16/12/2024 | 05:00 AM


Nhận diện và đấu tranh với một số học thuyết phi mác-xít kiểu mới hòng phê phán, phủ nhận chủ nghĩa Mác (kỳ 1)
TCCS - Là học thuyết mở, không biệt phái, giáo điều, chủ nghĩa Mác - Lê-nin được những người mác-xít chân chính không ngừng tiếp thêm sinh lực mới và bảo vệ sự trong sáng nhờ thâu thái trên tinh thần phê phán và sáng tạo những thành tựu về tư tưởng và khoa học của thời đại, đồng thời tuyệt đối không mơ hồ, mất cảnh giác trước những trào lưu tư tưởng phi mác-xít kiểu mới, âm mưu gây phân rã, đa nguyên tư tưởng, làm suy giảm vai trò chủ đạo của nền tảng tư tưởng, cũng như sự lãnh đạo và địa vị cầm quyền của Đảng.
Các Mác (1818 - 1883) _Nguồn: Tư liệu
Chủ nghĩa, học thuyết, trào lưu tư tưởng phi mác-xít kiểu mới là những tư tưởng chính trị phê phán, phủ nhận chủ nghĩa Mác bằng nhiều hình thức khác nhau, hoặc trực tiếp bài bác công khai; hoặc “khoác áo mác-xít” để tinh vi chống phá; hoặc thừa nhận một phần, nhưng đòi tách nhánh, sửa đổi, chiết ghép vô nguyên tắc, hỗn tạp với nhiều học thuyết khác, làm biến dạng, sai lệch bản chất của chủ nghĩa Mác chính thống... Đây là những chủ nghĩa, học thuyết, trào lưu tư tưởng mới ra đời hoặc là biến thể mới của những hình thức chống phá truyền thống trước đây, với đủ sắc thái của chủ nghĩa cải lương, cơ hội, xét lại..., cùng những luận điệu chống phá mới ngày càng tinh vi, khó nhận biết.
Với tư cách là một học thuyết khoa học, cách mạng của thời đại, chủ nghĩa Mác “hoàn bị và chặt chẽ”(1), có sức sống mãnh liệt, tự mang trong mình tính phản biện mạnh mẽ đối với các khuynh hướng tư tưởng bảo thủ, lạc hậu, phản động. “Học thuyết của Mác... không thỏa hiệp với bất cứ một sự mê tín nào, một thế lực phản động nào, một hành vi nào bảo vệ sự áp bức của tư sản”(2). Đặc biệt, với học thuyết của C. Mác, lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, các quy luật phát triển của xã hội loài người được phát hiện. Trong đó, C. Mác đã chỉ ra quy luật cách mạng xã hội nói chung và cách mạng vô sản nói riêng, sự sụp đổ tất yếu của chủ nghĩa tư bản và thắng lợi tất yếu của cách mạng vô sản, cùng sự ra đời của chủ nghĩa xã hội. C. Mác cũng luận chứng toàn diện về sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản trong việc lật đổ chủ nghĩa tư bản và xây dựng xã hội mới cộng sản chủ nghĩa, qua đó giúp giai cấp công nhân và chính đảng của mình củng cố niềm tin, sự kiên định lý tưởng cộng sản, đồng thời cũng vũ trang cho họ nền tảng tư tưởng và lý luận cách mạng, khoa học để đấu tranh thắng lợi với tư tưởng tư sản và các loại tư tưởng thù địch, phản động khác dưới nhiều hình thức.
Là người trực tiếp lãnh đạo cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, V.I. Lê-nin vận dụng sáng tạo học thuyết Mác để giải quyết những vấn đề của cách mạng trong thời đại đế quốc chủ nghĩa và bắt đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực; đồng thời là tấm gương mẫu mực về bảo vệ chủ nghĩa Mác trước sự xuyên tạc của các thế lực thù địch. Để bảo vệ tính cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác, V.I. Lê-nin đấu tranh không khoan nhượng chống các trào lưu phi mác-xít trong nội bộ nước Nga và quốc tế, từ chủ nghĩa dân túy tự do phản động phủ nhận vai trò lịch sử của giai cấp công nhân, phái “những người mác-xít hợp pháp” muốn “khuôn” chủ nghĩa Mác hợp với quyền lợi của giai cấp tư sản, đến chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa cơ hội quốc tế âm mưu phủ nhận chủ nghĩa Mác trên quy mô toàn cầu... Tại Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương trình Đại hội VIII Đảng Cộng sản Nga (năm 1919), trước những ý kiến nhân danh lòng yêu nước để đả kích “bước lùi” trong việc ký Hòa ước Brest-Litovsk (năm 1918), V.I. Lê-nin đã trực tiếp nhắc tên và kịch liệt phê phán những “tư tưởng phi mác-xít” hết sức nguy hiểm: “Người nào lên án bước lùi đó tưởng là theo quan điểm cách mạng thì thực sự đã có một quan điểm căn bản sai lầm và phi mác-xít”(3). Việc vạch trần những quan điểm phi mác-xít ngụy trang dưới vỏ bọc “quan điểm cách mạng” đó có vai trò quan trọng trong giữ vững trận địa tư tưởng để bảo vệ Đảng Cộng sản Nga và nhà nước xã hội chủ nghĩa non trẻ đầu tiên trên thế giới mới ra đời khi đó... V.I. Lê-nin đã không chỉ bảo vệ thành công chủ nghĩa Mác, mà còn phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác lên một tầm cao mới.
V.I. Lê-nin cũng chỉ rõ: “...lịch sử tư tưởng chính là lịch sử của quá trình thay thế của tư tưởng, do đó là lịch sử đấu tranh tư tưởng”(4), đồng thời cảnh báo rằng: “Trong toàn thế giới văn minh, học thuyết của Mác đã gây ra sự cừu địch mạnh nhất và lòng căm thù trong toàn thế giới khoa học tư sản...”(5). Do đó, tư tưởng lý luận của chủ nghĩa xã hội ngay từ khi ra đời tất yếu đã phải đương đầu với sự phê phán, xuyên tạc, bài bác, phủ nhận dưới nhiều hình thức khác nhau, với mọi màu sắc của các lực lượng, các trào lưu tư tưởng phi mác-xít. Đấu tranh chống các chủ nghĩa, học thuyết, trào lưu tư tưởng phi mác-xít là cuộc đấu tranh trường kỳ, phức tạp, mang tính sống còn của các đảng cộng sản, những nhà tư tưởng mác-xít và những người cách mạng để bảo vệ bản chất khoa học, cách mạng triệt để, nhân văn cao cả và những giá trị đương đại của chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, các khuynh hướng, trào lưu tư tưởng phi mác-xít vẫn còn xuất hiện và tồn tại. Khi xây dựng học thuyết về các hình thái kinh tế - xã hội, C. Mác và Ph. Ăng-ghen sớm cảnh báo thời kỳ chuyển biến từ hình thái tư bản chủ nghĩa lên hình thái cộng sản chủ nghĩa chưa thể là một xã hội phát triển trên cơ sở của chính nó, mà là một trạng thái xã hội về mọi phương diện, trong đó có các yếu tố của kiến trúc thượng tầng, còn mang dấu vết của xã hội cũ. Đến đầu thế kỷ XX, V.I. Lê-nin luận chứng sinh động và cụ thể phạm trù thời kỳ quá độ có nghĩa là trong chế độ hiện tồn vẫn có “những thành phần”, “những bộ phận”, “những mảnh” của cả chủ nghĩa tư bản lẫn chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng khẳng định, “một chế độ này biến đổi thành một chế độ khác là cả một cuộc đấu tranh gay go, kịch liệt và lâu dài giữa cái xấu và cái tốt, giữa cái cũ và cái mới, giữa cái thoái bộ và cái tiến bộ, giữa cái đang suy tàn và cái đang phát triển...”(6).
Ở nước ta hiện nay, bên cạnh những nhân tố quyết định sự hình thành và bảo đảm con đường phát triển xã hội chủ nghĩa, vẫn còn hiện hữu không ít nhân tố, trong đó có nhân tố trong lĩnh vực tư tưởng - văn hóa, chưa thực sự là của chủ nghĩa xã hội. Sự song hành tồn tại đó dẫn đến các yếu tố chủ nghĩa xã hội và phi chủ nghĩa xã hội luôn đấu tranh, phủ định lẫn nhau; và theo quy luật phát triển, những nhân tố phi chủ nghĩa xã hội sẽ ngày càng bị thu hẹp bởi các yếu tố chủ nghĩa xã hội mang tính trội trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, “kết quả là cái mới, cái đang tiến bộ nhất định thắng”(7). Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa các tư tưởng phi mác-xít sẽ tự biến mất, ngược lại nó vẫn hiện hữu, nảy nở, thậm chí trỗi dậy nếu xem nhẹ cuộc đấu tranh tư tưởng, không củng cố nền tảng tư tưởng mác-xít, trong bối cảnh quá trình mở cửa, hội nhập quốc tế diễn ra mạnh mẽ, những khó khăn của phong trào xã hội chủ nghĩa còn nhiều và chủ nghĩa tư bản trên thế giới hiện nay có ưu thế tạm thời... Đặc biệt, sự phát tán có chủ đích, ngày càng tinh vi những chủ nghĩa, học thuyết phi mác-xít của các thế lực thù địch khiến cho cuộc đấu tranh trên địa hạt tư tưởng, lý luận càng thêm cam go, phức tạp, quyết liệt và lâu dài. Nếu chủ quan, không nhận diện kịp thời bản chất và có giải pháp đấu tranh, ngăn chặn hiệu quả, các luồng tư tưởng đó có khả năng gây tác hại khôn lường, gây chia rẽ về tư tưởng, phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng ta, mà tiêu biểu là chủ nghĩa tân tự do, lý thuyết xã hội dân sự, chủ nghĩa Mác mới và thuyết hội tụ...
Chủ nghĩa tân tự do
Từ giữa những năm 70 của thế kỷ XX, học thuyết John Maynard Keynes(8) với chính sách toàn dụng việc làm và ổn định tiền tệ, nhà nước phúc lợi và việc tích cực can thiệp vào kinh tế mất tín nhiệm vì cuộc khủng hoảng dầu mỏ, việc bãi bỏ chế độ kim bản vị của đồng đô la và tình trạng vừa tăng trưởng thấp, vừa lạm phát cao ở các nước tư bản. Trong bối cảnh đó, chủ nghĩa tân tự do (Neo-liberalism) của Friedrich August von Hayek(9), một sự phục sinh của chủ nghĩa tự do cổ điển (tự do cũ)(10), đã đưa ra các chính sách để cứu vãn chủ nghĩa tư bản.
Chủ nghĩa tân tự do là một trong những trào lưu tư tưởng của kinh tế học tư sản hiện đại. Đặc trưng của lý thuyết này là kết hợp các quan điểm và phương pháp luận của các trường phái tự do cũ, trường phái trọng thương mới, trường phái Keynes mới để đưa ra lý thuyết kinh tế của mình nhằm làm cơ sở cho việc điều tiết nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Có thể nói, nó là sự tân trang lại chủ nghĩa tự do cũ, mà đặc trưng của lý thuyết này là sự ủng hộ thị trường tự do, chế độ sở hữu tư nhân và phi điều tiết của nhà nước theo quan điểm “thị trường tối đa, nhà nước tối thiểu”.
Trong những năm 80 của thế kỷ XX, người ta chứng kiến sự nổi lên của hệ tư tưởng tự do mới ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển. Từ đó đến nay, chủ nghĩa tân tự do giữ vị trí quan trọng, thậm chí thống trị, trong các học thuyết kinh tế chính trị tư sản hiện đại, được nhiều nước phương Tây áp dụng; các nguyên tắc của nó cũng được các nhà kinh tế và hoạch định chính sách của nhiều tổ chức, định chế kinh tế quốc tế toàn cầu sử dụng và là một phần không thể thiếu trong điều khoản của các hiệp định thương mại tự do, với nhiều biến thể, tên gọi khác nhau, như: “Chủ nghĩa tự do mới” (lý thuyết về “Nền kinh tế thị trường xã hội”) ở Đức, “Chủ nghĩa bảo thủ mới” ở Mỹ, “Chủ nghĩa cá nhân mới” ở Anh, “Chủ nghĩa kinh tế” ở Áo... Thậm chí, chủ nghĩa tân tự do còn được chính giới và nhiều nhà tài phiệt tư bản rao giảng như “một tất yếu lịch sử, một trật tự kinh tế và xã hội duy nhất, một chân lý cuối cùng và vĩnh viễn của con người” (?!). Vậy, sự thật đằng sau những rao giảng về chủ nghĩa tân tự do đó là gì?
Một là, chủ nghĩa tân tự do tán dương về “nền kinh tế tự do lý tưởng”, khẳng định “chủ nghĩa tư bản là nấc thang phát triển cao nhất của xã hội loài người”, đồng thời nó cũng không quên cuộc chiến quyết liệt chống chủ nghĩa cộng sản.
Ở một góc độ nhất định, có thể thấy, chủ nghĩa tân tự do có một số yếu tố hợp lý, có thể vận dụng trong hoạt động kinh tế, tài chính và thương mại, nhất là thúc đẩy tự do kinh tế, tự do thương mại, tôn trọng các quy luật của kinh tế thị trường..., đóng góp nhất định vào thành tựu phát triển kinh tế của nhân loại, dù rằng cái giá phải trả đằng sau của nó so với kết quả đạt được là rất đắt. Cũng chính bởi những thành tựu kinh tế từng đạt được và tư tưởng tự do kinh tế dường như không có giới hạn, nên chủ nghĩa tân tự do có sức lôi cuốn nhất định, rất dễ lừa mị tư tưởng, tạo nên không ít ngộ nhận, lầm tưởng. Song, về bản chất, chủ nghĩa tân tự do là học thuyết có nhiều điểm hạn chế, tiêu cực, thậm chí cực đoan, khi bản chất vị lợi nhuận tàn nhẫn của số ít nhà tư sản sẵn sàng chà đạp lên máu, nước mắt của người lao động; sự tàn khốc, lạnh lùng của kim tiền lấn át đi tính nhân văn, nhân bản vì quảng đại con người. Hơn nữa, nó nảy nòi và cắm rễ sâu trên mảnh đất của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa nên luôn muốn níu giữ, bảo vệ bằng mọi giá, đồng thời che đậy đến cùng những khuyết tật, mặt tối của chế độ tư bản chủ nghĩa. Từ đầu thế kỷ XX đến nay, trên nền của cùng một phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, thế giới đã qua ba biến thể: Chủ nghĩa tự do cổ điển, chủ nghĩa Keynes và chủ nghĩa tự do mới. Sự giống nhau của cả ba hình thái đó là đều coi chủ nghĩa tư bản là “xã hội toàn mỹ”, “đỉnh cao nhất của lịch sử nhân loại”(?!).
Sự thật là, chủ nghĩa tân tự do không phải là một học thuyết hoàn bị hay là chìa khóa vạn năng để xây dựng nên một thị trường tự do của chủ nghĩa tư bản có thể giúp giải quyết mọi khó khăn, bất cập của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Thực tế cho thấy, chủ nghĩa tân tự do ngày càng lộ rõ “gót chân Asin” của mình, khi sự tự do thái quá của thị trường như ngựa bất kham, lại bị giật dây bởi tài phiệt tư bản, không có sự kiểm soát hợp lý của nhà nước, dẫn tới những thất bại với hệ lụy khôn lường. Những cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính có tính chu kỳ khởi phát từ các nước tư bản vẫn tiếp diễn, gây nên tổn hại nghiêm trọng cho nhân loại, nhất là trút hậu quả lên các nước đang phát triển, nước nghèo. Nhiều chính sách tân tự do được áp dụng từ những năm 80 của thế kỷ XX vẫn để lại di chứng, bất ổn kinh tế, chính trị, xã hội nặng nề cho đến ngày nay. Những sự “mời gọi” về sức hấp dẫn của tự do kinh tế không có giới hạn gắn với các giá trị phương Tây đã sụp đổ ở ngay chính quốc, là nhiều nước tư bản phát triển, nơi sinh ra và nuôi dưỡng chủ nghĩa tân tự do, lẫn một số nước đang phát triển bị cưỡng bức “nhập khẩu” học thuyết này.
Chủ nghĩa tân tự do khoác bộ cánh mới sặc sỡ lên chủ nghĩa tư bản, nhưng không thể làm thay đổi được bản chất bóc lột của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Các chính sách của chủ nghĩa tân tự do, như cắt giảm chi tiêu công, cắt giảm phúc lợi xã hội và tăng lãi suất để giảm lạm phát, duy trì cán cân tài chính; tư hữu hóa các doanh nghiệp nhà nước và tiện ích công; tự do hóa thương mại và tài chính; giảm điều tiết thị trường lao động... còn cực đoan hơn so với chủ nghĩa tự do cổ điển của Adam Smith và David Ricardo(11) phát triển trong thế kỷ XIX và đều nhằm mục đích tối đa hóa lợi nhuận, thu những nguồn lợi khổng lồ để gia tăng tích lũy tư bản.
Tuy nhiên, “thu nhập và sự giàu có chảy ngược lên trên, thay vì chảy xuống các tầng lớp phía dưới xã hội”(12). Chủ nghĩa tân tự do có thể đúng ở mặt nào đó, nhưng về căn bản, nó là một học thuyết có hại, không góp phần vào sự phát triển bền vững và rõ ràng, nó chỉ đúng với số ít các nhà tư sản đặc quyền, đặc lợi, không hề đúng với số đông các tầng lớp lao động, nhất là khi nó cổ xúy cho mô hình nhà nước ngày càng teo nhỏ gắn với việc cắt giảm tối đa phúc lợi xã hội. Sự bất bình đẳng trong thu nhập và tài sản giữa các giai tầng xã hội ngày càng bị khoét sâu. Hơn thế, bất bình đẳng còn trở thành một đặc tính bản chất của chủ nghĩa tân tự do, khi nó công khai chống chủ nghĩa bình đẳng (bình quân) do nhà nước phúc lợi đề ra và “cha đẻ” của học thuyết này, Friedrich August von Hayek, thậm chí còn biện bạch cho điều này khi từng công khai tuyên bố, “bất bình đẳng là một giá trị tích cực cần thiết cho các xã hội phương Tây”(13), càng khẳng định thêm bản chất của chủ nghĩa tân tự do: Lấy bất bình đẳng làm động lực, lấy cạnh tranh khốc liệt làm quy luật sinh tồn, lấy lợi nhuận làm đích cuối.
Như vậy, ngày nay, chủ nghĩa tư bản tuy có những điều chỉnh nhất định về hình thức sở hữu, tổ chức - quản lý và phân phối để thích nghi ở mức độ nào đó với điều kiện mới, nhưng sự thống trị của chủ nghĩa tư bản tư nhân vẫn tồn tại nguyên vẹn, bản chất bóc lột của nó vẫn không hề thay đổi. Suốt hơn 400 năm tồn tại của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, “sản xuất giá trị thặng dư hay lợi nhuận là quy luật tuyệt đối của phương thức sản xuất này”(14), chủ nghĩa tư bản ra đời “thấm đầy máu và bùn nhơ trong mỗi lỗ chân lông của nó”(15). Nhìn sâu vào bên trong, chủ nghĩa tư bản hiện đại ngày nay vẫn giữ nguyên nhiều đặc tính của thứ chủ nghĩa tư bản kền kền nguyên thủy, hoang dã và tàn bạo, thậm chí còn suy đồi và tàn nhẫn hơn dưới sự thúc đẩy của chủ nghĩa tân tự do và những tham vọng bá quyền ngày càng lớn và manh động của nhiều chính phủ phương Tây. Và, với đầy rẫy khuyết tật, mâu thuẫn và mặt tối đó, thì rõ ràng, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và chế độ tư bản chủ nghĩa không thể “toàn mỹ” và là tương lai của loài người; chủ nghĩa tân tự do lại càng không phải là một tất yếu lịch sử, một trật tự kinh tế và xã hội duy nhất, một chân lý cuối cùng và vĩnh viễn của nhân loại, như rao giảng của nhiều chính trị gia và nhà tài phiệt tư bản.
Sau nhiều năm chiếm thế thượng phong, chủ nghĩa tân tự do đang gặp nhiều thất bại. Những cuộc khủng hoảng, suy thoái kinh tế, bất ổn chính trị, xung đột vũ trang nghiêm trọng, ô nhiễm môi trường, phân hóa giàu - nghèo, phân cực xã hội... ở nhiều nước tư bản và trên quy mô toàn cầu càng phơi bày rõ những mâu thuẫn và hạn chế của một triết luận kinh tế chính trị phản ánh bản chất của chủ nghĩa tư bản, một triết luận vì lợi ích của số ít chống số đông. Rõ ràng, chủ nghĩa tự do mới cố gắng làm mới chủ nghĩa tư bản già cỗi, mong đem đến một sức sống mới bằng các liệu pháp tự do hóa được tân chế, song nó vẫn không thể và không bao giờ có thể khắc phục được mâu thuẫn nội tại mang tính bản chất bên trong của chủ nghĩa tư bản, cũng như càng làm trầm kha thêm mâu thuẫn giữa các nước tư bản với nhau, giữa các nước tư bản và các nước đang phát triển, giữa tư bản và lao động ở quy mô toàn cầu. “Niềm tin của chủ nghĩa tân tự do vào các thị trường không bị ràng buộc như là con đường chắc chắn nhất dẫn đến thịnh vượng của xã hội hiện đang mất uy tín và hấp hối... Thực tế là, bất chấp tên gọi của nó, thời đại của chủ nghĩa tân tự do còn lâu mới tự do”(16).
Cùng với việc xảo biện chủ nghĩa tư bản là “nấc thang cuối cùng của nhân loại”, chủ nghĩa tân tự do cũng chĩa mũi nhọn chống phá quyết liệt chủ nghĩa cộng sản. Bởi, cái mà chủ nghĩa tân tự do tập trung đấu tranh quyết liệt nhất vẫn là những gì mang tính chất tập thể và công hữu, những gì có màu sắc chính sách xã hội xã hội chủ nghĩa. Khi chủ nghĩa xã hội hiện thực sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu, các nhà tân tự do tự đắc cho rằng đó là “sự cáo chung của lịch sử”, rằng đã xóa bỏ trở ngại cuối cùng ngăn chia toàn bộ thế giới khỏi mục tiêu dân chủ, tự do và kinh tế thị trường (?!). Sự chống phá của những người cổ xúy chủ nghĩa tân tự do là hết sức dễ hiểu, bởi nền móng tồn tại của chủ nghĩa tân tự do là sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, là sự bảo đảm thống trị của giai cấp tư sản, sự bền vững của chế độ bóc lột tư bản chủ nghĩa; trong khi chủ nghĩa cộng sản được xây dựng dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, cùng sự bảo đảm lợi ích và bảo vệ quyền lợi chính đáng của toàn thể nhân dân lao động... - những yếu tố và sự phát triển trực tiếp đe dọa và phủ định sự tồn tại của chủ nghĩa tân tự do và chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tân tự do chống phá chủ nghĩa cộng sản từ những vấn đề mang tính nền tảng, đi từ các yếu tố kinh tế để tác động đến chính trị, dùng con bài “sức mạnh tự do”, “kinh tế thị trường tự do”... để làm chuyển hóa chế độ chính trị. Hơn nữa, chủ nghĩa tân tự do có nhiều biến thể, trong đó có những dạng thức về danh nghĩa dung hợp thêm yếu tố xã hội để phần nào giảm bớt tính cực đoan, cân bằng hơn giữa yếu tố tự do và công bằng, giữa vai trò của thị trường và vai trò của nhà nước... rất dễ gây lầm tưởng, dù rằng đó chỉ là sự cải tổ những yếu tố bề ngoài, còn bản chất của nó đương nhiên không bao giờ thay đổi.
Suy cho cùng, chủ nghĩa tân tự do luôn là một hình thái tư bản chủ nghĩa, và rõ ràng, nó không phải là một học thuyết ưu việt đại diện cho một phương thức sản xuất tiến bộ nhất của nhân loại; ngược lại, chính nó đã và đang dọn đường, mở ra những điều kiện, tiền đề cho sự ra đời của phương thức sản xuất mới, hình thái kinh tế - xã hội phát triển ở trình độ cao hơn: Chủ nghĩa cộng sản.
Hai là, chủ nghĩa tân tự do cổ xúy tư nhân hóa nền kinh tế, hạ thấp vai trò của nhà nước, đồng thời thúc đẩy chủ nghĩa cá nhân.
Có thể nói, tư nhân hóa là một “pháp bảo”, được chủ nghĩa tân tự do bảo vệ bằng mọi giá, vì tư hữu tư bản chủ nghĩa chính là cơ sở sinh tồn của nó; sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa bị xóa bỏ thì chủ nghĩa tư bản tiêu vong và tự khắc chủ nghĩa tân tự do cũng không còn bất kỳ cơ sở nào để tồn tại. Nó lo sợ việc nhà nước can thiệp vào kinh tế, hệ lụy không tránh khỏi là khu vực tư nhân, cái lõi của chủ nghĩa tư bản, sẽ bị lề hóa, thậm chí bị loại bỏ. Đó cũng chính là nguyên nhân sâu xa chủ nghĩa tân tự do cổ xúy tư nhân hóa nền kinh tế, cổ xúy cho sự “tồn tại vĩnh hằng” của chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa và chủ nghĩa tư bản, đồng thời xuất khẩu tư tưởng này theo dòng chảy của đầu tư tư bản khắp thế giới.
Tuy nhiên, quá trình phát triển của xã hội loài người là một quá trình lịch sử - tự nhiên, nghĩa là các hình thái kinh tế - xã hội không tồn tại vĩnh viễn, mà luôn thay thế lẫn nhau, xã hội trước tạo tiền đề vật chất cho xã hội sau phủ định nó, cho đến khi nhân loại đi đến chủ nghĩa cộng sản. Do đó, việc xóa bỏ quan hệ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa là một tất yếu khách quan, do chính những mâu thuẫn trong lòng của chế độ tư bản chủ nghĩa. Theo quy luật phủ định của phủ định, chính nền sản xuất tư bản chủ nghĩa đẻ ra sự phủ định bản thân nó, phủ định chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, như một tất yếu để tạo nên chế độ công hữu. “Theo ý nghĩa đó, những người cộng sản có thể tóm tắt lý luận của mình thành một luận điểm duy nhất này là: xóa bỏ chế độ tư hữu”(17). Tuy nhiên, đây là một quá trình lâu dài, phải dựa trên cơ sở tôn trọng các quy luật khách quan và không phải xóa bỏ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa là xóa bỏ chế độ sở hữu nói chung, mà chỉ là xóa bỏ chế độ sở hữu tư sản nô dịch lao động của người khác.
Việc chủ nghĩa tân tự do cổ xúy tư nhân hóa tất cả những gì tư nhân có thể làm được trong một thị trường tự do ở quy mô toàn cầu giữ vị trí thống lĩnh, đồng thời xem nhẹ vai trò của nhà nước cũng là nhằm tích tụ tư bản ngày càng lớn, tập trung tài sản vào một số ít nhà tư sản kếch sù. Hay nói đúng hơn, đó là cuộc tấn công của tầng lớp thượng lưu toàn cầu chống nhân dân lao động ở mỗi nước tư bản và trên toàn thế giới; đồng thời, nó cũng không thuần túy là một luận thuyết kinh tế, mà có mục đích chính trị rất rõ ràng, nhất là để bảo vệ chủ nghĩa tư bản. Có điều, suốt nửa thế kỷ qua, những diễn ngôn chính trị của các nhà cầm quyền tư bản về việc tư nhân hóa tạo cơ chế tự điều chỉnh để mọi người đều giàu có, xã hội thịnh vượng, mà không cần bất kỳ sự can thiệp nào của nhà nước ngày càng xa vời. Thậm chí khác xa trên thực tế, khi bản thân nhiều chính phủ của các nước tư bản phát triển đã nhiều lần tiến hành quốc hữu hóa doanh nghiệp dưới các hình thức và cấp độ khác nhau, từ áp đặt quyền kiểm soát đặc biệt, cứu trợ tài chính, nắm cổ phần chi phối đến việc thành lập doanh nghiệp nhà nước dựa trên mua lại các doanh nghiệp tư nhân để kiểm soát một lĩnh vực nào đó...
Thực tế, chủ nghĩa tự do mới cũng không phủ nhận hoàn toàn vai trò của nhà nước; nó chỉ muốn một nhà nước tối thiểu hay nói đúng hơn cần nhà nước với quy mô do nó định đoạt, hành động theo nó yêu cầu. Nó hô hào nhà nước tối thiểu nhưng lại là tối đa trong phục vụ sở hữu tư nhân, phục vụ những tập đoàn tư bản bá quyền. Nó hô hào tránh xa chủ nghĩa nhà nước (statism) và hướng tới trật tự sở hữu tư nhân (private property order), nhưng nhà nước tư bản sẵn sàng can thiệp thô bạo vào nền kinh tế, lợi ích của đa số người dân và trật tự xã hội khi cần bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản, nhất là tầng lớp chóp bu. Nhà nước ở các quốc gia tư bản còn ngày một lớn hơn, không hề “tối thiểu” như họ tuyên bố, thậm chí còn hình thành mô hình siêu nhà nước qua liên kết các cường quốc tư bản lại với nhau, thành dạng thức liên nhà nước, để can thiệp, tác động, điều khiển nền kinh tế, chính trị thế giới... Chủ nghĩa tân tự do gắn liền với chủ nghĩa bá quyền, bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền xuyên quốc gia.
Sau nhà nước, đối với vấn đề cá nhân, chủ nghĩa tân tự do cũng thúc đẩy chủ nghĩa cá nhân tư sản, nhấn mạnh đặt cá nhân lên trên xã hội. Nó cổ xúy cho thứ chủ nghĩa cá nhân cực đoan và quyền tự do bóc lột không giới hạn được hình thành và tồn tại trong xã hội tư bản. Nó không thừa nhận cá nhân trong mối quan hệ tùy thuộc, hợp tác, hội nhập với tổng thể xã hội. Đối với chủ nghĩa tự do đương đại, cá nhân là trục xuyên suốt xã hội và lịch sử, có thể áp đặt cho tập thể cái cá thể trung tâm của mình vì lợi ích riêng(18), trỗi dậy sự vị kỷ hẹp hòi, tư lợi để vinh thân phì gia, giữa người và người không còn mối liên hệ nào ngoài quan hệ mua bán, đổi chác..., là con đường ngắn nhất làm cho đạo lý xã hội ngày càng suy đồi. Quan điểm của chủ nghĩa tân tự do sẽ dẫn đến những kết cục nguy hiểm bởi giành ưu quyền cho cá nhân thì lợi ích của tập thể sẽ bị lấn át, thậm chí phế bỏ...
Chủ nghĩa Mác tôn trọng tự do và lợi ích cá nhân đúng đắn, nhưng sự phát triển của mỗi cá nhân không tách rời với xã hội trong tổng thể, không tách rời với tự nhiên. “... Cần ra sức làm cho lợi ích riêng của con người cá biệt phù hợp với lợi ích của toàn thể loài người”(19). Cơ sở nảy sinh, tồn tại và phát triển của chủ nghĩa cá nhân chính là chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Do đó, muốn xóa bỏ chủ nghĩa cá nhân, cần phải loại bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, đồng thời phải tiến hành xây dựng chế độ xã hội mới - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng cảnh báo, chủ nghĩa cá nhân chính là “giặc nội xâm” vô cùng nguy hiểm, trực tiếp đe dọa sự tồn vong của Đảng, của chế độ. Đấu tranh loại bỏ chủ nghĩa cá nhân là yêu cầu tất yếu để xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa; là công việc phải tiến hành thường xuyên để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Người nhấn mạnh: “Không có chế độ nào tôn trọng con người, chú ý xem xét những lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thỏa mãn bằng chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa”(20).
Chủ nghĩa tân tự do được coi là đại diện cho một thứ chủ nghĩa tư bản mới, là bộ mặt tân thời của chủ nghĩa tư bản hiện đại, nên nó vẫn tiếp tục được cổ xúy, tán dương, thậm chí được các nước tư bản tìm mọi cách “xuất khẩu” sang các quốc gia khác, mà đằng sau đó là những mưu tính chính trị được che đậy tinh vi bằng con bài của những học thuyết kinh tế. Các nhà kinh tế tự do o ép các nước đang phát triển cải tổ triệt để mọi khu vực của nền kinh tế. Các diễn ngôn, tư tưởng và sáng kiến hướng đến mục tiêu kinh tế được sử dụng như một công cụ nhằm đạt được mục đích chính trị, nhất là chuyển hóa các nước theo con đường tư bản chủ nghĩa và ràng buộc về chính trị.
Khu vực Mỹ La-tinh là “một phòng thí nghiệm” điển hình của chủ nghĩa tân tự do từ cuối những năm 80 của thế kỷ XX. Khi áp dụng vào khu vực Mỹ La-tinh, chủ nghĩa tân tự do đã thất bại. Chủ trương “nhà nước nhỏ, thị trường lớn” làm suy yếu các chính phủ ở đây, đồng thời diễn ra quá trình xâm chiếm của các công ty đa quốc gia, tư bản nước ngoài đối với các khu vực kinh tế trọng yếu, ngành công nghiệp chủ chốt, như dầu khí... của nhiều nước khu vực Mỹ La-tinh, dưới sự tiếp tay của một bộ phận quân đội, tư sản mại bản, đại điền chủ trong nước, cùng ràng buộc của các hiệp định thương mại tự do. Từ một khu vực phát triển, ngày nay, Mỹ La-tinh giảm sút sự thịnh vượng rất nhiều, trong khi xung đột xã hội, bất ổn gia tăng, tiếp tục lệ thuộc vào các nước tư bản phương Tây. Nhân dân nhiều nước khu vực Mỹ La-tinh đã nổi dậy chống quá trình tư hữu hóa và phi điều tiết nền kinh tế dưới tác động của chủ nghĩa tân tự do, trỗi dậy tinh thần tự tôn dân tộc, quay trở lại quốc hữu hóa nhiều ngành kinh tế quan trọng...
Trong thời đại chủ nghĩa tư bản toàn cầu hóa, chủ nghĩa tự do mới đưa sự bất bình đẳng và bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản vươn ra ở quy mô toàn cầu _Nguồn: shutterstock.com
Trên phạm vi thế giới, chủ nghĩa tư bản tiếp tục cuộc thập tự chinh toàn cầu hóa dưới lá bài chủ nghĩa tân tự do để khuyến khích các nước mở toang biên giới cho tư bản được tự do tràn vào mọi nơi nhằm tối đa hóa lợi nhuận ở quy mô và mức độ cao hơn nhiều so với thời kỳ của chủ nghĩa tự do cổ điển, với sự hỗ trợ của các tập đoàn xuyên quốc gia, các định chế tài chính toàn cầu hùng hậu, tạo sức ép và sợi dây ràng buộc, lệ thuộc lớn về kinh tế, chính trị lên các quốc gia kém phát triển hơn, thúc đẩy tư nhân hóa các nền kinh tế nó đi qua, chuyển quyền lực cùng các nguồn lực sang các nhà tư sản trong nước và nước ngoài. Các thiết chế tài chính quốc tế nghiễm nhiên đòi giữ vai trò giám sát, thậm chí can thiệp vào nền kinh tế của các nước đang phát triển, nhất là các nước vay nợ... Nó gia tăng sự vay nợ trên bình diện toàn cầu, trong đó không ít trường hợp tạo ra gánh nặng nợ nần, đè nặng lên vai các nước đang phát triển. Chủ nghĩa tân tự do cũng là một tác nhân góp phần gây nên những cuộc khủng hoảng tài chính chu kỳ, nhất là khi dòng vốn tự do mất kiểm soát bị di chuyển ồ ạt, gây tổn thương lớn tới các quốc gia đang phát triển do khả năng chống chịu với các cú sốc toàn cầu còn yếu. Có thể nói, trong thời đại chủ nghĩa tư bản toàn cầu hóa, chủ nghĩa tự do mới đưa sự bất bình đẳng và bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản vươn ra ở quy mô toàn cầu, sự bóc lột giá trị thặng dư mang “tính quốc tế” và ngày càng tinh vi hơn...
Việc thấu rõ bản chất của chủ nghĩa tân tự do để chúng ta tuyệt đối không mơ hồ, mất cảnh giác, không để rơi vào bẫy “tự do kinh tế” theo mô hình tư bản chủ nghĩa; đồng thời kiên định phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; tạo mọi điều kiện để phát triển kinh tế tư nhân như là một động lực quan trọng, song tuyệt đối phải giữ vững vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, trên cơ sở nâng cao hiệu quả hoạt động của thành phần kinh tế này, khuyến khích nhưng phải có chọn lọc phát triển kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới một cách chủ động, chắc chắn, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc; nắm vững và xử lý tốt mối quan hệ lớn giữa tuân theo các quy luật kinh tế thị trường với bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế, không ngừng vun bồi nội lực quốc gia, nhuần nhuyễn trong kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại, phát huy cao nhất tinh thần “tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc”...
Việc thấu rõ bản chất của chủ nghĩa tân tự do cũng để chúng ta nhận diện và đấu tranh hiệu quả với học thuyết này, cùng niềm tin khoa học vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam, về thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội.
(Còn nữa)
--------------------
(1), (2) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2005, t. 23, tr. 50
(3) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2006, t. 38, tr. 158 - 159
(4) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 25, tr. 131
(5) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 23, tr. 49
(6), (7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 11, tr. 238
(8) Trường phái kinh tế Keynes do John Maynard Keynes (1883 - 1946), nhà kinh tế nổi tiếng người Anh sáng lập, tập trung vào giải quyết vấn đề lớn là tăng trưởng và việc làm trên cơ sở phát huy vai trò điều tiết nền kinh tế của nhà nước
(9) Friedrich August von Hayek (1899 - 1992) là nhà kinh tế người Anh gốc Áo, là một trong những người sáng lập chủ nghĩa tân tự do, nghiên cứu các cuộc khủng hoảng và bảo vệ thuyết trọng tiền, chống học thuyết Keynes, cũng là một trong những nhà kinh tế chống chủ nghĩa xã hội quyết liệt.
(10) Những tư tưởng về tự do kinh tế xuất hiện rất sớm trong lịch sử, được thể hiện trong tác phẩm của các nhà kinh tế học tư sản cổ điển và chủ nghĩa tự do kinh tế thực sự xuất hiện và trở thành tư tưởng thống trị trong các lý thuyết tư sản trước những năm 30 của thế kỷ XX. Chủ trương tự do kinh tế là các lý thuyết tư sản coi nền kinh tế tư bản chủ nghĩa là hệ thống hoạt động tự động, do các quy luật kinh tế khách quan tự phát điều tiết. Tư tưởng cơ bản của nó là tự do kinh doanh, tự do tham gia thị trường, chống lại sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế.
(11) Adam Smith (1723 - 1790) là nhà kinh tế học người Scotland và David Ricardo (1772 - 1823) là nhà kinh tế học người Anh, là các đại diện tiêu biểu cho kinh tế chính trị tư sản cổ điển.
(12) Joseph E. Stiglitz: “The End of Neoliberalism and the Rebirth of History” (Tạm dịch: Sự cáo chung của chủ nghĩa tân tự do và sự tái sinh của lịch sử), Project Syndicate, 4-11-2019
(13) Nguyễn Văn Thanh: Nhận diện chủ nghĩa tự do mới, Nxb. Chính trị quốc gia, 2005, tr. 29
(14) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, t. 23, tr. 872
(15) Đỗ Thế Tùng: “Nhận thức và ứng xử đúng quy luật với vấn đề bóc lột trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 22-10-2019. https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/kinh-te/-/2018/814223/nhan-thuc-va-ung-xu-dung-quy-luat-voi-van-de-boc-lot-trong-qua-trinh-phat-trien-nen-kinh-te-thi-truong-dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia-o-viet-nam.aspx
(16) Joseph E. Stiglitz: “The End of Neoliberalism and the Rebirth of History” (Tạm dịch: Sự cáo chung của chủ nghĩa tân tự do và sự tái sinh của lịch sử), Sđd
(17) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1995, t. 4, tr. 616
(18) Nguyễn Văn Thanh: Nhận diện chủ nghĩa tự do mới, Sđd, tr. 33
(19) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Sđd, t. 2, tr. 200
(20) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 610
Đấu tranh phản bác luận điệu lợi dụng vấn đề “quyền của người bản địa” kích động “ly khai, tự trị” dân tộc (03/01/2025)
05/12/2024 | 10:56 AM


Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng dưới góc độ chống chủ nghĩa cá nhân nhìn từ cuộc đấu tranh trong chính bản thân mỗi cán bộ, đảng viên
TCCS - Cá nhân tự giải quyết hài hòa lợi ích cá nhân với lợi ích tổ chức, lợi ích xã hội sẽ góp phần thúc đẩy tổ chức và xã hội phát triển; cá nhân đặt lợi ích bản thân lên trên, lên trước lợi ích tập thể thì tất yếu tập thể/ tổ chức không thể phát triển mạnh mẽ, đúng hướng. Do vậy, từng cán bộ, đảng viên phải có ý thức về vai trò, trách nhiệm và thực hiện tốt nhiệm vụ đảng viên mới xây dựng được tổ chức đảng vững mạnh về tư tưởng. Từng tổ chức đảng vững mạnh về tư tưởng đồng nghĩa nền tảng tư tưởng của Đảng được bảo vệ vững chắc ngay từ bên trong.
Đảng viên mới tuyên thệ tại lễ kết nạp đảng viên _Nguồn: baoquangninh.vn
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa cá nhân và liên hệ với bối cảnh hiện nay
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa cá nhân chủ yếu được tập trung dưới góc nhìn đạo đức học, đạo đức cách mạng. Xuyên suốt, nổi bật trong tư tưởng ấy là tinh thần kiên quyết đấu tranh với chủ nghĩa cá nhân và các “căn bệnh” nảy sinh từ chủ nghĩa cá nhân để bảo vệ Đảng từ gốc, để xây dựng, chỉnh đốn Đảng ta thực sự trong sạch, vững mạnh.
Thấm nhuần truyền thống dân tộc Việt Nam, từ tư tưởng “lấy dân làm gốc”, từ trân trọng những giá trị tốt đẹp của văn hóa Việt Nam, đó là truyền thống nhân ái, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau, đề cao lợi ích cộng đồng,...; từ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về sự thống nhất giữa lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể, lợi ích xã hội; từ đức tính, phong cách sống và làm việc khiêm tốn, giản dị, không ưa xu nịnh, hết lòng vì nhân dân, tư tưởng Hồ Chí Minh về chống chủ nghĩa cá nhân đã dần hình thành.
Trong tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập trực diện đến vấn đề này. Người chỉ rõ, chủ nghĩa cá nhân là “việc gì cũng nghĩ đến lợi ích riêng của mình trước hết. Họ không lo “mình vì mọi người” mà chỉ muốn “mọi người vì mình”(1). Ngay từ tiêu đề, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh “nâng cao đạo đức cách mạng” đi liền với “quét sạch chủ nghĩa cá nhân”. Làm rõ mối liên hệ này, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra “Do cá nhân chủ nghĩa mà ngại gian khổ, khó khăn, sa vào tham ô, hủ hóa, lãng phí, xa hoa. Họ tham danh trục lợi, thích địa vị, quyền hành. Họ tự cao, tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán, chuyên quyền. Họ xa rời quần chúng, xa rời thực tế, mắc bệnh quan liêu, mệnh lệnh. Họ không có tinh thần cố gắng vươn lên, không chịu học tập để tiến bộ./ Cũng do cá nhân chủ nghĩa mà mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức, tính kỷ luật, kém tinh thần trách nhiệm, không chấp hành đúng đường lối, chính sách của Đảng và của Nhà nước, làm hại đến lợi ích của cách mạng, của nhân dân./ Tóm lại, do chủ nghĩa cá nhân mà phạm nhiều sai lầm”(2). Như vậy, theo Người, chủ nghĩa cá nhân là đi ngược lại phẩm chất tốt đẹp trong truyền thống dân tộc, trái với đạo đức xã hội xã hội chủ nghĩa, và tác hại của chủ nghĩa cá nhân đối với từng cá nhân, đối với tập thể, đối với toàn Đảng, đối với đất nước là rất to lớn.
Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và thực hiện sứ mệnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam, rồi trở thành Đảng cầm quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh càng đặc biệt quan tâm đến vấn đề chống chủ nghĩa cá nhân, coi đây là nội dung quan trọng trong xây dựng đội ngũ, xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh toàn diện; là vấn đề không chỉ liên quan đến cá nhân, mà còn liên quan đến uy tín của Đảng, thậm chí là sự sống còn của Đảng, của cách mạng Việt Nam. Trong số căn bệnh nảy sinh từ chủ nghĩa cá nhân đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra, có: Bệnh hiếu danh, tham danh, thích địa vị quyền hành; bệnh kéo bè, kéo cánh, thiếu công bằng trong đánh giá; bệnh tham lam... Người mắc bệnh này đều đặt lợi ích của mình lên trên lợi ích tập thể, dựa vào trách nhiệm được Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó để đạt mục đích cá nhân, sẵn sàng bỏ qua lợi ích đất nước, lợi ích nhân dân. Đây là nguồn cơn của tình trạng tham ô, tham nhũng, là căn nguyên dẫn đến lối sống trên tiền, xa hoa... Thực tế cho thấy, chủ nghĩa cá nhân luôn tồn tại, chỉ khác ở cách thức và ở các mức độ khác nhau. Các “căn bệnh” nảy sinh từ chủ nghĩa cá nhân có thể làm suy yếu tổ chức, do đó phải kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân để xây dựng tổ chức trong sạch. Khi từng đảng viên trong sạch, kiên định, bản lĩnh trước mọi cám dỗ, thì tổ chức vững mạnh, các thế lực thù địch không thể lợi dụng để xuyên tạc, chống phá. Khi đặt “cuộc chiến” với chủ nghĩa cá nhân ngang hàng với cuộc đấu tranh cách mạng của toàn dân tộc vì độc lập, tự do và cuộc đấu tranh với cái lạc hậu để phát triển, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho thấy tầm quan trọng, sức ảnh hưởng to lớn của cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân.
Đứng trước nhiệm vụ phải tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới, ngày 22-10-2018, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 35-NQ/TW, về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”. Từ tinh thần của Nghị quyết, có thể thấy bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng là bảo vệ Ðảng, là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn Đảng, toàn dân; kết hợp giữa “xây” và “chống”, giữa đấu tranh “trong” với “ngoài”; cần tiếp tục nâng cao nhận thức về nội dung cơ bản và giá trị to lớn của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó có đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi căn bệnh cá nhân chủ nghĩa; đặt ra yêu cầu cấp ủy các cấp lãnh đạo bằng việc ra kế hoạch thực hiện nhiệm vụ đấu tranh tư tưởng và lãnh đạo đấu tranh tư tưởng thông qua tổ chức đảng và đảng viên; đặt ra yêu cầu tổ chức đảng và đảng viên xây dựng nhận thức đúng đắn cho mình và cho quần chúng về nhiệm vụ đấu tranh tư tưởng, thường xuyên tiến hành tự phê bình và phê bình, phê phán các quan điểm sai trái, chấn chỉnh những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, cá nhân chủ nghĩa...
Trong bối cảnh mới hiện nay, rất cần thiết làm rõ cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng với một số nhận thức mới, đó là đấu tranh tự bảo vệ từ bên trong nội bộ Đảng, từ trong từng cán bộ, đảng viên, đặc biệt là đối với căn bệnh cá nhân chủ nghĩa.
Đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong bối cảnh mới cần được hiểu không chỉ là đấu tranh với bên ngoài, chống lại sự xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch, mà cần mở rộng theo hướng bảo vệ những giá trị tốt đẹp của Đảng, của chế độ, của xã hội xã hội chủ nghĩa. Đảng lãnh đạo đề ra đường lối, chủ trương phát triển kinh tế - xã hội, ban hành Điều lệ Đảng, Quy định về Những điều đảng viên không được làm,... và cán bộ, đảng viên có trách nhiệm thi hành Điều lệ Đảng, thực hiện nghiêm Quy định về Những điều đảng viên không được làm,... đó chính là tự bảo vệ bản thân, là bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ Đảng.
Điều 1, Điều lệ Đảng quy định: “Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân; chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước; có lao động, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; có đạo đức và lối sống lành mạnh; gắn bó mật thiết với nhân dân; phục tùng tổ chức, kỷ luật của Đảng, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng”. Như vậy, phẩm chất cần có, nhiệm vụ cần thực thi của một người đảng viên đã được gắn liền với khái niệm “đảng viên”, thể hiện rõ bản chất cách mạng của người đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Và mỗi cán bộ khi đứng trong hàng ngũ của Đảng đều phải tu dưỡng, rèn luyện, có trách nhiệm giữ vững phẩm chất này. Điều 2, Điều lệ Đảng cũng quy định rất cụ thể đối với đảng viên(3). Từng đảng viên có trách nhiệm thực hiện tốt nhiệm vụ đảng viên, khi đó sẽ không tạo ra cơ hội để các thế lực thù địch lợi dụng xuyên tạc, lôi kéo. Điều này cũng chính là làm cho Đảng mạnh lên từ gốc, là bảo vệ Đảng một cách chủ động, từ bên trong. Soi chiếu quy định đảng viên có nhiệm vụ giữ gìn “phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, có lối sống lành mạnh; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, cục bộ, quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác” (Điều 2, Điều lệ Đảng) với thực tiễn thời gian qua có thể thấy: chính vì không thực hiện tốt nhiệm vụ đảng viên mà một số cán bộ, đảng viên, trong đó có đảng viên là cán bộ lãnh đạo, quản lý, thậm chí giữ cương vị cao của Đảng, Nhà nước đã bị xử lý kỷ luật ở nhiều mức độ khác nhau.
Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng nhấn mạnh, “Tham nhũng thường diễn ra trong nội bộ, do người có chức, có quyền thực hiện. Phòng, chống tham nhũng là cuộc đấu tranh ngay trong chính bản thân mỗi con người, trong mỗi cơ quan, tổ chức, đơn vị, địa phương mình; liên quan đến lợi ích, chức vụ, danh vọng, uy tín của tổ chức, cá nhân”(4). Vì vậy, phải có thái độ “kiên quyết, không khoan nhượng và hành động thật quyết liệt”(5). Người đứng đầu phải chịu trách nhiệm về việc để xảy ra hành vi tham nhũng trong tổ chức, cơ quan, đơn vị, địa phương mình. Do đó, cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân cần được đặt ngang hàng, đồng thời với công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Biểu hiện mới của chủ nghĩa cá nhân - qua góc nhìn một số đại án
Cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực thời gian qua, về bản chất chính là cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân. Trong thời kỳ trước chúng ta đã chứng kiến biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, như một số cá nhân được tin tưởng giao trách nhiệm, nhưng lại ăn bớt, ăn gian, trộm cắp của công,... Trong bối cảnh mới hiện nay, biểu hiện ấy đã chuyển hóa sang hình thức biểu hiện mới, tinh vi hơn. Để đối phó với hành vi lợi dụng chức quyền và hạn chế hiện tượng phe nhóm, cục bộ địa phương, Đảng ta đã ban hành nhiều chủ trương, cơ chế, chính sách, như bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương ở những nơi đủ điều kiện(6), quy định cụ thể hơn quy trình, đối tượng, thời gian luân chuyển cán bộ(7), quy định tiêu chuẩn, điều kiện đối với một số vị trí, chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý,... thì biểu hiện hành vi cụ thể của chủ nghĩa cá nhân làm lãnh đạo, quản lý trong bối cảnh mới tinh vi hơn, không chỉ là tham ô, tham nhũng trực tiếp, độc đoán, chuyên quyền trực tiếp, mà ẩn hiện một cách khéo léo, bề ngoài vẫn lấy ý kiến tập thể, quyết định ban hành là tập thể, nhưng thực chất là ý chí của người đứng đầu ...
Tuy khó có thể nhận diện hết hình thức biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân trong đời sống xã hội..., nhưng công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực thời gian qua được đẩy mạnh đã cho thấy một số biểu hiện mới của chủ nghĩa cá nhân. Đó là là sự suy thoái về đạo đức cách mạng, căn bệnh lợi dụng chức vụ, quyền hạn, tham ô, tham nhũng, “bắt tay” với doanh nghiệp vì lợi ích cá nhân; đó là sự “khiêm nhường” bề ngoài, nhưng bản chất bên trong vẫn là độc đoán, chuyên quyền, vẫn đặt lợi ích cá nhân lên trên, lên trước lợi ích tập thể, lợi ích quốc gia. Lợi ích cá nhân trong thời kỳ mới không chỉ đơn thuần là lợi ích vật chất trước mắt, mà đó còn là lợi ích trong sự thăng tiến của bản thân, thậm chí còn là lợi ích nhóm trong sự thăng tiến của người thân, gia đình, dòng họ, đồng hương... Các biểu hiện này trong đội ngũ cán bộ, đảng viên đã và đang được nhận diện, được toàn Đảng đồng tâm khắc phục, cho dù phải trả giá bằng tổn thất không nhỏ về cán bộ. Theo Ban Nội chính Trung ương, tính từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII đến 2-2-2024, đã kỷ luật 105 cán bộ diện Trung ương quản lý, trong đó có 22 Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng do có vi phạm liên quan đến các vấn đề trên.
Đi sâu một số đại án trong thời gian qua ở nhiều tỉnh, thành phố cho thấy rõ chủ nghĩa cá nhân đã và đang xuất hiện với biểu hiện hành vi sai phạm mới. Năm 2017: Bí thư Thành ủy Đà Nẵng phải chịu trách nhiệm chính về vi phạm, khuyết điểm của Ban Thường vụ Thành ủy Đà Nẵng nhiệm kỳ 2015 - 2020; một Phó Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh bị khai trừ Đảng, bị khởi tố vì tội “Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát lãng phí”; năm 2020, có 3 Ủy viên Bộ Chính trị bị xử lý kỷ luật... Sai phạm được chỉ ra trong nhiều vụ án tập trung vào một số nhóm cơ bản: Vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ; vi phạm các quy định của Đảng, Nhà nước về công tác trên các mặt: tài chính, kinh tế, công tác cán bộ,..; trong lãnh đạo, quản lý có biểu hiện áp đặt, thiếu trách nhiệm, buông lỏng lãnh đạo, chỉ đạo, thiếu kiểm tra, giám sát, để xảy ra nhiều vi phạm, khuyết điểm gây hậu quả nghiêm trọng; vi phạm quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên trong rèn luyện, giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống...
Phân tích về nguyên nhân dẫn đến các vi phạm trên, có thể thấy:
Từ góc nhìn đạo đức: Chủ nghĩa cá nhân là nguồn căn dẫn đến sự chuyển hóa con người từ tốt sang xấu, “là mẹ đẻ ra tất cả mọi tính hư nết xấu”(8). Thường có hai trường hợp: 1- Khi nảy sinh tư tưởng vì lợi ích cá nhân, con người sẽ xuất hiện suy nghĩ tìm kiếm cách thức để thu vén lợi ích cho bản thân. Mưu mô, thủ đoạn bắt đầu xuất hiện cộng với thẩm quyền, chức trách được giao sẽ chi phối hành vi con người, biến người tốt thành người xấu. 2- Trường hợp thứ hai là đứng trước cám dỗ vật chất lớn, lại có thẩm quyền trong tay, khiến cán bộ dễ dàng xuôi chiều, bỏ qua quy định pháp luật, bỏ qua quy tắc đạo đức để hưởng lợi. Do đó, tự tu dưỡng rèn luyện đạo đức cách mạng, đạo đức người cán bộ, đảng viên là yêu cầu tất yếu đầu tiên. Con người không thường xuyên dưỡng ĐỨC làm gốc rễ thì dễ sa vào chủ nghĩa cá nhân.
Từ góc nhìn chính trị: Chủ nghĩa cá nhân che lấp, làm cá nhân đi ngược với các giá trị chung. Sự tác động của lợi ích cá nhân khiến cá nhân dễ bị tác động, dễ dẫn đến việc làm không có lợi cho tổ chức, cho Đảng, cho đất nước; có thể vì lợi ích bản thân mà gây mất đoàn kết trong tổ chức, gây chia rẽ trong quần chúng, thậm chí có thể đánh mất lý tưởng, phản bội đất nước. Điều này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh cảnh báo: “Đã không đồng đức thì không đồng tâm. Cho nên một người đầy chủ nghĩa cá nhân... thế nào mà đồng tâm đồng đức được với Đảng, với giai cấp công nhân”(9). Cá nhân hưởng thụ bất kỳ lợi ích không chính đáng nào cũng là đi ngược lại chủ trương, đường lối của Đảng, vi phạm quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã luận giải: “chủ nghĩa cá nhân đã đưa các đồng chí ấy đến chỗ “tự do hành động”, trái với tổ chức và kỷ luật của Đảng”(10). Mà đối với mỗi cán bộ, đảng viên, kiên định lý tưởng cách mạng, chấp hành quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước là nhiệm vụ tiên quyết, là yêu cầu, đòi hỏi đầu tiên. Công cuộc đổi mới của đất nước đã sắp bước sang năm thứ 40; thời kỳ xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật để theo kịp với sự phát triển kinh tế - xã hội cũng đã đi qua giai đoạn đầu với những “khoảng trống” từng bước được khắc phục. Nhưng trải qua thời kỳ này mới thấy tầm quan trọng của người cán bộ, đảng viên có bản lĩnh chính trị, kiên định trước mọi cám dỗ vật chất đem lại giá trị nhân văn vô cùng sâu sắc. Con người phải kiên định và KIÊN ĐỊNH CHÍNH TRỊ giúp con người đứng vững trong mọi hoàn cảnh, tình huống.
Từ góc nhìn kinh tế: Chủ nghĩa cá nhân là nguồn căn của tệ tham nhũng, của việc lợi dụng hạn chế, lỗ hổng trong chính sách. Lợi ích hấp dẫn con người chủ yếu xoay quanh lợi ích về kinh tế, vật chất. Dưới góc nhìn kinh tế, có thể khái quát hai dạng chủ yếu: 1- Chủ nghĩa cá nhân trực tiếp dẫn tới hành vi tham ô, tham nhũng, gây thiệt hại về vật chất. Chủ tịch Hồ Chí Minh thống kê: “Theo con số đã nắm được từ năm 1958 đến 1961 thì những vụ tham ô đã làm hao tổn của Nhà nước hàng triệu đồng”(11). Theo thống kê của Ban Nội chính Trung ương, về công tác điều tra, truy tố, xét xử, năm 2023, các cơ quan tiến hành tố tụng trên cả nước đã khởi tố hơn 4.500 vụ, hơn 9.370 bị can về các tội phạm về tham nhũng, kinh tế, chức vụ (tăng 46% về số vụ án so với năm 2022). Riêng án tham nhũng tăng gần 2 lần về số vụ và hơn 2 lần về số bị can. 2- Chủ nghĩa cá nhân gián tiếp tác động đến việc ban hành chính sách. Vì lợi ích cá nhân, chủ thể có trách nhiệm trong quá trình xây dựng, ban hành chính sách có thể chủ ý điều chỉnh chính sách cốt mang lại lợi ích cho bản thân, bất chấp việc điều chỉnh này không mang lại lợi ích cho tập thể, thậm chí gây thiệt hại về kinh tế cho đất nước.
Từ góc nhìn văn hóa - xã hội: Mỗi con người để chủ nghĩa cá nhân lấn át, chi phối không chỉ kéo tụt sự phát triển của cá nhân, mà còn gây tổn hại cho sự lành mạnh của môi trường văn hóa, là lực cản sự phát triển xã hội. Khi bị đồng tiền chi phối, con người có thể vô cảm trước nỗi đau của người khác. Vụ án chuyến bay giải cứu cho thấy sự thật đau lòng này. Vụ án liên quan đến việc quan chức và doanh nghiệp nhận và đưa hối lộ để được cấp phép thực hiện các chuyến bay đưa công dân Việt Nam từ nước ngoài về nước trong bối cảnh đại dịch COVID-19. Một số bị can bị truy tố tội “Nhận hối lộ”, “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ”... Từ góc nhìn văn hóa - xã hội, đây không chỉ là lợi dụng chức vụ, quyền hạn, mà ở chỗ các bị can đã bị lợi ích cá nhân làm “mờ mắt”, vô cảm, không đồng cảm, bất chấp khó khăn của người gặp hoạn nạn muốn được trở về đất nước trong đại dịch Covid-19. Qua vụ án, có thể thấy, từng cán bộ, đảng viên phải là người có tấm lòng nhân ái, vì cộng đồng; có đạo đức trong thực thi công vụ. Và chống tham nhũng, chống chủ nghĩa cá nhân phải đồng thời với XÂY DỰNG VĂN HÓA, ĐẠO ĐỨC.
Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội không có chỗ đứng cho chủ nghĩa cá nhân, ý thức và hành vi, hoạt động của con người đều vì tập thể, vì cộng đồng, do đó chủ nghĩa cá nhân là một trở ngại lớn cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội, “là một kẻ địch hung ác của chủ nghĩa xã hội”(12). Trước đây, toàn Đảng đã gắn “cuộc chiến” chống chủ nghĩa cá nhân với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội “thắng lợi của chủ nghĩa xã hội không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân”(13), “Muốn đánh thắng kẻ thù là chủ nghĩa đế quốc, muốn xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội, thì trước hết phải chiến thắng kẻ thù bên trong của mỗi chúng ta là chủ nghĩa cá nhân”(14). Rõ ràng, không chiến thắng được chủ nghĩa cá nhân tất yếu chủ nghĩa xã hội không thể thành công đúng nghĩa.
Do đó, trong bối cảnh hiện nay, cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng cam go nhất, gay gắt nhất, khó khăn nhất chính là cuộc tự đấu tranh trong nội bộ Đảng, cuộc đấu tranh trong chính bản thân mỗi cán bộ, đảng viên.
Cách thức, giải pháp đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, bảo vệ Đảng thời gian tới
Đồng chí Trần Cẩm Tú, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương chủ trì Kỳ họp thứ 50 _Ảnh: TTXVN
Trong thời gian tới, để cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng đạt hiệu quả cao hơn, phải có giải pháp cụ thể trên cơ sở nhận thức mới về cuộc đấu tranh này, bao gồm nhận thức mới về hành vi, biểu hiện mới của chủ nghĩa cá nhân, chủ thể mới được coi là đối tượng đấu tranh, và nội dung, phương thức đấu tranh mới.
Một là, nhận diện chủ thể đấu tranh trong cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong bối cảnh hiện nay.
Đối với chủ thể đấu tranh là tổ chức đảng: phải khai thông nhận thức theo hướng hiểu rõ bản chất của chủ nghĩa cá nhân; nắm được hình thức biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân; nắm vững nguyên tắc đấu tranh với chủ nghĩa cá nhân; xử lý nghiêm khắc, nghiêm minh, công bằng, tạo sức răn đe, không tạo tiền lệ, không để ngoại lệ...
Đối với chủ thể đấu tranh là cán bộ, đảng viên: Xác định cuộc đấu tranh này là “cuộc chiến” lâu dài, thường xuyên, liên tục, không thể hình thức, không theo phong trào, không được nể nang; không có ngoại lệ, phải kiên trì, không nóng vội và phải gắn liền với các nhiệm vụ khác, như phải tăng cường giáo dục đạo đức cách mạng, đề cao ý thức tự giác, nâng cao trình độ hiểu biết, năng lực thực thi công vụ, bồi dưỡng chính trị, xây dựng văn hóa, đạo đức, xây dựng ý thức, trách nhiệm công dân, trách nhiệm tiên phong, gương mẫu của người đảng viên... tránh tình trạng cả hữu ý và vô tình, cả chủ động và bị lôi kéo, vì cám dỗ mà vi phạm quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Nền tảng cơ sở vững chắc là tiếp tục tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đề cao tinh thần chấp hành kỷ luật Đảng, chấp hành pháp luật của Nhà nước, đề cao đạo đức cách mạng chân chính của người cán bộ, đảng viên... Với “hành trang” này, đội ngũ cán bộ, đảng viên sẽ nhận thức rõ tác hại của chủ nghĩa cá nhân, tự thân rèn luyện để tự chống chủ nghĩa cá nhân nảy sinh trong bản thân mình, đoàn kết, nhất trí với tổ chức để xây dựng tổ chức trong sạch, vững mạnh toàn diện.
Hai là, xác định nội dung, phương thức đấu tranh mới.
Thứ nhất, tăng cường tuyên truyền, đẩy mạnh việc “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, trong từng thời kỳ; đối với từng tổ chức cần xây dựng các tiêu chí phù hợp, cần có chương trình hành động cụ thể để học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Thứ hai, tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, coi đây là giải pháp then chốt. Bảo đảm tổ chức đảng hoạt động theo đúng các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng(15). Các nguyên tắc đoàn kết thống nhất trong Đảng, tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình, yêu thương đồng chí, củng cố mối liên hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân là cơ sở quan trọng để chống chủ nghĩa cá nhân, chống các căn bệnh nảy sinh từ chủ nghĩa cá nhân. Bảo đảm các nguyên tắc này, từng cán bộ, đảng viên sẽ khó chệch hướng, cấp ủy sẽ khó mắc sai lầm. Nếu tự phê bình và phê bình dân chủ thì sẽ ngăn chặn được hiện tượng “Họ phê bình người khác mà không muốn người khác phê bình họ; không tự phê bình hoặc tự phê bình một cách không thật thà, nghiêm chỉnh... Họ không lắng nghe ý kiến của quần chúng”(16). Nếu yêu thương đồng chí, củng cố mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân thì sẽ tránh được “tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành... tự cao, tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán, chuyên quyền... xa rời quần chúng, xa rời thực tế, mắc bệnh quan liêu, mệnh lệnh”(17)... Nếu nghiêm túc thực hiện nhiệm vụ đảng viên, quyền và nghĩa vụ công dân thì tránh được “Lúc tính toán công việc, thì đặt lợi ích của cá nhân mình, của nhóm mình lên trên lợi ích chung... dễ đưa đến chỗ trái kỷ luật, trái lợi ích của dân tộc”(18)...
Ba là, kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân từ gốc. Nghị quyết số 04-NQ/TW, ngày 30-10-2016, của Hội nghị Trung ương 4 khóa XII, về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” đã chỉ rõ nguyên nhân tình trạng suy thoái của một bộ phận cán bộ, đảng viên là do bản thân cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện, sa vào chủ nghĩa cá nhân. Trong 9 biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống, biểu hiện cá nhân chủ nghĩa được đề cập là biểu hiện đầu tiên.
Trong tình hình mới hiện nay, muốn chống chủ nghĩa cá nhân hiệu quả phải bảo đảm: Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân trên cơ sở tôn trọng cá nhân, “Nếu những lợi ích cá nhân đó không trái với lợi ích của tập thể thì không phải là xấu”(19). Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân phải đồng thời với xây dựng và hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật trên các lĩnh vực. Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân phải đồng thời với đấu tranh trên các “mặt trận” khác, như đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, đấu tranh chống “xâm lăng” văn hóa, đồng thời với xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh trong xã hội (gia đình, nhà trường, nơi công tác) và tăng cường giáo dục đạo đức xã hội, đạo đức cách mạng,...
Bốn là, tăng cường kiểm tra, giám sát. Đây là một trong những nhiệm vụ thường xuyên, liên tục của cấp ủy, của ủy ban kiểm tra đảng ủy. Tuy nhiên, cần xây dựng chương trình kiểm tra, giám sát chuyên đề về nâng cao đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân. Bên cạnh đó, phát huy vai trò giám sát của quần chúng nhân dân để phát hiện từ sớm, từ xa biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân và dấu hiệu của các căn bệnh nảy sinh từ chủ nghĩa cá nhân./.
-------------------------
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 15, tr. 546 - 547
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 547
(3) Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 8 - 10 (“Đảng viên có nhiệm vụ:.../2. Không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ kiến thức, năng lực công tác, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, có lối sống lành mạnh; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, cục bộ, quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác. Chấp hành quy định của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm...)
(4), (5) Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu tại Hội nghị tổng kết 10 năm công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực giai đoạn 2012 - 2022, ngày 30-6-2022, https://thanhtra.gov.vn/xem-chi-tiet/-/asset_publisher/Content/hoi-nghi-toan-quoc-tong-ket-10-nam-cong-tac-phong-chong-tham-nhung?6504661
(6) Xem: Nghị quyết số 26-NQ/TW, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, ngày 19-5-2018, về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ | Tư liệu văn kiện Đảng (dangcongsan.vn)
(7) Xem: Quy định số 65-QĐ/TW của Bộ Chính trị, ngày 28-4-2022, về luân chuyển cán bộ, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/he-thong-van-ban/van-ban-cua-dang/quy-dinh-so-65-qdtw-ngay-2842022-cua-bo-chinh-tri-ve-luan-chuyen-can-bo-8494
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 13, tr. 90
(9), (10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 466, 606
Đấu tranh phản bác luận điệu lợi dụng vấn đề “quyền của người bản địa” kích động “ly khai, tự trị” dân tộc (03/01/2025)
17/10/2024 | 14:38 PM


Phê phán các quan điểm sai trái, xuyên tạc về định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
TCCS - Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, mô hình phát triển tổng quát của nền kinh tế Việt Nam, đang từng bước tạo tiền đề bền vững cho sự phồn vinh, hạnh phúc của nhân dân Việt Nam. Tuy nhiên, các thế lực thù địch, phản động vẫn tìm mọi cách để lan truyền các quan điểm sai trái, xuyên tạc về định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở nước ta dưới nhiều cấp độ khác nhau. Do vậy, yêu cầu cấp thiết đặt ra hiện nay là kiên quyết đấu tranh, phê phán, bác bỏ các quan điểm sai trái này.
Những thành tựu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đã đem lại những kết quả vượt bậc về tăng trưởng kinh tế đi đôi thực hiện tiến bộ xã hội (Trong ảnh: Hạnh phúc sau giờ tan ca) _Nguồn: nhiepanhdoisong.vn
Sự tinh vi, phức tạp của các quan điểm sai trái, xuyên tạc định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
Hiện nay, các luận điệu sai trái, xuyên tạc về định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam đang được các thế lực thù địch, phản động tích cực gieo rắc, truyền bá, len lỏi vào trong các bộ phận, giai tầng xã hội cũng như nhân dân dưới nhiều hình thức, biện pháp khác nhau, lúc công khai, khi ngấm ngầm, quyết liệt. Các luận điệu sai trái, thù địch có nhiều, nhưng có thể khái quát vào ba nhóm vấn đề chủ yếu sau đây:
Một là, nhóm quan điểm sai trái, xuyên tạc, phủ nhận tính hiện thực của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Các thế lực thù địch ráo riết lan truyền luận điệu rằng, sẽ không thể có được nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhiều lý lẽ xuyên tạc được các thế lực thù địch sử dụng để biện hộ cho cách lập luận của họ. Chúng xuyên tạc rằng, chủ nghĩa xã hội còn chưa rõ là thế nào, thì việc định hướng xã hội chủ nghĩa là không rõ ràng, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa lại càng tù mù hơn(?!); rằng, Việt Nam chưa có kinh tế thị trường đúng nghĩa trong khi lại định hướng đi tới một chế độ xã hội chưa rõ ràng nên đi từ cái “chưa có gì” đến cái “chưa biết gì” là không thể. Không dừng lại ở đó, các thế lực thù địch còn tiếp tục xuyên tạc rằng, chủ nghĩa xã hội đã sụp đổ từ cuối thập niên 80 của thế kỷ XX rồi, làm gì còn chủ nghĩa xã hội mà định hướng; nào là hệ tư tưởng chủ nghĩa xã hội đã đi vào dĩ vãng, cáo chung, làm sao cứ bám quá khứ để định hướng đi đến tương lai (?!)... Nhiều quan điểm sai trái, thù địch kiểu như trên đang diễn ra hằng ngày, hằng giờ, được cài cắm, len lỏi vào các diễn đàn trên mạng xã hội, các diễn đàn “hiến kế”, các diễn đàn “yêu nước”, vì “dân oan”... Đây là cách thức rất tinh vi, xảo quyệt mà các thế lực thù địch, phản động sử dụng hòng xuyên tạc, phủ nhận định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Hai là, nhóm quan điểm sai trái, xuyên tạc rằng, kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa là tự mâu thuẫn nhau, không thể tương dung trong nền kinh tế thị trường đúng nghĩa.
Để biện hộ cho quan điểm sai trái, tinh vi này, các thế lực thù địch, phản động tìm mọi luận cứ gán ghép xuyên tạc, hòng khiến người dân mơ hồ về định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Theo chúng, kinh tế thị trường là tự do, trong khi định hướng xã hội chủ nghĩa là chuyên chế; kinh tế thị trường là đa nguyên, trong khi chủ nghĩa xã hội là nhất nguyên; kinh tế thị trường là dân chủ, trong khi định hướng xã hội chủ nghĩa là độc đoán; kinh tế thị trường là sở hữu tư nhân, trong khi định hướng xã hội chủ nghĩa là sở hữu toàn dân; kinh tế thị trường là cạnh tranh bình đẳng, trong khi định hướng xã hội chủ nghĩa lại xác lập vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước... Do đó, tự bản thân kinh tế thị trường đã mâu thuẫn với định hướng xã hội chủ nghĩa, tự nội hàm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã mâu thuẫn nhau, nên sẽ không thể cùng tồn tại trong một mô hình kinh tế thị trường(?!).
Ba là, nhóm quan điểm xuyên tạc rằng, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là không có cơ sở lý thuyết khoa học, có chăng chỉ là sự gán ghép khiên cưỡng lý thuyết kinh tế thị trường với lý luận Mác - Lê-nin.
Đưa ra quan điểm sai trái, lập luận phủ định, bác bỏ chưa đủ, các thế lực thù địch, phản động còn viện dẫn đến các phương thức xuyên tạc, vòng vo, lập lờ để hòng đánh lạc hướng thành viên trong xã hội. Chúng xuyên tạc rằng, chỉ có sở hữu tư nhân, kinh tế tư nhân mới là động lực của kinh tế thị trường; đồng thời, viện dẫn các quan điểm lý thuyết của các nhà kinh tế học phương Tây rằng, muốn có kinh tế thị trường thì tư nhân phải là chủ đạo. Theo đó, các quan điểm sai trái bám vào luận điệu cho rằng, cơ sở lý luận của sự phát triển kinh tế thị trường phải dựa trên sở hữu tư nhân; trong khi đó, chủ nghĩa Mác - Lê-nin lại chủ trương công hữu là là sự gán ghép khiên cưỡng vào nền kinh tế(?!). Tinh vi hơn, các quan điểm xuyên tạc định hướng xã hội chủ nghĩa còn thường xuyên nhấn mạnh rằng, kinh tế thị trường phải dựa trên nền tảng xã hội dân sự, trong khi định hướng xã hội chủ nghĩa lại dựa trên hệ thống chính trị độc đảng; kinh tế thị trường phải dựa trên các lý thuyết kinh tế tự do, trong khi định hướng xã hội chủ nghĩa lại dựa trên chủ nghĩa Mác - Lê-nin ngoại lai(?!). Không dừng lại ở đó, các quan điểm sai trái, thù địch còn viện dẫn các biểu hiện đơn lẻ để quy kết cho bản chất của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Chúng quy chụp rằng, vì sự khiên cưỡng này nên hàng loạt vụ tham nhũng lớn xảy ra ở Việt Nam là do nền kinh tế thị trường ở Việt Nam không có cơ sở lý luận vững chắc... Có thể thấy, rất nhiều lập luận sai trái, xuyên tạc như vậy đang được đẩy mạnh truyền bá trong nhiều chương trình của hệ thống truyền thông của các thế lực thù địch, phản động.
Ba nhóm lập luận nêu trên là điển hình trong rất nhiều quan điểm xuyên tạc, phủ nhận nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta mà các thế lực thù địch, phản động ráo riết truyền bá dưới các màu sắc và cách thức tinh vi, xảo quyệt khác nhau. Âm mưu nguy hiểm của chúng là nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trên con đường phát triển của đất nước ta. Các quan điểm sai trái, thù địch, xuyên tạc thực chất là truyền bá đắc lực cho các thế lực mưu đồ giành quyền lực chính trị. Các thế lực này đang khát khao tìm cách len lỏi vào đời sống xã hội; từ đó, từng bước gây chia rẽ, mâu thuẫn, mơ hồ trong nội bộ cán bộ, đảng viên và nhân dân, tiến tới gây ảnh hưởng chính trị, làm rối loạn sự ổn định ở Việt Nam. Các thế lực thù địch, phản động nhận thức được rằng, nền tảng tư tưởng, lý luận của định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam là chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở nước ta chỉ có thể được thực hiện dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; do đó, tìm mọi cách xuyên tạc về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đồng nghĩa với việc gián tiếp bác bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đồng thời, khi xuyên tạc, làm méo mó nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, các thế lực thù địch, phản động muốn xuyên tạc, phủ nhận những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử mà đất nước ta đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhất là thành tựu của gần 40 năm đổi mới.
Ý đồ sâu xa của các quan điểm sai trái, xuyên tạc, thù địch nêu trên là không thừa nhận con đường phát triển đúng đắn, phù hợp của Việt Nam; cố tình bôi nhọ, tìm mọi cách chống phá, trên mọi mặt trận, bằng mọi thủ đoạn hòng xóa bỏ con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Các thế lực thù địch, phản động đang ra sức xuyên tạc, chống phá, hòng làm chệch hướng con đường phát triển của Việt Nam dưới nhiều màu sắc khác nhau. Chúng vận dụng, tận dụng nhiều hình thức, nhiều kênh, nhiều mặt trận thông tin để thực hiện âm mưu “mưa dầm, thấm lâu”, gây mơ hồ trong các giai tầng xã hội, hòng làm dao động tư tưởng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân; gây hoài nghi, chia rẽ nội bộ, làm cho một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân mất niềm tin vào nền tảng tư tưởng của Đảng, hòng từng bước làm tan rã định hướng xã hội chủ nghĩa trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam.
Nhận diện sự sai trái về mặt lý luận trong các quan điểm thù địch
Về mặt lý luận, lập luận về sự không tương dung, sự mâu thuẫn, không có cơ sở lý thuyết vững chắc... của các quan điểm sai trái nêu trên đều không hề thuyết phục, chẳng qua chỉ là lập luận xuyên tạc, sai trái hòng phân tán, đánh lạc hướng dư luận. Một mặt, lịch sử phát triển của nhân loại cho thấy, kinh tế thị trường là sản phẩm của văn minh nhân loại. Ở đâu có sự phân công lao động và có sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa con người với con người, thì ở đó có sự thúc đẩy dẫn tới xuất hiện của quan hệ hàng hóa, ở đó có quan hệ thị trường. Sự phát triển cứ như vậy diễn ra một cách khách quan vượt ra ngoài mọi ý chí chủ quan của con người. Về bản chất, kinh tế thị trường là giá trị phổ quát, không phải là giá trị riêng có của chủ nghĩa tư bản. Do đó, việc đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản, đồng nhất kinh tế thị trường với kinh tế tư nhân tư bản chủ nghĩa là hoàn toàn sai lầm; lấy sự hiểu biết không thấu đáo để lớn tiếng cho rằng, chỉ có trên nền tảng tư bản chủ nghĩa, chỉ có kinh tế tư nhân mới có kinh tế thị trường là quan điểm ấu trĩ!
Mặt khác, đến lượt nó, dù phát triển ở đâu, trong phạm vi quốc gia nào, ngoài những đặc trưng chung, những thành tố không thể thiếu là các yếu tố thị trường và các loại thị trường, thì kinh tế thị trường đều chịu sự quy định và phản ánh trình độ phát triển, điều kiện lịch sử, văn hóa, kinh tế, xã hội, chính trị, thể chế ở quốc gia đó. Không có một nền kinh tế thị trường trừu tượng, chung chung, phi lịch sử. Thực tế cho thấy, mô hình kinh tế thị trường kiểu Mỹ khác với kinh tế thị trường kiểu Đức, kinh tế thị trường kiểu Pháp khác với kinh tế thị trường kiểu Nhật Bản, kinh tế thị trường kiểu Anh khác với kinh tế thị trường kiểu Thụy Điển... Sở dĩ như vậy là vì, ngoài nền tảng chung là các yếu tố thị trường, các loại thị trường trong nền kinh tế thị trường hiện đại ngày nay đều có vai trò của nhà nước, không có nền kinh tế thị trường nào chỉ nguyên nghĩa, tồn tại duy nhất vai trò của thị trường. Bởi lẽ, bản thân cơ chế thị trường cũng có những “khuyết tật” mà không thể tự khắc phục được. Vai trò của nhà nước trong việc khắc phục khuyết tật của thị trường là tất yếu khách quan. Khi đã có sự tham gia của nhà nước một cách khách quan, tất yếu có đặc trưng khác nhau trong các nền kinh tế thị trường đó ngoài những đặc điểm chung. Không có một nền kinh tế thị trường tự do vô chính phủ, lửng lơ. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam cũng không nằm ngoài tính phổ biến đó. Vì vậy, các quan điểm sai trái, xuyên tạc, cố tình lập luận, dùng một tưởng tượng về nền kinh tế thị trường chung chung, trừu tượng, phi lịch sử để quy cho một mô hình kinh tế thị trường cụ thể, hiện hữu là phi lịch sử và phản khoa học.
Càng không đúng hơn khi xuyên tạc rằng, kinh tế thị trường là đa nguyên, định hướng xã hội chủ nghĩa là nhất nguyên; kinh tế thị trường là tự do, định hướng xã hội chủ nghĩa là chuyên chế, độc đoán... Đây là những cách lập luận mang tính thù địch, cố tình không phân biệt giữa thể chế kinh tế với thể chế chính trị, không phân biệt giữa chế độ xã hội với thể chế kinh tế thị trường, dùng biểu hiện bề ngoài và một vài khía cạnh của kinh tế thị trường để đánh đồng cho toàn bộ cấu trúc tổng thể của một mô hình kinh tế thị trường, cũng như không hiểu về bản chất tốt đẹp của xã hội xã hội chủ nghĩa. Về mặt lý luận, không ở đâu có cái gọi là “kinh tế thị trường nhất nguyên”, càng không có “kinh tế thị trường tự do trừu tượng”, cũng không có “kinh tế thị trường nào là độc đoán, chuyên chế”. Sự cố tình lập lờ, tráo lộn các phạm trù kinh tế với các phạm trù chính trị là lập luận sai trái, âm mưu nguy hiểm của các thế lực thù địch, phản động.
Hơn nữa, việc sử dụng một số biểu hiện có tính chất hạn chế nhất thời, để từ đó thổi phồng như là bản chất của nền kinh tế thị trường càng hoàn toàn không phải là một cách lập luận thuyết phục, chẳng hạn việc phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó kinh tế nhà nước có vai trò chủ đạo, là dung dưỡng cho tham nhũng, cho thất thoát lại một lần nữa cho thấy sự không trung thực, ý đồ xấu trong lập luận của các quan điểm sai trái nêu trên. Thực tế là, những biểu hiện nhất thời, những khiếm khuyết xảy ra không phải là bản chất xuyên suốt của một nền kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ theo các quy luật của nền kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Như thế, xét về bản chất, thực hiện đầy đủ những giá trị đó chính là giá trị chung mà mỗi người Việt Nam chân chính đều mong muốn. Đó cũng là thể hiện sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào thực tiễn phát triển của Việt Nam. Chủ nghĩa Mác - Lê-nin là chủ nghĩa vì tự do, chủ nghĩa hướng đến khát vọng tự do của con người, mưu cầu sự giải phóng cho nhân loại; song, các thế lực thù địch, phản động lại xuyên tạc việc phát triển kinh tế dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Tham nhũng, thất thoát, lãng phí không xuất phát từ bản chất kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; do đó, cố tình dùng hiện tượng đơn lẻ để quy chụp cho bản chất, dùng biểu hiện nhất thời, quy cho toàn bộ quá trình là cách lập luận hoàn toàn thiếu xác đáng. Tuy nhiên, việc cố tình lập lờ, đánh lận con đen dễ gây ngộ nhận, nhầm lẫn, nên các thế lực thù địch không ngần ngại sử dụng hòng xuyên tạc, phủ nhận mọi thành tựu mà đất nước ta đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Những thành tựu phát triển là chứng cứ khách quan thuyết phục bác bỏ mọi quan điểm sai trái, xuyên tạc định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
Chưa cần chỉ ra các cách thức chống phá, luận điệu sai trái, quy chụp vô nguyên tắc, gán ghép bừa bãi hiện tượng với bản chất, tính ngụy biện, lập lờ của các quan điểm nêu trên, bản thân những thành quả của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay là minh chứng, luận cứ khách quan, xác thực nhất nhằm phản bác không khoan nhượng các quan điểm sai trái, thù địch về định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở nước ta.
Thứ nhất, việc chuyển thành công từ nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hóa sang nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chính là luận cứ đanh thép nhất phản bác mọi luận điệu sai trái, xuyên tạc về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Từ một nền kinh tế đói nghèo, khủng hoảng, chịu thiệt hại nặng nề bởi chiến tranh do chủ nghĩa thực dân, đế quốc và tay sai bù nhìn gây ra, hiện nay trong nền kinh tế ở Việt Nam đã hiện diện đầy đủ yếu tố thị trường, các loại thị trường với biểu hiện phong phú, hiện thực sinh động và sự tham gia đa dạng các loại hình, các quan hệ kinh tế; số lượng hàng hóa, dịch vụ phong phú, đa dạng, đáp ứng và thỏa mãn nhu cầu của mọi người, từ đô thị đến nông thôn, từ đồng bằng đến miền núi, từ nơi phát triển đến vùng sâu, vùng xa; hàng hóa, dịch vụ lan tỏa vào mọi khu vực địa lý, mọi loại địa hình. Thực tế này là gì nếu không phải là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và do đó, định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam là đúng đắn, phù hợp. Đó là một thực tế về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam mà không một thế lực nào có thể bác bỏ được.
Thứ hai, chính những thành tựu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đã đem lại những kết quả vượt bậc về tăng trưởng kinh tế đi đôi thực hiện tiến bộ xã hội, giảm nghèo bền vững với tốc độ nhanh, hiệu quả, đang được các phương tiện thông tin đại chúng trên khắp thế giới ghi nhận và công bố khách quan, một lần nữa minh chứng cho tính hiện thực của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Những kết quả đó đã được thế giới công nhận. Đặc biệt, khi cả thế giới phải đương đầu với đại dịch COVID-19, thì tính ưu việt của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam lại càng được thể hiện rõ ràng, hiệu quả.
Bên cạnh những thành tựu về giảm nghèo, nhiều thành tựu khác về chỉ số phát triển con người, về mạng lưới an sinh xã hội, về tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người, về sự phát triển của giáo dục, y tế, các dịch vụ cơ bản khác trên tất cả lĩnh vực được thể hiện đậm nét trong các bảng thống kê của các tổ chức trên thế giới. Điều này cho thấy, những kết quả, thành tựu về chính trị, kinh tế, xã hội ở nước ta được thế giới tiến bộ thừa nhận và trở thành luận cứ sắc bén bóc trần âm mưu đen tối, thái độ hằn học của các thế lực thù địch, phản động.
Bốc, xếp hàng hóa xuất khẩu tại Tân Cảng Sài Gòn, Thành phố Hồ Chí Minh _Nguồn: nhiepanhdoisong.vn
Thứ ba, nền kinh tế thị trường Việt Nam ngày càng gắn bó với thị trường thế giới, khi hàng hóa của Việt Nam tham gia vào thị trường của hơn 200 quốc gia, vùng lãnh thổ trên khắp hành tinh; và theo chiều ngược lại, chừng đó những dòng hàng hóa, dịch vụ của các thị trường ấy tham gia vào nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Đó là gì, nếu không phải là do sự vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam? Những thành tựu có được chính là nhờ việc thực hiện kiên định định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta, nhân dân ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn. Chính chế độ xã hội chủ nghĩa đã đem lại sự ổn định, phồn vinh của đất nước ta, sự tin tưởng của cộng đồng doanh nghiệp và các chính đảng, nhà nước, tổ chức quốc tế ở khắp nơi trên thế giới đối với Việt Nam. Thực tế đó đã chứng minh tính đúng đắn của việc lựa chọn nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đồng thời, thực tế còn cho thấy, khi đất nước ta càng đạt được nhiều thành tựu, thì các thế lực thù địch, phản động càng điên cuồng chống phá, phủ nhận, hòng xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Thế nhưng, chính những thành tựu mà đất nước ta đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng là luận cứ đanh thép, thuyết phục nhất phản bác mọi âm mưu, thủ đoạn thâm độc của các thế lực thù địch, phản động; đồng thời, là cơ sở, động lực để thúc đẩy đất nước ta đạt được những thành tựu mới cao hơn, vững chắc hơn trong giai đoạn phát triển tiếp theo./.
Đấu tranh phản bác luận điệu lợi dụng vấn đề “quyền của người bản địa” kích động “ly khai, tự trị” dân tộc (03/01/2025)
Nhận diện và đấu tranh với một số học thuyết phi mác-xít kiểu mới hòng phê phán, phủ nhận chủ nghĩa Mác (kỳ 2 và hết) (22/12/2024)
21/10/2024 | 09:56 AM


Nhận diện và phản bác luận điệu xuyên tạc, chống phá chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam qua một số “hiện tượng mạng” liên quan đến tôn giáo
TCCS - Thời gian qua, các thế lực thù địch lợi dụng một số “hiện tượng mạng” lên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo, như “hiện tượng” Thích Minh Tuệ đi bộ thực hành phương pháp tu tập “hạnh đầu đà”, phát ngôn thiếu chuẩn mực của cá biệt một số cá nhân nhà tu hành để quy chụp, hạ thấp uy tín tổ chức tôn giáo, kích động chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chia rẽ giữa các tôn giáo, xuyên tạc về chính sách tôn trọng và bảo đảm tự do tín ngưỡng, tôn giáo nhất quán của Việt Nam. Việc nhận diện và phản bác các luận điệu xuyên tạc này có ý nghĩa quan trọng, góp phần giúp cộng đồng trong nước và quốc tế nắm rõ, nhận thức đúng đắn về tình hình tự do tín ngưỡng, tôn giáo và pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam.
Trong thời gian qua, trên các phương tiện truyền thông xã hội, “hiện tượng” Thích Minh Tuệ và một số phát ngôn, hình ảnh và hoạt động thực hành tín ngưỡng, tôn giáo chưa chuẩn mực của cá biệt một số cá nhân nhà tu hành đã thu hút rất nhiều luồng dư luận trái chiều. Trước những “hiện tượng” đó, đa số tôn trọng, ủng hộ những cá nhân có ý chí trên con đường phấn đấu tu tập khổ hạnh; đồng thời, phê phán khách quan một số cá nhân nhà tu hành có phát ngôn, hình ảnh, thực hành tín ngưỡng, tôn giáo chưa đúng chuẩn mực, cho rằng đó là hiện tượng cá biệt và không đánh đồng, quy chụp. Tuy nhiên, cũng có đối tượng lợi dụng những “hiện tượng” trên để cắt ghép, xuyên tạc hòng bôi nhọ, quy chụp, công kích một số tôn giáo; “nhân danh” một số “tổ chức quốc tế” lên án về tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam. Những đối tượng này không có mục đích gì khác là câu “view”, câu “like” để kiếm chác lợi nhuận từ các nền tảng truyền thông xã hội hoặc cố tình lợi dụng vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo để chống phá Đảng, Nhà nước ta, với một số thủ đoạn sau:
Một là, bôi nhọ, hạ uy tín của tổ chức tôn giáo, xuyên tạc tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam. Các thế lực thù địch, phản động phát tán video clip được cắt ghép, với nội dung mang tính chất so sánh phiến diện, tiêu cực nhằm chỉ trích, làm xói mòn niềm tin, chia rẽ cộng đồng các tín đồ và hạ uy tín tổ chức tôn giáo. Qua đó, gieo rắc hoài nghi, phân biệt giữa những người thực hành tự do tôn giáo, tín ngưỡng, nhằm tạo ra mâu thuẫn bên trong tổ chức tôn giáo. Đơn cử, vào thời điểm Giáo hội Phật giáo Việt Nam thông báo ông Thích Minh Tuệ không phải là tu sĩ phật giáo, không tu tập và không là nhân sự của bất cứ ngôi chùa, cơ sở tự viện nào của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, thì các đối tượng phản động ở nước ngoài nhân danh cái gọi là “tổ chức tôn giáo” ra “thông bạch” nói ông Thích Minh Tuệ “đúng là tu sĩ phật giáo”, cố tình xuyên tạc Giáo hội Phật giáo Việt Nam không công nhận người chân tu và công kích tổ chức tôn giáo cũng như chính quyền. Các thế lực thù địch còn lợi dụng những hình ảnh, phát ngôn thiếu chuẩn mực của cá biệt một số cá nhân tăng sĩ, để quy chụp, bôi xấu, “nhuộm đen” cộng đồng những người tu hành, từ đó gây chia rẽ giữa các tôn giáo, gây mất niềm tin của tín đồ, người dân vào tổ chức tôn giáo. Đây là ý đồ thâm độc, khi cố tình lấy hiện tượng để đánh đồng với bản chất, lấy số ít “con sâu làm rầu nồi canh” để quy chụp cả một tổ chức tôn giáo. Nguy hiểm hơn, lợi dụng những “hiện tượng mạng” liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo trên, các thế lực thù địch cũng nhắm tới mưu đồ chia rẽ tôn giáo với Đảng, Nhà nước ta, phủ nhận những giá trị của tôn giáo đồng hành với dân tộc.
Cáo buộc chính quyền ngăn chặn tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân. Trước việc cơ quan chức năng phải can thiệp để bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội đối với những “hiện tượng mạng” trên, các thế lực thù địch rêu rao rằng chính quyền “cản trở” việc thực hành tự do tín ngưỡng, tôn giáo (?!). Trên fanpage của tổ chức phản động thường xuyên đăng tải các bài viết và bình luận có nội dung sai sự thật, bóp méo bản chất sự việc nhằm gây mâu thuẫn, chia rẽ, kích động người dân.
Ngày 16-5-2024, Ban Tôn giáo Chính phủ có Công văn số 795/TGCP-PG, đề nghị các phòng, ban tôn giáo các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tăng cường công tác quản lý nhà nước về tôn giáo, phòng ngừa hoạt động lợi dụng “hiện tượng Thích Minh Tuệ” để xúi giục, lôi kéo gây mất đoàn kết tôn giáo và vi phạm pháp luật. Thế nhưng, các thế lực thù địch, tổ chức phản động vu cáo chính quyền cản trở người tu hành; dựng nên những kịch bản về “đàn áp”, “bắt giam” để kích động, kêu gọi người dân phản đối chính quyền, tiếp tục xuống đường “khai phóng” để tìm “thế giới của riêng mình” (?!).
Xuyên tạc về chủ trương, chính sách tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Các thế lực thù địch cố tình bôi đen, xuyên tạc, tạo sự đối lập các tôn giáo với luận điệu “Nhà nước đang ủng hộ, hậu thuẫn, coi trọng tôn giáo này, bóp nghẹt tôn giáo kia”(?!). Đồng thời, phủ nhận chính sách bình đẳng giữa các tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta. Với thủ đoạn này, chúng nhằm “một mũi tên trúng hai đích”: Vừa xuyên tạc, tố cáo chính quyền, làm cho mối quan hệ giáo hội với chính quyền trở nên xấu đi, thậm chí rơi vào bế tắc, đối kháng, vừa gây chia rẽ nhằm làm các tôn giáo đối lập, đối đầu với nhau(1).
Trước những “hiện tượng mạng” liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo phức tạp trên, cần nhận diện rõ bản chất và có các giải pháp kiên quyết đấu tranh:
Thứ nhất, khẳng định chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo nhất quán của Đảng và Nhà nước. Những năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn thực hiện quan điểm nhất quán: “Bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người theo quy định của pháp luật.”(2) “Tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt đúng quy định của pháp luật; chủ động giúp đỡ, giải quyết các nhu cầu hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo, tâm linh của quần chúng, đồng thời chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về công tác tôn giáo.”(3) “Mọi người hoàn toàn tự do lựa chọn theo hoặc không theo một tín ngưỡng, tôn giáo nào mà không bị ép buộc, mua chuộc hoặc cản trở. Người có tín ngưỡng, tín đồ các tôn giáo được tự do bày tỏ đức tin tại gia đình, cơ sở thờ tự hoặc điểm nhóm đăng ký với chính quyền.”(4)
Nhằm bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và phù hợp với đời sống thực tiễn hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam, ngày 18-11-2016, Quốc hội khóa XIV thông qua Luật Tín ngưỡng, tôn giáo. Chính phủ ban hành Nghị định số 162/2017/NĐ-CP, ngày 30-12-2017, quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo, trong đó quy định rõ: Mỗi người có quyền bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo; thực hành lễ nghi tín ngưỡng, tôn giáo; tham gia lễ hội; học tập và thực hành giáo lý, giáo luật tôn giáo; quyền vào tu tại cơ sở tôn giáo; học tại cơ sở đào tạo tôn giáo, lớp bồi dưỡng về tôn giáo.
Sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo diễn ra sôi động ở khắp các vùng, miền, các cộng đồng dân cư, các tầng lớp xã hội, nhất là vào dịp đầu năm, lễ hội truyền thống (Trong ảnh: Nhân dân tham dự lễ hội hoa đăng) _Nguồn: nhiepanhdoisong.vn
Vì vậy, việc ngăn chặn kịp thời và đấu tranh, xử lý nghiêm các nhóm đối tượng lợi dụng hoạt động tự do tín ngưỡng, tôn giáo, vi phạm pháp luật Việt Nam là điều cần thiết - đây hoàn toàn không phải là “sự đàn áp hay ngăn cấm” hoạt động tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân như những luận điệu xuyên tạc, mà là sự bảo đảm nguyên tắc thượng tôn pháp luật rất cần thiết.
Thứ hai, phản ứng nhanh, kịp thời, hiệu quả trước các “hiện tượng mạng”. Trong môi trường truyền thông số hiện nay, tất cả các “hiện tượng” đều diễn ra rất nhanh, nhiều khi thông tin có thể chưa được kiểm chứng. Lợi dụng đặc tính đó, các thế lực thù địch “nhào nặn” rồi tung ra những thông tin xuyên tạc tiêu cực, châm ngòi, kích động những phản ứng gây mất ổn định an ninh, trật tự xã hội. Do đó, sự phản ứng nhanh, kịp thời của các cơ quan chức năng có vai trò quan trọng để vô hiệu hóa các thông tin xấu, độc lan truyền trên các phương tiện truyền thông xã hội, trước khi nó trở thành “khủng hoảng truyền thông”. Bên cạnh đó, với sự hỗ trợ của công nghệ hiện đại, việc sử dụng các phần mềm tự động rà quyét để nắm bắt các xu hướng thông tin chủ đạo và có phương án xử lý thông tin nhanh chóng, phù hợp sẽ góp phần đấu tranh hiệu quả với các thế lực thù địch trên không gian mạng. Cần thông tin chính thống nhanh, kịp thời để định hướng dư luận; có các bài viết chất lượng với lập luận sắc bén để bẻ gãy luận điệu xuyên tạc. Bên cạnh đó, kịp thời nhận diện, cảnh báo nguy cơ những đối tượng xấu trà trộn đám đông để lừa đảo, gây rối làm mất an ninh, trật tự xã hội, an toàn sức khỏe và tính mạng người dân. Các cơ quan chức năng tuyên truyền người dân không tham gia tụ tập đông người, gây cản trở và ảnh hưởng đến an toàn giao thông, gây phức tạp về an ninh, trật tự.
Thứ ba, tăng cường đấu tranh với các thông tin xấu, độc trên không gian mạng. Hiện nay, các phương tiện truyền thông xã hội có ảnh hưởng lớn tới dư luận xã hội, các hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, các tổ chức phản động phần lớn diễn ra trên không gian mạng. Do đó, các cơ quan chức năng cần xác định phương thức sử dụng chính các phương tiện truyền thông xã hội và không gian mạng là phương tiện và nền tảng chủ đạo để khắc chế thủ đoạn dùng không gian mạng chống phá Đảng và Nhà nước của các thế lực thù địch, theo phương châm “lấy độc trị độc”. Các cơ quan chức năng và báo chí cần tiên phong cung cấp, lan tỏa diện rộng những thông tin chính thống, tích cực về tín ngưỡng, tôn giáo, theo phương châm “Lấy cái đẹp dẹp cái xấu”; khuyến khích các cá nhân có ảnh hưởng trên nền tảng truyền thông xã hội chủ động, tích cực chia sẻ các nội dung chính xác, đúng đắn, có quan điểm tích cực để góp phần đẩy lùi thông tin xấu, độc.
Thứ tư, đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người dân trong việc nhận diện và đấu tranh với các thông tin xấu, độc.
Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến luật pháp về tín ngưỡng, tôn giáo và tình hình tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở nước ta cho nhân dân và cộng đồng quốc tế hiểu rõ hơn; tiếp tục bổ sung, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo cho phù hợp với tình hình thực tế nước ta và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo. Bên cạnh đó, cần nâng cao nhận thức của nhân dân về các giá trị đạo đức, văn hóa của tôn giáo - một bộ phận cấu thành quan trọng trong hệ giá trị văn hóa Việt Nam, là bệ đỡ tinh thần giúp tín đồ sống lành mạnh, có trách nhiệm với xã hội(5), để tăng sức “đề kháng” cho xã hội trước thông tin xấu độc, đấu tranh với hoạt động kích động gây xung đột văn hóa dân tộc - tôn giáo, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc và góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc./.
----------------------
(1) Xem: Đức Thắng - Phạm Thủy: Lật tẩy thủ đoạn gây chia rẽ khối đại đoàn kết tôn giáo, chống phá Đảng, Nhà nước, Công an nhân dân điện tử, ngày 22-4-2024, https://cand.com.vn/Chong-dien-bien-hoa-binh/lat-tay-thu-doan-gay-chia-re-khoi-dai-doan-ket-ton-giao-chong-pha-dang-nha-nuoc-i728885/
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, năm 2021, tập 1, tr.272.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb.CTQG Sự thật, Hà Nội, năm 2021, tập 2, tr.141.
(4) Ban Tôn giáo Chính phủ, Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam, Nxb Tôn giáo, Hà Nội, 2022, tr86-87
(5) Xem: Vũ Chiến thắng: Khơi dậy và phát huy giá trị đạo đức, văn hóa và nguồn lực tôn giáo phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 11-6-2022, https://tapchicongsan.org.vn/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/khoi-day-va-phat-huy-gia-tri-dao-duc-van-hoa-va-nguon-luc-ton-giao-phuc-vu-su-nghiep-phat-trien-dat-nuoc
Đấu tranh phản bác luận điệu lợi dụng vấn đề “quyền của người bản địa” kích động “ly khai, tự trị” dân tộc (03/01/2025)
Nhận diện và đấu tranh với một số học thuyết phi mác-xít kiểu mới hòng phê phán, phủ nhận chủ nghĩa Mác (kỳ 2 và hết) (22/12/2024)
17/09/2024 | 14:12 PM


Không thể xuyên tạc, phủ nhận thành tựu của Việt Nam trong việc bảo đảm và thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
TCCS - Tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là quan điểm xuyên suốt, nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Cá nhân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào; không ai có quyền xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quốc gia, dân tộc, lợi ích cộng đồng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Thế nhưng, thời gian qua, các báo cáo nhân quyền, tôn giáo của một số nước phương Tây thường xuyên có nội dung xuyên tạc, vu cáo “chính quyền Việt Nam giới hạn tự do tôn giáo”. Đây là sự bịa đặt, vu cáo trắng trợn hòng phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam. Vì vậy, việc làm rõ những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động về thành tựu của Việt Nam trong bảo đảm và thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, các thế lực thù địch, phản động không từ bỏ bất cứ thủ đoạn thâm hiểm nào nhằm chống phá cách mạng Việt Nam. Một trong những thủ đoạn thâm hiểm đó là lợi dụng vấn đề tôn giáo để chống phá, coi đây là “mũi đột phá” hướng đến xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Trong những năm gần đây, Ủy ban Tự do tôn giáo quốc tế Mỹ (USCIRF) - cơ quan tham vấn được thành lập theo Luật về Tự do tôn giáo quốc tế năm 1998, vẫn định kỳ đưa ra báo cáo nhận xét, đánh giá, phê phán về tình hình nhân quyền và tự do tôn giáo của một số quốc gia, trong đó có Việt Nam. Theo USCIRF, việc “cải thiện nhân quyền” ở một số nước không đi theo quỹ đạo của Mỹ nên “cần được quan tâm đặc biệt”. Từ năm 2012 đến nay, USCIRF liên tục đề nghị đưa Việt Nam vào danh sách “các nước cần quan tâm đặc biệt, viết tắt là CPC” bất chấp thành tựu về bảo đảm các quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng của Việt Nam đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận. Tháng 5-2023, USCIRF tiếp tục khuyến nghị Bộ Ngoại giao Mỹ đưa Việt Nam vào “danh sách CPC”, khi cho rằng Việt Nam đã “tăng cường kiểm soát và đàn áp”, “đàn áp tôn giáo một cách nghiêm trọng”, “sách nhiễu, bức hại”, “ép buộc”, “tước đoạt tài sản”...
Sự tiếp cận, đánh giá thiếu thiện chí, thiếu khách quan của một số cá nhân trong Bộ Ngoại giao Mỹ và các đối tượng thù địch, phản động trong USCIRF đã vi phạm Khoản 7, Điều 2 Hiến chương Liên hợp quốc: “Tổ chức Liên hợp quốc không có quyền can thiệp vào công việc thực chất thuộc thẩm quyền nội bộ của bất kỳ quốc gia nào”. Theo đó, đòi hỏi không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác cũng là nghĩa vụ đặt ra cho tất cả thành viên cộng đồng quốc tế(1).
Những luận điệu xuyên tạc, vu cáo trắng trợn trên không những không phản ánh đúng sự ghi nhận và bảo đảm của luật pháp Việt Nam về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; không phản ánh đúng bản chất tình hình thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam, mà còn cố tình phớt lờ thành tựu của Việt Nam trong tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Âm mưu sâu xa, mục đích chính trị đen tối của các thế lực thù địch, phản động là tiến hành tổng thể biện pháp nhằm tạo dựng nhiều điểm nóng về tín ngưỡng, tôn giáo để gây ra bất ổn về chính trị, văn hóa, xã hội ở các địa phương trong cả nước. Cùng với đó, lợi dụng “ngòi nổ” tín ngưỡng, tôn giáo để kích động mâu thuẫn giữa các tôn giáo với nhau, giữa người theo đạo và người không theo đạo, giữa các tôn giáo với chính quyền các cấp; từ đó, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tiến tới can thiệp vào công việc nội bộ, chống phá Đảng và Nhà nước Việt Nam, gây tổn hại đến công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
Thực tế cho thấy, thành tựu của Việt Nam trong việc bảo đảm và thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được dựa trên các cơ sở khoa học sau:
Thứ nhất, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam luôn được tôn trọng và bảo vệ, thể hiện rõ trong các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam từ ngày thành lập nước đến nay, phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế.
Trong luật pháp và thông lệ quốc tế, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo thuộc nhóm quyền dân sự, chính trị và là một trong những quyền cơ bản của con người, được ghi nhận trong luật pháp, thông lệ quốc tế cũng như trong pháp luật nhiều nước trên thế giới. Khoản 3, Điều 1, Hiến chương Liên hợp quốc năm 1945 nhấn mạnh: “Thực hiện sự hợp tác quốc tế trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế về kinh tế, xã hội, văn hóa và nhân đạo và khuyến khích phát triển sự tôn trọng các quyền của con người và các tự do cơ bản cho tất cả mọi người không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hoặc tôn giáo”. Tuyên ngôn thế giới về quyền con người được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua năm 1948 - một văn kiện quan trọng trong lịch sử hình thành quy định về quyền con người, được soạn thảo bởi các đại diện có nền tảng pháp lý và văn hóa khác nhau từ các khu vực trên thế giới, được coi như một tiêu chuẩn chung cho tất cả quốc gia, dân tộc và mọi người, lần đầu tiên đặt ra các quyền cơ bản của con người phải được bảo vệ trên toàn cầu, trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948 không chỉ áp dụng với các quốc gia thành viên Liên hợp quốc, mà còn áp dụng với các vùng lãnh thổ thuộc quyền tài phán của các quốc gia này. Điều 18 Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948 nêu rõ: “Ai cũng có quyền tự do tư tưởng, tự do lương tâm và tự do tôn giáo; quyền này bao gồm cả quyền tự do thay đổi tôn giáo hay tín ngưỡng và quyền tự do biểu thị tôn giáo hay tín ngưỡng qua sự giảng dạy, hành đạo, thờ phụng và nghi lễ, hoặc riêng mình hoặc với người khác, tại nơi công cộng hay tại nhà riêng”. Khoản 1 và Khoản 2, Điều 18 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua năm 1966 mà Việt Nam đã phê chuẩn năm 1982, nêu rõ: “Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng và tôn giáo. Quyền này bao gồm tự do có hoặc theo một tôn giáo hoặc tín ngưỡng do mình lựa chọn, và tự do bày tỏ tín ngưỡng hoặc tôn giáo một mình hoặc trong cộng đồng với những người khác, công khai hoặc kín đáo, dưới các hình thức như thờ cúng, cầu nguyện, thực hành và truyền giảng. Không ai bị ép buộc làm những điều tổn hại đến quyền tự do lựa chọn hoặc tin theo tôn giáo hoặc tín ngưỡng của họ”.
Nhìn tổng quát, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo đã được các văn bản quốc tế quy định ở các nội dung, như tuyên bố sự tồn tại của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; mọi người được thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo một cách công khai một mình hay trong cộng đồng; nghiêm cấm sự phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo.
Đại lễ Hội Yến Diêu Trì Cung - Nét đẹp văn hóa của tôn giáo Cao Đài (ảnh: Lê Tấn Phát) _Nguồn: nhiepanhdong.vn
Chiểu theo pháp luật và thông lệ quốc tế về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, các văn bản quy phạm pháp luật mà Việt Nam đã phù hợp với quy định của pháp luật và thông lệ quốc tế về quyền tự do, tín ngưỡng tôn giáo. Cụ thể, về phương diện Hiến pháp, Điều 10 Hiến pháp năm 1946 nhấn mạnh: “Công dân Việt Nam có quyền: tự do ngôn luận; tự do xuất bản; tự do tổ chức và hội họp; tự do tín ngưỡng; tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài”; Điều 26 Hiến pháp năm 1959 quy định: “Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hòa có các quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào”. Điều 68 Hiến pháp năm 1980 ghi rõ: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Không ai được lợi dụng tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước”. Điều 70 của Hiến pháp năm 1992 khẳng định: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật”. Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung các quy định về quyền con người, trong đó khẳng định rõ hơn việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, được ghi tại Điều 16: “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội” và tại Khoản 1, 2, Điều 24 khẳng định: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo”. Đây là cơ sở pháp lý cao nhất của Việt Nam trong việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Đồng thời, là cơ sở để Nhà nước Việt Nam ban hành các văn bản pháp luật trong việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trên thực tế.
Các văn bản quy phạm pháp luật dưới Hiến pháp cũng thể hiện sự nhất quán trong việc tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Đơn cử như, Điều 1 Sắc lệnh số 234/SL, ngày 14-6-1955, về vấn đề tôn giáo, do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành, khẳng định: “Chính phủ bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và tự do thờ cúng của nhân dân. Không ai được xâm phạm đến quyền tự do ấy. Mọi người Việt Nam đều có quyền tự do theo một tôn giáo hoặc không theo một tôn giáo nào”; Điều 15 Sắc lệnh số 234/SL nêu rõ: “Việc tự do tín ngưỡng, tự do thờ cúng là một quyền lợi của nhân dân. Chính quyền dân chủ cộng hòa luôn luôn tôn trọng quyền lợi ấy và giúp đỡ nhân dân thực hiện”. Điều 1 Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo, được Quốc hội thông qua ngày 18-6-2004, nêu rõ: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Nhà nước bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Không ai được xâm phạm quyền tự do ấy”. Đây là văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất điều chỉnh trực tiếp lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo kể từ sau Sắc lệnh số 234/SL. Để cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013, ngày 18-11-2016, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo được thông qua tại kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa XIV với 9 chương, 8 mục và 68 điều quy định rõ về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo; tổ chức tôn giáo; quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo, áp dụng đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc bảo đảm và thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Thậm chí, những người đang bị tạm mất quyền công dân cũng có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tại Khoản 5, Điều 6, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 chỉ rõ: “Người bị tạm giữ, người bị tạm giam theo quy định của pháp luật về thi hành tạm giữ, tạm giam; người đang chấp hành hình phạt tù; người đang chấp hành biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc có quyền sử dụng kinh sách, bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo”.
Có thể thấy, hệ thống chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam thể hiện sự liên tục, nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam, phù hợp với các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên, đồng thời đáp ứng nguyện vọng của người theo tín ngưỡng, tôn giáo.
Thứ hai, hệ thống văn bản, quy định về tín ngưỡng, tôn giáo tại Việt Nam ngày càng hoàn thiện hơn, dân chủ hơn, tôn trọng, tạo điều kiện tốt nhất cho các chức sắc, nhà tu hành, tín đồ các tôn giáo và tổ chức tôn giáo hợp pháp phát triển một cách lành mạnh, công bằng, bình đẳng trước pháp luật.
Ngày 3-9-1945, chủ trì phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời bàn về sáu vấn đề cấp bách, trong đó có vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Thực dân và phong kiến thi hành chính sách chia rẽ đồng bào giáo và đồng bào lương, để dễ thống trị. Tôi đề nghị Chính phủ ta tuyên bố: TÍN NGƯỠNG TỰ DO và lương giáo đoàn kết”(2). Tiếp đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký hai sắc lệnh về tín ngưỡng, tôn giáo, bao gồm Sắc lệnh số 35/SL, ngày 20-9-1945, quy định “Đền chùa, lăng tẩm, nhà thờ, tất cả các nơi có tính cách tôn giáo, bất cứ tôn giáo nào, nhân dân đều phải tôn trọng không được xâm phạm” và Sắc lệnh số 65/SL, ngày 23-11-1945, ấn định nhiệm vụ cho Đông phương Bác Cổ học viện nhiệm vụ bảo tồn tất cả cổ tịch trong toàn cõi Việt Nam.
Tiếp nối Sắc lệnh số 35/SL và Sắc lệnh số 65/SL, đến nay, Đảng, Nhà nước Việt Nam đã ban hành hơn 30 văn bản về tín ngưỡng, tôn giáo nhằm đáp ứng nhu cầu về đời sống tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Để khẳng định quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân Việt Nam ở tính pháp lý cao nhất, kể từ khi Quốc hội được thành lập đến nay, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân đã được khẳng định tại 5 bản Hiến pháp, bao gồm Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 2013. Nhiều văn bản quan trọng khác đã được ban hành (3). Đặc biệt, tại kỳ họp thứ hai, khóa XIV, ngày 18-11-2016, Quốc hội đã ban hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo (có hiệu lực từ năm 2018). Đây là sự cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 về các điều, khoản quy định về tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam. Với 9 chương, 8 mục và 68 điều quy định rõ về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; hoạt động của tín ngưỡng, tôn giáo; tổ chức tôn giáo; quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo, áp dụng đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc bảo đảm và thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Luật Tín ngưỡng, tôn giáo quy định cụ thể trách nhiệm, thẩm quyền của Chính phủ, bộ, ngành, Ủy ban nhân dân, cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo các cấp trong hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo; vai trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể trong việc tập hợp đồng bào theo tín ngưỡng, tôn giáo và đồng bào không theo tín ngưỡng, tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bên cạnh đó, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo cũng quy định về nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân trong thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo...
Từ những vấn đề trên, có thể khẳng định hệ thống văn bản, quy định về tín ngưỡng, tôn giáo tại Việt Nam ngày càng hoàn thiện hơn, dân chủ hơn, đáp ứng nhu cầu đời sống tín ngưỡng, tôn giáo của mọi công dân Việt Nam; đồng thời, thể hiện chủ trương, chính sách nhất quán của Đảng, Nhà nước Việt Nam về tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tạo điều kiện tốt nhất cho các chức sắc, nhà tu hành, tín đồ các tôn giáo và tổ chức tôn giáo hợp pháp phát triển một cách lành mạnh, công bằng và bình đẳng trước pháp luật.
Thứ ba, để bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và ước nguyện sống “tốt đời, đẹp đạo” của mỗi tín đồ tôn giáo, pháp luật Việt Nam thể hiện tính nghiêm trị hành vi lợi dụng tôn giáo, xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người khác.
Ở bất cứ quốc gia nào trên thế giới, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo đều được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật, không thể có sự tự do vô chính phủ, tự do vô nguyên tắc(4). Điều này thể hiện rõ trong Khoản 3, Điều 18 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị của Liên hợp quốc năm 1966. Điều này cho thấy, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là vấn đề gắn với thể chế chính trị - xã hội và điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội ở từng quốc gia, dân tộc cụ thể, không thể tồn tại một khái niệm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo chung chung, trừu tượng. Cũng không thể đem giá trị, quan niệm về tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở một quốc gia, dân tộc này để áp dụng, đo lường hoặc đánh giá mức độ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở một quốc gia, dân tộc khác. Trên phương diện đối ngoại giữa các quốc gia, dân tộc, không thể đem tiêu chuẩn về tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở quốc gia, dân tộc này để áp đặt lên một quốc gia, dân tộc khác và buộc họ tuân theo.
Theo đó, Khoản 3, Điều 24, Hiến pháp năm 2013 ghi rõ: “Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật”. Cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016, quy định tại Khoản 1, Điều 3: “Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người; bảo đảm để các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật”; Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 cũng quy định rõ tại Điều 5 về các hành vi bị nghiêm cấm đối với tín ngưỡng, tôn giáo, như phân biệt đối xử, kỳ thị vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo; ép buộc, mua chuộc hoặc cản trở người khác theo hoặc không theo tín ngưỡng, tôn giáo...
Việc xác định tội xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người khác được quy định tại Điều 164 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017): 1- Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác ngăn cản hoặc ép buộc người khác thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 1 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 1 năm; 2- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 1 năm đến 3 năm: có tổ chức; lợi dụng chức vụ, quyền hạn; phạm tội 2 lần trở lên; dẫn đến biểu tình; gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; 3- Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 năm đến 5 năm.
Thứ tư, những năm gần đây, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam được bảo đảm trên thực tế là minh chứng sinh động về sự tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam.
Trong đời sống thực tế của xã hội Việt Nam hiện nay thể hiện rõ sự đa dạng, hòa hợp và bình đẳng tôn giáo, được pháp luật bảo vệ, tôn trọng; mọi người hoàn toàn tự do lựa chọn theo hoặc không theo một tín ngưỡng, tôn giáo nào; không có tôn giáo nào giữ vị trí độc tôn, mà đều tồn tại đan xen với nhau; các chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ các tôn giáo tích cực tham gia các phong trào xã hội, từ thiện xóa đói, giảm nghèo, đóng góp thiết thực vào sự phát triển chung của đất nước.
Nhân dân đón Giáng sinh tại khu vực Nhà thờ Lớn Hà Nội _Nguồn: toquoc.vn
Theo số liệu được công bố của Ban Tôn giáo Chính phủ cho thấy, bên cạnh việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo, trong những năm qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân trên thực tế, đó là:
Tổ chức tôn giáo được tạo điều kiện hoạt động theo hiến chương, điều lệ và quy định của pháp luật Việt Nam nhằm bảo đảm và tạo điều kiện để các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo được diễn ra bình thường với quy mô lớn, thu hút đông đảo tín đồ tham dự. Hiện nay, cả nước đã có 3.700 điểm nhóm được chấp thuận đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung, hơn 6.500 người được phong phẩm, suy cử làm chức sắc; 16.783 người được bổ nhiệm, bầu cử, suy cử làm chức việc; 62 cơ sở đào tạo tôn giáo tại 36 tỉnh, thành phố; 15 tờ báo và tạp chí của các tổ chức tôn giáo đang hoạt động, đồng thời phần lớn tổ chức tôn giáo đều có trang web riêng để phục vụ việc sinh hoạt đạo, truyền bá tôn giáo. Chức sắc, chức việc, nhà tu hành tôn giáo có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, được ứng cử vào Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp như mọi công dân khác theo quy định của pháp luật. Quốc hội khóa XV có năm đại biểu là chức sắc, nhà tu hành tôn giáo. Theo số liệu thống kê của các tỉnh, thành phố, hiện nay có trên 10 nghìn chức sắc, nhà tu hành, tín đồ các tôn giáo là đại biểu hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026(5).
Tổ chức, cá nhân theo tôn giáo được tạo điều kiện tham gia hoạt động quốc tế. Tính từ năm 2011 đến nay, có khoảng gần 2.000 lượt cá nhân theo tôn giáo xuất cảnh tham gia khóa đào tạo ở nước ngoài, tham dự hội nghị, hội thảo quốc tế liên quan đến tôn giáo; gần 500 đoàn khách nước ngoài với hơn 3.000 lượt người vào Việt Nam để trao đổi, giao lưu, hướng dẫn đạo tại cơ sở tôn giáo ở Việt Nam, tham dự các sự kiện tôn giáo do các tổ chức tôn giáo Việt Nam tổ chức, trong đó có nhiều hoạt động tôn giáo quốc tế lớn được tổ chức trọng thể, thành công ở Việt Nam và được dư luận quốc tế đánh giá cao, như Hội nghị Liên hội đồng Giám mục Á Châu (năm 2012), Đại lễ Phật đản Liên hợp quốc Vesak (ba lần: năm 2008, 2014, 2019 và dự kiến tổ chức vào năm 2025); Tổng hội Dòng Đa minh thế giới được tổ chức tại huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai (năm 2019)... Các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam còn tích cực tham gia các hội nghị, diễn đàn tôn giáo khu vực và quốc tế, như Đối thoại liên tín ngưỡng Á - Âu (ASEM), Đối thoại liên tín ngưỡng khu vực châu Á - Thái Bình Dương...
Các tổ chức, cá nhân theo tôn giáo được khuyến khích, tạo điều kiện tham gia các hoạt động an sinh xã hội. Hiện nay, cả nước có khoảng 300 trường mầm non, 2.000 lớp học tình thương, 12 cơ sở dạy nghề, trên 500 cơ sở khám, chữa bệnh từ thiện của các tổ chức tôn giáo, được thành lập dưới nhiều hình thức khác nhau; gần 800 cơ sở bảo trợ xã hội của các tổ chức Phật giáo, Công giáo, Cao đài,... đang nuôi dưỡng trên 12 nghìn trẻ em mồ côi, tàn tật, người già cô đơn, bệnh nhân tâm thần, HIV/AIDS(6). Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã gặp mặt, biểu dương các tổ chức tôn giáo có đóng góp trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (năm 2016, 2019, 2022). Tại các buổi gặp mặt, các tôn giáo bày tỏ sự nhất trí đồng thuận với Đảng, Nhà nước và mong muốn được đóng góp công sức trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững độc lập, chủ quyền lãnh thổ.
Mặt khác, nhiều sự kiện tôn giáo nổi bật đã được ghi nhận. Đơn cử như, đối với Phật giáo, năm đầu tiên của nhiệm kỳ IX (2022 - 2027), Hội đồng Trị sự cũng như Giáo hội Phật giáo Việt Nam các tỉnh, thành phố tích cực triển khai các công việc của năm cũng như kế hoạch hoạt động của cả nhiệm kỳ. Đối với hoạt động quốc tế, đoàn Giáo hội Phật giáo Việt Nam tham dự Hội nghị thượng đỉnh Phật giáo toàn cầu vào cuối tháng 4-2023 tại Ấn Độ do Bộ Văn hóa Ấn Độ phối hợp với Liên đoàn Phật giáo quốc tế tổ chức. Ngoài ra, Giáo hội Phật giáo Việt Nam còn cử nhiều đoàn ra nước ngoài tham dự hội nghị, hội thảo...
Đối với Công giáo, bên cạnh các hoạt động thường kỳ, như Hội nghị thường niên của Hội đồng Giám mục Việt Nam, một sự kiện nổi bật trong đời sống Công giáo ở Việt Nam những năm gần đây, cụ thể năm 2023 là việc nâng cấp quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Tòa thánh Va-ti-căng, với việc ký kết “Thỏa thuận về Quy chế hoạt động của Đại diện thường trú Tòa thánh và Văn phòng Đại diện thường trú của Tòa thánh tại Việt Nam”.
Đối với đạo Tin Lành, tháng 3-2023, đạo Tin Lành Việt Nam đã tổ chức Chương trình truyền giảng với chủ đề “Xuân yêu thương” tại Thành phố Hồ Chí Minh. Chương trình do các Hội Thánh Tin Lành tại Thành phố Hồ Chí Minh phối hợp với mục sư Ph. Gra-ham (Franklin Graham) tổ chức, cùng hơn 2.000 tình nguyện viên. Sự kiện đáng chú ý của đạo Tin Lành là một số Hội thánh Tin Lành có những hoạt động để tiến tới được công nhận là pháp nhân.
Đối với các tôn giáo nội sinh, các tôn giáo nội sinh hoạt động bình thường theo đúng chương trình hành đạo đã đăng ký với chính quyền. Đáng chú ý, năm 2023 là năm chuẩn bị các công việc cho đại lễ kỷ niệm lớn của một số tôn giáo nội sinh, như 100 năm ngày thành lập Minh lý đạo - Tam Tông miếu (năm 2024), các Hội thánh của đạo Cao Đài cũng sẽ kỷ niệm 100 năm ngày khai đạo (năm 2026) hay 90 năm của Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam (năm 2024),... đồng thời, các tôn giáo nội sinh vẫn thực hiện các nghi lễ theo đúng lịch lễ nghi của đạo trong một năm. Các hoạt động tôn giáo ổn định, chấp hành tốt quy định của pháp luật của Nhà nước(7).
Như vậy, pháp luật Việt Nam về quyền tự do, tín ngưỡng tôn giáo không chỉ phù hợp với pháp luật và thông lệ quốc tế, mà còn đáp ứng nguyện vọng của cá nhân tham gia đời sống tín ngưỡng, tôn giáo với ước nguyện sống “tốt đời, đẹp đạo”. Do đó, những hoạt động lén lút, lợi dụng tôn giáo, trái với văn hóa truyền thống Việt Nam, nhuốm màu mê tín dị đoan, có dấu hiệu trục lợi, vi phạm pháp luật, đi ngược lại đạo đức xã hội... phải bị lên án, xử lý nghiêm. Có thể khẳng định dứt khoát rằng, ở Việt Nam hoàn toàn không có chuyện “chính quyền Việt Nam giới hạn tự do tôn giáo”, “đàn áp tôn giáo” như các thế lực thù địch, phản động thường rêu rao. Những luận điệu xuyên tạc, vu cáo đó chỉ là chiêu trò mà các thế lực thù địch, phản động lợi dụng, sử dụng nhằm phục vụ âm mưu chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam hiện nay. Chính vì vậy, cũng như các nước khác, Việt Nam không chấp nhận việc lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để phá hoại hòa bình, độc lập, thống nhất đất nước hay kích động bạo lực, chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, tôn giáo, gây rối trật tự công cộng, xâm hại đến tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự và tài sản của người khác, cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân... Chính sách đó luôn được Nhà nước Việt Nam khẳng định và thực hiện nhất quán.
Những luận cứ trên là cơ sở pháp lý và thực tiễn phong phú, sinh động về những thành tựu bảo đảm và thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam, là điều không ai có thể xuyên tạc, phủ nhận được. Trong thư của Giáo hoàng Phan-xi-cô gửi công đoàn Công giáo Việt Nam nhân dịp công nhận Thỏa thuận về Quy chế cho Đại diện thường trú của Tòa thánh Va-ti-căng vào ngày 8-9-2023, đã viết: “Dựa trên sự tin tưởng lẫn nhau được xây dựng từng bước trong nhiều năm qua, và được củng cố bằng các chuyến thăm thường niên của phái đoàn Tòa thánh cũng như các cuộc họp của nhóm làm việc chung giữa Việt Nam và Tòa thánh, cả hai bên đã có thể cùng nhau tiến tới và sẽ còn tiến nữa, nhờ nhìn nhận những điểm tương đồng và tôn trọng những khác biệt. Hơn thế nữa, hai bên đã có thể đồng hành, lắng nghe nhau và hiểu nhau. Dù mỗi bên có sự khác biệt về lịch sử và kinh nghiệm sống, điều đó không thể ngăn cản cùng nhau đi tìm con đường tốt nhất để phục vụ thiện ích của dân tộc Việt Nam và Hội Thánh”(8). Vì vậy, có thể khẳng định dứt khoát rằng, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam không những phù hợp với các quy định của pháp luật và thông lệ quốc tế về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, mà còn đáp ứng tâm tư, tình cảm và nguyện vọng chính đáng của các chức sắc, chức việc tôn giáo và đồng bào theo đạo, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo. Các luận điệu của các thế lực thù địch, phản động về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam không chỉ là sự thiếu thiện chí, cố tình xuyên tạc, vu cáo trắng trợn, phủ nhận thành tựu của Việt Nam trong việc bảo đảm và thực hiện quyền con người, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, mà còn đi ngược với pháp luật và thông lệ quốc tế, phải bị lên án mạnh mẽ và bác bỏ./.
--------------------
(1) Xem: “International Religious Freedom Act of 1998” (Tạm dịch: Đạo luật Tự do tôn giáo quốc tế năm 1998), Congress.gov, https://www.congress.gov/bill/105th-congress/house-bill/2431#:~:text=International%20Religious%20Freedom%20Act%20of%201998%20%2D%20Declares%20it%20to%20be,and%20development%20assistance%20to%20governments
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 4, tr. 8
(3) Đơn cử như: Sắc lệnh số 22/SL, ngày 18-2-1946, của Chủ tịch nước, ấn định những ngày Tết, kỷ niệm lịch sử và lễ tôn giáo; Sắc lệnh số 49/SL, ngày 18-6-1949, của Chủ tịch nước, quy định về thuế đất và hoa màu cho các tôn giáo; Nghị định số 315/TTg, ngày 4-10-1953, “Về chính sách đối với tôn giáo”; Sắc lệnh số 234/SL, ngày 14-6-1955, của Chủ tịch nước, “Về vấn đề tôn giáo”; Nghị quyết số 297-CP, ngày 11-11-1977, của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ), “Về một số chính sách đối với tôn giáo” đã kế thừa Sắc lệnh số 234/SL, ngày 14-6-1955; Nghị quyết số 24- NQ/TW, ngày 16-10-1990, của Bộ Chính trị khóa VI, “Về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới”, được cụ thể hóa bằng Nghị định số 69/HĐBT, ngày 21-3-1991, của Hội đồng Bộ trưởng, “Về các hoạt động tôn giáo”; Nghị quyết số 25/NQ, ngày 12-3-2003, của Hội nghị Trung ương 7 khóa IX, “Về công tác tôn giáo”; Nghị định số 26/1999/NĐ-CP, ngày 19-4-1999, của Chính phủ, “Về các hoạt động tôn giáo”; Thông tư số 01/1999/TT-TGCP, ngày 16-6-1999, hướng dẫn thực hiện một số điều trong Nghị định số 26/NĐ, ngày 19-4-1999, của Chính phủ, “Về các hoạt động tôn giáo”; Thông tư số 03/1999/TT-TGCP, ngày 16-6-1999, của Ban Tôn giáo Chính phủ, “Về sinh hoạt tôn giáo của người nước ngoài đang cư trú hợp pháp tại Việt Nam”; Chỉ thị số 37/CT, ngày 2-7-1998, của Bộ Chính trị, “Về công tác tôn giáo trong tình hình mới”; Nghị định số 22/2005/NĐ-CP, ngày 1-3-2005, của Chính phủ, hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo; Nghị định số 92/2012/NĐ/CP, ngày 8-11-2012, của Chính phủ, quy định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo
(4) Xem: Conference Report: “Selective Service Act of 1948” (Tạm dịch: Đạo luật nghĩa vụ chọn lọc năm 1948), House of Representatives, No. 2438, ngày 19-6-1948, https://tile.loc.gov/storage-services/service/ll/llmlp/act-1948/act-1948.pdf
(5) Ban Tôn giáo Chính phủ: Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, 2022, tr. 88 - 97
(6) Ban Tôn giáo Chính phủ: Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, 2022, tr. 88 - 92
(7), (8) Xem: Chu Văn Tuấn: “Đời sống tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam năm 2023, những sự kiện tiêu biểu và khuyến nghị chính sách”, Nghiên cứu Tôn giáo, số 1 (239), 2024, tr. 38 - 56