc phân công quyền lực nhà nước của Nhà nước pháp quyền XHCN.

Trước đây, tổ chức và hoạt động của Nhà nước ta, theo nguyên tắc tập quyền XHCN, mặc dù quyền lực nhà nước vẫn được Hiến pháp ghi nhận là thuộc về nhân dân nhưng nhân dân không được thừa nhận là chủ thể cao nhất của quyền lập hiến. Quốc hội được Hiến pháp xác định là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Do đó, Hiến pháp không phải là phương tiện pháp lý cao nhất để nhân dân giao quyền, nhân dân ủy quyền quyền lực nhà nước cho Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân và các cơ quan nhà nước khác. Theo đó, Hiến pháp không được quan niệm là một phương tiện pháp lý cao nhất để nhân dân giao quyền, nhân dân ủy quyền quyền lực nhà nước của mình và để giới hạn quyền lực nhà nước, buộc Nhà nước phải hoạt động trong giới hạn của Hiến pháp.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) đã đề ra một nguyên tắc mới về tổ chức quyền lực nhà nước trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta là “Nhà nước Việt Nam thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp với sự phân công rành mạch ba quyền”. Tuy trong nguyên tắc này chưa có yếu tố kiểm soát quyền lực nhà nước, nhưng là bước đổi mới cơ bản trong tư duy xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân, vì dân mà Đại hội VII của Đảng đã khẳng định. Xây dựng Nhà nước pháp quyền trở thành một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, có tầm chiến lược, bao gồm toàn bộ tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Theo đó, năm 2001, Nhà nước đã tiến hành sửa đổi một số điều của Hiến pháp năm 1992 về tổ chức bộ máy nhà nước để thể chế một số quan điểm, đường lối của Đảng ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và khẳng định “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Lần đầu tiên thuật ngữ “Nhà nước pháp quyền XHCN” và nguyên tắc “phân công, phối hợp,...” được trang trọng ghi nhận trong Hiến pháp nước ta. Đây chính là nền tảng để tất yếu đi đến nhận thức phải kiểm soát quyền lực nhà nước ở Đại hội X và Đại hội XI của Đảng. Văn kiện Đại hội X, trong mục tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN đã đề cập đến vấn đề “xây dựng hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền”, trong đó đã đề cập sâu về vấn đề “xây dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp”. Có thể coi đây là một nhận thức mới, một sự thay đổi về chất trong tư duy lý luận. “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” mà các bản Hiến pháp trước đây thừa nhận và khẳng định thì đến đây mới thực sự có sự nhận thức đầy đủ và nhất quán. Bởi, không thừa nhận quyền lập hiến là quyền lực gốc, quyền lực thiết lập nên quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp; quyền lập hiến cao hơn quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp thì không thể thừa nhận theo đúng nghĩa “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” và không thể có cơ sở để khẳng định quyền lực nhà nước là thống nhất. Bởi sự thống nhất của quyền lực nhà nước là sự thống nhất ở quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân là chủ thể giao quyền, chủ thể ủy quyền thể hiện tập trung ở quyền lập hiến thuộc về nhân dân. Đây chính là cơ sở hình thành cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước một cách đầy đủ và đúng đắn.

Từ nhận thức mới về kiểm soát quyền lực nhà nước được ghi nhận ở Văn kiện Đại hội X của Đảng, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã đưa vào tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam một yếu tố mới, đó là kiểm soát quyền lực nhà nước. Có thể nói lần đầu tiên trong văn kiện của Đảng ta đã ghi nhận một quan điểm cơ bản về tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền XHCN, chứa đựng đầy đủ các giá trị mới về chất so với nguyên tắc tập quyền XHCN về tổ chức quyền lực nhà nước. Đó là nguyên tắc: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Thể chế hóa nguyên tắc này, Hiến pháp năm 2013 đã trang trọng tuyên bố ở Điều 2 rằng:

“1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân;

2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức;

3. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.

Như vậy, nếu mô hình tập quyền XHCN không xem phân công và kiểm soát quyền lực nhà nước là một tất yếu khách quan, thì đến chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, phân công và kiểm soát quyền lực nhà nước được xác định như là một yếu tố cấu thành không thể thiếu trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước. Đó là quá trình kế thừa và phát triển tư duy, đấu tranh với quan điểm và thói quen của mô hình tập quyền XHCN, bởi sức ỳ của mô hình này đã tồn tại nhiều thập niên, đã ăn sâu bám rễ vào tư duy của nhiều người mà không thể thay đổi nhanh chóng được. Từ khởi xướng chủ trương cải cách bộ máy nhà nước một cách mạnh mẽ ở Đại hội VI (năm 1986) đến Cương lĩnh xây dựng đất nước lên chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ (năm 1991) thừa nhận Nhà nước Việt Nam thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp với sự phân công rành mạch 3 quyền; đến việc thừa nhận “Nhà nước ta... là Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”, vận hành theo nguyên tắc căn bản là “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp” là một quá trình vận động tất yếu của nhận thức với sự thay đổi và nâng cao từng bước thận trọng qua các kỳ Đại hội Đảng.

Từ đổi mới về nhận thức, hình thành tư duy lý luận nói trên, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta đã có những thay đổi rất căn bản. Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước dân chủ hơn, hiệu lực hơn, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan được phân định minh bạch hơn. Theo đó, Quốc hội được xác định là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền lập hiến, lập pháp (không còn là cơ quan toàn quyền duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp như trước đây) quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước với tư cách là một phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước ở tầng cao nhất của bộ máy nhà nước như ở nhiều nước. Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước do Quốc hội bầu, là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt Nhà nước về đối nội, đối ngoại, thống lĩnh các lực lượng vũ trang, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh. Chính phủ được phân công không chỉ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, cơ quan chấp hành của Quốc hội mà còn là cơ quan thực hiện quyền hành pháp. Việc quy định vị trí và vai trò mới này của Chính phủ trong tổ chức quyền lực nhà nước, vừa phản ánh nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước, vừa chỉ rõ Chính phủ không chỉ là cơ quan chấp hành của Quốc hội nhằm tạo cho Chính phủ có đầy đủ vị thế và thẩm quyền độc lập, không dựa dẫm, ỷ lại vào Quốc hội mà chịu trách nhiệm độc lập trước đất nước và nhân dân thông qua việc Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao và cơ chế giám sát, phản biện của nhân dân.

Tòa án nhân dân không những được quy định là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà còn khẳng định “thực hiện quyền tư pháp” (Điều 102, Hiến pháp năm 2013); “Thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” (khoản 2, Điều 103, Hiến pháp năm 2013). Quy định mới này thể hiện sự phân công quyền lực nhà nước một cách mạch lạc; đề cao trách nhiệm của Tòa án nhân dân trong việc thực hiện quyền tư pháp; công bằng và công lý của một quốc gia thể hiện tập trung nhất ở quyền xét xử của Tòa án. Từ đây, nhân dân có địa chỉ cụ thể để xây dựng và đánh giá việc thực hiện quyền tư pháp mà nhân dân đã giao phó, đã ủy quyền.

Vai trò và nhiệm vụ của Tòa án nhân dân cũng như vai trò nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân có sự điều chỉnh, thể hiện tư duy mới. Đối với tòa án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, Điều 102, khoản 3 đã đưa lên hàng đầu vai trò và nhiệm vụ “bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân”. Đối với Viện kiểm sát nhân dân, nhấn mạnh vai trò và nhiệm vụ hàng đầu là “bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân” (khoản 3, Điều 107). Trong lúc đó, Hiến pháp năm 1992 không phân biệt sự khác nhau giữa vai trò và nhiệm vụ của Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân, cả hai đều giống nhau và quy định chung vào một điều “Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân trong phạm vi chức năng của mình, có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của công dân, bảo vệ tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân” (Điều 126). So sánh với quy định của các bản Hiến pháp trước đây, có thể thấy Hiến pháp năm 2013 đã có đổi mới cơ bản về vai trò và nhiệm vụ của hai thiết chế tòa án và viện kiểm sát; hoàn toàn phù hợp với tư duy xây dựng nhà nước pháp quyền là đề cao quyền con người, quyền công dân trong hoạt động tư pháp, coi con người là chủ thể, là nguồn lực chủ yếu và là mục đích của sự phát triển.

Đổi mới mô hình tổ chức chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ mới, Hiến pháp năm 2013 đã quy định những vấn đề có tính nguyên tắc về phân công, phân cấp giữa Trung ương và địa phương, giữa các cấp chính quyền địa phương, bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất của trung ương, đồng thời phát huy tính năng động, sáng tạo quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương.

Hội đồng Bầu cử quốc gia và Kiểm toán Nhà nước lần đầu tiên ra đời trong Hiến pháp nước ta với tư cách là các thiết chế hiến định độc lập được quy định thành một chương riêng trong Hiến pháp. Việc ra đời hai thiết chế mới này ở nước ta là nhằm tiếp tục phát huy dân chủ, thực hiện nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, tạo điều kiện và cơ chế để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của mình trong bầu cử và trong kiểm soát quyền lực nhà nước. Theo đó, Hội đồng Bầu cử quốc gia có nhiệm vụ tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội, chỉ đạo và hướng dẫn bầu cử đại biểu hội đồng nhân dân các cấp. Kiểm toán Nhà nước thực hiện kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công.

Cùng với việc phân công quyền lực nhà nước một cách minh bạch cho các cơ quan thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp như trình bày ở trên; theo Hiến pháp năm 2013, quyền lực nhà nước còn được tổ chức và hoạt động theo cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước. Theo đó, Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên quy định 3 cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước sau đây:

Một là, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước do nhân dân - chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước trực tiếp vận hành bao gồm: các cá nhân công dân, tổ chức không phải là cơ quan nhà nước, không mang tính quyền lực nhà nước thực hiện. Đây là cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước từ bên ngoài bộ máy nhà nước kiểm soát tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Cơ chế này được xây dựng dựa trên các căn cứ Hiến định, như “nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp” (Điều 6); “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam... giám sát và phản biện xã hội” (Điều 9); “công dân Việt Nam... tham gia kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước về những vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ của người lao động” (Điều 10); và rất nhiều quyền dân chủ trực tiếp của công dân được Hiến pháp năm 2013 thừa nhận, như “quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin” (Điều 25); quyền bầu cử (Điều 27); quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội; tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước (Điều 28); quyền biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu dân ý (Điều 29).

Hai là, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước do các chủ thể là cơ quan nhà nước trực tiếp vận hành. Đây chính là cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp, kiểm soát lẫn nhau và kiểm soát bên trong của mỗi quyền. Cơ chế này được Hiến pháp năm 2013 quy định ở khoản 3, Điều 2 “Quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” và khoản 2, Điều 119 “Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan khác của Nhà nước và toàn thể Nhân dân có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp”.

Ba là, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước do một thiết chế độc lập vận hành được khoản 2, Điều 119 Hiến pháp năm 2013 quy định “Cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định”. Ba cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước này đang từng bước được xây dựng và hoàn thiện ở nước ta từ sau khi ban hành Hiến pháp năm 2013.

Như vậy, có thể nói, các học thuyết phân quyền được Đảng và Nhà nước ta nghiên cứu, kế thừa có chọn lọc các giá trị hợp lý, phê phán mặt bất hợp lý để bảo đảm tính phù hợp với thực tiễn của từng thời kỳ trong việc tổ chức quyền lực nhà nước ở nước ta, đặc biệt là trong điều kiện mới - điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN hiện nay.

3- Sau khi Hiến pháp năm 2013 có hiệu lực, những năm qua bộ máy nhà nước ta đã được xây dựng và hoàn thiện một bước. Các luật về tổ chức bộ máy nhà nước, như Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức Tòa án, Luật Tổ chức Viện kiểm sát, Luật Tổ chức chính quyền địa phương,... được sửa đổi, bổ sung để thể chế hóa Hiến pháp. Các đạo luật này đã phân công, phân nhiệm nhiệm vụ, quyền hạn cho các nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp và tư pháp một cách rõ ràng, minh bạch hơn, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước từng bước được hình thành. Tuy nhiên, để tiếp tục phát huy những giá trị về phân công và kiểm soát quyền lực nhà nước của Hiến pháp năm 2013, theo chúng tôi cần phải tiếp tục thể chế hóa các quy định sau của Hiến pháp:

Thứ nhất, bảo vệ Hiến pháp là bảo vệ chủ quyền của nhân dân, bảo vệ toàn vẹn quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, bảo vệ sự thống nhất quyền lực nhà nước của nhân dân, phòng, chống sự tha hóa của quyền lực nhà nước. Hiến pháp năm 2013 đã nhận thức sâu sắc điều đó, kiểm soát quyền lực nhà nước chẳng những được quy định thành nguyên tắc ở Điều 2 mà ở khoản 2, Điều 119 còn quy định: “Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan khác của Nhà nước và toàn thể Nhân dân có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp. Cơ chế bảo vệ Hiến pháp là do luật định”. Theo đó, kiểm soát quyền lực nhà nước gồm 3 cơ chế quyền lực nhà nước như đã nêu trên. Cả ba cơ chế này cho đến nay chưa được hoàn thiện, nhất là bên trong mỗi quyền chưa có sự kiểm soát quyền lực nhà nước một cách hiệu quả. Vì thế, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước là đòi hỏi cấp thiết nhằm phòng, chống sự tha hóa quyền lực nhà nước, mà trước hết là đấu tranh phòng, chống tham nhũng một cách hiệu quả.

Thứ hai, các luật về tổ chức bộ máy nhà nước tuy đã có sự phân định nhiệm vụ, quyền hạn giữa các cơ quan nhà nước một cách minh bạch hơn. Tuy nhiên, trong một số lĩnh vực vẫn còn thiếu rành mạch, ví như trong lập pháp, trách nhiệm của Chính phủ và Quốc hội phân định thế nào? Một dự án luật sau khi thông qua phát hiện có sai sót thì cơ quan nào chịu trách nhiệm? Trong nhiều lĩnh vực quản lý nhà nước vẫn còn trùng lắp về thẩm quyền, một việc còn giao cho nhiều cơ quan nên không rõ trách nhiệm chính thuộc về ai? Phân cấp, phân quyền, ủy quyền được Hiến pháp năm 2013 quy định nhưng đến nay giữa các cấp chính quyền chưa có sự phân định minh bạch. Đây cũng là một đòi hỏi cấp bách trong tổ chức quyền lực nhà nước của nước ta hiện nay cần được đặc biệt quan tâm để bộ máy nhà nước ta phát huy đầy đủ hiệu lực và hiệu quả./.