Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam - Sự đột phá, sáng tạo về tư duy lý luận của Đảng, đưa đất nước khẳng định vị thế trên trường quốc tế

TS LÊ VĂN TUYÊN
Học viện Kỹ thuật quân sự
14:25, ngày 26-05-2025

TCCS - Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là thành quả lý luận quan trọng sau gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu chọn lọc kinh nghiệm thế giới. Tuy nhiên, hiện các thế lực thù địch, phản động đang hằng ngày, hằng giờ tìm mọi cách chống phá, xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Hiện nay, các thế lực thù địch, phản động đang ra sức chống phá hòng phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Chúng liên tục phát tán các bài viết với nội dung sai trái, bóp méo sự thật xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh hòng gây tâm lý bất ổn trong xã hội. Âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động càng trở nên nguy hiểm và thâm độc trong bối cảnh của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, khi công nghệ thông tin và truyền thông phát triển mạnh mẽ, tốc độ lan truyền thông tin nhanh hơn, rộng hơn, sâu hơn tới mọi đối tượng trong xã hội. Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta, tạo môi trường thuận lợi để huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả nguồn lực, thúc đẩy đầu tư, sản xuất, kinh doanh, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh dân chủ, công bằng, văn minh”. Tuy nhiên, kinh tế - xã hội phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của đất nước. Nhiều khó khăn, thách thức còn hiện hữu. Kiên quyết, kiên trì việc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam vừa bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, vừa bảo đảm xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường.

Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam - mô hình phát triển đầy sáng tạo, thành quả của việc tiếp thu văn minh nhân loại phù hợp với điều kiện Việt Nam

Thứ nhất, bất cứ quốc gia, dân tộc nào cũng có thể tiếp nhận, thụ hưởng những thành tựu và giá trị chung, phổ biến của kinh tế thị trường - thành quả của văn minh nhân loại.

Các thế lực thù địch, phản động xuyên tạc: không có nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chúng gán kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản, coi kinh tế thị trường là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản, gán ghép “kinh tế thị trường” với “định hướng xã hội chủ nghĩa” là chủ quan, duy ý chí, như “nước” với “lửa”, không thể kết hợp với nhau, nếu bỏ “cụm từ” định hướng xã hội chủ nghĩa thì nền kinh tế Việt Nam còn phát triển nhanh hơn nữa, đạt được thành tựu lớn hơn nữa.

Cần nhất quán khẳng định kinh tế thị trường là thành quả của văn minh nhân loại, được hình thành, phát triển trong tiến trình phát triển của nhân loại khi kinh tế hàng hóa đã đạt đến trình độ nhất định.

Như chúng ta đã biết, kinh tế thị trường là kinh tế hàng hóa phát triển ở trình độ cao ở đó, tất cả quan hệ kinh tế đều được thực hiện ở trên thị trường. Kinh tế thị trường và kinh tế hàng hóa mặc dù có điểm giống nhau, nhưng không đồng nhất. Kinh tế thị trường và kinh tế hàng hóa đều ra đời dựa trên cơ sở phân công lao động xã hội và tính tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa những người sản xuất hàng hóa(1) mà khởi thủy là sự xuất hiện của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Kinh tế hàng hóa ra đời từ rất sớm, từ cuối chế độ công xã nguyên thủy, đầu chế độ chiếm hữu nô lệ, khi xã hội có đầy đủ hai điều kiện đề cập ở trên. Các phạm trù (giá trị, giá cả, lợi nhuận, hàng hóa, tiền tệ), quy luật (giá trị, cung - cầu, cạnh tranh, lưu thông tiền tệ và lạm phát) của kinh tế hàng hóa cũng chính là các phạm trù, quy luật của kinh tế thị trường. Các phạm trù, quy luật này có trước chủ nghĩa tư bản, được chủ nghĩa tư bản sử dụng để phát triển kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Như vậy, kinh tế thị trường là thành tựu của sự phát triển văn minh nhân loại, mang những giá trị chung và có tính phổ quát. Cho đến nay, kinh tế thị trường đã phát triển qua nhiều giai đoạn khác nhau, trong nhiều chế độ xã hội, đạt đến trình độ cao trong xã hội tư bản chủ nghĩa, nhưng điều này không có nghĩa kinh tế thị trường là sản phẩm riêng có của chủ nghĩa tư bản. Là mô hình kinh tế mang tính phổ biến, việc phát triển kinh tế thị trường là điều tất yếu, khách quan đối với tất cả quốc gia, dân tộc; bất cứ quốc gia, dân tộc nào cũng có thể tiếp nhận, thụ hưởng những thành tựu và giá trị chung, phổ quát của kinh tế thị trường, đồng thời vận dụng sáng tạo phù hợp với đặc điểm, điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của quốc gia, dân tộc mình.

Thực tiễn cũng cho thấy, kinh tế thị trường nảy sinh và phát triển trong nhiều chế độ xã hội khác nhau và với nhiều mô hình khác nhau, như mô hình kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đặc sắc ở Trung Quốc, mô hình kinh tế thị trường ở Nhật Bản, mô hình kinh tế thị trường nhà nước phúc lợi ở Thụy Điển và các nước Bắc Âu, mô hình kinh tế thị trường xã hội ở Cộng hòa Liên bang Đức,  mô hình kinh tế thị trường tự do ở Mỹ… Trong các mô hình kinh tế thị trường ở các nước tư bản, ở mức độ, tính chất khác nhau, các yếu tố xã hội chủ nghĩa đều hiện hữu, dù được thừa nhận hay không thừa nhận. Điều này chỉ ra rằng, mầm mống của chủ nghĩa xã hội xuất hiện ngay trong lòng các nước tư bản phát triển.

Ngược dòng thời gian, trong những năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga Xô-viết, V. I. Lê-nin đã nhận ra vấn đề của việc đồng nhất kinh tế hàng hóa với chủ nghĩa tư bản, không sử dụng quan hệ hàng hóa - tiền tệ để thúc đẩy sản xuất và cải thiện đời sống người dân. Từ đó, V. I. Lê-nin đã đề ra và tổ chức thực hiện “Chính sách kinh tế mới” (NEP), mà nội dung cơ bản là duy trì và phát triển các quan hệ thị trường dưới sự quản lý của nhà nước vô sản. Việc thực hiện chính sách kinh tế mới đã nhanh chóng đưa nước Nga Xô-viết thoát ra khỏi tình trạng trì trệ trong những năm 20 của thế kỷ XX; đồng thời, khẳng định tính hiện thực của mô hình kinh tế chứa đựng sự dung hợp giữa kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội. Từ sự phân tích trên có thể khẳng định, kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa hoàn toàn không đối lập nhau, có thể dung hợp với nhau để tạo thành mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Thứ hai, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, sự tham gia của Nhà nước trong việc điều tiết nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.

Các thế lực thù địch, phản động xuyên tạc rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam chấp nhận phát triển kinh tế thị trường là lựa chọn con đường phát triển tư bản chủ nghĩa. Chúng xuyên tạc chính sách khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân, việc coi kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, từ đó quy chụp rằng, Việt Nam đang lựa chọn con đường phát triển tư bản chủ nghĩa. Việc coi kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chính là bảo đảm việc ngày càng phát huy dân chủ trong đời sống kinh tế - xã hội, từng bước cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, cắt giảm thủ tục hành chính, bảo đảm sự phù hợp hơn của phương thức quản lý nhà nước với cơ chế thị trường, bảo vệ tốt hơn quyền tài sản, quyền tự do kinh doanh của cá nhân và tổ chức.

Điều cần khẳng định là việc xác định một nền kinh tế là “xã hội chủ nghĩa” hay “tư bản chủ nghĩa” không thể dựa vào tiêu chí về kinh tế tư nhân hay sự điều tiết của thị trường, mà quan trọng hơn là phải dựa vào mục tiêu phát triển của nền kinh tế đó là vì ai, giai cấp, tầng lớp nào, nguyên tắc hoạt động của nền kinh tế đó là gì, cũng như quá trình hình thành và phát triển của nền kinh tế đó như thế nào, ai là người chủ thật sự của nền kinh tế đó... Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định là “mô hình tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội... vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước”(2). Quá trình hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đều xuất phát từ lợi ích của nhân dân và Nhà nước (khi nền kinh tế chỉ huy với cơ chế kế hoạch hóa tập trung duy trì trong một thời gian dài bộc lộ hạn chế, yếu kém, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, chủ trương xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cho đến nay, sau gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn về phát triển kinh tế - xã hội, ngày càng khẳng định vị thế trên trường quốc tế. Do vậy, giữa nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam có sự khác nhau căn bản và điểm khác biệt rõ nhất là, trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, người làm chủ là giới chủ tư bản, là giai cấp tư sản; còn trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, người làm chủ là nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước.

Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nền kinh tế đang ở trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế tất yếu còn hiện hữu nhằm huy động mọi nguồn lực để phát triển đất nước, trong đó kinh tế tư nhân được Đảng ta xác định là một động lực quan trọng. Kinh tế tư nhân được khuyến khích phát triển ở tất cả ngành, nghề, lĩnh vực mà pháp luật không cấm, bình đẳng trước pháp luật với các thành phần kinh tế khác. Nhà nước tạo mọi điều kiện phát triển kinh tế tư nhân, nhưng không chấp nhận “tư nhân hóa” nền kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là công cụ, lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng, điều tiết, dẫn dắt các thành phần kinh tế khác, thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển nền kinh tế thị trường. Sự tham gia của Nhà nước trong vai trò ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng, điều tiết, dẫn dắt các thành phần kinh tế khác, thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội là yêu cầu quan trọng để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển nền kinh tế thị trường, cũng là cơ sở quan trọng để bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.

Bảo dưỡng hệ thống dẫn khí tại nhà máy nhiệt điện ở tỉnh Tiền Giang _Nguồn: nhiepanhdoisong.vn

Sự lựa chọn kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn

Để khẳng định tính đúng đắn của việc lựa chọn kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cần làm rõ hai vấn đề. Thứ nhất, tại sao Việt Nam lại lựa chọn kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thay cho kinh tế chỉ huy với cơ chế kế hoạch hóa tập trung? Thứ hai, những thành tựu Việt Nam đã đạt được khi xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Vấn đề thứ nhất, có thể thấy, sau khi đất nước hoàn toàn giải phóng (ngày 30-4-1975), việc duy trì kinh tế chỉ huy với cơ chế kế hoạch hóa tập trung bắt đầu bộc lộ hạn chế, yếu kém khiến cho nền kinh tế Việt Nam rơi vào trì trệ: “Giai đoạn 1976 - 1980, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của tổng sản phẩm xã hội chỉ đạt 1,4%, thu nhập quốc dân chỉ tăng 0,4%, trong khi đó dân số tăng với tốc độ bình quân 2,24%/năm. Tình hình đó đã khiến cho đời sống mọi tầng lớp dân cư trong xã hội hết sức khó khăn (theo ước tính vào những năm 80 của thế kỷ XX, cứ 10 người dân Việt Nam thì có 7 người sống trong tình trạng nghèo đói”(3). Tình hình đó đặt ra yêu cầu cấp bách phải định hình lại tư duy về phát triển kinh tế.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 12-1986) đánh dấu sự khởi đầu tiến trình đổi mới ở Việt Nam, trong đó bao hàm ý nghĩa là bước đột phá tư duy đầu tiên của Đảng về nền kinh tế thị trường, được thể hiện trên hai vấn đề chủ yếu: Một là, tư duy lại về cơ chế quản lý: “cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp từ nhiều năm nay không tạo được động lực phát triển, làm suy yếu kinh tế xã hội chủ nghĩa… kìm hãm sản xuất, làm giảm năng suất, chất lượng, hiệu quả, gây rối loạn trong phân phối lưu thông, và đẻ ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội”(4)Hai là, đề ra yêu cầu xây dựng cơ chế quản lý mới phù hợp với quy luật khách quan và với trình độ phát triển của nền kinh tế. Trong đó nhấn mạnh: quá trình từ sản xuất nhỏ đi lên sản xuất lớn ở nước ta là quá trình chuyển hóa nền kinh tế còn nhiều tính tự cấp, tự túc thành nền kinh tế hàng hóa; với hai đặc trưng của cơ chế quản lý mới là “Tính kế hoạch là đặc trưng số một của cơ chế quản lý kinh tế… Sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hóa - tiền tệ là đặc trưng thứ hai của cơ chế mới về quản lý kinh tế”(5). Đại hội VI của Đảng khẳng định: “Thực chất của cơ chế mới về quản lý kinh tế là cơ chế kế hoạch hóa theo phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ(6). Như vậy, đến Đại hội VI, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thừa nhận nền sản xuất hàng hóa, tức là thừa nhận cơ chế thị trường, nhưng chưa coi nền kinh tế Việt Nam là kinh tế thị trường. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6  khóa VI nêu rõ: năm 1986 bắt đầu công cuộc đổi mới…, Việt Nam đã phát triển từ một nền kinh tế kế hoạch hóa sang một nền kinh tế định hướng thị trường.

Năm 1991, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh tiếp tục bổ sung lý luận về kinh tế hàng hóa: Một là, đưa ra chủ trương “Phát triển một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa”(7)Hai là, “Xóa bỏ triệt để cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp, hình thành cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác. Xây dựng và phát triển đồng bộ các thị trường hàng tiêu dùng, vật tư, dịch vụ, tiền vốn; sức lao động…; thực hiện giao lưu kinh tế thông suốt cả nước và với thị trường thế giới”(8).

Từ nhận thức về kinh tế thị trường sau 15 năm tiến hành công cuộc đổi mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001) đã chính thức xác định nền kinh tế Việt Nam là “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”; đồng thời, chỉ ra nội hàm của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: “nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa(9). Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân.

Như vậy, quá trình nhận thức, chuyển đổi tư duy của Đảng Cộng sản Việt Nam từ nền kinh tế chỉ huy với cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một quá trình dài, bởi kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình chưa có tiền lệ trên thế giới. Đây là mô hình chúng ta vừa làm, vừa học hỏi, rút kinh nghiệm để hoàn chỉnh thành mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Mặc dù quá trình hoàn thiện vẫn đang tiếp diễn, nhưng có thể khẳng định, Việt Nam lựa chọn phát triển kinh tế thị trường trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là hoàn toàn đúng đắn. Chẳng hạn như, quy luật giá trị trong nền kinh tế thị trường góp phần điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa (ngành, nghề, lĩnh vực nào làm ăn hiệu quả, lợi nhuận lớn thì sẽ thu hút nhiều người tham gia; trong khi đó, ngành, nghề, lĩnh vực kém hiệu quả sẽ có hiện tượng thu hẹp hoặc rút khỏi của người sản xuất. Hiện tượng này làm cho các yếu tố sản xuất, như vốn, nhân lực, đất đai, khoa học - công nghệ... được phân bố lại, làm cho nguồn lực trong xã hội được sử dụng hiệu quả hơn. Bên cạnh đó, hàng hóa còn được điều tiết từ nơi có giá cả thấp đến nơi có giá cả cao hơn, từ nơi cung lớn hơn cầu đến nơi cung nhỏ hơn cầu, góp phần điều tiết luồng hàng hóa trên thị trường). Hoặc dưới tác động của quy luật cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường, chủ thể sản xuất hàng hóa phải đổi mới kỹ thuật công nghệ để nâng cao năng suất lao động, giảm giá trị cá biệt, hạ giá thành sản phẩm nhằm đạt được điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa. Với sự tác động này, “người sản xuất vừa chạy theo tư lợi lại vừa đồng thời thực hiện một nhiệm vụ không nằm trong dự kiến đó là đáp ứng lợi ích chung của xã hội”(10). Kinh tế thị trường cũng là mô hình kinh tế thúc đẩy tính năng động, sáng tạo của chủ thể sản xuất, kinh doanh (để có được nhiều lợi nhuận, buộc chủ thể sản xuất, kinh doanh luôn phải năng động, nhạy bén trong việc nắm bắt tâm lý, thị hiếu người tiêu dùng trên thị trường, am hiểu nghệ thuật kinh doanh, dự báo được quan hệ cung - cầu, không ngừng đổi mới sáng tạo để chiếm lĩnh ưu thế trong sản xuất, kinh doanh...).

Bên cạnh lợi ích to lớn mà kinh tế thị trường đem lại, cần nhận thức rằng, kinh tế thị trường cũng chứa đựng khuyết tật mà bản thân nó không thể khắc phục được: phân hóa xã hội thành hai cực, tiềm ẩn khả năng xảy ra khủng hoảng kinh tế, hủy hoại môi trường sinh thái (do trong nền kinh tế thị trường, chủ thể sản xuất, kinh doanh thường có xu hướng chạy theo lợi nhuận đơn thuần, ít quan tâm hoặc thậm chí là “trốn tránh” trách nhiệm bảo vệ môi trường sinh thái)… Khuyết tật đó đòi hỏi sự hiện diện của Nhà nước với vai trò kiến tạo, tạo lập thể chế. Đây chính là lý do để khẳng định tại sao phải định hướng xã hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vai trò của Nhà nước được xác định rõ trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa XII (Nghị quyết số 11-NQ/TW), ngày 3-6-2017, “Về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”: “Định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các công cụ, chính sách và các nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển”. Định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện trong từng chính sách, từng kế hoạch và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Chính sách, kế hoạch, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đất nước hướng tới thực hiện được mục tiêu, nhiệm vụ của từng giai đoạn trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; phù hợp với cơ chế thị trường và bảo đảm tính hiện đại. Tính hiện đại được thể hiện ở sự kế thừa có chọn lọc những thành tựu phát triển kinh tế thị trường của nhân loại; các yếu tố của thị trường, các loại thị trường đồng bộ và vận hành thông suốt, gắn với các nền kinh tế thế giới.

Sản xuất và lắp ráp ô tô tại Công ty cổ phần Tập đoàn Trường Hải (THACO) _Ảnh: TTXVN

Vấn đề thứ hai, có thể thấy rằng qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, chủ trương xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã thu được thành công hết sức to lớn, không thể phủ nhận:

Về quy mô của nền kinh tế: “Mức tăng trưởng trung bình khoảng 7% mỗi năm. Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008. Quy mô GDP theo giá hiện hành năm 2023 đạt khoảng 10,22 triệu tỷ đồng, tương đương 430 tỷ USD. GDP bình quân đầu người năm 2023 theo giá hiện hành đạt khoảng 101,9 triệu đồng/người, tương đương 4.284 USD, tăng 160 USD so với năm 2022”(11). “Tổng sản phẩm quốc nội của Việt Nam hiện nay gồm khoảng 27% từ kinh tế nhà nước, 4% từ kinh tế tập thể, 30% từ kinh tế hộ, 10% từ kinh tế tư nhân trong nước và 20% từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài”(12).

Về hoạt động xuất, nhập khẩu: “Kim ngạch xuất khẩu không ngừng được tăng lên, đóng góp một phần quan trọng vào sự tăng trưởng GDP. Nếu năm 1986, tổng kim ngạch xuất khẩu mới đạt 789 triệu USD, thì năm 2006 xuất khẩu đã đạt trên 39 tỷ USD và kể từ sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), kim ngạch xuất khẩu không ngừng tăng lên, năm 2023 đạt 355,5 tỷ USD. Về cơ cấu, mặt hàng xuất khẩu ngày càng phong phú, đa dạng, có nhiều nhóm hàng “chủ lực” đạt kim ngạch lớn. Nhiều mặt hàng xuất khẩu có khối lượng lớn, kim ngạch đứng thứ hạng cao trên thế giới. Nếu năm 1986 chúng ta chưa có mặt hàng nào xuất khẩu nào đạt giá trị trên 200 triệu USD thì hiện nay đã có nhiều mặt hàng vượt kim ngạch 1 tỷ USD, 5 tỷ USD”(13). Đến nay, nước ta đã có quan hệ thương mại với 224 đối tác; đã, đang đàm phán, ký kết và thực thi 17 FTA. Việt Nam trở thành một trong những nước đi đầu khu vực trong việc hình thành các khuôn khổ hợp tác kinh tế đa phương”(14).

Về công tác an sinh xã hội: An sinh xã hội đạt nhiều kết quả quan trọng, nhất là trong giáo dục, y tế, hỗ trợ đối tượng gặp hoàn cảnh khó khăn. “Nhiều dịch bệnh vốn phổ biến trước đây đã được khống chế thành công. Người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi và người cao tuổi được cấp bảo hiểm y tế miễn phí. Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em và tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh giảm gần ba lần. Đến tháng 4-2022, cả nước có 5.706/8.227 xã đạt chuẩn nông thôn mới, trong đó 663 xã đạt chuẩn nâng cao và 71 xã đạt chuẩn kiểu mẫu”(15).

Những thành tựu đạt được khi xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa khẳng định Việt Nam lựa chọn kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, xu thế vận động của nền kinh tế thế giới, đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế đất nước, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

***

Thực tiễn đổi mới ở nước ta đã chứng minh đầy sức thuyết phục về việc vận  dụng mô hình kinh tế thị trường làm phương tiện xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế trong đó thiết chế, công cụ và nguyên tắc vận hành kinh tế thị trường được tạo lập và sử dụng để giải phóng triệt để sức sản xuất, từng bước cải thiện đời sống của nhân dân, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Để đẩy mạnh sự phát triển và hoàn thiện mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong thời gian tới, việc tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho toàn Đảng, toàn dân về đặc trưng, bản chất, mục tiêu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là điều hết sức quan trọng. Bên cạnh đó, cần kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng, phản bác các luận điệu sai trái của các thế lực thù địch, phản động đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ, phát huy những thành quả đã đạt được trong quá trình xây dựng, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam./.

---------------

(1) Giáo trình Kinh tế học chính trị Mác -Lê-nin, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, tr. 114 - 115
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, t. I, tr. 128
(3) Lê Thị Quế: Từ tư duy đến thực tiễn 15 năm “lột xác” của nền kinh tế Việt Nam (1986 - 2001), Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, số 354 (11-2007), tr. 60
(4), (5) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1987, tr. 62, 63
(6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VISđd, tr. 65
(7), (8) Văn kiện Đảng: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, t. 51, tr. 137, 138
(9) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 86
(10) Giáo trình Lịch sử các học thuyết kinh tế, Nxb. Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội, 2009, tr. 73
(11) Mai Chi: GDP bình quân đầu người Việt Nam vượt 100 triệu đồng, https://dantri.com.vn/kinh-doanh/gdp-binh-quan-dau-nguoi-viet-nam-vuot-100-trieu-dong-20231229093332819.htm, ngày 29-12-2023
(12) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr. 31
(13) Ban Tài chính quốc tế và Chính sách hội nhập, Viện Chiến lược và Chính sách tài chính: Những kết quả đạt được sau 30 năm đổi mới về hội nhập kinh tế quốc tế, Cổng Thông tin điện tử Bộ Tài chính, ngày 30-5-2023, https://mof.gov.vn/webcenter/portal/btcvn/pages_r/l/tin-bo-tai-chinh?dDocName=MOFUCM098068
(14) Nguyễn Thùy: Những dấu ấn của thương mại Việt Nam sau hơn 35 năm đổi mới, ngày 19-12-2022, https://www.tuyengiao.vn/nhung-dau-an-cua-thuong-mai-viet-nam-sau-hon-35-nam-doi-moi-146918
(15) Nguyễn Trọng Nghĩa: Thành tựu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam qua hơn 35 năm đổi mới, Tạp chí Cộng sản, số 1008 (2-2023), tr. 3


Phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc - mục tiêu, quyết tâm của toàn Đảng và ý nguyện, khát vọng của người dân Việt Nam

TS LÊ THỊ CHIÊN
Phó Chánh Văn phòng Ban Chỉ đạo 35 Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
13:53, ngày 24-04-2025

TCCS - Thời gian gần đây, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đưa ra các luận điệu xuyên tạc, chống phá chủ trương của Đảng ta về việc đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Cần nhận diện rõ các luận điệu sai trái, thù địch đó; đồng thời, làm rõ nội dung liên quan, nhằm nâng cao nhận thức, củng cố niềm tin cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, góp phần hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Nhận diện các luận điệu sai trái, thù địch xuyên tạc, chống phá chủ trương của Đảng về kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Ngày 13-8-2024, phát biểu tại cuộc họp thường trực Tiểu ban Văn kiện Đại hội XIV của Đảng, đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm chỉ rõ, Đại hội XIV của Đảng diễn ra trong bối cảnh thế giới có nhiều thay đổi mang tính thời đại; thời cơ, thuận lợi đi liền với nguy cơ, thách thức. Với thế và lực đã tích lũy được sau gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, với sự đồng lòng, chung sức của toàn Đảng, toàn dân, với thời cơ, thuận lợi mới, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, Việt Nam hội tụ đủ điều kiện cần thiết để chuẩn bị bước vào một giai đoạn phát triển mới. Do đó, “cần thống nhất nhận thức về khởi điểm lịch sử mới, kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, từ đó có những đổi mới mạnh mẽ hơn nữa về hình thức và nội dung các văn kiện(1). Đây là chủ trương định hướng cho việc xây dựng các văn kiện Đại hội XIV của Đảng, nhất là việc đổi mới nội dung, hình thức các văn kiện cho phù hợp với yêu cầu của thời kỳ mới.

Đặc biệt, ngày 20-9-2024, trong bài phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương 10 khóa XIII, đề cập về công tác chuẩn bị nội dung dự thảo các văn kiện, đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định sự thống nhất của Trung ương khi đánh giá về thế và lực của đất nước sau 40 năm đổi mới: “Với thế và lực đã tích lũy được sau 40 năm đổi mới, với sự đồng lòng, chung sức của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, với những thời cơ, thuận lợi mới, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, chúng ta đã hội tụ đủ những điều kiện cần thiết và Văn kiện Đại hội XIV phải đề ra được định hướng chiến lược, nhiệm vụ, giải pháp quan trọng để giải phóng toàn bộ sức sản xuất, phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, lấy nguồn lực nội sinh, nguồn lực con người là nền tảng, khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo là đột phá để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của Dân tộc Việt Nam”(2).

Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc thời điểm khởi đầu là Đại hội XIV của Đảng. Từ chủ trương đúng đắn, thể hiện quyết tâm cao của Đảng ta, các thế lực thù địch, phản động tỏ thái độ hằn học, liên tục đưa ra luận điệu chống phá, hòng xuyên tạc chủ trương của Đảng ta. Có thể nhận diện luận điệu chống phá của các thế lực phản động, thù địch ở các vấn đề chủ yếu sau:

Một là, trên nhiều diễn đàn mạng xã hội hay trên các trang báo điện tử của các trung tâm truyền thông nước ngoài sử dụng tiếng Việt, các thế lực thù địch rêu rao rằng “kỷ nguyên vươn mình dân tộc Việt Nam là mù mờ, mị dân, hoang tưởng, không có căn cứ trong thực tiễn nên không thể thực hiện được”, “hô hào khẩu hiệu”....

Hai là, chúng quy chụp rằng, quan điểm về kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam mang tính chủ quan. Thậm chí, có phần tử cơ hội chính trị còn mỉa mai việc cơ quan, bộ, ngành đẩy mạnh tuyên truyền, tổ chức hội nghị, hội thảo để khẳng định, lan tỏa những vấn đề lý luận, thực tiễn về kỷ nguyên vươn mình của dân tộc là “đánh chống khua chiêng”, “tát nước theo mưa”!

Những nhận thức nêu trên là phiến diện, sai lầm gây xáo trộn về tư tưởng, niềm tin, ý chí trong một số cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đây là thủ đoạn hết sức nguy hiểm của các thể lực thù địch trong bối cảnh năm 2025 là năm cuối cùng của nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng, khi cả dân tộc bước vào giai đoạn “tăng tốc về đích”, cần tập trung mọi nguồn lực, phát huy động lực để hoàn thành mục tiêu đề ra. Các quan điểm, luận điệu sai trái, thù địch có thể tác động đến nhận thức, tư tưởng, ý chí, niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân nên rất cần có luận cứ đấu tranh xác đáng, thuyết phục.

Thống nhất ý chí trong toàn Đảng, toàn dân về kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Kỷ nguyên là một khái niệm mang tính phân kỳ lịch sử, dựa trên sự kiện, dấu mốc có tính bước ngoặt. Đây là một thời kỳ phát triển mới, tạo ra thay đổi căn bản, toàn diện. Kỷ nguyên mới của dân tộc là thời kỳ phát triển mới trong tiến trình lịch sử mà ở đó, mục tiêu, nhiệm vụ đã được thực hiện, đã hoàn thành, sẽ tạo ra bước ngoặt cho tiến trình phát triển để dân tộc bước vào một thời kỳ phát triển mới. Với hàm nghĩa này, từ thế kỷ XX đến nay, có thể nhận định Việt Nam đã có hai sự kiện mang tính bước ngoặt: kỷ nguyên độc lập dân tộc được đánh dấu bằng thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945; kỷ nguyên đổi mới đất nước được ghi dấu bằng quyết sách quan trọng về đổi mới đất nước ở Đại hội VI của Đảng (năm 1986), mở ra một giai đoạn phát triển mới cho đất nước; trong đó, kỷ nguyên độc lập mở ra thời kỳ độc lập cho dân tộc, chấm dứt hơn 80 năm đô hộ của thực dân Pháp và hàng nghìn năm phong kiến; kỷ nguyên đổi mới tạo nền tảng quan trọng để chuyển sang thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, mang lại thay đổi về chất, mang tính bước ngoặt cho đất nước ta.

Thành phố Hồ Chí Minh hội nhập và phát triển _Nguồn: nhiepanhdoisong.vn

Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc gắn với việc Việt Nam chuẩn bị bước vào một giai đoạn phát triển mới, nâng tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế của nước ta lên một tầm cao mới.

Một là, điều kiện khách quan để định vị mục tiêu đưa đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Hiện nay, thế giới đang trong thời kỳ thay đổi có tính thời đại. Từ nay đến năm 2030 là giai đoạn quan trọng nhất để định hình trật tự thế giới mới. Đây là giai đoạn quan trọng nhất để Việt Nam xác lập vị thế của mình và hoàn thành mục tiêu chiến lược 100 năm. Sự biến chuyển có tính thời đại này là cơ hội to lớn đối với Việt Nam.

Mặc dù thế giới vẫn xảy ra các cuộc xung đột, tranh chấp căng thẳng, kéo dài, nhưng về cơ bản, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, là nguyện vọng đồng thời là mục đích hướng đến của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Cạnh tranh giữa các nước, nhất là các nước lớn tuy quyết liệt, nhưng đều tránh xu hướng đối đầu, xung đột trực diện, mong muốn duy trì hòa bình để ổn định và phát triển. Trong khi đó, những vấn đề an ninh truyền thống, an ninh phi truyền thống vẫn tiếp tục diễn ra mà không một quốc gia nào có thể tự mình giải quyết được, đòi hỏi có sự liên kết, hợp tác chặt chẽ để cùng giải quyết nhằm bảo đảm lợi ích chung của cộng đồng quốc tế và lợi ích riêng của quốc gia, dân tộc. Mặc dù các cường quốc tiếp tục đóng vai trò chính trong việc thiết lập các mối quan hệ quốc tế, nhưng các quốc gia vừa và nhỏ, trong đó có Việt Nam cũng có nhiều cơ hội hơn để tham gia vào các diễn đàn khu vực, quốc tế và tham gia vào giải quyết vấn đề toàn cầu. Đó là thời cơ để Việt Nam khẳng định và chứng tỏ tiềm lực, vị thế của mình.

Xu hướng liên kết quốc tế, nhất là liên kết về kinh tế tiếp tục được thúc đẩy, hình thành các chu trình sản xuất, cung ứng toàn cầu, mở ra cơ hội để Việt Nam tham gia vào các chuỗi sản xuất, chuỗi cung ứng đó. Trên cơ sở của việc nâng cấp các mối quan hệ đối tác chiến lược, đối tác chiến lược toàn diện, Việt Nam sẽ có thêm nhiều cơ hội mở rộng thị trường, gia tăng vốn đầu tư, đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ để phục vụ mục tiêu phát triển bền vững. Hơn nữa, việc thực hiện hiệu quả các hiệp định thương mại đã ký và tiếp tục đàm phán gia nhập hiệp định thương mại mới, sáng kiến về chuỗi giá trị, chuỗi cung ứng trong thời gian tới sẽ tạo khuôn khổ cho hợp tác kinh tế, giúp giảm thiểu tác động từ các rủi ro bất định trên thế giới. Điều này giúp cho Việt Nam có một môi trường tốt để tiếp tục gia tăng các mối quan hệ hợp tác với các nước, nhất là hợp tác trên lĩnh vực kinh tế.

Đặc biệt, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với tốc độ phát triển nhanh chóng dựa trên nền tảng của trí tuệ nhân tạo (AI), Internet vạn vật (IoT), cơ sở dữ liệu lớn (Big Data), điện toán đám mây (Cloud computing)… sẽ tạo động lực và sức bật cho nghiên cứu, ứng dụng công nghệ mới vào phát triển sản xuất cũng như hiện đại hóa xã hội. Thực tiễn cho thấy, sau gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, nhờ tận dụng lợi thế của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, lực lượng sản xuất của Việt Nam đã có bước phát triển vượt bậc cả trên phương diện chủ thể của lực lượng sản xuất - người lao động và điều kiện, tiền đề phát triển lực lượng sản xuất - tư liệu sản xuất. “Lực lượng lao động ước đạt 53,2 triệu người vào năm 2025, với cơ cấu chuyển dịch tích cực; tỷ lệ lao động nông nghiệp giảm mạnh, còn 25,8%; chất lượng nguồn nhân lực không ngừng nâng cao với 70% lao động qua đào tạo. Nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong các lĩnh vực then chốt, như công nghiệp bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, công nghệ thông tin được tập trung phát triển, bước đầu hình thành đội ngũ lao động với tư duy số và kỹ năng số ngày càng được nâng cao”(3). Ngoài ra, tư liệu sản xuất vô hình (dữ liệu số) ngày càng chiếm vị trí, vai trò quan trọng trong nền kinh tế số. Điều này chính là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, hiện đại hóa phương thức sản xuất, là cơ sở để Việt Nam chuyển mạnh sang sản xuất theo chiều sâu, tăng năng suất lao động, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế. Do đó, lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay, ngoài lực lượng lao động thủ công, còn có đội ngũ lao động có trình độ khoa học - công nghệ hiện đại, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ thông tin, góp phần làm thay đổi toàn bộ cấu trúc sức sản xuất của lực lượng sản xuất trong bối cảnh mới. Đặc biệt, hiện nay trí tuệ nhân tạo đang dẫn đầu trong quá trình chuyển đổi số và ngày càng gia tăng qua từng năm. Do đó, sự kết nối giữa con người với trí tuệ nhân tạo là đặc điểm nổi trội của lực lượng sản xuất trong bối cảnh mà cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã tạo ra cơ hội cho Việt Nam xác lập một phương thức sản xuất tiên tiến, hiện đại - phương thức sản xuất số.

Như vậy, bên cạnh thách thức, tình hình thế giới, khu vực, đặc biệt là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang mang lại thời cơ to lớn để Việt Nam gia tăng thế và lực, phát huy lợi thế sẵn có để thúc đẩy đà tăng trưởng, tạo môi trường chính trị ổn định, tạo tiền đề vật chất quan trọng để bước vào một giai đoạn phát triển bứt phá trong những năm tiếp theo.

Hai là, những nhân tố chủ quan để định vị mục tiêu đưa đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Sau gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự đồng lòng, đồng thuận và nỗ lực của nhân dân, Việt Nam đã khai thác được mọi tiềm năng, khơi thông được các nguồn lực, tích lũy được thế và lực cho sự phát triển bứt phá trong giai đoạn tiếp theo. Những thành tựu to lớn đó được thể hiện trên tất cả phương diện:

Về kinh tế, quy mô nền kinh tế năm 2023 tăng gấp 96 lần so với năm 1986. Việt Nam ở trong nhóm 40 nước có nền kinh tế lớn nhất thế giới và 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại và thu hút đầu tư nước ngoài. Nhờ đó, từ một nước nghèo nàn, lạc hậu, bị khủng hoảng về mọi mặt sau chiến tranh, Việt Nam vươn lên trở thành một nước đang phát triển, có thu nhập trung bình, hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu, nền văn minh nhân loại, đảm nhiệm nhiều trọng trách quốc tế, phát huy vai trò tích cực tại nhiều tổ chức, diễn đàn đa phương quan trọng. Cũng nhờ đó, đời sống của nhân dân ngày càng được nâng cao, tiềm lực quốc phòng - an ninh được củng cố.

Về chính trị, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định được vai trò to lớn cũng như uy tín của mình trong việc lãnh đạo trực tiếp, toàn diện mọi mặt của đời sống xã hội. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị mang lại kết quả to lớn, đặc biệt là công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí đã góp phần xây dựng Đảng và hệ thống chính trị ngày càng trong sạch, vững mạnh. Ngoài ra, công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch có những dấu ấn nổi bật, được triển khai đồng bộ, toàn diện từ Trung ương đến cơ sở, tạo sức lan tỏa rộng khắp trong toàn xã hội, góp phần bảo vệ vững chắc Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Về xã hội, cùng với việc đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, các lĩnh vực của đời sống xã hội tiếp tục được coi trọng, tạo điều kiện cho con người Việt Nam phát triển toàn diện, quyền con người ngày càng được bảo đảm. Đặc biệt, trong thời điểm khó khăn, cấp bách, như thiên tai, dịch bệnh, sức mạnh dân tộc với tinh thần đoàn kết, chia sẻ, tự lực, tự cường lại được phát huy tối đa, tạo thành nội lực to lớn giúp Việt Nam vượt qua khó khăn, thách thức; đồng thời, thể hiện ngày càng đậm nét tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng.

Về quốc phòng, an ninh và đối ngoại, mặc dù cục diện thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, nhiều quốc gia vừa và nhỏ phải gia tăng sự phụ thuộc vào các cường quốc trên thế giới, nhưng Việt Nam vẫn kiên trì và giữ vững phương châm: Độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên hàng đầu. Từ một nước chủ yếu có mối quan hệ với các nước láng giềng và các nước trong khuôn khổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa trước kia, đến nay Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 194 nước; đồng thời, xây dựng các mối quan hệ đối tác, hợp tác chiến lược, đối tác chiến lược toàn diện với tất cả cường quốc trên thế giới và khu vực.

Với thời cơ mà bối cảnh quốc tế, khu vực mang lại cùng kết quả to lớn, có ý nghĩa lịch sử đã tích lũy được qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, hoàn toàn có cơ sở để khẳng định Việt Nam đã và đang hội tụ điều kiện, tiền đề để chuẩn bị bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Quan điểm về kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam là kết quả của quá trình đánh giá thấu đáo kết quả mà Việt Nam đã đạt được qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới; đồng thời, lường đoán, dự báo bối cảnh tình hình mới với thời cơ thuận lợi từ xu hướng hòa bình, hợp tác cũng như sự phát triển nhanh chóng của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang đem lại cho dân tộc Việt Nam. Đây là sự hội tụ giữa “ý Đảng” và “lòng dân”, giữa mục tiêu, quyết tâm của toàn Đảng và ý nguyện, khát vọng của cả trăm triệu người dân Việt Nam. Với kết quả đã đạt được cùng thời cơ mà cục diện thế giới, khu vực mang lại, đã đến lúc nhân dân Việt Nam có quyền và có thể nêu cao khát vọng cao đẹp về một Việt Nam hùng cường, phồn thịnh và hạnh phúc như đã từng khát vọng về một kỷ nguyên độc lập hay kỷ nguyên đổi mới trước đó. Đó là một khát vọng chính đáng, tạo động lực tinh thần to lớn, cổ vũ, khích lệ toàn dân tộc vượt qua khó khăn, thách thức để đạt được mục tiêu cao đẹp phía trước. Điều này đã được Tổng Bí thư Tô Lâm nhiều lần chỉ rõ khi nhắc đến kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Đó là: “Kỷ nguyên vươn mình hàm ý tạo sự chuyển động mạnh mẽ, dứt khoát, quyết liệt, tích cực, nỗ lực, nội lực, tự tin để vượt qua thách thức, vượt qua chính mình, thực hiện khát vọng, vươn tới mục tiêu, đạt được nhiều thành tựu vĩ đại”, hay “Kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, đó là kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu. Mọi người dân đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, được hỗ trợ phát triển, làm giàu; đóng góp ngày càng nhiều cho hòa bình, ổn định, phát triển của thế giới, hạnh phúc của nhân loại và văn minh toàn cầu”(4).

Sau gần 40 năm đổi mới, Việt Nam đã khai thác được mọi tiềm năng, khơi thông được các nguồn lực, tích lũy được thế và lực cho sự phát triển bứt phá trong giai đoạn tiếp theo (Trong ảnh: Bốc, xếp hàng hóa xuất khẩu tại Cảng quốc tế Đà Nẵng) _Nguồn: nhiepanhdoisong.vn

Từ nhận định đó, thời điểm bắt đầu của kỷ nguyên vươn mình của dân tộc là từ khi bắt đầu nhiệm kỳ Đại hội XIV của Đảng với mục tiêu xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh; mọi người dân đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, được hỗ trợ phát triển, làm giàu chính đáng; đóng góp ngày càng nhiều cho hòa bình, ổn định, phát triển của thế giới, hạnh phúc của nhân loại và văn minh toàn cầu. Mục tiêu cụ thể là đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao(5). Đây là mục tiêu rất rõ ràng, vừa trên cơ sở nhận định, đánh giá khách quan về kết quả mà Việt Nam đã đạt được trong gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới; đồng thời, cũng là sự kết tinh ý chí, khát vọng, niềm tin của cả dân tộc Việt Nam về một giai đoạn phát triển bứt phá của đất nước trong những năm tiếp theo.

Mặc dù Việt Nam đã hội đủ các yếu tố để chuẩn bị bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, nhưng bên cạnh thời cơ, thuận lợi cũng có nhiều khó khăn, thách thức đan xen. Một trong những khó khăn, thách thức phải kể đến là nguồn lực ở trong nước và nước ngoài chưa được khơi thông và phát huy tối đa. Sự không vững vàng về lập trường tư tưởng, dao động về niềm tin và ý chí của một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhân dân phần nào ảnh hưởng đến việc Việt Nam chuẩn bị điều kiện để tiến vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc; chưa kể đến sự chống phá ngày càng tinh vi, quyết liệt của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị. Do đó, một mặt, cần đẩy mạnh tuyên truyền, lan tỏa cho cán bộ, đảng viên, nhân dân về kỷ nguyên vươn mình của dân tộc; mặt khác, cần kiên trì, kiên quyết đấu tranh chống các luận điệu xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị. Điều này góp phần tạo ra sự thống nhất về nhận thức, đồng thuận về tư tưởng, tập trung về hành động để phát huy tối đa sức mạnh vật chất, tinh thần của cả dân tộc; đưa đất nước vững bước tiến vào kỷ nguyên vươn mình.

Có thể khẳng định, quan niệm về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam thể hiện sự đúng đắn trong đường lối của Đảng và tầm nhìn, tư duy chiến lược của người đứng đầu Đảng ta, là sự hội tụ giữa “ý Đảng” và “lòng dân”; giữa định hướng mang tầm chiến lược của Đảng với niềm tin, ý chí, khát vọng của cả dân tộc về một Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc trong tương lai. Đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam chính là cách thức để tạo ra sự đồng thuận, đồng sức, đồng lòng, vượt qua khó khăn, thách thức, đưa đất nước vững bước tiến vào một giai đoạn phát triển bứt phá ở phía trước./…

-------------

(1) GS, TS Tô Lâm: “Xây dựng Văn kiện Đại hội là công việc rất hệ trọng, nhằm tổng kết, đánh giá kết quả, thành tựu đạt được trong nhiệm kỳ khóa XIII và 40 năm đổi mới; hoạch định, xác định rõ tầm nhìn, bước đi, đưa đất nước ta phát triển nhanh, bền vững”, Tạp chí Cộng sản, số 1.044 (tháng 8-2024), tr. 11
(2) Phát biểu bế mạc Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII”, Tạp chí Cộng sản, số 1.046 (tháng 9-2024), tr. 13
(3) GS, TS Tô Lâm: “Chuyển đổi số - Động lực quan trọng phát triển lực lượng sản xuất, hoàn thiện quan hệ sản xuất đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới”, Tạp chí Cộng sản, số 1.045 (tháng 9-2024), tr. 5
(4) GS, TS Tô Lâm: “Một số nhận thức cơ bản về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”, Tạp chí Cộng sản, số 1.050 (tháng 11-2024), tr. 3
(5) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 36


Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh - Nền tảng tư tưởng, lý luận cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam và trong công cuộc đổi mới

PGS, TS LÊ DOÃN TÁ
Nguyên Giám đốc Học viện Chính trị khu vực I
10:18, ngày 09-04-2025

TCCS - Sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, các thế lực thù địch, phản động được dịp ra sức bác bỏ, vu cáo, bôi nhọ chủ nghĩa Mác - Lê-nin; các phần tử cơ hội xét lại, phản bội thì quay ngoắt, bước ngay sang lập trường phản bội... Trong bối cảnh đó, Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng, từng bước hiện thực hóa khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, ấm no, tự do, hạnh phúc.

Các em học sinh Trường Tiểu học An Bình B (tỉnh Bình Dương) tham quan, tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp của Bác Hồ thông qua các hình ảnh tư liệu tại “Không gian văn hóa Bác Hồ” _Nguồn: baobinhduong.vn

2- Tư tưởng Hồ Chí Minh - Ánh sáng soi đường cho cách mạng Việt Nam

Kể từ ngày thành lập đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã trải qua 95 năm lãnh đạo đất nước, dân tộc đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, mỗi khi Tổ quốc lâm nguy thì non sông đất nước lại sản sinh ra các bậc anh hùng hào kiệt đáp ứng yêu cầu của lịch sử, tiêu biểu cho sự phát triển của lịch sử. Trải qua các triều đại Ngô, Đinh, Lê, Lý, Trần, Hậu Lê và Tây Sơn đã có biết bao anh hùng hào kiệt làm rạng rỡ non sông đất nước. Đến thời nhà Nguyễn, mặc dù nhà nước phong kiến đã thất bại trước quân xâm lược, nhưng phong trào đấu tranh chống quân xâm lược vẫn diễn ra mạnh mẽ, song đều bị dìm trong biển máu… Con thuyền Việt Nam còn lênh đênh chưa rõ bến bờ phải đi tới, việc cứu nước “dường như trong đêm tối không có đường ra”.

Chính lúc đó, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh xuất hiện. Tiếp thu truyền thống yêu nước của dân tộc, đặc biệt là phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX; đồng thời, vượt lên hạn chế của các nhà yêu nước đương thời, Người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành - Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu đã ra đi tìm đường cứu nước (năm 1911) và đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin (năm 1920). Người đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc. Trong bài viết “Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lê-nin” cho Tạp chí Các vấn đề phương Đông (Liên Xô) nhân dịp kỷ niệm lần thứ 90 Ngày sinh của V. I. Lê-nin, Người viết: “Luận cương của Lê-nin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”(4). Con đường cứu nước mà lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tìm ra đã chấm dứt thời kỳ khủng hoảng đường lối cách mạng Việt Nam. Cách mạng Việt Nam từ đó tiến bước theo dòng thác tiến bộ của lịch sử.

Phản ánh đúng đắn quy luật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh dần dần hình thành, bắt nguồn từ sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam, từ tinh hoa văn hóa phương Đông, phương Tây và từ chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Từ đó, cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam được định hướng đúng đắn. Chủ nghĩa yêu nước gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Cách mạng giải phóng dân tộc gắn liền với cách mạng xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Tìm được con đường giải phóng dân tộc đúng đắn cho Việt Nam, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh tiến hành tổ chức, đào tạo, huấn luyện cán bộ để tiến tới thành lập Đảng Cộng sản, lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi tới thắng lợi...

Dưới sự dẫn dắt của vị lãnh tụ thiên tài Nguyễn Ái Quốc, Đảng Cộng sản Việt Nam đã được thành lập trên cơ sở thống nhất ba tổ chức Đảng vào ngày 3-2-1930. Việc Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã chấm dứt thời kỳ khủng hoảng đường lối cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam. Đi theo đường lối này, cách mạng Việt Nam tiến bước vững chắc. Đi trái đường lối này, cách mạng gặp phải khó khăn, tổn thất; thậm chí có lúc chịu tổn thất nặng nề.

Việc kiên định lãnh đạo đất nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh đã luôn được thể hiện xuyên suốt trong các văn kiện của Đảng. Trong “Lời kêu gọi của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việc Nam” ngày 3-9-1969, sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, Đảng ta khẳng định: “Người đã nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Người thể hiện kết tinh những truyền thống tốt đẹp nhất của dân tộc Việt Nam với tư tưởng cách mạng triệt để của thời đại chúng ta, tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin”(5). Toàn Đảng, toàn dân ta luôn quyết tâm “tiếp tục sự nghiệp vĩ đại của Người”(6). Qua các kỳ Đại hội, Đảng ta đều luôn nhất quán khẳng định giá trị to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh - hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại.

Sau “những thiếu sót, sai lầm trong việc đánh giá tình hình và xác định mục tiêu, trong xây dựng cơ cấu kinh tế, trong cơ chế quản lý, trong công tác tư tưởng và công tác tổ chức, nhất là trong phân phối, lưu thông, giải quyết giá, lương, tiền”(7). Đảng ta đã kịp thời chấn chỉnh, kiên quyết thực hiện đổi mới trên cơ sở tiếp tục khẳng định “đường lối của Đảng được vạch ra ở Đại hội IV, được cụ thể hóa ở Đại hội V là đúng đắn”(8). Văn kiện Đại hội VI (1986) của Đảng nhấn mạnh tinh thần đổi mới và quyết tâm: “giương cao ngọn cờ chủ nghĩa Mác - Lênin, tiến bước theo con đường do Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch ra, động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phấn đấu hết sức mình vì độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội”(9).

Trong sự nghiệp đổi mới đất nước gần bốn thập niên qua, tư tưởng Hồ Chí Minh đã luôn soi rọi sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc. Đại hội VII của Đảng (năm 1991) khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”(10). Đại hội VIII của Đảng (năm 1996) tiếp tục khẳng định quan điểm này và nhấn mạnh: “Ở những bước ngoặt của cách mạng, trước những diễn biến phức tạp của tình hình, Đảng kịp thời có định hướng tư tưởng chính trị đúng đắn, uốn nắn những nhận thức lệch lạc, chống những luận điệu thù địch, tạo cơ sở cho sự thống nhất tư tưởng trong toàn Đảng và trong nhân dân”(11). Đại hội IX của Đảng (năm 2001) tiếp tục nêu: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh(12). Các kỳ Đại hội tiếp theo tiếp tục kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, hoàn thiện hệ thống lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Namđưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Có thể khẳng định: Thành công của công cuộc đổi mới, cũng như những thắng lợi to lớn, lịch sử khác của dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, chính là bởi kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Ngày nay, “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Chúng ta hoàn toàn có quyền tự hào về bản chất tốt đẹp, truyền thống anh hùng và lịch sử vẻ vang của Đảng ta - Đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại sáng lập và rèn luyện, đại biểu của dân tộc Việt Nam anh hùng”(13).

Việc vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh giúp đất nước ta ngày càng phát triển, mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân (Trong ảnh: Phụ nữ dân tộc Thái ở Điện Biên gìn giữ nghề dệt thổ cẩm trang phục dân tộc) _Ảnh: TTXVN

3- Về việc phát huy giá trị lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong công cuộc phát triển đất nước hiện nay

Để phát huy giá trị lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện cụ thể của nước ta, cần lưu ý một số vấn đề sau:

Một là, cần đặt luận điểm của Mác, Ăng-ghen, Lê-nin trong điều kiện lịch sử cụ thể thì mới có thể hiểu đúng vấn đề các ông đặt ra, điều các ông dự báo và kết luận.

Hai là, cần đặt luận điểm của Mác, Ăng-ghen, Lê-nin trong cả một hệ thống chứ không thể tách rời nhau. Đối với mỗi luận điểm đều phải xem xét theo quan điểm lịch sử, phải gắn luận điểm đó với điều kiện lịch sử cụ thể.

Ba là, cần thấm nhuần sâu sắc rằng tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.

Bốn là, việc tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh chính là hành động thiết thực nhằm bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong bối cảnh xây dựng và phát triển đất nước hiện nay.

Việc phát huy giá trị lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện cụ thể của nước ta chính là thể hiện tinh thần cách mạng và khoa học hết sức triệt để của phép biện chứng duy vật mác-xít. Đồng thời, việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, phát huy giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay sẽ tiếp tục hướng dẫn nhận thức và hành động của con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Công cuộc đổi mới của Việt Nam đã và đang tiến hành chưa có tiền lệ trong lịch sử, vì vậy Đảng ta phải vận dụng một cách đúng đắn và sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, đồng thời phát huy cao độ giá trị vĩ đại của tư tưởng Hồ Chí Minh, để tư tưởng của Người tiếp tục dẫn dắt sự nghiệp cách mạng Việt Nam đi đến bến bờ thắng lợi ./.

-------------------

(1) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, t. 36, tr. 573
(2) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, t. 20, tr. 126
(3) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, t. 12, tr. 883
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. 12, tr. 562
(5), (6) Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2004, t. 30, tr. 231, 279 - 280
(7), (8), (9) Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, 2006, t. 47, tr. 101, 101, 565
(10) Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, 2007, t. 51, tr. 29
(11) Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, 2015, t. 55, tr. 413
(12) Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, 2016, t. 60, tr. 129 – 130
(13) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr. 371


Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, theo định hướng xã hội chủ nghĩa

PGS, TS PHẠM THỊ TÚY
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
17:39, ngày 18-03-2025

TCCS - Trở thành nền kinh tế thị trường hiện đại là mong muốn của nhiều nền kinh tế. Việc được công nhận quy chế kinh tế thị trường sẽ mở ra nhiều cơ hội mới về đầu tư, thương mại, trong quá trình tham gia chuỗi giá trị toàn cầu... và làm cho các tổ chức quốc tế cũng như các đối tác tiềm năng có cách nhìn mới về quốc gia đó.

Bốc, xếp hành hóa xuất - nhâp khẩu tại cảng Cần Thơ _Nguồn: nhiepanhvadoisong.vn

Thực tiễn phát triển cho thấy, kinh tế thị trường là mô hình tổ chức vận hành kinh tế hiệu quả của nhân loại. Mỗi một thể chế chính trị, với thực tiễn mỗi quốc gia mà kinh tế thị trường được hình thành, phát triển với các mô hình mang nét đặc thù, dù vậy đều phải bảo đảm đặc tính chung mà hiện nay được thể hiện bằng các tiêu chí, trong đó một số quốc gia gọi chung là quy chế kinh tế thị trường. Do đó, để khẳng định nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam hội đủ các tiêu chí của một nền kinh tế thị trường hiện đại cần đối chứng hiện thực nền kinh tế Việt Nam với các tiêu chí về nền kinh tế thị trường/hay quy chế kinh tế thị trường đang hiện hữu.

Bằng góc nhìn khoa học đối với nền kinh tế Việt Nam sau gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, chúng ta hoàn toàn có thể khẳng định rằng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam ở thời điểm hiện nay thực sự là một nền kinh tế thị trường hiện đại, bởi các căn cứ sau:

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam được hình thành, vận hành trên cơ sở và nguyên tắc của nền kinh tế thị trường hiện đại

Nhìn lại lịch sử phát triển nhân loại cho thấy, loài người đã trải qua hai kiểu tổ chức sản xuất xã hội để hình thành nền tảng kinh tế phục vụ nhu cầu sinh tồn, phát triển của xã hội loài người, đó là sản xuất phục vụ nhu cầu tự thân (hay còn gọi là tự cung tự cấp) và sản xuất phục vụ nhu cầu xã hội (gọi là sản xuất hàng hóa), tương ứng với mỗi kiểu tổ chức sản xuất này là cách thức tổ chức, vận hành kinh tế, đó là kinh tế tự nhiên kinh tế hàng hóa. Theo dòng lịch sử, kinh tế hàng hóa xuất hiện vào cuối thời kỳ tan rã của hình thái Công xã nguyên thủy, bước vào Chiếm hữu nô lệ với dạng thức ban đầu là kinh tế hàng hóa giản đơn; sau tiến triển lên kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hóa. Ở trình độ này, nền kinh tế thị trường tiến triển qua hai mô hình cơ bản là:

Kinh tế thị trường tự do cạnh tranh (hay còn gọi là kinh tế thị trường cổ điển - hình thành từ cuối thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XX) là nền kinh tế vận hành chủ yếu bởi điều tiết của các quy luật thị trường (giá trị, cung - cầu, cạnh tranh...), có rất ít hoặc không có sự can thiệp của nhà nước. Tuy nhiên, sự điều tiết của quy luật thị trường - “bàn tay vô hình”, ngoài những ưu việt, còn có những “khuyết tật”, đặc biệt là khủng hoảng kinh tế chu kỳ(1), đòi hỏi có sự can thiệp/quản lý của nhà nước  - “bàn tay hữu hình” để hạn chế, khắc phục khuyết tật do điều tiết tự phát của cơ chế thị trường. 

Kinh tế thị trường hỗn hợp (hay còn gọi là kinh tế thị trường hiện đại - hình thành từ những năm 40 của thế kỷ XX đến nay) là nền kinh tế vận hành trên cơ sở kết hợp/dung hợp cơ chế tự điều tiết của quy luật thị trường với sự can thiệp/điều tiết của nhà nước. Tức là nền kinh tế vừa có sự điều tiết bởi các quy luật kinh tế khách quan - “bàn tay vô hình”, vừa có điều tiết bởi nhà nước - “bàn tay hữu hình”.

Như vậy, về nguồn gốc, bản chất kinh tế thị trường là kinh tế hàng hóa có trước chủ nghĩa tư bản, là thành quả, sản phẩm của văn minh nhân loại được hình thành, phát triển bởi lịch sử phát triển kinh tế nhân loại, nhưng trong hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa, nhất là ở các nước tư bản phát triển, kinh tế thị trường đã được vận dụng rất thành công, dẫn đến nhiều người lầm tưởng kinh tế thị trường là sản phẩm “riêng có” của chủ nghĩa tư bản, do chủ nghĩa tư bản “sáng tạo nên”.

Bởi tính ưu việt của nền kinh tế thị trường hiện đại, ngày nay, hầu hết quốc gia, bao hàm cả các nước tư bản phát triển trên thế giới đều là nền kinh tế thị trường có sự can thiệp/quản lý của nhà nước, song do mục tiêu phát triển quốc gia, do điều kiện thực tiễn khác nhau mà kinh tế thị trường có sự can thiệp/quản lý của nhà nước ở các nước trên thế giới là không hoàn toàn giống nhau. Vì vậy, nhiều mô hình khác nhau được hình thành, như kinh tế thị trường tự do ở Mỹ, kinh tế thị trường xã hội ở Đức, kinh tế thị trường nhà nước phúc lợi ở Thụy Điển, kinh tế thị trường phối hợp ở Nhật Bản, kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa Trung Quốc...

Từ những khái lược trên, có thể khẳng định rằng, từ tư duy lý luận đến thực tiễn, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam được hình thành và vận hành trên cơ sở và nguyên tắc của nền kinh tế thị trường hiện đại mà nhân loại đã kiến tạo nên, cụ thể là:

Thứ nhất, nền kinh tế Việt Nam có những tiền đề, điều kiện để sản xuất hàng hóa ra đời, phát triển và hiện thực chứng minh Việt Nam đã có bước chuyển rõ nét trong phát triển nền kinh tế từ khi khởi xướng công cuộc đổi mới năm 1986. Công cuộc đổi mới bằng việc lựa chọn phát triển “nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước”(2) trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. 

Thứ hai, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường kết hợp cơ chế điều tiết của các quy luật thị trường và sự điều tiết của Nhà nước, là nền kinh tế thị trường hiện đại - là sự lựa chọn sáng suốt, phù hợp thực tiễn Việt Nam và xu hướng phát triển thời đại.

Mặc dù Việt Nam chưa trải qua phát triển mô hình kinh tế thị trường tự do cạnh tranh, song Việt Nam có trải nghiệm về mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung (nền kinh tế vận hành chủ yếu dưới sự điều hành của Nhà nước). Trải nghiệm này góp thêm căn cứ chứng thực rằng, nền kinh tế của một quốc gia, nếu vận hành tuyệt đối theo mô hình kinh tế thị trường tự do cạnh tranh hay mô hình kinh tế kế hoạch hóa đều bộc lộ hạn chế và khiếm khuyết nhất định. Điều đó có nghĩa rằng, kinh tế thị trường hiện đại là mô hình kinh tế được xem là hiệu quả nhất đã được kiểm chứng thực tiễn.

Thứ ba, lựa chọn, tiến hành công cuộc đổi mới là đột phá trong tư duy kinh tế, song nền kinh tế Việt Nam đã xác lập đầy đủ theo hướng tiệm cận hiện đại nền kinh tế thị trường hỗn hợp - nền kinh tế vận hành trên có sở tuân thủ cơ chế hoạt động của các quy luật kinh tế thị trường, đồng thời dung hợp với sự quản lý, định hướng của Nhà nước.

Quá trình hình thành, phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại ở Việt Nam rất rõ nét. Sau 15 năm tiến hành công cuộc đổi mới (1986 - 2001), Việt Nam thực hiện kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, đây là giai đoạn chuẩn bị để kinh tế hàng hóa hội đủ các điều kiện chuyển sang kinh tế thị trường. Chính vì vậy, Đại hội IX (năm 2001) xác định: “Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”(3).

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam đáp ứng các tiêu chí của một nền kinh tế thị trường theo thang đo được chấp nhận phổ quát

Hiện nay, có một số bộ tiêu chí được sử dụng để đo lường mức độ phát triển kinh tế thị trường.

Bảng 1 cho thấy, mặc dù có số lượng tiêu chí đánh giá khác nhau, song về cơ bản các tiêu chí này tập trung vào hai nhóm yếu tố chủ yếu, đó là chỉ số tự do kinh tế (Economic Freedom - EF)(4) và mức độ can thiệp của chính phủ. Vì vậy, chỉ cần tập trung xem xét hai nhóm chỉ số này thì có thể khẳng định, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã hội đủ các tiêu chí của một nền kinh tế thị trường hiện đại hay chưa theo thang đo được chấp nhận phổ quát.

Nguồn: Tác giả tổng hợp***

Thực vậy, về chỉ số tự do kinh tế(5), từ năm 1986 đến nay, những cải cách theo hướng tự do kinh tế, phát triển kinh tế thị trường Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả quan trọng.

Thứ nhất, về hệ thống pháp luật, trọng tâm là bảo đảm các quyền tài sản đã được thực thi khá tốt, chẳng hạn, tính đến tháng 4-2022, Chính phủ đã hoàn thành việc cấp giấy chứng nhận lần đầu cho hầu hết đối tượng đang sử dụng đất (trên 97,6%) và hoàn thành trên 77% diện tích tự nhiên; trong đó, đất sản xuất nông nghiệp đạt trên 93%, đất lâm nghiệp đạt trên 98%, đất nuôi trồng thủy sản đạt trên 87%, đất ở nông thôn đạt trên 96%, đất ở đô thị đạt trên 98%, đất chuyên dùng đạt trên 87%, đất của cơ sở tôn giáo đạt trên 83%(6). Quyền tài sản và các quyền khác trong kinh doanh đã được thiết lập cơ bản và vẫn tiếp tục được cải thiện.

Thứ hai, về quy mô chính phủ, trọng tâm là đo lường mức thuế; chi tiêu chính phủ; “sức khỏe” tài khóa. Thực tế cho thấy, mức độ tham gia của Chính phủ tới nền kinh tế tại Việt Nam ở mức vừa phải. Cụ thể, mức thuế thu nhập cá nhân cao nhất là 35% và mức thuế thu nhập doanh nghiệp cao nhất là 22%. Các loại thuế khác bao gồm thuế giá trị gia tăng và thuế tài sản. Tổng gánh nặng thuế tương đương 18,6% tổng thu nhập trong nước. Chi tiêu của Chính phủ đã lên tới 28,3% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của quốc gia trong 3 năm qua (tính đến năm 2018) và thâm hụt ngân sách trung bình là 4,7% GDP. Nợ công tương đương 57,5% GDP(7).

Thứ ba, về hiệu quả của quy định đối với doanh nghiệp, ghi nhận ở mức độ nhất định, việc khởi nghiệp ngày càng trở nên dễ dàng hơn và chi phí đăng ký kinh doanh cũng được cắt giảm. Các biện pháp kiểm soát bình ổn giá vẫn có hiệu lực đối với nhiên liệu, năng lượng, nước, tài nguyên thiên nhiên và dược phẩm.

Đóng gói mặt hàng tôm xuất khẩu tại Công ty Cổ phần Tập đoàn Thủy sản Minh Phú, tỉnh Hậu Giang _Ảnh: TTXVN

Thứ tư, về mức độ mở cửa của thị trường, Việt Nam đạt được sự tiến bộ vượt bậc, độ mở của nền kinh tế thông qua chỉ số tỷ lệ giữa kim ngạch xuất, nhập khẩu/GDP. Hiện tại, độ mở cửa của nền kinh tế Việt Nam là hơn 200% GDP và được đánh giá là một trong những nền kinh tế có độ mở lớn. Chính phủ Việt Nam luôn tạo điều kiện cho đầu tư nước ngoài, tính lũy kế đến hết năm 2023, Việt Nam thu hút được 39.140 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với tổng vốn đăng ký đạt 468,917 tỷ USD(8). Khu vực tài chính tiếp tục phát triển và việc cho vay theo chỉ đạo của các ngân hàng thương mại nhà nước đã được thu hẹp trong những năm gần đây.

Thứ năm, ghi nhận của Quỹ Heritage (Mỹ) về chỉ số tự do kinh tế của Việt Nam năm 2023 rất tích cực, bởi Việt Nam trong nhóm các nền kinh tế có “mức độ tự do kinh tế trung bình” và đứng thứ 59/176 quốc gia được xếp hạng, khá hơn trên 100 quốc gia khác, theo đó Việt Nam đã tăng tới 13 bậc trong bảng xếp hạng, đồng thời cũng có nhận định của GS, TS Andreas Stoffers: không có nước nào tiến bộ nhanh chóng về mặt tự do kinh tế trong 30 năm qua hơn Việt Nam. Hiện nay, vị thế Việt Nam đã đạt được rất ấn tượng, nhưng quan trọng hơn cả là xu hướng đi lên một cách rõ rệt của quốc gia(9).

Về mức độ can thiệp của chính phủ, trước hết với những kết quả đạt được ở mức độ tự do thị trường là bằng chứng về quy mô và phạm vi tác động của Chính phủ tới nền kinh tế thị trường là tích cực. Tiếp đến, ở phương diện khác, Chính phủ Việt Nam đã và đang nỗ lực cao trong hoàn thiện hệ thống thể chế, trực tiếp là kịp thời ban hành chính sách khuyến khích hoạt động kinh doanh và có tác động tích cực đến sự tự do kinh tế của doanh nghiệp, người lao động. Cụ thể, nhiều nghị quyết(10) quan trọng nhằm tạo khung khổ thể chế để doanh nghiệp, chủ thể xã hội phát huy các quyền tài sản, quyền tự do kinh doanh, sản xuất, tự do lao động; tự do tiền tệ... cải cách hành chính, thuế, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi và giảm áp lực thuế để doanh nghiệp và chủ thể xã hội tạo ra sự tăng trưởng kinh tế và việc làm đều đặn.

Như vậy, căn cứ trên các tiêu chí đánh giá và so sánh kết quả hiện thực, có thể đưa ra một số nhận định sau:

Một là, theo tiêu chí tự do kinh tế, việc phát triển kinh tế thị trường của Việt Nam có nhiều cải thiện đáng kể, đáp ứng tiêu chí tự do kinh tế.

Hai là, trên phương diện quy mô và phạm vi tác động của Chính phủ đều ghi nhận sự cải thiện rõ ràng về phương diện hệ thống luật pháp theo hướng tôn trọng các quy luật của thị trường và tôn trọng cạnh tranh lành mạnh.

Ba là, ngoài việc chú trọng đáng kể ở các phương diện đánh giá quan trọng với các kết quả được ghi nhận trên, nhờ thực hành tốt phát triển kinh tế thị trường mà chính phủ Việt Nam đã và đang có được nhiều hơn những cải thiện trên phương diện xã hội rộng rãi hơn, tiến bộ hơn, đó là giảm nghèo đa chiều chuyển biến tích cực; thực thi khả quan trong giảm bất bình đẳng giới; gia tăng trách nhiệm giải trình của cơ quan, tổ chức đối với doanh nghiệp, người dân; gia tăng mức độ tham gia của doanh nghiệp, người dân và thực thi các cam kết quan trọng bảo đảm chất lượng môi trường.

Hiện thực phát triển kinh tế Việt Nam là bằng chứng khẳng định nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường

Với gần 40 năm hình thành và phát triển, bằng những cải cách mạnh mẽ, song có lộ trình, kết quả được tạo nên trên hành trình Việt Nam xây dựng, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường. Đó là:

Thứ nhất, ở phương diện là sự can thiệp của Nhà nước. Kết quả cụ thể như sau:

Ở giai đoạn từ năm 1986 đến năm 2001, Nhà nước Việt Nam đã tạo tiền đề, bảo đảm các điều kiện để hình thành nền kinh tế thị trường, đó là: 1- Khẳng định các yếu tố cấu thành cơ bản của nền kinh tế hàng hóa trong giai đoạn quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, như công nhận các thành phần kinh tế với các loại hình sở hữu khác nhau, cùng tồn tại lâu dài...; cho phép tự do giao lưu hàng hóa, thống nhất thị trường cả nước; chấp nhận động cơ lợi nhuận trong kinh doanh...; tạo điều kiện để thị trường trở thành công cụ chủ yếu phân bổ các nguồn lực;
2- Xác định rõ định hướng phát triển nền kinh tế là nền kinh tế mở và từng bước hội nhập kinh tế quốc tế, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ với thế giới, chủ trương làm bạn với tất cả các nước, biến nền kinh tế nước ta thành một bộ phận của nền kinh tế thế giới và khu vực; 3- Khẳng định quan điểm về hướng đích của nền kinh tế là phát triển kinh tế phải đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.

Giai đoạn từ năm 2001 đến nay, Việt Nam bước vào xây dựng, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước Việt Nam đã hiện thực vai trò của mình ở những phương diện như: 1- Việt Nam chuyển sang nhận thức thị trường là một chỉnh thể, là cơ sở kinh tế của xã hội trong giai đoạn tiến lên chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở đó, đặt vấn đề xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; 2- Xây dựng đồng bộ hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà trọng tâm là đẩy mạnh việc xây dựng và ban hành khá tổng thể khung thể chế căn bản  - hệ thống các luật nhằm đồng bộ hóa khung thể chế cho các yếu tố thị trường, các khu vực của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển; 3- Thúc đẩy hình thành đồng bộ các loại thị trường: Thị trường các yếu tố sản xuất, thị trường lao động, thị trường tài chính  - tiền tệ, thị trường đất đai - bất động sản, thị trường khoa học - công nghệ...; 4- Tiếp tục hoàn thiện các điều kiện bảo đảm nhằm thúc đẩy nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ngày càng phát triển đầy đủ, đồng bộ, hiện đại và hội nhập.

Thứ hai, ở phương diện là kết quả được tạo nên từ các chủ thể kinh tế - xã hội trên hành trình Việt Nam xây dựng, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đầy đủ, đồng bộ, hiện đại và hội nhập. Đó là:

Đưa Việt Nam từ một nước nông nghiệp lạc hậu, nghèo nàn, quy mô nền kinh tế nhỏ bé, GDP 26,3 tỷ USD trong những năm đầu đổi mới, đến quy mô nền kinh tế đạt 430 tỷ USD năm 2023, tăng khoảng hơn 53 lần, GDP bình quân đầu người đạt mức 4.300 USD, tăng 58 lần so với bước vào đổi mới; tỷ lệ hộ theo chuẩn nghèo đa chiều còn 2,9% so với mức hơn 20% ở thời điểm trước đổi mới. Đặc biệt, giai đoạn 1986 - 2022, Việt Nam lọt tốp 5 nước có quy mô kinh tế tăng nhiều nhất thế giới.

Việt Nam từ một nền kinh tế đóng cửa khép kín, thành một nền kinh tế có mức độ hội nhập toàn cầu cao. Kể từ khi ban hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (năm 1987) đến năm 2023 đã có 111 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam, với số vốn đầu tư thu hút được gần 438,7 tỷ USD và hiện nay Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc; có quan hệ kinh tế, thương mại với hơn 230 đối tác và quan hệ hợp tác với hơn 300 tổ chức quốc tế. Theo đó, cũng là nền kinh tế có quan hệ đối tác thương mại lớn thứ 22 toàn cầu, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu năm 2023 đạt gần 700 tỷ USD, tỷ lệ kim ngạch thương mại so với GDP của Việt Nam đạt tới gần 200%, điều này minh chứng Việt Nam là một trong những nền kinh tế có độ mở lớn trên thế giới.

Tự hào về những thành quả mà Việt Nam đã đạt được trong phát triển nền kinh tế thị trường qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, song chúng ta cũng cần nhận thức rõ rằng, trên thực tế việc có được công nhận là nền kinh tế thị trường không chỉ phụ thuộc vào các yếu tố kinh tế - kỹ thuật. Cụ thể, tính đến tháng 6-2024, Việt Nam đã được 73 nước công nhận là nền kinh tế thị trường, bao gồm các nền kinh tế lớn, như Canada, Nhật Bản, Hàn Quốc... Mới đây nhất là Vương quốc Anh đã có Thư chính thức công nhận quy chế thị trường của Việt Nam... trong khi đó, Mỹ và Liên minh châu Âu (EU) hiện tại chưa công nhận. Điều này xuất phát từ sự khác biệt về tiêu chí để công nhận nền kinh tế thị trường... và chính ngay trong bộ tiêu chí của Mỹ và EU cũng có tiêu chí “các yếu tố khác” đã bao hàm ý nghĩa đó.

Với những thành tựu đã đạt được và đặt trong bối cảnh quốc tế, khu vực, cùng đặt trong tương quan so sánh với các nền kinh tế thị trường của các quốc gia khác, Việt Nam đã đáp ứng các tiêu chí để các tổ chức quốc tế, khu vực và Mỹ trao cho Việt Nam quy chế kinh tế thị trường vào thời điểm hiện nay ./.

-------------------

(*) Dựa trên cơ sở thống kê của các tổ chức, như Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), và Tổ chức nghiên cứu, phân tích và dự báo kinh tế (The Economist Intelligence Unit)
(**) 1- Pháp quyền (Rule of Law): Bảo vệ con người và tài sản của họ có được một cách hợp pháp là yếu tố trung tâm. Đây là chức năng quan trọng nhất của nhà nước, bao gồm các tiêu chí: Quyền sở hữu; hiệu quả tư pháp; chính phủ liêm chính. 2- Quy mô của chính phủ: Khi chi tiêu của chính phủ, thuế và quy mô của doanh nghiệp do chính phủ kiểm soát tăng lên, việc ra quyết định của chính phủ thay thế cho sự lựa chọn của cá nhân và tự do kinh tế bị giảm đi. Ngược lại, nếu các thất bại không được can thiệp đúng lúc, sự tự do trong thị trường chịu những thiệt hại đáng kể. Quy mô của chính phủ bao gồm các tiêu chí: Gánh nặng thuế; chi tiêu chính phủ; “Sức khỏe” tài khóa. 3- Hiệu quả của quy định: Các chính phủ không chỉ sử dụng các công cụ để hạn chế quyền trao đổi quốc tế, họ còn có thể phát triển các quy định hạn chế quyền trao đổi, nhận tín dụng, thuê hoặc tự do điều hành doanh nghiệp trong nền kinh tế. Trụ cột này bao gồm các tiêu chí: Quyền tự do kinh doanh; tự do lao động; tự do tiền tệ. 4- Thị trường mở: Quyền tự do trao đổi - theo nghĩa rộng nhất của nó, mua, bán, lập hợp đồng,... là điều cần thiết đối với tự do kinh tế, điều này bị giảm bớt khi quyền tự do trao đổi không bao gồm doanh nghiệp và cá nhân ở các quốc gia khác. Trụ cột thị trường mở bao gồm các tiêu chí: Tự do thương mại; tự do đầu tư; tự do tài chính
(***) Tổng hợp từ các nguồn: 1- Trung tâm WTO, VCCI (2008), Quy định của WTO về kinh tế thị trường; 2- Tiêu chí nền kinh tế thị trường của Hoa Kỳ - kinh nghiệm cho Việt Nam, Hội đồng Lý luận trung ương, ngày 25-9-2018, https://hdll.vn/vi/thong-tin-ly-luan---thuc-tien/tieu-chi-nen-kinh-te-thi-truong-cua-hoa-ky---kinh-nghiem-cho-viet-nam.html; 3- Trần Quang Tuyến, Lê Văn Đạo: Tiêu chí về nền kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại và hội nhập quốc tế: Những vấn đề đặt ra cho Việt Nam trong hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Tạp chí Cộng sản, ngày 7-12-2020, https://www.tapchicongsan.org.vn/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/tieu-chi-ve-nen-kinh-te-thi-truong-day-du-hien-dai-va-hoi-nhap-quoc-te-nhung-van-de-dat-ra-cho-viet-nam-trong-hoan-thien-the-che-kinh-te-thi-truong-di;  4- PGS.TS Nguyễn Văn Thạo, Về tiêu chí nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Lý luận và thực tiễn, ngày 1-12-2018,  https://hdll.vn/vi/nghien-cuu---trao-doi/ve-tieu-chi-nen-kinh-te-thi-truong-dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia-viet-nam---ly-luan-va-thuc-tien.html

(1) Đại khủng hoảng 1929 - 1933 là một minh chứng
(2) Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Hội nghị giữa nhiệm kỳ Đại hội VII
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2001, tr. 84
(4) Chính là mức độ tôn trọng các quy luật thị trường hay còn gọi là mức độ tự do của thị trường
(5) Được bao quát trên cơ sở 4 trụ cột do Quỹ Heritage (Heritage Foundation) công bố và Chỉ số tự do kinh tế (EF) của thế giới và của Bắc Mỹ do Viện Fraser (The Fraser Institute) công bố và đo lường. Các chỉ số này bao gồm các mục, như bảo đảm quyền tài sản, gánh nặng các quy định và độ mở của thị trường tài chính, cùng nhiều mục khác, bao gồm: 1- Hệ thống pháp luật; 2- Quy mô của chính phủ; 3- Hiệu quả của các quy định đối với doanh nghiệp; 4- Độ mở của thị trường
(6) Báo cáo của Tổ công tác Đoàn giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Ủy viên chuyên trách Ủy ban Kinh tế Bùi Thị Quỳnh Thơ, Tổ trưởng Tổ công tác trình bày, https://quochoi.vn/tintuc/Pages/tin-hoat-dong-cua-quoc-hoi.aspx?ItemID=63338.
(7) Trần Quang Tuyến, Lê Văn Đạo: “Tiêu chí về nền kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại và hội nhập quốc tế: Những vấn đề đặt ra cho Việt Nam trong hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, Tạp chí Cộng sản, ngày 7-12-2020, https://www.tapchicongsan.org.vn/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/tieu-chi-ve-nen-kinh-te-thi-truong-day-du-hien-dai-va-hoi-nhap-quoc-te-nhung-van-de-dat-ra-cho-viet-nam-trong-hoan-thien-the-che-kinh-te-thi-truong-di
(8) Thân Thanh Hằng: “Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam năm 2023 và kỳ vọng năm 2024”, Viện Nghiên cứu Chiến lược, chính sách công thương, ngày 11-3-2024, https://vioit.org.vn/vn/chien-luoc-chinh-sach/tinh-hinh-dau-tu-truc-tiep-nuoc-ngoai-tai-viet-nam-nam-2023-va-ky-vong-nam-2024-5788.4050.html
(9) GS, TS Andreas Stoffers - Giám đốc Quốc gia Viện Friedrich Naumann Foundation for Freedom (FNF) tại Việt Nam: “Việt Nam cải thiện đáng kể về chỉ số tự do kinh tế”, Thời báo tài chính Việt Nam, ngày 8-3-2024, https://thoibaotaichinhvietnam.vn/viet-nam-cai-thien-dang-ke-ve-chi-so-tu-do-kinh-te-146291.html
(10) Nghị quyết số 09-NQ/TW, ngày 9-12-2011, của Bộ Chính trị, “Về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”; Nghị quyết số 41-NQ/TW, ngày 10-10-2023, của Bộ Chính trị, “Về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ mới”


Không thể vin vào hoàn cảnh lịch sử để phủ nhận, bác bỏ chủ nghĩa Mác - Lê-nin

GS, TS LÊ HỮU NGHĨA
Nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, nguyên Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản
16:33, ngày 01-02-2025

TCCS - Từ khi ra đời đến nay, chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã trở thành thế giới quan và phương pháp luận khoa học, soi sáng con đường đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới, trong đó có Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam luôn kiên định, bảo vệ sức sống của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh - nền tảng tư tưởng của Đảng; kiên quyết đấu tranh, bác bỏ các quan điểm xuyên tạc, phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng.

Chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã trở thành thế giới quan và phương pháp luận khoa học, soi sáng con đường đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới (Trong tranh: C. Mác và Ph. Ăng-ghen) _Tranh: Tư liệu

Kiên định vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam

Ở Việt Nam, chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã được Đảng Cộng sản Việt Nam và  lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh tiếp thu, vận dụng, phát triển sáng tạo để đề ra đường lối chiến lược, sách lược của cách mạng Việt Nam, lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cách mạng. Dưới ánh sáng soi đường của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta đã đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân với hai nhiệm vụ chủ yếu là chống đế quốc và phong kiến, giành độc lập cho dân tộc và quyền tự do, dân chủ, hạnh phúc cho nhân dân, đến cách mạng xã hội chủ nghĩa với hai nhiệm vụ cơ bản là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và sau đó, đến công cuộc đổi mới vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi chủ nghĩa Mác - Lê-nin là “chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất”. Vì vậy, trong các thời kỳ lãnh đạo cách mạng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh không ngừng đi sâu nhận thức, nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin phù hợp với điều kiện cụ thể của cách mạng nước ta và với xu thế của thời đại. Theo đó, chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành nền tảng tư tưởng của Đảng, kim chỉ nam cho cách mạng Việt Nam. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam cũng là thắng lợi của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh ở Việt Nam. Thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, giải phóng đất nước, thống nhất Tổ quốc, những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gần 40 năm qua đã khẳng định sức sống bền vững, giá trị trường tồn của chủ nghĩa Mác - Lê-nin đối với cách mạng Việt Nam. Những thành tựu đó khẳng định đường lối đổi mới là đúng đắn, sáng tạo, hợp lòng dân, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại, khẳng định những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nhờ đó mà đất nước ta, như Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã nhận định, “chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay(1).

Vì vậy, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng yêu cầu toàn Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên “kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”(2). Đi liền với yêu cầu về kiên định, Đảng ta cũng yêu cầu sáng tạo khi vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực tiễn phát triển đất nước nhanh, bền vững hiện nay. Có thể nói, “kiên định” và “sáng tạo” là hai mặt của một vấn đề thống nhất biện chứng với nhau; kiên định phải trên cơ sở sáng tạo, còn sáng tạo phải trên cơ sở kiên định, tức kiên định một cách sáng tạo và sáng tạo một cách kiên định. Nếu kiên định mà không sáng tạo thì sẽ rơi vào bảo thủ, giáo điều, trái lại, nếu sáng tạo mà không kiên định thì sẽ rơi vào chủ nghĩa cơ hội, xét lại, cực đoan, siêu hình.

Tiếp tục quán triệt lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong bối cảnh mới

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm trao thưởng tặng các tác giả, nhóm tác giả đoạt giải A của Cuộc thi chính luận về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng lần thứ tư, năm 2024, ngày 20-10-2024 _Nguồn: qdnd.vn

Ngày nay, bối cảnh tình hình thế giới đang trải qua những biến động to lớn, diễn biến rất nhanh chóng, phức tạp, khó lường; sự gia tăng của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa cường quyền nước lớn, chủ nghĩa thực dụng trong quan hệ quốc tế, đặt ra cả thời cơ và thách thức đan xen nhau trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Trong tình hình đó, đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên nhận thức sâu sắc bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, có bản lĩnh chính trị vững vàng, thường xuyên bám sát sự thay đổi của tình hình thực tiễn trong nước cũng như trên thế giới, nâng cao khả năng dự báo tình hình; đồng thời, phải kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp tục kiên quyết, tăng cường tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, bổ sung nhận thức mới, không ngừng hoàn thiện đường lối đổi mới, tổ chức thực hiện đường lối đổi mới với chất lượng và hiệu quả cao hơn. Đồng thời, Đảng ta yêu cầu chủ động, tích cực, kiên quyết đấu tranh, bác bỏ các quan điểm sai trái, thù địch, làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.

Các thế lực thù địch thường xuyên tung ra nhiều lý lẽ, lập luận sai trái để xuyên tạc, bác bỏ, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, trong đó có quan điểm cho rằng “chủ nghĩa Mác - Lê-nin ra đời từ những điều kiện kinh tế - xã hội của thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX nên không còn phù hợp với thực tiễn hiện nay”.

Quan điểm trên đây là sai lầm vì đã cố tình xuyên tạc bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, phủ nhận giá trị trường tồn, ý nghĩa phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong thời đại ngày nay. Đúng là thời đại ngày nay khi xem xét về điều kiện kinh tế - xã hội, khoa học - công nghệ thì có khác rất nhiều so với thời đại của C. Mác và Ph. Ăng-ghen ở thế kỷ XIX. Khi đó chủ nghĩa tư bản đang trong quá trình hình thành, nằm ở giai đoạn tự do cạnh tranh, thích ứng với Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất và lần thứ hai, với văn minh hơi nước và cơ khí. Còn ngày nay, nhân loại đã bước sang  thập niên thứ ba của thế kỷ XXI, được đánh dấu bằng sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ hiện đại. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới, với những thành tựu nổi bật, như sự ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI), công nghệ in 3D, internet kết nối vạn vật (IoT),…; sự hình thành, phát triển kinh tế tri thức, kinh tế số, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế diễn ra nhanh chóng, sâu rộng; biến đổi khí hậu… tác động to lớn đến xã hội, môi trường cũng như cuộc sống con người. Nếu không nhận thức được những biến đổi to lớn của thời đại thì sẽ không thể hiểu đúng bản chất của thời đại. Tuy nhiên, những biến đổi đó không vượt ra ngoài các quy luật, các nguyên lý chung nhất mà C. Mác đã khám phá trong các học thuyết của ông về triết học, kinh tế chính trị học, chủ nghĩa xã hội khoa học… Chẳng hạn, đó là các quy luật phổ biến của phép biện chứng duy vật, các quy luật phổ biến của sự phát triển xã hội loài người được thể hiện trong quan điểm duy vật về lịch sử, như quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng; tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, kinh tế xét đến cùng quyết định chính trị, quy luật đấu tranh giai cấp trong các xã hội có giai cấp, quy luật giá trị thặng dư trong kinh tế chính trị, những nguyên lý khoa học về nhà nước, cách mạng xã hội, về chủ nghĩa xã hội khoa học, về sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân,…

Cần nhất quán khẳng định rằng, các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong bản chất khoa học và cách mạng của nó vẫn giữ nguyên giá trị cho đến ngày nay. Hoàn cảnh lịch sử cụ thể luôn thay đổi, nhưng các quy luật phát triển cơ bản, phổ biến của xã hội loài người mà chủ nghĩa Mác - Lê-nin phát hiện, đề cập có giá trị trường tồn, phổ biến cả về không gian và thời gian. Thực tiễn và khoa học cho thấy, chủ nghĩa Mác - Lê-nin là  thế giới quan và phương pháp luận khoa học cho sự nhận thức xã hội, nhận thức thời đại, soi sáng con đường đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới. Sự thay đổi của thời đại, sự biến đổi của hoàn cảnh kinh tế - xã hội đòi hỏi chúng ta vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tránh tư duy rập khuôn, máy móc, giáo điều; nhưng việc các thế lực thù địch vin vào điều kiện lịch sử, yếu tố thời đại để phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin là hoàn toàn sai lầm, không thể chấp nhận được. Bản chất của chủ nghĩa Mác - Lê-nin đòi hỏi sáng tạo trong nhận thức và vận dụng. V.I. Lê-nin đã rất nhiều lần nhấn mạnh: Bản chất, linh hồn sống của chủ nghĩa Mác là phân tích cụ thể một tình hình cụ thể. Chủ nghĩa Mác - Lê-nin là một học thuyết mở, không ngừng được bổ sung, phát triển qua thực tiễn. V.I. Lê-nin từng căn dặn: Chúng ta không được phép coi chủ nghĩa Mác như là một cái gì đó đóng kín, bất biến, đã hoàn thành, xong xuôi, bất khả xâm phạm, nếu chúng ta không muốn lạc hậu với cuộc sống. Không ngừng bổ sung, phát triển là yêu cầu nội tại của chủ nghĩa Mác - Lê-nin. C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã nhiều lần tuyên bố, học thuyết của các ông không phải là giáo điều mà là kim chỉ nam cho hành động. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quán triệt quan điểm mác-xít “chân lý là cụ thể, nên cách mạng phải sáng tạo” trong lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng Việt Nam qua các thời kỳ.

Trong thời kỳ đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin phù hợp với điều kiện cụ thể của cách mạng nước ta và với xu thế của thời đại, với nhiều đổi mới mang tính đột phá về tư duy lý luận. Đảng Cộng sản Việt Nam kiên định vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin cho phù hợp với điều kiện lịch sử mới của Việt Nam và thời đại trên một loạt vấn đề, như mục tiêu, đặc trưng, phương hướng cơ bản của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội; vấn đề phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; vấn đề phát huy và kết hợp sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc với sức mạnh của thời đại… Thời gian tới, chúng ta cần tiếp tục quán triệt lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, bảo đảm hài hòa giữa kiên định và đổi mới, kế thừa và phát triển, giữa đẩy mạnh nghiên cứu lý luận và tăng cường tổng kết thực tiễn gắn với định hướng chính sách. Bên cạnh đó, “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết và thường xuyên đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị”(3) như Nghị quyết Đại hội XIII đã chỉ ra. Đó chính là các nhiệm vụ cơ bản và thường xuyên của công tác tư tưởng - lý luận của Đảng, để tăng cường sức chiến đấu, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng trong thời kỳ mới./.

---------------------

(1), (2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 104, 109
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 183