Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, theo định hướng xã hội chủ nghĩa
TCCS - Trở thành nền kinh tế thị trường hiện đại là mong muốn của nhiều nền kinh tế. Việc được công nhận quy chế kinh tế thị trường sẽ mở ra nhiều cơ hội mới về đầu tư, thương mại, trong quá trình tham gia chuỗi giá trị toàn cầu... và làm cho các tổ chức quốc tế cũng như các đối tác tiềm năng có cách nhìn mới về quốc gia đó.
Bốc, xếp hành hóa xuất - nhâp khẩu tại cảng Cần Thơ _Nguồn: nhiepanhvadoisong.vn
Thực tiễn phát triển cho thấy, kinh tế thị trường là mô hình tổ chức vận hành kinh tế hiệu quả của nhân loại. Mỗi một thể chế chính trị, với thực tiễn mỗi quốc gia mà kinh tế thị trường được hình thành, phát triển với các mô hình mang nét đặc thù, dù vậy đều phải bảo đảm đặc tính chung mà hiện nay được thể hiện bằng các tiêu chí, trong đó một số quốc gia gọi chung là quy chế kinh tế thị trường. Do đó, để khẳng định nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam hội đủ các tiêu chí của một nền kinh tế thị trường hiện đại cần đối chứng hiện thực nền kinh tế Việt Nam với các tiêu chí về nền kinh tế thị trường/hay quy chế kinh tế thị trường đang hiện hữu.
Bằng góc nhìn khoa học đối với nền kinh tế Việt Nam sau gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, chúng ta hoàn toàn có thể khẳng định rằng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam ở thời điểm hiện nay thực sự là một nền kinh tế thị trường hiện đại, bởi các căn cứ sau:
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam được hình thành, vận hành trên cơ sở và nguyên tắc của nền kinh tế thị trường hiện đại
Nhìn lại lịch sử phát triển nhân loại cho thấy, loài người đã trải qua hai kiểu tổ chức sản xuất xã hội để hình thành nền tảng kinh tế phục vụ nhu cầu sinh tồn, phát triển của xã hội loài người, đó là sản xuất phục vụ nhu cầu tự thân (hay còn gọi là tự cung tự cấp) và sản xuất phục vụ nhu cầu xã hội (gọi là sản xuất hàng hóa), tương ứng với mỗi kiểu tổ chức sản xuất này là cách thức tổ chức, vận hành kinh tế, đó là kinh tế tự nhiên và kinh tế hàng hóa. Theo dòng lịch sử, kinh tế hàng hóa xuất hiện vào cuối thời kỳ tan rã của hình thái Công xã nguyên thủy, bước vào Chiếm hữu nô lệ với dạng thức ban đầu là kinh tế hàng hóa giản đơn; sau tiến triển lên kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hóa. Ở trình độ này, nền kinh tế thị trường tiến triển qua hai mô hình cơ bản là:
Kinh tế thị trường tự do cạnh tranh (hay còn gọi là kinh tế thị trường cổ điển - hình thành từ cuối thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XX) là nền kinh tế vận hành chủ yếu bởi điều tiết của các quy luật thị trường (giá trị, cung - cầu, cạnh tranh...), có rất ít hoặc không có sự can thiệp của nhà nước. Tuy nhiên, sự điều tiết của quy luật thị trường - “bàn tay vô hình”, ngoài những ưu việt, còn có những “khuyết tật”, đặc biệt là khủng hoảng kinh tế chu kỳ(1), đòi hỏi có sự can thiệp/quản lý của nhà nước - “bàn tay hữu hình” để hạn chế, khắc phục khuyết tật do điều tiết tự phát của cơ chế thị trường.
Kinh tế thị trường hỗn hợp (hay còn gọi là kinh tế thị trường hiện đại - hình thành từ những năm 40 của thế kỷ XX đến nay) là nền kinh tế vận hành trên cơ sở kết hợp/dung hợp cơ chế tự điều tiết của quy luật thị trường với sự can thiệp/điều tiết của nhà nước. Tức là nền kinh tế vừa có sự điều tiết bởi các quy luật kinh tế khách quan - “bàn tay vô hình”, vừa có điều tiết bởi nhà nước - “bàn tay hữu hình”.
Như vậy, về nguồn gốc, bản chất kinh tế thị trường là kinh tế hàng hóa có trước chủ nghĩa tư bản, là thành quả, sản phẩm của văn minh nhân loại được hình thành, phát triển bởi lịch sử phát triển kinh tế nhân loại, nhưng trong hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa, nhất là ở các nước tư bản phát triển, kinh tế thị trường đã được vận dụng rất thành công, dẫn đến nhiều người lầm tưởng kinh tế thị trường là sản phẩm “riêng có” của chủ nghĩa tư bản, do chủ nghĩa tư bản “sáng tạo nên”.
Bởi tính ưu việt của nền kinh tế thị trường hiện đại, ngày nay, hầu hết quốc gia, bao hàm cả các nước tư bản phát triển trên thế giới đều là nền kinh tế thị trường có sự can thiệp/quản lý của nhà nước, song do mục tiêu phát triển quốc gia, do điều kiện thực tiễn khác nhau mà kinh tế thị trường có sự can thiệp/quản lý của nhà nước ở các nước trên thế giới là không hoàn toàn giống nhau. Vì vậy, nhiều mô hình khác nhau được hình thành, như kinh tế thị trường tự do ở Mỹ, kinh tế thị trường xã hội ở Đức, kinh tế thị trường nhà nước phúc lợi ở Thụy Điển, kinh tế thị trường phối hợp ở Nhật Bản, kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa Trung Quốc...
Từ những khái lược trên, có thể khẳng định rằng, từ tư duy lý luận đến thực tiễn, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam được hình thành và vận hành trên cơ sở và nguyên tắc của nền kinh tế thị trường hiện đại mà nhân loại đã kiến tạo nên, cụ thể là:
Thứ nhất, nền kinh tế Việt Nam có những tiền đề, điều kiện để sản xuất hàng hóa ra đời, phát triển và hiện thực chứng minh Việt Nam đã có bước chuyển rõ nét trong phát triển nền kinh tế từ khi khởi xướng công cuộc đổi mới năm 1986. Công cuộc đổi mới bằng việc lựa chọn phát triển “nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước”(2) trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường kết hợp cơ chế điều tiết của các quy luật thị trường và sự điều tiết của Nhà nước, là nền kinh tế thị trường hiện đại - là sự lựa chọn sáng suốt, phù hợp thực tiễn Việt Nam và xu hướng phát triển thời đại.
Mặc dù Việt Nam chưa trải qua phát triển mô hình kinh tế thị trường tự do cạnh tranh, song Việt Nam có trải nghiệm về mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung (nền kinh tế vận hành chủ yếu dưới sự điều hành của Nhà nước). Trải nghiệm này góp thêm căn cứ chứng thực rằng, nền kinh tế của một quốc gia, nếu vận hành tuyệt đối theo mô hình kinh tế thị trường tự do cạnh tranh hay mô hình kinh tế kế hoạch hóa đều bộc lộ hạn chế và khiếm khuyết nhất định. Điều đó có nghĩa rằng, kinh tế thị trường hiện đại là mô hình kinh tế được xem là hiệu quả nhất đã được kiểm chứng thực tiễn.
Thứ ba, lựa chọn, tiến hành công cuộc đổi mới là đột phá trong tư duy kinh tế, song nền kinh tế Việt Nam đã xác lập đầy đủ theo hướng tiệm cận hiện đại nền kinh tế thị trường hỗn hợp - nền kinh tế vận hành trên có sở tuân thủ cơ chế hoạt động của các quy luật kinh tế thị trường, đồng thời dung hợp với sự quản lý, định hướng của Nhà nước.
Quá trình hình thành, phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại ở Việt Nam rất rõ nét. Sau 15 năm tiến hành công cuộc đổi mới (1986 - 2001), Việt Nam thực hiện kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, đây là giai đoạn chuẩn bị để kinh tế hàng hóa hội đủ các điều kiện chuyển sang kinh tế thị trường. Chính vì vậy, Đại hội IX (năm 2001) xác định: “Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”(3).
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam đáp ứng các tiêu chí của một nền kinh tế thị trường theo thang đo được chấp nhận phổ quát
Hiện nay, có một số bộ tiêu chí được sử dụng để đo lường mức độ phát triển kinh tế thị trường.
Bảng 1 cho thấy, mặc dù có số lượng tiêu chí đánh giá khác nhau, song về cơ bản các tiêu chí này tập trung vào hai nhóm yếu tố chủ yếu, đó là chỉ số tự do kinh tế (Economic Freedom - EF)(4) và mức độ can thiệp của chính phủ. Vì vậy, chỉ cần tập trung xem xét hai nhóm chỉ số này thì có thể khẳng định, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã hội đủ các tiêu chí của một nền kinh tế thị trường hiện đại hay chưa theo thang đo được chấp nhận phổ quát.
Nguồn: Tác giả tổng hợp***
Thực vậy, về chỉ số tự do kinh tế(5), từ năm 1986 đến nay, những cải cách theo hướng tự do kinh tế, phát triển kinh tế thị trường Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả quan trọng.
Thứ nhất, về hệ thống pháp luật, trọng tâm là bảo đảm các quyền tài sản đã được thực thi khá tốt, chẳng hạn, tính đến tháng 4-2022, Chính phủ đã hoàn thành việc cấp giấy chứng nhận lần đầu cho hầu hết đối tượng đang sử dụng đất (trên 97,6%) và hoàn thành trên 77% diện tích tự nhiên; trong đó, đất sản xuất nông nghiệp đạt trên 93%, đất lâm nghiệp đạt trên 98%, đất nuôi trồng thủy sản đạt trên 87%, đất ở nông thôn đạt trên 96%, đất ở đô thị đạt trên 98%, đất chuyên dùng đạt trên 87%, đất của cơ sở tôn giáo đạt trên 83%(6). Quyền tài sản và các quyền khác trong kinh doanh đã được thiết lập cơ bản và vẫn tiếp tục được cải thiện.
Thứ hai, về quy mô chính phủ, trọng tâm là đo lường mức thuế; chi tiêu chính phủ; “sức khỏe” tài khóa. Thực tế cho thấy, mức độ tham gia của Chính phủ tới nền kinh tế tại Việt Nam ở mức vừa phải. Cụ thể, mức thuế thu nhập cá nhân cao nhất là 35% và mức thuế thu nhập doanh nghiệp cao nhất là 22%. Các loại thuế khác bao gồm thuế giá trị gia tăng và thuế tài sản. Tổng gánh nặng thuế tương đương 18,6% tổng thu nhập trong nước. Chi tiêu của Chính phủ đã lên tới 28,3% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của quốc gia trong 3 năm qua (tính đến năm 2018) và thâm hụt ngân sách trung bình là 4,7% GDP. Nợ công tương đương 57,5% GDP(7).
Thứ ba, về hiệu quả của quy định đối với doanh nghiệp, ghi nhận ở mức độ nhất định, việc khởi nghiệp ngày càng trở nên dễ dàng hơn và chi phí đăng ký kinh doanh cũng được cắt giảm. Các biện pháp kiểm soát bình ổn giá vẫn có hiệu lực đối với nhiên liệu, năng lượng, nước, tài nguyên thiên nhiên và dược phẩm.
Đóng gói mặt hàng tôm xuất khẩu tại Công ty Cổ phần Tập đoàn Thủy sản Minh Phú, tỉnh Hậu Giang _Ảnh: TTXVN
Thứ tư, về mức độ mở cửa của thị trường, Việt Nam đạt được sự tiến bộ vượt bậc, độ mở của nền kinh tế thông qua chỉ số tỷ lệ giữa kim ngạch xuất, nhập khẩu/GDP. Hiện tại, độ mở cửa của nền kinh tế Việt Nam là hơn 200% GDP và được đánh giá là một trong những nền kinh tế có độ mở lớn. Chính phủ Việt Nam luôn tạo điều kiện cho đầu tư nước ngoài, tính lũy kế đến hết năm 2023, Việt Nam thu hút được 39.140 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với tổng vốn đăng ký đạt 468,917 tỷ USD(8). Khu vực tài chính tiếp tục phát triển và việc cho vay theo chỉ đạo của các ngân hàng thương mại nhà nước đã được thu hẹp trong những năm gần đây.
Thứ năm, ghi nhận của Quỹ Heritage (Mỹ) về chỉ số tự do kinh tế của Việt Nam năm 2023 rất tích cực, bởi Việt Nam trong nhóm các nền kinh tế có “mức độ tự do kinh tế trung bình” và đứng thứ 59/176 quốc gia được xếp hạng, khá hơn trên 100 quốc gia khác, theo đó Việt Nam đã tăng tới 13 bậc trong bảng xếp hạng, đồng thời cũng có nhận định của GS, TS Andreas Stoffers: không có nước nào tiến bộ nhanh chóng về mặt tự do kinh tế trong 30 năm qua hơn Việt Nam. Hiện nay, vị thế Việt Nam đã đạt được rất ấn tượng, nhưng quan trọng hơn cả là xu hướng đi lên một cách rõ rệt của quốc gia(9).
Về mức độ can thiệp của chính phủ, trước hết với những kết quả đạt được ở mức độ tự do thị trường là bằng chứng về quy mô và phạm vi tác động của Chính phủ tới nền kinh tế thị trường là tích cực. Tiếp đến, ở phương diện khác, Chính phủ Việt Nam đã và đang nỗ lực cao trong hoàn thiện hệ thống thể chế, trực tiếp là kịp thời ban hành chính sách khuyến khích hoạt động kinh doanh và có tác động tích cực đến sự tự do kinh tế của doanh nghiệp, người lao động. Cụ thể, nhiều nghị quyết(10) quan trọng nhằm tạo khung khổ thể chế để doanh nghiệp, chủ thể xã hội phát huy các quyền tài sản, quyền tự do kinh doanh, sản xuất, tự do lao động; tự do tiền tệ... cải cách hành chính, thuế, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi và giảm áp lực thuế để doanh nghiệp và chủ thể xã hội tạo ra sự tăng trưởng kinh tế và việc làm đều đặn.
Như vậy, căn cứ trên các tiêu chí đánh giá và so sánh kết quả hiện thực, có thể đưa ra một số nhận định sau:
Một là, theo tiêu chí tự do kinh tế, việc phát triển kinh tế thị trường của Việt Nam có nhiều cải thiện đáng kể, đáp ứng tiêu chí tự do kinh tế.
Hai là, trên phương diện quy mô và phạm vi tác động của Chính phủ đều ghi nhận sự cải thiện rõ ràng về phương diện hệ thống luật pháp theo hướng tôn trọng các quy luật của thị trường và tôn trọng cạnh tranh lành mạnh.
Ba là, ngoài việc chú trọng đáng kể ở các phương diện đánh giá quan trọng với các kết quả được ghi nhận trên, nhờ thực hành tốt phát triển kinh tế thị trường mà chính phủ Việt Nam đã và đang có được nhiều hơn những cải thiện trên phương diện xã hội rộng rãi hơn, tiến bộ hơn, đó là giảm nghèo đa chiều chuyển biến tích cực; thực thi khả quan trong giảm bất bình đẳng giới; gia tăng trách nhiệm giải trình của cơ quan, tổ chức đối với doanh nghiệp, người dân; gia tăng mức độ tham gia của doanh nghiệp, người dân và thực thi các cam kết quan trọng bảo đảm chất lượng môi trường.
Hiện thực phát triển kinh tế Việt Nam là bằng chứng khẳng định nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường
Với gần 40 năm hình thành và phát triển, bằng những cải cách mạnh mẽ, song có lộ trình, kết quả được tạo nên trên hành trình Việt Nam xây dựng, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường. Đó là:
Thứ nhất, ở phương diện là sự can thiệp của Nhà nước. Kết quả cụ thể như sau:
Ở giai đoạn từ năm 1986 đến năm 2001, Nhà nước Việt Nam đã tạo tiền đề, bảo đảm các điều kiện để hình thành nền kinh tế thị trường, đó là: 1- Khẳng định các yếu tố cấu thành cơ bản của nền kinh tế hàng hóa trong giai đoạn quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, như công nhận các thành phần kinh tế với các loại hình sở hữu khác nhau, cùng tồn tại lâu dài...; cho phép tự do giao lưu hàng hóa, thống nhất thị trường cả nước; chấp nhận động cơ lợi nhuận trong kinh doanh...; tạo điều kiện để thị trường trở thành công cụ chủ yếu phân bổ các nguồn lực;
2- Xác định rõ định hướng phát triển nền kinh tế là nền kinh tế mở và từng bước hội nhập kinh tế quốc tế, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ với thế giới, chủ trương làm bạn với tất cả các nước, biến nền kinh tế nước ta thành một bộ phận của nền kinh tế thế giới và khu vực; 3- Khẳng định quan điểm về hướng đích của nền kinh tế là phát triển kinh tế phải đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Giai đoạn từ năm 2001 đến nay, Việt Nam bước vào xây dựng, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước Việt Nam đã hiện thực vai trò của mình ở những phương diện như: 1- Việt Nam chuyển sang nhận thức thị trường là một chỉnh thể, là cơ sở kinh tế của xã hội trong giai đoạn tiến lên chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở đó, đặt vấn đề xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; 2- Xây dựng đồng bộ hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà trọng tâm là đẩy mạnh việc xây dựng và ban hành khá tổng thể khung thể chế căn bản - hệ thống các luật nhằm đồng bộ hóa khung thể chế cho các yếu tố thị trường, các khu vực của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển; 3- Thúc đẩy hình thành đồng bộ các loại thị trường: Thị trường các yếu tố sản xuất, thị trường lao động, thị trường tài chính - tiền tệ, thị trường đất đai - bất động sản, thị trường khoa học - công nghệ...; 4- Tiếp tục hoàn thiện các điều kiện bảo đảm nhằm thúc đẩy nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ngày càng phát triển đầy đủ, đồng bộ, hiện đại và hội nhập.
Thứ hai, ở phương diện là kết quả được tạo nên từ các chủ thể kinh tế - xã hội trên hành trình Việt Nam xây dựng, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đầy đủ, đồng bộ, hiện đại và hội nhập. Đó là:
Đưa Việt Nam từ một nước nông nghiệp lạc hậu, nghèo nàn, quy mô nền kinh tế nhỏ bé, GDP 26,3 tỷ USD trong những năm đầu đổi mới, đến quy mô nền kinh tế đạt 430 tỷ USD năm 2023, tăng khoảng hơn 53 lần, GDP bình quân đầu người đạt mức 4.300 USD, tăng 58 lần so với bước vào đổi mới; tỷ lệ hộ theo chuẩn nghèo đa chiều còn 2,9% so với mức hơn 20% ở thời điểm trước đổi mới. Đặc biệt, giai đoạn 1986 - 2022, Việt Nam lọt tốp 5 nước có quy mô kinh tế tăng nhiều nhất thế giới.
Việt Nam từ một nền kinh tế đóng cửa khép kín, thành một nền kinh tế có mức độ hội nhập toàn cầu cao. Kể từ khi ban hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (năm 1987) đến năm 2023 đã có 111 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam, với số vốn đầu tư thu hút được gần 438,7 tỷ USD và hiện nay Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc; có quan hệ kinh tế, thương mại với hơn 230 đối tác và quan hệ hợp tác với hơn 300 tổ chức quốc tế. Theo đó, cũng là nền kinh tế có quan hệ đối tác thương mại lớn thứ 22 toàn cầu, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu năm 2023 đạt gần 700 tỷ USD, tỷ lệ kim ngạch thương mại so với GDP của Việt Nam đạt tới gần 200%, điều này minh chứng Việt Nam là một trong những nền kinh tế có độ mở lớn trên thế giới.
Tự hào về những thành quả mà Việt Nam đã đạt được trong phát triển nền kinh tế thị trường qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, song chúng ta cũng cần nhận thức rõ rằng, trên thực tế việc có được công nhận là nền kinh tế thị trường không chỉ phụ thuộc vào các yếu tố kinh tế - kỹ thuật. Cụ thể, tính đến tháng 6-2024, Việt Nam đã được 73 nước công nhận là nền kinh tế thị trường, bao gồm các nền kinh tế lớn, như Canada, Nhật Bản, Hàn Quốc... Mới đây nhất là Vương quốc Anh đã có Thư chính thức công nhận quy chế thị trường của Việt Nam... trong khi đó, Mỹ và Liên minh châu Âu (EU) hiện tại chưa công nhận. Điều này xuất phát từ sự khác biệt về tiêu chí để công nhận nền kinh tế thị trường... và chính ngay trong bộ tiêu chí của Mỹ và EU cũng có tiêu chí “các yếu tố khác” đã bao hàm ý nghĩa đó.
Với những thành tựu đã đạt được và đặt trong bối cảnh quốc tế, khu vực, cùng đặt trong tương quan so sánh với các nền kinh tế thị trường của các quốc gia khác, Việt Nam đã đáp ứng các tiêu chí để các tổ chức quốc tế, khu vực và Mỹ trao cho Việt Nam quy chế kinh tế thị trường vào thời điểm hiện nay ./.
-------------------
(*) Dựa trên cơ sở thống kê của các tổ chức, như Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), và Tổ chức nghiên cứu, phân tích và dự báo kinh tế (The Economist Intelligence Unit)
(**) 1- Pháp quyền (Rule of Law): Bảo vệ con người và tài sản của họ có được một cách hợp pháp là yếu tố trung tâm. Đây là chức năng quan trọng nhất của nhà nước, bao gồm các tiêu chí: Quyền sở hữu; hiệu quả tư pháp; chính phủ liêm chính. 2- Quy mô của chính phủ: Khi chi tiêu của chính phủ, thuế và quy mô của doanh nghiệp do chính phủ kiểm soát tăng lên, việc ra quyết định của chính phủ thay thế cho sự lựa chọn của cá nhân và tự do kinh tế bị giảm đi. Ngược lại, nếu các thất bại không được can thiệp đúng lúc, sự tự do trong thị trường chịu những thiệt hại đáng kể. Quy mô của chính phủ bao gồm các tiêu chí: Gánh nặng thuế; chi tiêu chính phủ; “Sức khỏe” tài khóa. 3- Hiệu quả của quy định: Các chính phủ không chỉ sử dụng các công cụ để hạn chế quyền trao đổi quốc tế, họ còn có thể phát triển các quy định hạn chế quyền trao đổi, nhận tín dụng, thuê hoặc tự do điều hành doanh nghiệp trong nền kinh tế. Trụ cột này bao gồm các tiêu chí: Quyền tự do kinh doanh; tự do lao động; tự do tiền tệ. 4- Thị trường mở: Quyền tự do trao đổi - theo nghĩa rộng nhất của nó, mua, bán, lập hợp đồng,... là điều cần thiết đối với tự do kinh tế, điều này bị giảm bớt khi quyền tự do trao đổi không bao gồm doanh nghiệp và cá nhân ở các quốc gia khác. Trụ cột thị trường mở bao gồm các tiêu chí: Tự do thương mại; tự do đầu tư; tự do tài chính
(***) Tổng hợp từ các nguồn: 1- Trung tâm WTO, VCCI (2008), Quy định của WTO về kinh tế thị trường; 2- Tiêu chí nền kinh tế thị trường của Hoa Kỳ - kinh nghiệm cho Việt Nam, Hội đồng Lý luận trung ương, ngày 25-9-2018, https://hdll.vn/vi/thong-tin-ly-luan---thuc-tien/tieu-chi-nen-kinh-te-thi-truong-cua-hoa-ky---kinh-nghiem-cho-viet-nam.html; 3- Trần Quang Tuyến, Lê Văn Đạo: Tiêu chí về nền kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại và hội nhập quốc tế: Những vấn đề đặt ra cho Việt Nam trong hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Tạp chí Cộng sản, ngày 7-12-2020, https://www.tapchicongsan.org.vn/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/tieu-chi-ve-nen-kinh-te-thi-truong-day-du-hien-dai-va-hoi-nhap-quoc-te-nhung-van-de-dat-ra-cho-viet-nam-trong-hoan-thien-the-che-kinh-te-thi-truong-di; 4- PGS.TS Nguyễn Văn Thạo, Về tiêu chí nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Lý luận và thực tiễn, ngày 1-12-2018, https://hdll.vn/vi/nghien-cuu---trao-doi/ve-tieu-chi-nen-kinh-te-thi-truong-dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia-viet-nam---ly-luan-va-thuc-tien.html
(1) Đại khủng hoảng 1929 - 1933 là một minh chứng
(2) Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Hội nghị giữa nhiệm kỳ Đại hội VII
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2001, tr. 84
(4) Chính là mức độ tôn trọng các quy luật thị trường hay còn gọi là mức độ tự do của thị trường
(5) Được bao quát trên cơ sở 4 trụ cột do Quỹ Heritage (Heritage Foundation) công bố và Chỉ số tự do kinh tế (EF) của thế giới và của Bắc Mỹ do Viện Fraser (The Fraser Institute) công bố và đo lường. Các chỉ số này bao gồm các mục, như bảo đảm quyền tài sản, gánh nặng các quy định và độ mở của thị trường tài chính, cùng nhiều mục khác, bao gồm: 1- Hệ thống pháp luật; 2- Quy mô của chính phủ; 3- Hiệu quả của các quy định đối với doanh nghiệp; 4- Độ mở của thị trường
(6) Báo cáo của Tổ công tác Đoàn giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Ủy viên chuyên trách Ủy ban Kinh tế Bùi Thị Quỳnh Thơ, Tổ trưởng Tổ công tác trình bày, https://quochoi.vn/tintuc/Pages/tin-hoat-dong-cua-quoc-hoi.aspx?ItemID=63338.
(7) Trần Quang Tuyến, Lê Văn Đạo: “Tiêu chí về nền kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại và hội nhập quốc tế: Những vấn đề đặt ra cho Việt Nam trong hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, Tạp chí Cộng sản, ngày 7-12-2020, https://www.tapchicongsan.org.vn/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/tieu-chi-ve-nen-kinh-te-thi-truong-day-du-hien-dai-va-hoi-nhap-quoc-te-nhung-van-de-dat-ra-cho-viet-nam-trong-hoan-thien-the-che-kinh-te-thi-truong-di
(8) Thân Thanh Hằng: “Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam năm 2023 và kỳ vọng năm 2024”, Viện Nghiên cứu Chiến lược, chính sách công thương, ngày 11-3-2024, https://vioit.org.vn/vn/chien-luoc-chinh-sach/tinh-hinh-dau-tu-truc-tiep-nuoc-ngoai-tai-viet-nam-nam-2023-va-ky-vong-nam-2024-5788.4050.html
(9) GS, TS Andreas Stoffers - Giám đốc Quốc gia Viện Friedrich Naumann Foundation for Freedom (FNF) tại Việt Nam: “Việt Nam cải thiện đáng kể về chỉ số tự do kinh tế”, Thời báo tài chính Việt Nam, ngày 8-3-2024, https://thoibaotaichinhvietnam.vn/viet-nam-cai-thien-dang-ke-ve-chi-so-tu-do-kinh-te-146291.html
(10) Nghị quyết số 09-NQ/TW, ngày 9-12-2011, của Bộ Chính trị, “Về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”; Nghị quyết số 41-NQ/TW, ngày 10-10-2023, của Bộ Chính trị, “Về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ mới”
Đấu tranh phản bác luận điệu lợi dụng vấn đề “quyền của người bản địa” kích động “ly khai, tự trị” dân tộc (03/01/2025)
Nhận diện và đấu tranh với một số học thuyết phi mác-xít kiểu mới hòng phê phán, phủ nhận chủ nghĩa Mác (kỳ 2 và hết) (22/12/2024)
Không thể vin vào hoàn cảnh lịch sử để phủ nhận, bác bỏ chủ nghĩa Mác - Lê-nin
TCCS - Từ khi ra đời đến nay, chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã trở thành thế giới quan và phương pháp luận khoa học, soi sáng con đường đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới, trong đó có Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam luôn kiên định, bảo vệ sức sống của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh - nền tảng tư tưởng của Đảng; kiên quyết đấu tranh, bác bỏ các quan điểm xuyên tạc, phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng.
Chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã trở thành thế giới quan và phương pháp luận khoa học, soi sáng con đường đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới (Trong tranh: C. Mác và Ph. Ăng-ghen) _Tranh: Tư liệu
Kiên định vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam
Ở Việt Nam, chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã được Đảng Cộng sản Việt Nam và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh tiếp thu, vận dụng, phát triển sáng tạo để đề ra đường lối chiến lược, sách lược của cách mạng Việt Nam, lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cách mạng. Dưới ánh sáng soi đường của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta đã đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân với hai nhiệm vụ chủ yếu là chống đế quốc và phong kiến, giành độc lập cho dân tộc và quyền tự do, dân chủ, hạnh phúc cho nhân dân, đến cách mạng xã hội chủ nghĩa với hai nhiệm vụ cơ bản là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và sau đó, đến công cuộc đổi mới vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi chủ nghĩa Mác - Lê-nin là “chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất”. Vì vậy, trong các thời kỳ lãnh đạo cách mạng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh không ngừng đi sâu nhận thức, nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin phù hợp với điều kiện cụ thể của cách mạng nước ta và với xu thế của thời đại. Theo đó, chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành nền tảng tư tưởng của Đảng, kim chỉ nam cho cách mạng Việt Nam. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam cũng là thắng lợi của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh ở Việt Nam. Thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, giải phóng đất nước, thống nhất Tổ quốc, những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gần 40 năm qua đã khẳng định sức sống bền vững, giá trị trường tồn của chủ nghĩa Mác - Lê-nin đối với cách mạng Việt Nam. Những thành tựu đó khẳng định đường lối đổi mới là đúng đắn, sáng tạo, hợp lòng dân, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại, khẳng định những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nhờ đó mà đất nước ta, như Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã nhận định, “chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(1).
Vì vậy, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng yêu cầu toàn Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên “kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”(2). Đi liền với yêu cầu về kiên định, Đảng ta cũng yêu cầu sáng tạo khi vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực tiễn phát triển đất nước nhanh, bền vững hiện nay. Có thể nói, “kiên định” và “sáng tạo” là hai mặt của một vấn đề thống nhất biện chứng với nhau; kiên định phải trên cơ sở sáng tạo, còn sáng tạo phải trên cơ sở kiên định, tức kiên định một cách sáng tạo và sáng tạo một cách kiên định. Nếu kiên định mà không sáng tạo thì sẽ rơi vào bảo thủ, giáo điều, trái lại, nếu sáng tạo mà không kiên định thì sẽ rơi vào chủ nghĩa cơ hội, xét lại, cực đoan, siêu hình.
Tiếp tục quán triệt lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong bối cảnh mới
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm trao thưởng tặng các tác giả, nhóm tác giả đoạt giải A của Cuộc thi chính luận về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng lần thứ tư, năm 2024, ngày 20-10-2024 _Nguồn: qdnd.vn
Ngày nay, bối cảnh tình hình thế giới đang trải qua những biến động to lớn, diễn biến rất nhanh chóng, phức tạp, khó lường; sự gia tăng của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa cường quyền nước lớn, chủ nghĩa thực dụng trong quan hệ quốc tế, đặt ra cả thời cơ và thách thức đan xen nhau trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Trong tình hình đó, đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên nhận thức sâu sắc bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, có bản lĩnh chính trị vững vàng, thường xuyên bám sát sự thay đổi của tình hình thực tiễn trong nước cũng như trên thế giới, nâng cao khả năng dự báo tình hình; đồng thời, phải kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp tục kiên quyết, tăng cường tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, bổ sung nhận thức mới, không ngừng hoàn thiện đường lối đổi mới, tổ chức thực hiện đường lối đổi mới với chất lượng và hiệu quả cao hơn. Đồng thời, Đảng ta yêu cầu chủ động, tích cực, kiên quyết đấu tranh, bác bỏ các quan điểm sai trái, thù địch, làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.
Các thế lực thù địch thường xuyên tung ra nhiều lý lẽ, lập luận sai trái để xuyên tạc, bác bỏ, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, trong đó có quan điểm cho rằng “chủ nghĩa Mác - Lê-nin ra đời từ những điều kiện kinh tế - xã hội của thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX nên không còn phù hợp với thực tiễn hiện nay”.
Quan điểm trên đây là sai lầm vì đã cố tình xuyên tạc bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, phủ nhận giá trị trường tồn, ý nghĩa phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong thời đại ngày nay. Đúng là thời đại ngày nay khi xem xét về điều kiện kinh tế - xã hội, khoa học - công nghệ thì có khác rất nhiều so với thời đại của C. Mác và Ph. Ăng-ghen ở thế kỷ XIX. Khi đó chủ nghĩa tư bản đang trong quá trình hình thành, nằm ở giai đoạn tự do cạnh tranh, thích ứng với Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất và lần thứ hai, với văn minh hơi nước và cơ khí. Còn ngày nay, nhân loại đã bước sang thập niên thứ ba của thế kỷ XXI, được đánh dấu bằng sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ hiện đại. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới, với những thành tựu nổi bật, như sự ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI), công nghệ in 3D, internet kết nối vạn vật (IoT),…; sự hình thành, phát triển kinh tế tri thức, kinh tế số, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế diễn ra nhanh chóng, sâu rộng; biến đổi khí hậu… tác động to lớn đến xã hội, môi trường cũng như cuộc sống con người. Nếu không nhận thức được những biến đổi to lớn của thời đại thì sẽ không thể hiểu đúng bản chất của thời đại. Tuy nhiên, những biến đổi đó không vượt ra ngoài các quy luật, các nguyên lý chung nhất mà C. Mác đã khám phá trong các học thuyết của ông về triết học, kinh tế chính trị học, chủ nghĩa xã hội khoa học… Chẳng hạn, đó là các quy luật phổ biến của phép biện chứng duy vật, các quy luật phổ biến của sự phát triển xã hội loài người được thể hiện trong quan điểm duy vật về lịch sử, như quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng; tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, kinh tế xét đến cùng quyết định chính trị, quy luật đấu tranh giai cấp trong các xã hội có giai cấp, quy luật giá trị thặng dư trong kinh tế chính trị, những nguyên lý khoa học về nhà nước, cách mạng xã hội, về chủ nghĩa xã hội khoa học, về sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân,…
Cần nhất quán khẳng định rằng, các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong bản chất khoa học và cách mạng của nó vẫn giữ nguyên giá trị cho đến ngày nay. Hoàn cảnh lịch sử cụ thể luôn thay đổi, nhưng các quy luật phát triển cơ bản, phổ biến của xã hội loài người mà chủ nghĩa Mác - Lê-nin phát hiện, đề cập có giá trị trường tồn, phổ biến cả về không gian và thời gian. Thực tiễn và khoa học cho thấy, chủ nghĩa Mác - Lê-nin là thế giới quan và phương pháp luận khoa học cho sự nhận thức xã hội, nhận thức thời đại, soi sáng con đường đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới. Sự thay đổi của thời đại, sự biến đổi của hoàn cảnh kinh tế - xã hội đòi hỏi chúng ta vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tránh tư duy rập khuôn, máy móc, giáo điều; nhưng việc các thế lực thù địch vin vào điều kiện lịch sử, yếu tố thời đại để phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin là hoàn toàn sai lầm, không thể chấp nhận được. Bản chất của chủ nghĩa Mác - Lê-nin đòi hỏi sáng tạo trong nhận thức và vận dụng. V.I. Lê-nin đã rất nhiều lần nhấn mạnh: Bản chất, linh hồn sống của chủ nghĩa Mác là phân tích cụ thể một tình hình cụ thể. Chủ nghĩa Mác - Lê-nin là một học thuyết mở, không ngừng được bổ sung, phát triển qua thực tiễn. V.I. Lê-nin từng căn dặn: Chúng ta không được phép coi chủ nghĩa Mác như là một cái gì đó đóng kín, bất biến, đã hoàn thành, xong xuôi, bất khả xâm phạm, nếu chúng ta không muốn lạc hậu với cuộc sống. Không ngừng bổ sung, phát triển là yêu cầu nội tại của chủ nghĩa Mác - Lê-nin. C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã nhiều lần tuyên bố, học thuyết của các ông không phải là giáo điều mà là kim chỉ nam cho hành động. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quán triệt quan điểm mác-xít “chân lý là cụ thể, nên cách mạng phải sáng tạo” trong lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng Việt Nam qua các thời kỳ.
Trong thời kỳ đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin phù hợp với điều kiện cụ thể của cách mạng nước ta và với xu thế của thời đại, với nhiều đổi mới mang tính đột phá về tư duy lý luận. Đảng Cộng sản Việt Nam kiên định vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin cho phù hợp với điều kiện lịch sử mới của Việt Nam và thời đại trên một loạt vấn đề, như mục tiêu, đặc trưng, phương hướng cơ bản của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội; vấn đề phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; vấn đề phát huy và kết hợp sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc với sức mạnh của thời đại… Thời gian tới, chúng ta cần tiếp tục quán triệt lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, bảo đảm hài hòa giữa kiên định và đổi mới, kế thừa và phát triển, giữa đẩy mạnh nghiên cứu lý luận và tăng cường tổng kết thực tiễn gắn với định hướng chính sách. Bên cạnh đó, “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết và thường xuyên đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị”(3) như Nghị quyết Đại hội XIII đã chỉ ra. Đó chính là các nhiệm vụ cơ bản và thường xuyên của công tác tư tưởng - lý luận của Đảng, để tăng cường sức chiến đấu, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng trong thời kỳ mới./.
---------------------
(1), (2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 104, 109
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 183
Đấu tranh phản bác luận điệu lợi dụng vấn đề “quyền của người bản địa” kích động “ly khai, tự trị” dân tộc (03/01/2025)
Nhận diện và đấu tranh với một số học thuyết phi mác-xít kiểu mới hòng phê phán, phủ nhận chủ nghĩa Mác (kỳ 2 và hết) (22/12/2024)
Đấu tranh phản bác luận điệu lợi dụng vấn đề “quyền của người bản địa” kích động “ly khai, tự trị” dân tộc
TCCS - Thời gian qua, các thế lực thù địch triệt để lợi dụng vấn đề “quyền của người bản địa”(1) bằng nhiều luận điệu để tuyên truyền kích động đồng bào các dân tộc thiểu số ở Việt Nam đòi quyền “tự trị”, hướng đến “ly khai” (?!). Những luận điệu tinh vi và nguy hiểm này cần được nhận diện rõ nhằm kiên quyết đấu tranh phản bác, góp phần bảo vệ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, bảo vệ sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.
Điệu xòe Thái thể hiện tình đoàn kết và sức mạnh của cộng đồng (Trong ảnh: Lễ đón nhận bằng của UNESCO ghi danh “Nghệ thuật Xòe Thái” vào danh sách di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại) _Nguồn: chinhphu.vn
Nhận diện âm mưu, thủ đoạn đánh tráo khái niệm “quyền dân tộc tự quyết” và “quyền của người bản địa”
Khái niệm “quyền dân tộc tự quyết” và “quyền của người bản địa” tuy có quan hệ nhưng rất khác nhau về nội hàm, đặc biệt là ý nghĩa chính trị. Trên bình diện quốc tế, “quyền dân tộc tự quyết” là việc một quốc gia - dân tộc có quyền tự chủ đối với vận mệnh của dân tộc mình, quyền quyết định về thể chế chính trị và con đường phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội...
Trong khi đó, “quyền của người bản địa” là quyền của các dân tộc thiểu số (DTTS) hoặc nhóm sắc tộc, chủ yếu là những quyền về văn hóa - xã hội của một bộ phận dân cư trong lòng một quốc gia - dân tộc có chủ quyền. Khái niệm quyền của người DTTS được chính thức ghi nhận tại Điều 27 của Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR 1966): “Ở những quốc gia tồn tại các nhóm thiểu số về sắc tộc, tôn giáo hoặc ngôn ngữ, những người thuộc các nhóm thiểu số đó sẽ không bị từ chối quyền, trong cộng đồng với các thành viên khác trong nhóm của họ, được hưởng nền văn hóa của họ, tuyên xưng và thực hành tôn giáo của họ, hoặc sử dụng ngôn ngữ riêng của họ”(2). Như vậy, khi nói đến “quyền của người bản địa” thì chủ yếu là những quyền thuộc nhóm quyền kinh tế, văn hóa - xã hội.
Pháp luật quốc tế không công nhận một DTTS ở một quốc gia được ly khai, thành lập một quốc gia độc lập với quốc gia được quốc tế công nhận mà họ là công dân trong quốc gia đó. Tuyên bố về trao trả độc lập cho các nước và các dân tộc thuộc địa, được thông qua theo Nghị quyết số 1514 (XV), ngày 1-4-1960, của Đại Hội đồng Liên hợp quốc khẳng định: Bất kỳ cố gắng nào nhằm gây phá vỡ toàn bộ hay một phần sự thống nhất quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ của một đất nước là trái với các mục tiêu và nguyên tắc của Hiến chương Liên hợp quốc. Tại Điều 46, Tuyên ngôn về quyền của các dân tộc bản địa (năm 2007) cũng ghi rõ: Không một điểm nào trong Tuyên ngôn này được giải thích để hàm ý cho bất kỳ nhà nước, dân tộc, nhóm người hay người nào có quyền tham gia vào bất kỳ hoạt động nào hoặc thực hiện bất kỳ hành vi nào trái với Hiến chương Liên hợp quốc hoặc được giải thích để ủy quyền hay khuyến khích bất kỳ hành vi nào làm chia cắt hay suy yếu toàn bộ hay một phần sự thống nhất về lãnh thổ hay đoàn kết về chính trị của các nhà nước độc lập và có chủ quyền.
Như vậy, “quyền tự quyết” của dân tộc, sắc tộc nào đó trong một quốc gia - dân tộc có chủ quyền không được phép vượt ra ngoài khuôn khổ “quyền dân tộc tự quyết”, không được xâm phạm quyền của cả quốc gia - dân tộc. Những đòi hỏi về “quyền tự quyết” được cho là dựa trên Tuyên ngôn về quyền của các dân tộc bản địa là cách hiểu sai lệch, trái với Hiến chương Liên hợp quốc và pháp luật quốc tế về quyền con người.
Thuật ngữ “dân tộc bản địa” xuất hiện cùng với quá trình tìm kiếm thị trường, truyền bá tôn giáo và xâm lược thuộc địa từ khoảng thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX của các nước tư bản châu Âu đối với các quốc gia ở châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ La-tinh. Theo đó, những người đã sinh sống lâu đời trên vùng đất bị xâm chiếm - họ coi mình là “người bản địa”. Trong lịch sử hình thành các quốc gia - dân tộc, nhất là sau mỗi cuộc chiến tranh xâm lược, quá trình di dân từ “chính quốc” đến thuộc địa đã hình thành những quốc gia - dân tộc mới. Ngay từ khi mới hình thành, ở các quốc gia này vẫn luôn tồn tại hai nhóm xã hội: Nhóm người di cư và nhóm người bản xứ. Những nhóm xã hội này thường vẫn muốn duy trì phong tục, tập quán, ngôn ngữ, lối sống riêng của mình. Ở những quốc gia này, khái niệm “người bản địa” vẫn tồn tại và có ý nghĩa nhất định. Tuy nhiên, cho đến nay, vẫn chưa có một khái niệm “người bản địa” được mọi người thống nhất và thừa nhận. Vì vậy, hiện nay, nhiều chủ thể (quốc gia, tộc người, nhóm xã hội) buộc phải thừa nhận “người bản địa” là một khái niệm “mở”, theo nghĩa: Một nhóm xã hội, một dân tộc nào đó có thể tự nhận hoặc phủ nhận mình là “người bản địa” nếu quan niệm đó phù hợp với lợi ích của họ. Mặt khác, một nhà nước, một chính phủ hoàn toàn có quyền thừa nhận hoặc phủ nhận một nhóm, một bộ phận dân cư, một dân tộc, sắc tộc nào đó là “người bản địa”, nếu điều ấy phù hợp với lợi ích của quốc gia - dân tộc họ.
Ở Việt Nam, thuật ngữ “dân tộc bản địa” gắn liền với thời kỳ nước ta bị đô hộ, xâm lược. Thời kỳ Pháp thuộc, tên nước Việt Nam bị xóa trên bản đồ thế giới, bị chia cắt thành ba kỳ trong xứ Đông Dương thuộc Pháp; thuật ngữ “người bản xứ” (hoặc “người bản địa”) được dùng để chỉ tất cả các cộng đồng dân tộc Việt Nam. Khi ấy, tất cả người dân nước ta không phân biệt dân tộc, tôn giáo đều bị gọi tên An-nam-mít (Annammit). Như vậy là, khái niệm “người bản địa” chỉ mới xuất hiện ở Việt Nam từ khi nước ta trở thành thuộc địa của chủ nghĩa thực dân và nó chỉ tồn tại với chế độ đó(3). Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, người dân Việt Nam làm chủ đất nước của mình, không còn là “dân bản địa” hay “người bản xứ” nữa. “Ngày nay, khi đất nước độc lập, thống nhất, Nhà nước Việt Nam là của dân, do dân, vì dân với chính sách đại đoàn kết dân tộc, thì khái niệm “người bản địa” và “quyền của người bản địa” đã lùi về quá khứ. Thay vào đó là “quyền công dân” - quyền của tất cả mọi người Việt Nam”(4). Năm 1946, Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Điều 6) khẳng định: Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa. Đây là sự thật lịch sử không ai có thể bác bỏ!
Để “chứng minh bằng thực tiễn” cái gọi là “quyền tự trị của người bản địa” nhằm kích động “ly khai”, đòi “tự trị” dân tộc, các đối tượng còn cho rằng trong lịch sử Việt Nam, chính quyền đương đại đã từng thừa nhận “quyền” này và cho thành lập các “khu tự trị”, như “Hoàng triều cương thổ” hay Khu Tự trị Việt Bắc.
Trước hết, phải nhận thức rằng, không thể đặt ra so sánh giữa cái gọi là “Hoàng triều cương thổ” và Khu tự trị Việt Bắc, bởi bối cảnh ra đời, ý nghĩa và “sứ mạng” lịch sử, chính trị, xã hội của những thể chế, đơn vị hành chính này khác nhau. Tuy nhiên, có điểm chung là các thể chế đó chỉ hiện diện ở giai đoạn nhất định và quan trọng hơn, mặc dù có “cơ chế tự trị” nhưng chính quyền trung ương lúc bấy giờ luôn có các quy định để kiểm soát, quản lý chặt chẽ. Sau khi thực dân Pháp thất bại tại Việt Nam, ngày 10-8-1954, quy chế “Hoàng triều cương thổ” bị xóa bỏ. Do đó, “Hoàng triều cương thổ là chính sách “một quốc gia trong lòng một quốc gia” - một âm mưu chính trị thâm độc mới của chủ nghĩa thực dân Pháp tại Tây Nguyên, nhằm chia rẽ, gây tị hiềm lâu dài giữa dân tộc Kinh với các DTTS khác, ngăn cản đồng bào các dân tộc Việt Nam chung tay xây dựng đất nước, ngăn chặn việc người Kinh lên Tây Nguyên sinh cơ lập nghiệp. Chính sách trên đã gặp phải sự chống đối quyết liệt của nhân dân Việt Nam bởi nó đi ngược lại ý nguyện thống nhất của toàn dân tộc”(5).
Đối với Khu tự trị Việt Bắc, ngày 1-7-1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 268-SL thành lập Khu tự trị Việt Bắc. Điều 1 Sắc lệnh nêu rõ: “Để tăng cường đoàn kết giữa các dân tộc và tạo điều kiện cho các dân tộc ở Việt Bắc tiến bộ mau chóng về mọi mặt, nay lập Khu tự trị Việt Bắc”(6). Tiếp đó, ngày 10-8-1956, Bác Hồ gửi thư căn dặn đồng bào Khu tự trị Việt Bắc và một lần nữa khẳng định: “Mục đích lập Khu tự trị là để làm cho các dân tộc anh em toàn khu cùng nhau tự quản lý công việc của mình, phát huy khả năng của mình, tiến bộ mau chóng về mọi mặt: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội...”(7). Trong Quy định thành lập, Khu tự trị Việt Bắc được thực hiện một số quyền tự trị về chính trị, quân sự, kinh tế, tài chính, văn hóa, xã hội. Tuy nhiên, những đặc quyền này luôn có sự ràng buộc bởi các quy định mang tính nguyên tắc, như: “Khu tự trị Việt Bắc là một bộ phận của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Chính quyền Khu tự trị là một cấp chính quyền địa phương, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Chính phủ trung ương. Chính quyền và nhân dân Khu tự trị đều tuân theo đường lối, chính sách và pháp luật chung của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mà quản lý những việc trong Khu tự trị” (Điều 3). Về quyền tự trị chính trị: “Chính quyền Khu tự trị được quyền quy định những luật lệ riêng”, nhưng phải “Dựa trên luật pháp chung của Nhà nước và căn cứ vào tình hình đặc biệt ở địa phương”, đồng thời “Những luật lệ riêng này sau khi được Chính phủ Trung ương chuẩn y mới thi hành” (Điều 8). Hay về quân sự: “Chính quyền Khu tự trị được tổ chức bộ đội địa phương, dân quân và công an Khu tự trị, để bảo vệ an toàn của Khu tự trị và giữ gìn trật tự trong Khu”; tuy nhiên, “Bộ đội địa phương và dân quân trong Khu tự trị là những bộ phận trong quân đội nhân dân Việt Nam, thuộc quyền chỉ huy tối cao của Bộ Quốc phòng Tổng Tư lệnh. Công an Khu tự trị là một bộ phận trong tổ chức công an toàn quốc thuộc quyền chỉ đạo chung của Bộ Công an” (Điều 9). Sau giải phóng miền Nam, đất nước thống nhất, ngày 27-12-1975, Khu tự trị Việt Bắc giải thể (cùng với Khu tự trị Tây Bắc); đồng thời, những quy định trong Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1959 về cấp khu tự trị cũng được bãi bỏ theo Quyết định của Quốc hội khóa V, tại Kỳ họp thứ 2.
Như vậy, lịch sử đã chứng minh, ở Việt Nam, xu hướng chủ đạo, hợp quy luật là hòa hợp, thống nhất dân tộc; đoàn kết, tương trợ nhau giữa các dân tộc là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Sự hình thành, tồn tại, thống nhất và phát triển của quốc gia gắn liền với sự tồn tại và phát triển trong sự đa dạng và phong phú của các dân tộc. Và thực tế lịch sử này một lần nữa khẳng định: Không thể có nhân quyền cao hơn chủ quyền quốc gia! “Quyền tự quyết” của dân tộc, sắc tộc nào đó trong một quốc gia - dân tộc có chủ quyền không được phép vượt ra ngoài khuôn khổ “quyền dân tộc tự quyết”!
Đấu tranh làm thất bại âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng khẳng định quan điểm nhất quán về vấn đề dân tộc: “Bảo đảm các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển...”(8) và để thực hiện hiệu quả chính sách dân tộc, Đảng ta xác định: “Huy động, phân bổ, sử dụng, quản lý hiệu quả các nguồn lực để đầu tư phát triển, tạo chuyển biến căn bản về kinh tế, văn hóa, xã hội ở vùng có đông đồng bào DTTS. Có cơ chế thúc đẩy tính tích cực, ý chí tự lực, tự cường của đồng bào các DTTS phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện giảm nghèo đa chiều, bền vững. Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, người có uy tín tiêu biểu trong vùng DTTS. Nghiêm trị mọi âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc”(9).
Quân y biên phòng chăm sóc sức khỏe nhân dân _Nguồn: nhiepanhdoisong.vn
Với quan điểm đó, việc thực hiện chính sách dân tộc đã đạt được thành tựu nổi bật, đem lại những hiệu quả tích cực về đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các DTTS ở nước ta. Từ năm 2003 đến năm 2020, Nhà nước đã tập trung bố trí đầu tư, hỗ trợ kinh phí nhằm phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi, với tổng kinh phí theo các giai đoạn ngày càng tăng (gấp 4 lần: từ 250.000 tỷ đồng, năm 2003 lên 998.000 tỷ đồng, năm 2020), ưu tiên lĩnh vực kinh tế và đầu tư xây dựng cơ bản. Theo đó, đến nay, 100% số huyện có đường đến trung tâm huyện; 98,4% số xã có đường ô tô đến trung tâm xã; 100% số xã và 97,2% số thôn, bản có điện lưới quốc gia; 93,9% số hộ gia đình được sử dụng điện; 100% số xã có trường tiểu học và trung học cơ sở; 99,7% số xã có trường mầm non; 99,3% số xã có trạm y tế; 65,8% số xã và 76,7% số thôn có nhà văn hóa/nhà sinh hoạt cộng đồng(10). Báo cáo Kết quả thực hiện công tác dân tộc năm 2023 cũng cho thấy, tỷ lệ hộ nghèo DTTS còn khoảng 17,82% (giảm 3,2%), đạt chỉ tiêu Quốc hội, Chính phủ giao(11).
Bên cạnh đó, đồng bào các DTTS thực hiện quyền dân chủ trong việc tham gia hệ thống chính quyền các cấp từ Trung ương đến cơ sở ngày càng tăng. Đến hết năm 2019, có 605.582 đảng viên là người DTTS, chiếm 11,98% tổng số đảng viên cả nước. Kết quả bầu nhân sự cấp ủy tại 67 đảng bộ trực thuộc Trung ương nhiệm kỳ 2020 - 2025, có 389 người DTTS là cấp ủy viên (đạt 11,68%, cao hơn nhiệm kỳ trước 0,72%). Tại Đại hội XIII của Đảng, có 13 Ủy viên Trung ương là người DTTS(12). Số lượng đại biểu Quốc hội là người DTTS trong 4 nhiệm kỳ Quốc hội vừa qua đều tăng, Quốc hội khóa XV (2021 - 2026) có 89 đại biểu là người DTTS (chiếm 17,83%, cao hơn tỷ lệ người DTTS trên tổng số dân là 14,35%). Cả nước hiện có 68.781 biên chế là người DTTS (chiếm 11,68% tổng biên chế toàn quốc); công chức, viên chức người DTTS được ưu tiên trong quy hoạch, tuyển dụng, sử dụng và bổ nhiệm vào hệ thống cơ quan nhà nước(13).
Những thành tựu này là minh chứng sống động cho tính đúng đắn, hiệu quả về quan điểm, chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước ta và không ai có thể phủ nhận. Chính vì vậy, thời gian qua, mặc dù đời sống của đồng bào các DTTS vẫn còn khó khăn, nhưng đại đa số đồng bào các DTTS luôn đoàn kết một lòng, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, phát huy truyền thống yêu nước, tích cực tham gia các phong trào cách mạng, bảo vệ an ninh, trật tự. Thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân và thế trận lòng dân được củng cố, tăng cường, góp phần ổn định, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS.
Để đấu tranh với âm mưu, hoạt động lợi dụng vấn đề dân tộc cũng như phản bác luận điệu lợi dụng vấn đề “quyền của người bản địa” để kích động “ly khai”, “tự trị”, thời gian tới, cần chú trọng một số nhiệm vụ trọng tâm sau:
Một là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo và nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng về công tác dân tộc, nhất là ở vùng đồng bào DTTS trong tình hình mới. Xác định công tác dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài, cấp bách; là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của hệ thống chính trị.
Hai là, đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước đến mọi cán bộ, đảng viên và người dân, đặc biệt là đồng bào DTTS. Quá trình tuyên truyền, giáo dục cần lồng ghép nội dung phản bác các luận điệu lợi dụng, xuyên tạc vấn đề “quyền của người bản địa” giúp đồng bào hiểu rõ bản chất. Chú trọng kiện toàn, củng cố hệ thống chính trị cơ sở; làm tốt công tác quy hoạch, đào tạo, sử dụng, bố trí hợp lý cơ cấu cán bộ DTTS vào các chức danh chủ chốt; phát huy vai trò người có uy tín trong đồng bào DTTS; phân công cán bộ có hiểu biết về phong tục, tập quán, tiếng nói, chữ viết của đồng bào về công tác ở vùng DTTS.
Ba là, phát huy mọi nguồn lực, khai thác tiềm năng, lợi thế để phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS một cách bền vững. Tập trung giải quyết hiệu quả những vấn đề bức thiết về đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào. Rà soát, sửa đổi, bổ sung chính sách; nâng cao hiệu quả các chương trình, dự án; tăng cường hợp tác quốc tế, đa dạng hóa và xã hội hóa nguồn lực để đầu tư phát triển vùng đồng bào DTTS; thúc đẩy đào tạo nghề, tạo việc làm, có chính sách ưu đãi đối với các dự án phát triển sản xuất, kinh doanh của đồng bào DTTS.
Bốn là, quan tâm xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân gắn với thế trận lòng dân vững chắc ở vùng đồng bào DTTS; chủ động nắm chắc tình hình, giải quyết mâu thuẫn ngay từ cơ sở, không để xảy ra các “điểm nóng” về an ninh, trật tự, đặc biệt ở các địa bàn trọng điểm, khu vực biên giới.
Năm là, tích cực đấu tranh ngoại giao trên lĩnh vực dân chủ, nhân quyền, nhất là các vấn đề liên quan đến dân tộc, tôn giáo. Chủ động truyền thông để dư luận quốc tế hiểu rõ các thành tựu bảo đảm quyền con người của Việt Nam. Tiếp tục thúc đẩy cải cách tư pháp, củng cố thể chế, chính sách, pháp luật về quyền con người phù hợp với các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên./.
-------------------
(1) Vấn đề được nêu trong Nghị quyết số 61/295 về “Tuyên ngôn về quyền của các dân tộc bản địa” của Đại Hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 13-9-2007 (Nghị quyết 61/295)
(2) Các văn kiện quốc tế cơ bản về quyền con người, Hà Nội, 2003
(3), (4) Xem: Bắc Hà: Bối cảnh lịch sử “Quyền của người bản địa” không tồn tại ở Việt Nam, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 28-10-2008, https://tapchicongsan.org.vn/en_US/hoat-ong-cua-lanh-ao-ang-nha-nuoc/-/2018/3649/boi-canh-lich-su-%E2%80%9Cquyen-cua-nguoi-ban-dia%E2%80%9D-khong-ton-tai-o-viet-nam.aspx
(5) Xem: Ngô Minh Hiệp: Về “Hoàng triều cương thổ” (Domaine de la Couronne) ở Tây Nguyên, https://xhnv.duytan.edu.vn/activities-4gow4/ve-hoang-trieu-cuong-tho-domaine-de-la-couron-9ba3u
(6) Sắc lệnh số 268-SL, ngày 1-7-1956, của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, về thành lập Khu tự trị Việt Bắc, https://moj.gov.vn/vbpq/lists/vn%20bn%20php%20lut/view_detail.aspx?itemid=1063
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Thư gửi đồng bào khu tự trị Việt Bắc ngày 10-8-1956, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 8, tr. 230
(8), (9) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t .I, tr. 170 - 171
(10) Xem: Kết luận số 65-KL/TW ngày 30-10-2019 về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác dân tộc trong tình hình mới, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/he-thong-van-ban/van-ban-cua-dang/ket-luan-so-65-kltw-ngay-30102019-cua-bo-chinh-tri-ve-tiep-tuc-thuc-hien-nghi-quyet-so-24-nqtw-cua-ban-chap-hanh-trung-uong-5802
(11) Ủy ban Dân tộc: Hội nghị toàn quốc Tổng kết công tác dân tộc năm 2023 và triển khai nhiệm vụ năm 2024, Cổng thông tin Ủy ban Dân tộc, ngày 2-1-2024, http://www.cema.gov.vn/tin-tuc/tin-hoat-dong/hoat-dong-cua-uy-ban/hoi-nghi-toan-quoc-tong-ket-cong-tac-dan-toc-nam-2023-va-trien-khai-nhiem-vu-nam-2024.htm
(12) Xem http://www.hanoimoi.com.vn/tin-tuc/Chinh-tri/982524/27-bi-thu-tinh-thanh-uy-khong-phai-nguoi-dia-phuong
(13) Truyền hình Việt Nam online, Việt Nam: Những thành tựu trên hành trình bình đẳng dân tộc, bài đăng ngày 1-9-2022
Nhận diện và đấu tranh với một số học thuyết phi mác-xít kiểu mới hòng phê phán, phủ nhận chủ nghĩa Mác (kỳ 2 và hết) (22/12/2024)
Nhận diện và đấu tranh với một số học thuyết phi mác-xít kiểu mới hòng phê phán, phủ nhận chủ nghĩa Mác (kỳ 2 và hết)
Lý thuyết xã hội dân sự của phương Tây
Thuật ngữ “Xã hội dân sự” hay “Xã hội công dân” (civil society) xuất hiện từ thế kỷ XVI gắn liền với những tiền đề ra đời của chủ nghĩa tư bản. Vào thế kỷ XVII, XVIII, giai cấp tư sản châu Âu giương cao khẩu hiệu tự do, dân chủ, nhân quyền để tập hợp lực lượng, trong đó có sử dụng các tổ chức xã hội dân sự, tiến hành cuộc cách mạng lật đổ chế độ quân chủ chuyên chế, giải phóng cá nhân, khẳng định quyền con người với tư cách là công dân. Các cuộc cách mạng tư sản ở châu Âu đã cho ra đời xã hội công dân, nhà nước pháp quyền tư sản thay thế cho xã hội thần dân và nhà nước thần quyền phong kiến. Thế nhưng, sau khi nắm chính quyền, giai cấp tư sản nhanh chóng phản bội lại chính các lý tưởng về tự do, dân chủ, bình đẳng, bác ái để thiết lập nên các chế độ chuyên chế, thực hiện chính sách nô dịch, bóc lột trong nước và chính sách xâm lược, áp bức dân tộc đối với các quốc gia khác. Ngay từ sớm, từ trong lòng xã hội tư bản, nơi ra đời và là môi sinh của xã hội dân sự, thì khái niệm này đã ít nhiều bị giai cấp tư sản cầm quyền làm biến dạng so với nguyên nghĩa ban đầu của nó, không còn là một bộ phận vì sự tiến bộ của xã hội với đầy đủ ý nghĩa, mà nhiều dạng thức xã hội dân sự bị lợi dụng thành công cụ chính trị đắc lực để điều hòa các mâu thuẫn xã hội trong xã hội tư bản. Đáng chú ý là, sự ra đời của học thuyết Mác đã vấp phải sự chống trả quyết liệt, với sự xuất hiện của nhiều trào lưu tư tưởng phi mác-xít về xã hội dân sự, như các học thuyết tân cánh tả, tân tự do, chủ nghĩa cải lương, cơ hội, xét lại, siêu hình..., hình thành lý thuyết (học thuyết) về xã hội dân sự (civil society theory) tư sản, trong đó sự chống phá tập trung vào:
Một là, tuyệt đối hóa sự độc lập của xã hội dân sự với nhà nước.
Mục đích của sự tách biệt này là muốn chặt đứt mọi mối liên hệ giữa xã hội dân sự với xã hội chính trị, để biện hộ cho lý thuyết về một xã hội dân sự không chỉ nằm ngoài xã hội chính trị, mà còn độc lập hoàn toàn, không chịu bất kỳ sự ràng buộc hay mối liên hệ nào với các đảng phái, nhà nước; hơn thế, nó còn là lực lượng đối trọng, đối lập với nhà nước. Luận điệu này đã cố tình phủ định mối quan hệ biện chứng và phong phú giữa nhà nước và xã hội dân sự, cũng là cách khiến nhiều người lầm tưởng vào một mô hình xã hội dân sự hiện thân của tự do, dân chủ tuyệt đối, cũng là giá trị về tự do của xã hội tư bản. Lý thuyết này tự vạch ra ranh giới giữa nhà nước với xã hội dân sự, giữa “công” và “tư”, giữa “chính trị” và “phi chính trị”, trong đó xã hội dân sự được đề cao tuyệt đối hóa, một xã hội đa nguyên về tổ chức, đa nguyên về ý thức hệ và nhà nước hiện nay phải giảm bớt can thiệp vào đời sống xã hội, xã hội phải tự túc, tự quản. Nó cổ xúy cho thứ “xã hội dân sự” chống nhà nước, đối trọng với chính quyền, hòng làm xói mòn quyền lực nhà nước, có thể đẩy xã hội đến tình trạng hỗn loạn, vô chính phủ.
Sự thật là, trong các hình thái kinh tế - xã hội còn sự phân chia giai cấp và đấu tranh giai cấp, thì tất yếu các định chế xã hội, trong đó có xã hội dân sự, luôn mang bản chất giai cấp và giữ mối liên hệ với nhà nước. Trong tác phẩm “Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hê-ghen”, C. Mác phê phán Hê-ghen về tư tưởng siêu hình khi cho rằng mối quan hệ giữa xã hội công dân và nhà nước là “...được sản sinh ra từ ý niệm hiện thực”(1), chỉ “là vẻ bề ngoài thuần túy”(2); cũng như quan niệm về sự độc lập, tách rời và xung đột của xã hội công dân đối với nhà nước. “Hê-ghen xuất phát từ tiền đề là sự tách rời của xã hội công dân với nhà nước chính trị (trong trạng thái hiện đại)... Ông đem tính phổ biến tồn tại tự nó và cho nó của nhà nước, đối lập với những lợi ích đặc thù và những nhu cầu đặc thù của xã hội công dân. Tóm lại, bất cứ ở đâu ông cũng mô tả sự xung đột giữa xã hội công dân và nhà nước”(3).
Theo C. Mác, xã hội công dân và nhà nước có mối quan hệ biện chứng với nhau, xã hội công dân là cơ sở nền tảng và quyết định nhà nước, trong khi nhà nước là đại diện cho lợi ích của xã hội công dân. C. Mác khẳng định, xã hội công dân là tiền đề của nhà nước: “Trên thực tế, gia đình và xã hội công dân là những tiền đề của nhà nước...”(4); hơn thế, “gia đình và xã hội công dân tự chúng cấu thành nhà nước”(5). Sự mâu thuẫn giữa xã hội công dân và nhà nước nếu có, thì đó là sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập trong mối quan hệ biện chứng chặt chẽ.
C. Mác và Ph. Ăng-ghen _Tranh: Tư liệu
Bên cạnh đó, C. Mác cũng thừa nhận tính độc lập tương đối giữa nhà nước và xã hội công dân, đó là tính độc lập giữa một bên là lĩnh vực chính trị và bên kia là quan hệ kinh tế. Mặt khác, xã hội công dân có nền tảng là các hoạt động xã hội; các can dự đều nhằm phục vụ cho các hoạt động xã hội, không thuần túy hoạt động chính trị hoặc không hoạt động chính trị nhằm mục đích giành chính quyền. “Không có mục đích giành chính quyền” là đặc trưng cơ bản để phân biệt giữa tổ chức xã hội công dân với các đảng chính trị. Khi các tổ chức xã hội công dân trong quá trình hoạt động có mục đích cạnh tranh với quyền lực của nhà nước thì đồng nghĩa nó đã chuyển hóa thành các đảng chính trị và thuộc khu vực xã hội chính trị, tức không còn được coi là tổ chức xã hội công dân. Khi xã hội công dân thuần túy tham gia chính trị, thì theo C. Mác, xã hội công dân sẽ “tự xóa bỏ bản thân”: “...xã hội công dân sẽ tự xóa bỏ bản thân, nếu như mọi người đều trở thành những nhà lập pháp...”(6) và “sự tham gia của xã hội công dân vào nhà nước chính trị thông qua các đại biểu, chính là biểu hiện của sự tách rời của chúng và của sự thống nhất chỉ có tính chất nhị nguyên của chúng”(7).
Như vậy, luận điểm đúng đắn theo quan điểm mác-xít về một xã hội công dân đã phủ định luận điệu phi nhà nước của lý thuyết xã hội dân sự của phương Tây, cố tình vạch ra ranh giới bất khả xâm phạm vô lý giữa xã hội dân sự với nhà nước; đồng thời, cũng lật tẩy cái cách mà hiện nay, nhiều tổ chức xã hội dân sự phương Tây (hoặc thúc đẩy, o bế các tổ chức xã hội dân sự trá hình trong mỗi nước) tự cho phép mình can dự vào đời sống chính trị tại nhiều quốc gia với âm mưu thúc đẩy bạo loạn, lật đổ để giành chính quyền, tham gia trực tiếp vào đời sống chính trị, vi phạm đặc trưng cơ bản của xã hội dân sự, như C. Mác khẳng định: “...xã hội công dân là xã hội phi chính trị”(8).
Hai là, mặc nhiên biến xã hội dân sự vốn là bộ phận phức hợp của đời sống xã hội dung chứa nhiều quan hệ xã hội, nhiều giai cấp, tầng lớp và nhiều định chế xã hội khác nhau thành một tập hợp người đồng dạng, đồng quan điểm, bình đẳng và phi giai cấp.
Việc “lập lờ đánh lận con đen” và khuếch trương về một xã hội dân sự tư sản như một khối người đồng dạng, thống nhất, được cấu thành bởi những yếu tố đồng nhất, phi giai cấp, phi xung đột lợi ích là một cách cố tình đơn giản hóa về xã hội dân sự, qua đó hòng nhân rộng mô hình xã hội dân sự giả hiệu, mà ở đó các tổ chức “xã hội dân sự hiền hòa” và các thành viên của nó rất dễ dàng trở thành các công cụ chính trị.
C. Mác chỉ rõ, xã hội công dân là xã hội được phân chia thành các giai cấp, “đẳng cấp”, tầng lớp khác nhau. C. Mác viết: “Giống như xã hội công dân tách khỏi xã hội chính trị, bản thân xã hội công dân cũng phân chia nội bộ nó thành đẳng cấp và địa vị xã hội, mặc dù đẳng cấp và địa vị xã hội này có những quan hệ nhất định với nhau”(9). Bản thân xã hội công dân chứa đựng trong nó nhiều mâu thuẫn, trước hết, đó là mâu thuẫn giữa các giai cấp, tầng lớp hay các đẳng cấp khác nhau trong xã hội; là môi trường của các cuộc đấu tranh giai cấp trên mọi phương diện từ chính trị, kinh tế, đến tư tưởng, văn hóa... Về bản chất, xã hội công dân là khu vực dung chứa nhiều tổ chức, cá nhân đa lợi ích, đa thành phần xã hội, với những mối quan hệ và liên kết mềm tự nguyện, tự quản, tính thống nhất, đồng thuận không cao. “Xã hội công dân là xã hội... chỉ nhất thời tập hợp lại để hoàn thành một hành động đơn nhất và tạm thời, rồi sau đó không có thêm một mối liên hệ nào với nhau nữa”(10). Trong nội bộ mỗi tổ chức xã hội công dân luôn xảy ra xung đột và đấu tranh lợi ích, là khu vực không thuần nhất và thiếu tính nhất quán, bởi “cạnh tranh là biểu hiện đầy đủ nhất của cuộc chiến tranh của mọi người chống mọi người đang hoành hành trong xã hội công dân hiện đại”(11); cơ cấu tổ chức và các thành viên hợp nhất hay ly tan bất cứ khi nào, vì “mối liên hệ duy nhất thống nhất họ lại là sự cần thiết tự nhiên, là nhu cầu và lợi ích riêng, là việc duy trì sở hữu của mình và cá nhân vị kỷ của mình”(12). Do tính chất đa dạng, phức tạp và lỏng lẻo này mà các lực lượng, phe phái, đảng phái chính trị luôn tìm cách chi phối, vận động, chia tách, lôi kéo lực lượng xã hội dân sự đi theo mục tiêu chính trị của mình trong cuộc đấu tranh giành quyền lực và các nước phương Tây cũng triệt để lợi dụng đặc điểm trên để mua chuộc, lợi dụng, tạo dựng “ngọn cờ” để chống phá các nước khác về ý thức hệ, thể chế chính trị.
Biểu tình chống chính phủ ở Tunis, Tunisia, ngày 25-7-2021 _Nguồn: Reuters
Đặc biệt, do mang tính đa dạng về lợi ích, thành phần, nên xã hội dân sự kiểu phương Tây cũng mang tính đa dạng, đa nguyên về tư tưởng. Đặc trưng này phản ánh tính chất phức tạp về tư tưởng, văn hóa trong đời sống xã hội dân sự. Do đó, sự hình thành của xã hội dân sự còn chứa đựng nguy cơ xuất hiện, hình thành hoặc du nhập những khuynh hướng tư tưởng chính trị khác với tư tưởng chính trị đang giữ vai trò chủ đạo của đảng cầm quyền, dẫn tới nguy cơ đa nguyên về tư tưởng, là tiền đề dẫn đến đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập.
Mặt khác, luận điểm cho rằng xã hội dân sự là một tập hợp người đồng dạng, đồng quan điểm, bình đẳng và phi giai cấp cũng nhằm che giấu những mâu thuẫn thuộc về bản chất trong xã hội tư bản. Đây chính là mâu thuẫn cơ bản của xã hội dân sự tư sản mà nó không thể tự giải quyết được và căn cứ vào đó, C. Mác dự báo xã hội dân sự tư sản sẽ không thể tiếp tục tồn tại và tất yếu bị thay thế bằng một xã hội công dân khác.
Ba là, truyền bá, áp đặt xã hội dân sự theo mô hình dân chủ tư sản phương Tây.
Hiện nay, trong chế độ tư bản chủ nghĩa hiện đại, mô hình nhà nước pháp quyền tư sản - kinh tế thị trường tư bản - xã hội dân sự được coi là “ba trụ cột” phát triển, trong đó khu vực xã hội dân sự tiếp tục có vai trò nhất định trong việc bảo đảm các vấn đề xã hội và là lực lượng điều hòa, phối hợp, liên kết để giữ sự cân bằng tương đối của một xã hội tư bản còn đầy rẫy những mâu thuẫn không thể khắc phục. Tuy nhiên, mô hình xã hội dân sự tư sản thường được thổi phồng lên như là một biểu tượng cho sự trao quyền tự do cho người dân, bảo đảm phúc lợi bao trùm, khắc phục khuyết tật của nhà nước và thị trường...
Thực tế, trong chủ nghĩa tư bản, xã hội dân sự là nơi mà các cá nhân theo đuổi những lợi ích của mình dựa trên nền tảng của chế độ sở hữu tư nhân. C. Mác khẳng định: “...con người của xã hội thị dân, tức là con người độc lập chỉ liên hệ với người khác thông qua cái nút là lợi ích tư nhân...”(13). Mô hình xã hội dân sự đó không vì lợi ích của số đông quảng đại người lao động. Hơn nữa, nó bị giai cấp tư sản lợi dụng như một công cụ để thực hiện chính sách dân túy nhằm điều hòa, bình ổn tâm lý, tâm trạng xã hội và củng cố địa vị chính trị. Không quá khi C. Mác cho rằng, nhà nước tư bản được xây dựng chính trên sự nô dịch xã hội dân sự tư sản: “Bởi vì tình trạng phân tán này, tình trạng bỉ ổi này, ách nô lệ của xã hội công dân này là cái cơ sở tự nhiên trên đó nhà nước hiện đại được xây dựng”(14). Hơn nữa, nhà nước tư bản cũng không coi trọng xã hội dân sự như các diễn ngôn chính trị, mà nó có phần xem thường và đối xử với xã hội dân sự như một thứ đẳng cấp thấp bên dưới: “Nhà nước chính trị đối xử với xã hội công dân một cách cũng duy linh như thiên giới đối xử với hạ giới”(15). Như vậy, mô hình xã hội dân sự tư bản không phải là một hình mẫu tối ưu trong lịch sử phát triển của nhân loại. Xã hội dân sự là một hiện tượng lịch sử và nó sẽ không còn tồn tại một khi giai cấp vô sản lật đổ giai cấp tư sản.
Mặt khác, sự hình thành của xã hội dân sự luôn phụ thuộc và mang tính đặc thù của mỗi chế độ chính trị, trình độ phát triển về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa của mỗi quốc gia; không thể có một mẫu số chung cho tất thảy. Bản thân C. Mác khi nghiên cứu về xã hội công dân cũng khẳng định: “Nhà nước chính trị... chỉ có thể dung nhận sự tồn tại của xã hội công dân dưới một hình thức phù hợp với quy mô của nhà nước chính trị”(16). Bởi vậy, mọi sự áp dụng rập khuôn, máy móc tự thân hay áp đặt khiên cưỡng, theo một mô hình xã hội dân sự chung nhất, đều là phản khoa học.
Tính ưu việt trong quản lý xã hội và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, cùng những đặc điểm văn hóa, xã hội, lịch sử... đặc thù của nước ta là những cơ sở để chúng ta không có bất cứ lý do nào áp dụng mô hình xã hội dân sự kiểu dân chủ tư sản vào Việt Nam; đồng thời, Đảng, Nhà nước ta tạo mọi điều kiện để khu vực các tổ chức hội ngày càng phát triển tích cực, bảo đảm tính tự chủ, tự quản, có đóng góp to lớn vào sự phát triển của đất nước, thể hiện mạnh mẽ việc thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng mở rộng và thực chất ở nước ta. Ở Việt Nam, hoạt động của các tổ chức xã hội không coi việc thực hiện các mục tiêu xã hội là tự thân, duy nhất, mà còn cần kết hợp hài hòa và hướng đến mục tiêu củng cố, tăng cường niềm tin và sự ủng hộ của mỗi người dân, các tổ chức xã hội đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Nhà nước và các tổ chức xã hội đều nằm dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, quy tụ chung quanh Đảng, nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, cùng hướng tới mục tiêu chung xây dựng đất nước hòa bình, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa Mác mới và thuyết hội tụ
Chủ nghĩa Mác mới (neo-Marxism) là các lý thuyết xã hội, trào lưu tư tưởng hình thành trên cơ sở thừa nhận một phần hoặc phê phán, phủ nhận một số luận điểm quan trọng của chủ nghĩa Mác, đồng thời tách nhánh, sửa đổi hoặc hợp nhất với lý thuyết khác, như chủ nghĩa hiện sinh hay phân tâm học, lô-gíc học, hiện tượng học, lý luận nhận thức tiên nghiệm..., theo các cách thức, phương pháp khác nhau, áp dụng vào nhiều lĩnh vực tư tưởng và đời sống xã hội, như kinh tế, chính trị, triết học, văn hóa, con người, xã hội học, tôn giáo, nữ quyền... Các trường phái tư tưởng của chủ nghĩa Mác mới nổi bật, như: Chủ nghĩa quyết định luận kinh tế (Economic determinism), Chủ nghĩa Mác Hegel (Hegelian Marxism), Lý thuyết phê phán (Critical theory), Xã hội học kinh tế Mác mới (Neo-Marxian economic sociology), Chủ nghĩa Mác định hướng lịch sử (Historically oriented Marxism)...
Trong khi đó, thuyết hội tụ (convergence thesis) xuất hiện từ đầu thế kỷ XX, với một số đại biểu nổi bật, như P. A. Sorokin, J. K. Galbraith, J. Tinbergen..., là thuyết xã hội học tư sản cho rằng hai chế độ tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa đang phát triển theo những con đường ngày càng xích lại gần và cuối cùng sẽ hòa nhập vào nhau, hình thành nên một xã hội mới, trong đó kết hợp những đặc điểm tích cực của cả chế độ tư bản chủ nghĩa và chế độ xã hội chủ nghĩa (?!).
Nhiều học thuyết, trào lưu tư tưởng Mác mới nhân danh “cách tân” chủ nghĩa Mác, nhưng thực chất là sự cắt xén hay chiết ghép khiên cưỡng, vô nguyên tắc, làm cho chủ nghĩa Mác biến dạng, hình thành nhiều biến dị khác nhau, trong đó không ít sai lệch bản chất ban đầu của chủ nghĩa Mác chính thống. Cùng với thuyết hội tụ, những phân mảnh của các học thuyết, trào lưu tư tưởng Mác mới thể hiện đủ các sắc màu của chủ nghĩa cải lương, cơ hội, xét lại kiểu mới... đều hòng phủ nhận những nguyên lý căn bản của chủ nghĩa Mác.
Một là, phủ nhận tính tất yếu của cách mạng vô sản và khả năng thay thế chủ nghĩa tư bản bằng chủ nghĩa xã hội thông qua cách mạng bạo lực; cho rằng, chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội có thể dung hợp, gặp và hòa vào nhau để hình thành một xã hội mới (?!).
Dưới tác động của tự do hóa thương mại trên quy mô toàn cầu, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư..., nền sản xuất tư bản chủ nghĩa tạo ra một lực lượng sản xuất đồ sộ, ngày càng mở rộng, mang tính chất quốc tế hóa và có những bước nhảy vọt so với phương thức sản xuất truyền thống, với tính chất xã hội hóa ngày càng cao, từ đó mâu thuẫn ngày càng sâu sắc hơn với quan hệ sản xuất chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. “Xu thế xã hội hóa sản xuất không còn khả năng chịu đựng trong cái vỏ bọc chật hẹp của sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa”(17). Những xung đột xã hội biểu hiện của mâu thuẫn đối kháng cũng đã không thể khắc phục dù trong điều kiện chủ nghĩa tư bản phát triển cao, mà ngày càng trở nên gay gắt, khiến cho quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa phải biến đổi, từng bước tạo ra trạng thái của nền sản xuất mà C. Mác gọi là hình thức quá độ từ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa sang phương thức sản xuất tập thể và hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa tất yếu thay thế bằng hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, như một quá trình lịch sử - tự nhiên không thể đảo ngược.
Như vậy, chủ nghĩa xã hội, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, là xã hội “thoát thai” từ xã hội trước đó; triển vọng của chủ nghĩa xã hội không chỉ do chủ nghĩa xã hội hiện thực quy định, mà còn do chính quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản đã dọn đường và chuẩn bị những tiền đề kinh tế - xã hội trong lòng của nó. “Nhưng chủ nghĩa xã hội không thể được thực hiện mà không có cách mạng. Chủ nghĩa xã hội cần đến hành vi chính trị này bởi lẽ nó cần tiêu diệt và phá hủy cái cũ”(18).
Thực tiễn đã chứng minh, ngoài những điều kiện khách quan, muốn xóa bỏ hay bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa để chuyển sang chế độ xã hội chủ nghĩa tất yếu phải được thực hiện bằng một cuộc cách mạng xã hội, cụ thể là cách mạng vô sản, do chính đảng của giai cấp vô sản lãnh đạo. C. Mác từng luận chứng tường minh cho luận đề về sự không điều hòa được các mâu thuẫn giai cấp trong các xã hội có giai cấp đối kháng và việc giải quyết mâu thuẫn đó bằng cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, do giai cấp vô sản lãnh đạo. Cuộc cách mạng vô sản là hình thái cao của đấu tranh giai cấp tạo ra nền chuyên chính của giai cấp vô sản. Trong tiến trình cách mạng, “...giai cấp vô sản thiết lập sự thống trị của mình bằng cách dùng bạo lực lật đổ giai cấp tư sản”(19). Quan điểm này bác bỏ những ảo tưởng của những thứ chủ nghĩa cơ hội, giáo điều, vô chính phủ, tiểu tư sản đương thời, cũng như không ít tư tưởng Mác mới sau này, muốn sửa chữa thiếu sót của chủ nghĩa tư bản, nhưng lại dẫn chiếu đến đấu tranh bằng các biện pháp hòa bình trong khuôn khổ hạn hẹp của chế độ tư bản chủ nghĩa hay bác bỏ đấu tranh giai cấp và phổ biến tư tưởng điều hòa giai cấp, thậm chí muốn làm điều hết sức phi lý là hòa tan chủ nghĩa tư bản vào chủ nghĩa xã hội, như quan điểm của thuyết hội tụ.
Cách mạng vô sản là cuộc cách mạng triệt để và sâu sắc nhất trong lịch sử xã hội. Mục tiêu của nó là thủ tiêu chế độ tư hữu, đập tan bộ máy nhà nước tư sản, quét sạch chế độ tư bản chủ nghĩa. Đây là cuộc đấu tranh mang tính sống còn của hai hình thái kinh tế - xã hội phủ định lẫn nhau: hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa và hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Trong sự đấu tranh đó có sự kế thừa phê phán, không phủ định sạch trơn, nhưng tuyệt đối không có sự hòa lẫn. Chủ nghĩa xã hội tiếp thu những thành tựu của văn minh nhân loại, được thử nghiệm thời gian dài và thịnh hành, phát triển trong chủ nghĩa tư bản, nhưng không phải là của riêng chủ nghĩa tư bản, như nhà nước pháp quyền, kinh tế thị trường... Hai hình thái vẫn diễn ra sự tồn tại song song, nhưng nó chỉ là “cái tạm thời” trong thời kỳ quá độ, dù có thể kéo dài, dù trong hoàn cảnh, thời điểm nào đó, cái mục nát của hình thái cũ lẩn khuất bên trong cái bề ngoài tưởng như rất đồ sộ, vững chắc, nhưng tuyệt nhiên không có sự tồn tại vĩnh viễn của chủ nghĩa tư bản, lại càng không có sự gặp gỡ ở đích cuối giữa hai hình thái này... Là hai nấc thang của tiến bộ xã hội, trong tiến trình phát triển của nhân loại, sự tồn tại của hình thái kinh tế - xã hội này chính là sự phủ định của hình thái kinh tế - xã hội kia và theo quy luật lịch sử - tự nhiên, nhân loại sẽ đi đến đích cuối là hình thái kinh tế - xã hội cao nhất: cộng sản chủ nghĩa. Điều đó bác bỏ hoàn toàn tư tưởng của nhiều nhà tư tưởng Mác mới khi cho rằng chủ nghĩa tư bản không suy tàn, mà còn đang phát triển lên những giai đoạn sau (“chủ nghĩa tư bản giai đoạn sau”) cao hơn, mạnh mẽ hơn, không có cơ sở để nói về sự diệt vong của nó hay sự thay thế nó bằng một hình thức cao hơn (?!). Nó cũng bác bỏ luận thuyết của thuyết hội tụ về sự “chung sống hòa bình” để chọn lọc những đặc tính tốt nhất của mỗi hình thái kinh tế - xã hội(20), để gặp nhau ở cùng một điểm đích của một xã hội tối ưu... Đây đều là các luận thuyết hết sức nguy hiểm, ru ngủ tinh thần, triệt tiêu động lực và ý chí đấu tranh, gây nên những ngộ nhận mơ hồ về con đường, mục tiêu, dẫn đến sai lệch về phương pháp đấu tranh tư tưởng, cũng như đấu tranh trong thực tiễn phong trào cách mạng.
Mặt khác, quần chúng nhân dân tham gia cách mạng hoàn toàn có quyền sử dụng bạo lực cách mạng để trấn áp bạo lực phản cách mạng. Theo C. Mác, “bạo lực còn là bà đỡ cho mọi xã hội cũ đang thai nghén một xã hội mới; bạo lực là công cụ mà sự vận động xã hội dùng để tự mở đường cho mình và đập tan những hình thức chính trị đã hóa đá và chết cứng”(21). Tuy nhiên, bạo lực chỉ là phương tiện, công cụ, chứ không phải là mục đích của cách mạng; là điều kiện chứ không phải nguyên nhân sản sinh ra xã hội mới. Do đó, quan điểm mác-xít không phủ nhận phương pháp hòa bình của cách mạng xã hội, song phương pháp hòa bình không là sự loại trừ bạo lực cách mạng, không phải sự điều hòa, thỏa hiệp, hữu khuynh vô nguyên tắc hay chỉ sử dụng chế độ dân chủ tư sản để đấu tranh nghị trường... như nhiều nhà tư tưởng của học thuyết Mác mới quan niệm; ngược lại, khả năng tiến lên chủ nghĩa xã hội bằng phương pháp hòa bình chỉ được thực hiện khi có bạo lực cách mạng làm điều kiện. Quan điểm mác-xít cũng bác bỏ quan niệm phiến diện về bạo lực cách mạng chỉ là sức mạnh quân sự, đấu tranh vũ trang; mà nó còn là sức mạnh tổng hợp của nhiều nhân tố, phương pháp đấu tranh chính trị, kinh tế, xã hội..., trong đó đặc biệt coi trọng lực lượng chính trị của đông đảo nhân dân.
Trong tiến trình cách mạng vô sản, việc giai cấp vô sản giành được chính quyền và thiết lập chuyên chính vô sản chỉ là bước đầu và còn cần một quá trình cải biến cách mạng hết sức sâu sắc, lâu dài. Với những nước đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, cách mạng xã hội chủ nghĩa càng thể hiện rõ tinh thần của cách mạng không ngừng, nhất là nỗ lực tập trung xây dựng lực lượng sản xuất mới phát triển, tạo dựng nền tảng cơ sở vật chất vững mạnh cho chế độ xã hội chủ nghĩa, cùng với quan hệ sản xuất tiến bộ và phù hợp.
Hai là, đòi hỏi sửa đổi lý luận về nhà nước của chủ nghĩa Mác.
Một số tư tưởng Mác mới phủ định vai trò quyết định của kinh tế đối với chính trị, của cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng; cho rằng, vai trò quyết định trong sự phát triển xã hội là sự chuyên chế của quyền lực chính trị gắn với tuyệt đối hóa vai trò của nhà nước, đề cao những giá trị của riêng nhà nước về văn hóa chính trị, thành quả lập pháp..., từ đó đi đến lập luận sai lầm rằng, nhà nước tư sản có khả năng tự sửa, điều chỉnh khuyết tật của chính nó, của xã hội và với nền tảng dân chủ hóa cao, có thể hấp thụ những giá trị tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội ngay trong lòng nhà nước tư sản. Do đó, không nhất thiết phải phá hủy, đập tan nhà nước tư sản để thay thế bằng nhà nước khác (?!).
Lý luận mác-xít chỉ rõ bản chất giai cấp của nhà nước tư sản, một mặt nó là hình thức tổ chức của giai cấp tư sản để bảo vệ lợi ích của chính nó; mặt khác, là hình thức bạo lực có tổ chức của giai cấp tư sản trấn áp giai cấp vô sản và các tầng lớp lao động. Mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và vô sản trong nhà nước tư sản ngày càng gay gắt, không thể điều hòa được, tất yếu dẫn đến cách mạng vô sản đập tan nhà nước của giai cấp tư sản, thiết lập nên nhà nước vô sản - là nhà nước kiểu mới, bản chất là chính quyền của nhân dân, quyền lực của nhân dân. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước cuối cùng trong lịch sử nhân loại. Sau khi hoàn thành sứ mệnh của mình, xóa bỏ sự phân chia xã hội thành giai cấp, nhà nước tự tiêu vong, chế độ nhà nước thay thế bằng chế độ tự quản cộng sản chủ nghĩa.
Ba là, không thống nhất về lý luận đấu tranh giai cấp và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Một số trào lưu tư tưởng Mác mới quân bình hóa các giai cấp về chính trị, kinh tế, xã hội, xóa nhòa mâu thuẫn giai cấp; cho rằng xã hội tư bản có khả năng điều hòa các lợi ích đối kháng, là xã hội “siêu giai cấp”, phúc lợi chung cho tất thảy mọi người. Nó thúc đẩy “ý thức sai lầm” về niềm tin, sự chấp nhận của giai cấp bị áp bức đối với sự thống trị và các giá trị của giai cấp tư sản(22). Nó cổ xúy cho “bá quyền văn hóa”, là quá trình giai cấp tư sản đồng hóa về văn hóa, ý thức đối với giai cấp công nhân, khiến họ tuân chịu về mặt ý thức hệ, chấp nhận một cách tự nguyện sự thống trị của giai cấp tư sản, dẫn đến sự chi phối của hệ tư tưởng tư sản đối với giai cấp công nhân(23)...
Lý luận mác-xít chỉ rõ, giữa giai cấp tư sản và vô sản có sự đối lập về lợi ích và mâu thuẫn đó không thể giải quyết được trong chế độ kinh tế tư bản chủ nghĩa, nên tất yếu dẫn đến đấu tranh giai cấp, nhằm lật đổ nền thống trị của giai cấp tư sản. Nguyên nhân sâu xa dẫn tới đấu tranh giai cấp, theo C. Mác là mâu thuẫn giữa trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất đã lỗi thời. Thông qua đấu tranh giai cấp sẽ xóa bỏ, làm cho quan hệ sản xuất cũ, lạc hậu mất đi, quan hệ sản xuất mới hình thành phù hợp với lực lượng sản xuất, tạo điều kiện cho sản xuất phát triển. Đấu tranh giai cấp là một quá trình phức tạp trong sự vận động của lịch sử - xã hội, một xu thế tất yếu, khách quan của xã hội có giai cấp. Quá trình này không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người. Ngay cả khi giai cấp vô sản đã giành được chính quyền, thì cuộc đấu tranh giai cấp cũng chưa phải đã kết thúc, mà vẫn tiếp diễn ở các hình thức khác nhau, khi những giai cấp bóc lột, tàn dư của xã hội cũ, các lực lượng phản động... vẫn còn, tuyệt đối không được do dự, lơ là, chủ quan, thỏa hiệp, điều hòa hay bình quân hóa giai cấp. Chỉ có đấu tranh giai cấp mới xây dựng được xã hội mới, xã hội cộng sản chủ nghĩa. C. Mác vạch rõ, đối với giai cấp vô sản thì không phải là bình quân hóa các giai cấp, mà là thủ tiêu các giai cấp (khi đi đến chế độ cộng sản - cách mạng vô sản sẽ thủ tiêu sự thống trị của mọi giai cấp bằng cách thủ tiêu ngay chính các giai cấp và do đó thủ tiêu ngay chính nhà nước).
Một trong những cống hiến vĩ đại nhất của chủ nghĩa Mác - Lê-nin là phát hiện và làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân - giai cấp tiên tiến nhất, triệt để cách mạng nhất, là lực lượng duy nhất có khả năng lãnh đạo các tầng lớp nhân dân lao động bị áp bức, bóc lột tiến hành cách mạng vô sản, thực hành cuộc cải biến cách mạng, xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xây dựng thành công xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa, tiến tới xã hội cộng sản chủ nghĩa(24). C. Mác và Ph. Ăng-ghen dựa trên cơ sở địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp công nhân để luận chứng cho sứ mệnh lịch sử của giai cấp đó, chứ không phải xuất phát từ ý muốn chủ quan của bất kỳ cá nhân hay lực lượng xã hội nào. Giai cấp công nhân chính là lực lượng sản xuất mới trong xã hội tư bản, là sản phẩm của nền đại công nghiệp, mà ở đó, “giai cấp tư sản không những đã rèn những vũ khí sẽ giết mình; nó còn tạo ra những người sử dụng vũ khí ấy chống lại nó, đó là những công nhân hiện đại, những người vô sản”(25); cũng là lực lượng sản xuất tiên tiến đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa. Trong tất cả giai cấp đối lập với giai cấp tư sản, chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng và gánh vác được sứ mệnh lịch sử giải phóng toàn nhân loại cần lao, mà không phải là bất kỳ giai cấp hay tầng lớp nào khác. Chính vì bị đẩy xuống đáy tận cùng của các nấc thang xã hội trong nền đại công nghiệp, giai cấp công nhân trở thành nơi hội tụ của nguyện vọng được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột mà tất cả người lao động có thể gửi gắm, ủy thác. Quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử, giai cấp công nhân phải có sự lãnh đạo của chính đảng của mình - đảng cộng sản - là tổ chức của những người ưu tú từ phong trào cách mạng, nơi hội tụ mọi ước nguyện của sự giải phóng và giá trị tốt đẹp(26), mang bản chất giai cấp công nhân sâu sắc...
Như vậy, trước những biến đổi hết sức to lớn của thời đại ngày nay, với nhiều biến chuyển, thay đổi sâu sắc, song lý luận về đấu tranh giai cấp và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân của chủ nghĩa Mác - Lê-nin vẫn giữ nguyên giá trị, là vũ khí lý luận sắc bén trong cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân hiện đại và các đảng cộng sản trong bối cảnh hiện nay.
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm trao thưởng tặng các tác giả, nhóm tác giả đoạt giải A của Cuộc thi chính luận về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng lần thứ tư, năm 2024 _Nguồn: qdnd.vn
Sự phát triển của thực tiễn cách mạng đòi hỏi phải bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin cho phù hợp với điều kiện mới, để kịp thời kiến giải khoa học những vấn đề mới đặt ra. Cùng với sự phát triển của các khoa học chuyên ngành, liên ngành, bản thân chủ nghĩa Mác - Lê-nin cũng được nghiên cứu, vận dụng sáng tạo để có sự phát triển mới. Tuy nhiên, dù phát triển ở dạng thức nào, thì những nguyên lý căn bản nhất của chủ nghĩa Mác - Lê-nin vẫn phải được lấy làm xuất phát điểm. Mọi sự xa rời những nguyên lý này, dù với bất kỳ lý do gì, chắc chắn cũng sẽ khiến những lý luận mới bị lệch lạc, mất định hướng, xa vào chủ nghĩa xét lại, cơ hội... kiểu mới. Các học giả nhân danh “chủ nghĩa Mác mới” hay thuyết hội tụ, xét đến cùng, đều nhằm phủ nhận vai trò của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, ở các hình thức, mức độ khác nhau. Đây là những điều cần nhận diện, tuyệt đối không được mơ hồ, mất cảnh giác trước các trào lưu tư tưởng phi mác-xít kiểu mới hiện nay.
C. Mác, Ph. Ăng-ghen luôn coi lý luận của mình là một hệ thống mở và mang tính sáng tạo, không khép kín, ngưng đọng. Học thuyết đó luôn có nhu cầu được vận dụng sáng tạo và tiếp tục bổ sung, phát triển, phù hợp với tinh thần biện chứng, tính khoa học, cách mạng, tính mở và sáng tạo của chủ nghĩa Mác. Với tinh thần đó, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn kiên định và vững vàng trên nền tảng tư tưởng, lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lý luận về đường lối đổi mới, đồng thời cũng sẵn sàng “tiếp thu, bổ sung một cách có chọn lọc trên tinh thần phê phán và sáng tạo những thành tựu mới nhất về tư tưởng và khoa học để chủ nghĩa, học thuyết của chúng ta luôn tươi mới, luôn luôn được tiếp thêm sinh lực mới, mang hơi thở của thời đại, không rơi vào xơ cứng, trì trệ, lạc hậu so với cuộc sống”(27), như cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng căn dặn.
Đồng thời, để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, chúng ta cũng kiên quyết, vững vàng đấu tranh không khoan nhượng với các quan điểm, luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch, trong đó đặc biệt coi trọng việc nhận diện và đấu tranh chống các chủ nghĩa, học thuyết, trào lưu tư tưởng phi mác-xít, bằng cơ sở lý luận, thực tiễn sắc bén, thuyết phục, với tinh thần kiên định, kiên quyết, kiên trì, tuyệt đối không thỏa hiệp, chủ quan, lơ là mất cảnh giác hay dao động, rơi vào hoạt đầu, nước đôi, nhị nguyên luận..., đúng như V.I. Lê-nin chỉ ra: “Vấn đề đặt ra chỉ là như thế này: hệ tư tưởng tư sản hoặc hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Không có hệ tư tưởng trung gian... Vì vậy, mọi sự coi nhẹ hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa... đều có nghĩa là tăng cường hệ tư tưởng tư sản”(28).
“Các thế lực thù địch chưa bao giờ từ bỏ âm mưu lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, chúng tập trung phá hoại tư tưởng, tấn công trực diện vào nền tảng tư tưởng của Đảng, phản kích, phủ định nhằm xóa bỏ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, coi đây là “khâu đột phá”, “mặt trận quyết định””(29). Tổng Bí thư Tô Lâm cũng luôn nhắc nhở, “bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch là cuộc đấu tranh giai cấp trên mặt trận tư tưởng - lý luận chính trị... Đây là cuộc đấu tranh lâu dài, quyết liệt, liên tục, không ngừng nghỉ và không khoan nhượng; mọi biểu hiện lơ là mất cảnh giác, thỏa hiệp, non kém về chính trị, buông lỏng trận địa đấu tranh tư tưởng - lý luận đều có thể dẫn tới những hậu quả khôn lường”(30). Do đó, cần “kiên định, bảo vệ đi đôi với bổ sung, phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng; vận dụng, bổ sung và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và lý luận về đường lối đổi mới; xây dựng, hoàn thiện hệ thống lý luận cơ bản về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong giai đoạn cách mạng mới”(31)... Đó đều là những công việc thường trực và hệ trọng trong công tác tư tưởng, lý luận của Đảng ta./.
----------------------------
(1), (2), (3), (4), (5), (6), (7) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, t. 1, tr. 315, 318, 419, 313, 314, 493, 493
(8), (9), (10) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Sđd, t. 1, tr. 481, 431, 481
(11) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1995, t. 2, tr. 421
(12) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Sđd, t. 1, tr. 552
(13), (14), (15), (16) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Sđd, t. 2, tr. 172, 605, 537, 493
(17) Nguyễn Viết Thảo: “Chủ nghĩa tư bản toàn cầu trong tiến trình phát triển của nhân loại: Sự ra đời, đặc điểm và những bản chất mâu thuẫn cố hữu”, Tạp chí Cộng sản, số 1.021 (tháng 9-2023), tr. 101
(18), (19) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Sđd, t. 1, tr. 616, 612
(20) Thuyết này cho rằng, trong 4 nguyên tắc của chủ nghĩa tư bản, sẽ giữ lại 3 nguyên tắc: chế độ tư hữu, kích thích kinh tế và động cơ lợi nhuận, cơ chế thị trường; bỏ nguyên tắc nhà nước không can thiệp. Với chủ nghĩa xã hội, sẽ giữ 3 nguyên tắc: Trình độ bình đẳng cao, kiểm tra công nhân đối với sản xuất, kế hoạch hóa kinh tế; bỏ nguyên tắc sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất.
(21) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, t. 20, tr. 259
Đấu tranh phản bác luận điệu lợi dụng vấn đề “quyền của người bản địa” kích động “ly khai, tự trị” dân tộc (03/01/2025)
Nhận diện và đấu tranh với một số học thuyết phi mác-xít kiểu mới hòng phê phán, phủ nhận chủ nghĩa Mác (kỳ 1)
TCCS - Là học thuyết mở, không biệt phái, giáo điều, chủ nghĩa Mác - Lê-nin được những người mác-xít chân chính không ngừng tiếp thêm sinh lực mới và bảo vệ sự trong sáng nhờ thâu thái trên tinh thần phê phán và sáng tạo những thành tựu về tư tưởng và khoa học của thời đại, đồng thời tuyệt đối không mơ hồ, mất cảnh giác trước những trào lưu tư tưởng phi mác-xít kiểu mới, âm mưu gây phân rã, đa nguyên tư tưởng, làm suy giảm vai trò chủ đạo của nền tảng tư tưởng, cũng như sự lãnh đạo và địa vị cầm quyền của Đảng.
Các Mác (1818 - 1883) _Nguồn: Tư liệu
Chủ nghĩa, học thuyết, trào lưu tư tưởng phi mác-xít kiểu mới là những tư tưởng chính trị phê phán, phủ nhận chủ nghĩa Mác bằng nhiều hình thức khác nhau, hoặc trực tiếp bài bác công khai; hoặc “khoác áo mác-xít” để tinh vi chống phá; hoặc thừa nhận một phần, nhưng đòi tách nhánh, sửa đổi, chiết ghép vô nguyên tắc, hỗn tạp với nhiều học thuyết khác, làm biến dạng, sai lệch bản chất của chủ nghĩa Mác chính thống... Đây là những chủ nghĩa, học thuyết, trào lưu tư tưởng mới ra đời hoặc là biến thể mới của những hình thức chống phá truyền thống trước đây, với đủ sắc thái của chủ nghĩa cải lương, cơ hội, xét lại..., cùng những luận điệu chống phá mới ngày càng tinh vi, khó nhận biết.
Với tư cách là một học thuyết khoa học, cách mạng của thời đại, chủ nghĩa Mác “hoàn bị và chặt chẽ”(1), có sức sống mãnh liệt, tự mang trong mình tính phản biện mạnh mẽ đối với các khuynh hướng tư tưởng bảo thủ, lạc hậu, phản động. “Học thuyết của Mác... không thỏa hiệp với bất cứ một sự mê tín nào, một thế lực phản động nào, một hành vi nào bảo vệ sự áp bức của tư sản”(2). Đặc biệt, với học thuyết của C. Mác, lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, các quy luật phát triển của xã hội loài người được phát hiện. Trong đó, C. Mác đã chỉ ra quy luật cách mạng xã hội nói chung và cách mạng vô sản nói riêng, sự sụp đổ tất yếu của chủ nghĩa tư bản và thắng lợi tất yếu của cách mạng vô sản, cùng sự ra đời của chủ nghĩa xã hội. C. Mác cũng luận chứng toàn diện về sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản trong việc lật đổ chủ nghĩa tư bản và xây dựng xã hội mới cộng sản chủ nghĩa, qua đó giúp giai cấp công nhân và chính đảng của mình củng cố niềm tin, sự kiên định lý tưởng cộng sản, đồng thời cũng vũ trang cho họ nền tảng tư tưởng và lý luận cách mạng, khoa học để đấu tranh thắng lợi với tư tưởng tư sản và các loại tư tưởng thù địch, phản động khác dưới nhiều hình thức.
Là người trực tiếp lãnh đạo cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, V.I. Lê-nin vận dụng sáng tạo học thuyết Mác để giải quyết những vấn đề của cách mạng trong thời đại đế quốc chủ nghĩa và bắt đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực; đồng thời là tấm gương mẫu mực về bảo vệ chủ nghĩa Mác trước sự xuyên tạc của các thế lực thù địch. Để bảo vệ tính cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác, V.I. Lê-nin đấu tranh không khoan nhượng chống các trào lưu phi mác-xít trong nội bộ nước Nga và quốc tế, từ chủ nghĩa dân túy tự do phản động phủ nhận vai trò lịch sử của giai cấp công nhân, phái “những người mác-xít hợp pháp” muốn “khuôn” chủ nghĩa Mác hợp với quyền lợi của giai cấp tư sản, đến chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa cơ hội quốc tế âm mưu phủ nhận chủ nghĩa Mác trên quy mô toàn cầu... Tại Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương trình Đại hội VIII Đảng Cộng sản Nga (năm 1919), trước những ý kiến nhân danh lòng yêu nước để đả kích “bước lùi” trong việc ký Hòa ước Brest-Litovsk (năm 1918), V.I. Lê-nin đã trực tiếp nhắc tên và kịch liệt phê phán những “tư tưởng phi mác-xít” hết sức nguy hiểm: “Người nào lên án bước lùi đó tưởng là theo quan điểm cách mạng thì thực sự đã có một quan điểm căn bản sai lầm và phi mác-xít”(3). Việc vạch trần những quan điểm phi mác-xít ngụy trang dưới vỏ bọc “quan điểm cách mạng” đó có vai trò quan trọng trong giữ vững trận địa tư tưởng để bảo vệ Đảng Cộng sản Nga và nhà nước xã hội chủ nghĩa non trẻ đầu tiên trên thế giới mới ra đời khi đó... V.I. Lê-nin đã không chỉ bảo vệ thành công chủ nghĩa Mác, mà còn phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác lên một tầm cao mới.
V.I. Lê-nin cũng chỉ rõ: “...lịch sử tư tưởng chính là lịch sử của quá trình thay thế của tư tưởng, do đó là lịch sử đấu tranh tư tưởng”(4), đồng thời cảnh báo rằng: “Trong toàn thế giới văn minh, học thuyết của Mác đã gây ra sự cừu địch mạnh nhất và lòng căm thù trong toàn thế giới khoa học tư sản...”(5). Do đó, tư tưởng lý luận của chủ nghĩa xã hội ngay từ khi ra đời tất yếu đã phải đương đầu với sự phê phán, xuyên tạc, bài bác, phủ nhận dưới nhiều hình thức khác nhau, với mọi màu sắc của các lực lượng, các trào lưu tư tưởng phi mác-xít. Đấu tranh chống các chủ nghĩa, học thuyết, trào lưu tư tưởng phi mác-xít là cuộc đấu tranh trường kỳ, phức tạp, mang tính sống còn của các đảng cộng sản, những nhà tư tưởng mác-xít và những người cách mạng để bảo vệ bản chất khoa học, cách mạng triệt để, nhân văn cao cả và những giá trị đương đại của chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, các khuynh hướng, trào lưu tư tưởng phi mác-xít vẫn còn xuất hiện và tồn tại. Khi xây dựng học thuyết về các hình thái kinh tế - xã hội, C. Mác và Ph. Ăng-ghen sớm cảnh báo thời kỳ chuyển biến từ hình thái tư bản chủ nghĩa lên hình thái cộng sản chủ nghĩa chưa thể là một xã hội phát triển trên cơ sở của chính nó, mà là một trạng thái xã hội về mọi phương diện, trong đó có các yếu tố của kiến trúc thượng tầng, còn mang dấu vết của xã hội cũ. Đến đầu thế kỷ XX, V.I. Lê-nin luận chứng sinh động và cụ thể phạm trù thời kỳ quá độ có nghĩa là trong chế độ hiện tồn vẫn có “những thành phần”, “những bộ phận”, “những mảnh” của cả chủ nghĩa tư bản lẫn chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng khẳng định, “một chế độ này biến đổi thành một chế độ khác là cả một cuộc đấu tranh gay go, kịch liệt và lâu dài giữa cái xấu và cái tốt, giữa cái cũ và cái mới, giữa cái thoái bộ và cái tiến bộ, giữa cái đang suy tàn và cái đang phát triển...”(6).
Ở nước ta hiện nay, bên cạnh những nhân tố quyết định sự hình thành và bảo đảm con đường phát triển xã hội chủ nghĩa, vẫn còn hiện hữu không ít nhân tố, trong đó có nhân tố trong lĩnh vực tư tưởng - văn hóa, chưa thực sự là của chủ nghĩa xã hội. Sự song hành tồn tại đó dẫn đến các yếu tố chủ nghĩa xã hội và phi chủ nghĩa xã hội luôn đấu tranh, phủ định lẫn nhau; và theo quy luật phát triển, những nhân tố phi chủ nghĩa xã hội sẽ ngày càng bị thu hẹp bởi các yếu tố chủ nghĩa xã hội mang tính trội trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, “kết quả là cái mới, cái đang tiến bộ nhất định thắng”(7). Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa các tư tưởng phi mác-xít sẽ tự biến mất, ngược lại nó vẫn hiện hữu, nảy nở, thậm chí trỗi dậy nếu xem nhẹ cuộc đấu tranh tư tưởng, không củng cố nền tảng tư tưởng mác-xít, trong bối cảnh quá trình mở cửa, hội nhập quốc tế diễn ra mạnh mẽ, những khó khăn của phong trào xã hội chủ nghĩa còn nhiều và chủ nghĩa tư bản trên thế giới hiện nay có ưu thế tạm thời... Đặc biệt, sự phát tán có chủ đích, ngày càng tinh vi những chủ nghĩa, học thuyết phi mác-xít của các thế lực thù địch khiến cho cuộc đấu tranh trên địa hạt tư tưởng, lý luận càng thêm cam go, phức tạp, quyết liệt và lâu dài. Nếu chủ quan, không nhận diện kịp thời bản chất và có giải pháp đấu tranh, ngăn chặn hiệu quả, các luồng tư tưởng đó có khả năng gây tác hại khôn lường, gây chia rẽ về tư tưởng, phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng ta, mà tiêu biểu là chủ nghĩa tân tự do, lý thuyết xã hội dân sự, chủ nghĩa Mác mới và thuyết hội tụ...
Chủ nghĩa tân tự do
Từ giữa những năm 70 của thế kỷ XX, học thuyết John Maynard Keynes(8) với chính sách toàn dụng việc làm và ổn định tiền tệ, nhà nước phúc lợi và việc tích cực can thiệp vào kinh tế mất tín nhiệm vì cuộc khủng hoảng dầu mỏ, việc bãi bỏ chế độ kim bản vị của đồng đô la và tình trạng vừa tăng trưởng thấp, vừa lạm phát cao ở các nước tư bản. Trong bối cảnh đó, chủ nghĩa tân tự do (Neo-liberalism) của Friedrich August von Hayek(9), một sự phục sinh của chủ nghĩa tự do cổ điển (tự do cũ)(10), đã đưa ra các chính sách để cứu vãn chủ nghĩa tư bản.
Chủ nghĩa tân tự do là một trong những trào lưu tư tưởng của kinh tế học tư sản hiện đại. Đặc trưng của lý thuyết này là kết hợp các quan điểm và phương pháp luận của các trường phái tự do cũ, trường phái trọng thương mới, trường phái Keynes mới để đưa ra lý thuyết kinh tế của mình nhằm làm cơ sở cho việc điều tiết nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Có thể nói, nó là sự tân trang lại chủ nghĩa tự do cũ, mà đặc trưng của lý thuyết này là sự ủng hộ thị trường tự do, chế độ sở hữu tư nhân và phi điều tiết của nhà nước theo quan điểm “thị trường tối đa, nhà nước tối thiểu”.
Trong những năm 80 của thế kỷ XX, người ta chứng kiến sự nổi lên của hệ tư tưởng tự do mới ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển. Từ đó đến nay, chủ nghĩa tân tự do giữ vị trí quan trọng, thậm chí thống trị, trong các học thuyết kinh tế chính trị tư sản hiện đại, được nhiều nước phương Tây áp dụng; các nguyên tắc của nó cũng được các nhà kinh tế và hoạch định chính sách của nhiều tổ chức, định chế kinh tế quốc tế toàn cầu sử dụng và là một phần không thể thiếu trong điều khoản của các hiệp định thương mại tự do, với nhiều biến thể, tên gọi khác nhau, như: “Chủ nghĩa tự do mới” (lý thuyết về “Nền kinh tế thị trường xã hội”) ở Đức, “Chủ nghĩa bảo thủ mới” ở Mỹ, “Chủ nghĩa cá nhân mới” ở Anh, “Chủ nghĩa kinh tế” ở Áo... Thậm chí, chủ nghĩa tân tự do còn được chính giới và nhiều nhà tài phiệt tư bản rao giảng như “một tất yếu lịch sử, một trật tự kinh tế và xã hội duy nhất, một chân lý cuối cùng và vĩnh viễn của con người” (?!). Vậy, sự thật đằng sau những rao giảng về chủ nghĩa tân tự do đó là gì?
Một là, chủ nghĩa tân tự do tán dương về “nền kinh tế tự do lý tưởng”, khẳng định “chủ nghĩa tư bản là nấc thang phát triển cao nhất của xã hội loài người”, đồng thời nó cũng không quên cuộc chiến quyết liệt chống chủ nghĩa cộng sản.
Ở một góc độ nhất định, có thể thấy, chủ nghĩa tân tự do có một số yếu tố hợp lý, có thể vận dụng trong hoạt động kinh tế, tài chính và thương mại, nhất là thúc đẩy tự do kinh tế, tự do thương mại, tôn trọng các quy luật của kinh tế thị trường..., đóng góp nhất định vào thành tựu phát triển kinh tế của nhân loại, dù rằng cái giá phải trả đằng sau của nó so với kết quả đạt được là rất đắt. Cũng chính bởi những thành tựu kinh tế từng đạt được và tư tưởng tự do kinh tế dường như không có giới hạn, nên chủ nghĩa tân tự do có sức lôi cuốn nhất định, rất dễ lừa mị tư tưởng, tạo nên không ít ngộ nhận, lầm tưởng. Song, về bản chất, chủ nghĩa tân tự do là học thuyết có nhiều điểm hạn chế, tiêu cực, thậm chí cực đoan, khi bản chất vị lợi nhuận tàn nhẫn của số ít nhà tư sản sẵn sàng chà đạp lên máu, nước mắt của người lao động; sự tàn khốc, lạnh lùng của kim tiền lấn át đi tính nhân văn, nhân bản vì quảng đại con người. Hơn nữa, nó nảy nòi và cắm rễ sâu trên mảnh đất của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa nên luôn muốn níu giữ, bảo vệ bằng mọi giá, đồng thời che đậy đến cùng những khuyết tật, mặt tối của chế độ tư bản chủ nghĩa. Từ đầu thế kỷ XX đến nay, trên nền của cùng một phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, thế giới đã qua ba biến thể: Chủ nghĩa tự do cổ điển, chủ nghĩa Keynes và chủ nghĩa tự do mới. Sự giống nhau của cả ba hình thái đó là đều coi chủ nghĩa tư bản là “xã hội toàn mỹ”, “đỉnh cao nhất của lịch sử nhân loại”(?!).
Sự thật là, chủ nghĩa tân tự do không phải là một học thuyết hoàn bị hay là chìa khóa vạn năng để xây dựng nên một thị trường tự do của chủ nghĩa tư bản có thể giúp giải quyết mọi khó khăn, bất cập của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Thực tế cho thấy, chủ nghĩa tân tự do ngày càng lộ rõ “gót chân Asin” của mình, khi sự tự do thái quá của thị trường như ngựa bất kham, lại bị giật dây bởi tài phiệt tư bản, không có sự kiểm soát hợp lý của nhà nước, dẫn tới những thất bại với hệ lụy khôn lường. Những cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính có tính chu kỳ khởi phát từ các nước tư bản vẫn tiếp diễn, gây nên tổn hại nghiêm trọng cho nhân loại, nhất là trút hậu quả lên các nước đang phát triển, nước nghèo. Nhiều chính sách tân tự do được áp dụng từ những năm 80 của thế kỷ XX vẫn để lại di chứng, bất ổn kinh tế, chính trị, xã hội nặng nề cho đến ngày nay. Những sự “mời gọi” về sức hấp dẫn của tự do kinh tế không có giới hạn gắn với các giá trị phương Tây đã sụp đổ ở ngay chính quốc, là nhiều nước tư bản phát triển, nơi sinh ra và nuôi dưỡng chủ nghĩa tân tự do, lẫn một số nước đang phát triển bị cưỡng bức “nhập khẩu” học thuyết này.
Chủ nghĩa tân tự do khoác bộ cánh mới sặc sỡ lên chủ nghĩa tư bản, nhưng không thể làm thay đổi được bản chất bóc lột của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Các chính sách của chủ nghĩa tân tự do, như cắt giảm chi tiêu công, cắt giảm phúc lợi xã hội và tăng lãi suất để giảm lạm phát, duy trì cán cân tài chính; tư hữu hóa các doanh nghiệp nhà nước và tiện ích công; tự do hóa thương mại và tài chính; giảm điều tiết thị trường lao động... còn cực đoan hơn so với chủ nghĩa tự do cổ điển của Adam Smith và David Ricardo(11) phát triển trong thế kỷ XIX và đều nhằm mục đích tối đa hóa lợi nhuận, thu những nguồn lợi khổng lồ để gia tăng tích lũy tư bản.
Tuy nhiên, “thu nhập và sự giàu có chảy ngược lên trên, thay vì chảy xuống các tầng lớp phía dưới xã hội”(12). Chủ nghĩa tân tự do có thể đúng ở mặt nào đó, nhưng về căn bản, nó là một học thuyết có hại, không góp phần vào sự phát triển bền vững và rõ ràng, nó chỉ đúng với số ít các nhà tư sản đặc quyền, đặc lợi, không hề đúng với số đông các tầng lớp lao động, nhất là khi nó cổ xúy cho mô hình nhà nước ngày càng teo nhỏ gắn với việc cắt giảm tối đa phúc lợi xã hội. Sự bất bình đẳng trong thu nhập và tài sản giữa các giai tầng xã hội ngày càng bị khoét sâu. Hơn thế, bất bình đẳng còn trở thành một đặc tính bản chất của chủ nghĩa tân tự do, khi nó công khai chống chủ nghĩa bình đẳng (bình quân) do nhà nước phúc lợi đề ra và “cha đẻ” của học thuyết này, Friedrich August von Hayek, thậm chí còn biện bạch cho điều này khi từng công khai tuyên bố, “bất bình đẳng là một giá trị tích cực cần thiết cho các xã hội phương Tây”(13), càng khẳng định thêm bản chất của chủ nghĩa tân tự do: Lấy bất bình đẳng làm động lực, lấy cạnh tranh khốc liệt làm quy luật sinh tồn, lấy lợi nhuận làm đích cuối.
Như vậy, ngày nay, chủ nghĩa tư bản tuy có những điều chỉnh nhất định về hình thức sở hữu, tổ chức - quản lý và phân phối để thích nghi ở mức độ nào đó với điều kiện mới, nhưng sự thống trị của chủ nghĩa tư bản tư nhân vẫn tồn tại nguyên vẹn, bản chất bóc lột của nó vẫn không hề thay đổi. Suốt hơn 400 năm tồn tại của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, “sản xuất giá trị thặng dư hay lợi nhuận là quy luật tuyệt đối của phương thức sản xuất này”(14), chủ nghĩa tư bản ra đời “thấm đầy máu và bùn nhơ trong mỗi lỗ chân lông của nó”(15). Nhìn sâu vào bên trong, chủ nghĩa tư bản hiện đại ngày nay vẫn giữ nguyên nhiều đặc tính của thứ chủ nghĩa tư bản kền kền nguyên thủy, hoang dã và tàn bạo, thậm chí còn suy đồi và tàn nhẫn hơn dưới sự thúc đẩy của chủ nghĩa tân tự do và những tham vọng bá quyền ngày càng lớn và manh động của nhiều chính phủ phương Tây. Và, với đầy rẫy khuyết tật, mâu thuẫn và mặt tối đó, thì rõ ràng, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và chế độ tư bản chủ nghĩa không thể “toàn mỹ” và là tương lai của loài người; chủ nghĩa tân tự do lại càng không phải là một tất yếu lịch sử, một trật tự kinh tế và xã hội duy nhất, một chân lý cuối cùng và vĩnh viễn của nhân loại, như rao giảng của nhiều chính trị gia và nhà tài phiệt tư bản.
Sau nhiều năm chiếm thế thượng phong, chủ nghĩa tân tự do đang gặp nhiều thất bại. Những cuộc khủng hoảng, suy thoái kinh tế, bất ổn chính trị, xung đột vũ trang nghiêm trọng, ô nhiễm môi trường, phân hóa giàu - nghèo, phân cực xã hội... ở nhiều nước tư bản và trên quy mô toàn cầu càng phơi bày rõ những mâu thuẫn và hạn chế của một triết luận kinh tế chính trị phản ánh bản chất của chủ nghĩa tư bản, một triết luận vì lợi ích của số ít chống số đông. Rõ ràng, chủ nghĩa tự do mới cố gắng làm mới chủ nghĩa tư bản già cỗi, mong đem đến một sức sống mới bằng các liệu pháp tự do hóa được tân chế, song nó vẫn không thể và không bao giờ có thể khắc phục được mâu thuẫn nội tại mang tính bản chất bên trong của chủ nghĩa tư bản, cũng như càng làm trầm kha thêm mâu thuẫn giữa các nước tư bản với nhau, giữa các nước tư bản và các nước đang phát triển, giữa tư bản và lao động ở quy mô toàn cầu. “Niềm tin của chủ nghĩa tân tự do vào các thị trường không bị ràng buộc như là con đường chắc chắn nhất dẫn đến thịnh vượng của xã hội hiện đang mất uy tín và hấp hối... Thực tế là, bất chấp tên gọi của nó, thời đại của chủ nghĩa tân tự do còn lâu mới tự do”(16).
Cùng với việc xảo biện chủ nghĩa tư bản là “nấc thang cuối cùng của nhân loại”, chủ nghĩa tân tự do cũng chĩa mũi nhọn chống phá quyết liệt chủ nghĩa cộng sản. Bởi, cái mà chủ nghĩa tân tự do tập trung đấu tranh quyết liệt nhất vẫn là những gì mang tính chất tập thể và công hữu, những gì có màu sắc chính sách xã hội xã hội chủ nghĩa. Khi chủ nghĩa xã hội hiện thực sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu, các nhà tân tự do tự đắc cho rằng đó là “sự cáo chung của lịch sử”, rằng đã xóa bỏ trở ngại cuối cùng ngăn chia toàn bộ thế giới khỏi mục tiêu dân chủ, tự do và kinh tế thị trường (?!). Sự chống phá của những người cổ xúy chủ nghĩa tân tự do là hết sức dễ hiểu, bởi nền móng tồn tại của chủ nghĩa tân tự do là sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, là sự bảo đảm thống trị của giai cấp tư sản, sự bền vững của chế độ bóc lột tư bản chủ nghĩa; trong khi chủ nghĩa cộng sản được xây dựng dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, cùng sự bảo đảm lợi ích và bảo vệ quyền lợi chính đáng của toàn thể nhân dân lao động... - những yếu tố và sự phát triển trực tiếp đe dọa và phủ định sự tồn tại của chủ nghĩa tân tự do và chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tân tự do chống phá chủ nghĩa cộng sản từ những vấn đề mang tính nền tảng, đi từ các yếu tố kinh tế để tác động đến chính trị, dùng con bài “sức mạnh tự do”, “kinh tế thị trường tự do”... để làm chuyển hóa chế độ chính trị. Hơn nữa, chủ nghĩa tân tự do có nhiều biến thể, trong đó có những dạng thức về danh nghĩa dung hợp thêm yếu tố xã hội để phần nào giảm bớt tính cực đoan, cân bằng hơn giữa yếu tố tự do và công bằng, giữa vai trò của thị trường và vai trò của nhà nước... rất dễ gây lầm tưởng, dù rằng đó chỉ là sự cải tổ những yếu tố bề ngoài, còn bản chất của nó đương nhiên không bao giờ thay đổi.
Suy cho cùng, chủ nghĩa tân tự do luôn là một hình thái tư bản chủ nghĩa, và rõ ràng, nó không phải là một học thuyết ưu việt đại diện cho một phương thức sản xuất tiến bộ nhất của nhân loại; ngược lại, chính nó đã và đang dọn đường, mở ra những điều kiện, tiền đề cho sự ra đời của phương thức sản xuất mới, hình thái kinh tế - xã hội phát triển ở trình độ cao hơn: Chủ nghĩa cộng sản.
Hai là, chủ nghĩa tân tự do cổ xúy tư nhân hóa nền kinh tế, hạ thấp vai trò của nhà nước, đồng thời thúc đẩy chủ nghĩa cá nhân.
Có thể nói, tư nhân hóa là một “pháp bảo”, được chủ nghĩa tân tự do bảo vệ bằng mọi giá, vì tư hữu tư bản chủ nghĩa chính là cơ sở sinh tồn của nó; sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa bị xóa bỏ thì chủ nghĩa tư bản tiêu vong và tự khắc chủ nghĩa tân tự do cũng không còn bất kỳ cơ sở nào để tồn tại. Nó lo sợ việc nhà nước can thiệp vào kinh tế, hệ lụy không tránh khỏi là khu vực tư nhân, cái lõi của chủ nghĩa tư bản, sẽ bị lề hóa, thậm chí bị loại bỏ. Đó cũng chính là nguyên nhân sâu xa chủ nghĩa tân tự do cổ xúy tư nhân hóa nền kinh tế, cổ xúy cho sự “tồn tại vĩnh hằng” của chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa và chủ nghĩa tư bản, đồng thời xuất khẩu tư tưởng này theo dòng chảy của đầu tư tư bản khắp thế giới.
Tuy nhiên, quá trình phát triển của xã hội loài người là một quá trình lịch sử - tự nhiên, nghĩa là các hình thái kinh tế - xã hội không tồn tại vĩnh viễn, mà luôn thay thế lẫn nhau, xã hội trước tạo tiền đề vật chất cho xã hội sau phủ định nó, cho đến khi nhân loại đi đến chủ nghĩa cộng sản. Do đó, việc xóa bỏ quan hệ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa là một tất yếu khách quan, do chính những mâu thuẫn trong lòng của chế độ tư bản chủ nghĩa. Theo quy luật phủ định của phủ định, chính nền sản xuất tư bản chủ nghĩa đẻ ra sự phủ định bản thân nó, phủ định chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, như một tất yếu để tạo nên chế độ công hữu. “Theo ý nghĩa đó, những người cộng sản có thể tóm tắt lý luận của mình thành một luận điểm duy nhất này là: xóa bỏ chế độ tư hữu”(17). Tuy nhiên, đây là một quá trình lâu dài, phải dựa trên cơ sở tôn trọng các quy luật khách quan và không phải xóa bỏ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa là xóa bỏ chế độ sở hữu nói chung, mà chỉ là xóa bỏ chế độ sở hữu tư sản nô dịch lao động của người khác.
Việc chủ nghĩa tân tự do cổ xúy tư nhân hóa tất cả những gì tư nhân có thể làm được trong một thị trường tự do ở quy mô toàn cầu giữ vị trí thống lĩnh, đồng thời xem nhẹ vai trò của nhà nước cũng là nhằm tích tụ tư bản ngày càng lớn, tập trung tài sản vào một số ít nhà tư sản kếch sù. Hay nói đúng hơn, đó là cuộc tấn công của tầng lớp thượng lưu toàn cầu chống nhân dân lao động ở mỗi nước tư bản và trên toàn thế giới; đồng thời, nó cũng không thuần túy là một luận thuyết kinh tế, mà có mục đích chính trị rất rõ ràng, nhất là để bảo vệ chủ nghĩa tư bản. Có điều, suốt nửa thế kỷ qua, những diễn ngôn chính trị của các nhà cầm quyền tư bản về việc tư nhân hóa tạo cơ chế tự điều chỉnh để mọi người đều giàu có, xã hội thịnh vượng, mà không cần bất kỳ sự can thiệp nào của nhà nước ngày càng xa vời. Thậm chí khác xa trên thực tế, khi bản thân nhiều chính phủ của các nước tư bản phát triển đã nhiều lần tiến hành quốc hữu hóa doanh nghiệp dưới các hình thức và cấp độ khác nhau, từ áp đặt quyền kiểm soát đặc biệt, cứu trợ tài chính, nắm cổ phần chi phối đến việc thành lập doanh nghiệp nhà nước dựa trên mua lại các doanh nghiệp tư nhân để kiểm soát một lĩnh vực nào đó...
Thực tế, chủ nghĩa tự do mới cũng không phủ nhận hoàn toàn vai trò của nhà nước; nó chỉ muốn một nhà nước tối thiểu hay nói đúng hơn cần nhà nước với quy mô do nó định đoạt, hành động theo nó yêu cầu. Nó hô hào nhà nước tối thiểu nhưng lại là tối đa trong phục vụ sở hữu tư nhân, phục vụ những tập đoàn tư bản bá quyền. Nó hô hào tránh xa chủ nghĩa nhà nước (statism) và hướng tới trật tự sở hữu tư nhân (private property order), nhưng nhà nước tư bản sẵn sàng can thiệp thô bạo vào nền kinh tế, lợi ích của đa số người dân và trật tự xã hội khi cần bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản, nhất là tầng lớp chóp bu. Nhà nước ở các quốc gia tư bản còn ngày một lớn hơn, không hề “tối thiểu” như họ tuyên bố, thậm chí còn hình thành mô hình siêu nhà nước qua liên kết các cường quốc tư bản lại với nhau, thành dạng thức liên nhà nước, để can thiệp, tác động, điều khiển nền kinh tế, chính trị thế giới... Chủ nghĩa tân tự do gắn liền với chủ nghĩa bá quyền, bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền xuyên quốc gia.
Sau nhà nước, đối với vấn đề cá nhân, chủ nghĩa tân tự do cũng thúc đẩy chủ nghĩa cá nhân tư sản, nhấn mạnh đặt cá nhân lên trên xã hội. Nó cổ xúy cho thứ chủ nghĩa cá nhân cực đoan và quyền tự do bóc lột không giới hạn được hình thành và tồn tại trong xã hội tư bản. Nó không thừa nhận cá nhân trong mối quan hệ tùy thuộc, hợp tác, hội nhập với tổng thể xã hội. Đối với chủ nghĩa tự do đương đại, cá nhân là trục xuyên suốt xã hội và lịch sử, có thể áp đặt cho tập thể cái cá thể trung tâm của mình vì lợi ích riêng(18), trỗi dậy sự vị kỷ hẹp hòi, tư lợi để vinh thân phì gia, giữa người và người không còn mối liên hệ nào ngoài quan hệ mua bán, đổi chác..., là con đường ngắn nhất làm cho đạo lý xã hội ngày càng suy đồi. Quan điểm của chủ nghĩa tân tự do sẽ dẫn đến những kết cục nguy hiểm bởi giành ưu quyền cho cá nhân thì lợi ích của tập thể sẽ bị lấn át, thậm chí phế bỏ...
Chủ nghĩa Mác tôn trọng tự do và lợi ích cá nhân đúng đắn, nhưng sự phát triển của mỗi cá nhân không tách rời với xã hội trong tổng thể, không tách rời với tự nhiên. “... Cần ra sức làm cho lợi ích riêng của con người cá biệt phù hợp với lợi ích của toàn thể loài người”(19). Cơ sở nảy sinh, tồn tại và phát triển của chủ nghĩa cá nhân chính là chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Do đó, muốn xóa bỏ chủ nghĩa cá nhân, cần phải loại bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, đồng thời phải tiến hành xây dựng chế độ xã hội mới - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng cảnh báo, chủ nghĩa cá nhân chính là “giặc nội xâm” vô cùng nguy hiểm, trực tiếp đe dọa sự tồn vong của Đảng, của chế độ. Đấu tranh loại bỏ chủ nghĩa cá nhân là yêu cầu tất yếu để xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa; là công việc phải tiến hành thường xuyên để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Người nhấn mạnh: “Không có chế độ nào tôn trọng con người, chú ý xem xét những lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thỏa mãn bằng chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa”(20).
Chủ nghĩa tân tự do được coi là đại diện cho một thứ chủ nghĩa tư bản mới, là bộ mặt tân thời của chủ nghĩa tư bản hiện đại, nên nó vẫn tiếp tục được cổ xúy, tán dương, thậm chí được các nước tư bản tìm mọi cách “xuất khẩu” sang các quốc gia khác, mà đằng sau đó là những mưu tính chính trị được che đậy tinh vi bằng con bài của những học thuyết kinh tế. Các nhà kinh tế tự do o ép các nước đang phát triển cải tổ triệt để mọi khu vực của nền kinh tế. Các diễn ngôn, tư tưởng và sáng kiến hướng đến mục tiêu kinh tế được sử dụng như một công cụ nhằm đạt được mục đích chính trị, nhất là chuyển hóa các nước theo con đường tư bản chủ nghĩa và ràng buộc về chính trị.
Khu vực Mỹ La-tinh là “một phòng thí nghiệm” điển hình của chủ nghĩa tân tự do từ cuối những năm 80 của thế kỷ XX. Khi áp dụng vào khu vực Mỹ La-tinh, chủ nghĩa tân tự do đã thất bại. Chủ trương “nhà nước nhỏ, thị trường lớn” làm suy yếu các chính phủ ở đây, đồng thời diễn ra quá trình xâm chiếm của các công ty đa quốc gia, tư bản nước ngoài đối với các khu vực kinh tế trọng yếu, ngành công nghiệp chủ chốt, như dầu khí... của nhiều nước khu vực Mỹ La-tinh, dưới sự tiếp tay của một bộ phận quân đội, tư sản mại bản, đại điền chủ trong nước, cùng ràng buộc của các hiệp định thương mại tự do. Từ một khu vực phát triển, ngày nay, Mỹ La-tinh giảm sút sự thịnh vượng rất nhiều, trong khi xung đột xã hội, bất ổn gia tăng, tiếp tục lệ thuộc vào các nước tư bản phương Tây. Nhân dân nhiều nước khu vực Mỹ La-tinh đã nổi dậy chống quá trình tư hữu hóa và phi điều tiết nền kinh tế dưới tác động của chủ nghĩa tân tự do, trỗi dậy tinh thần tự tôn dân tộc, quay trở lại quốc hữu hóa nhiều ngành kinh tế quan trọng...
Trong thời đại chủ nghĩa tư bản toàn cầu hóa, chủ nghĩa tự do mới đưa sự bất bình đẳng và bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản vươn ra ở quy mô toàn cầu _Nguồn: shutterstock.com
Trên phạm vi thế giới, chủ nghĩa tư bản tiếp tục cuộc thập tự chinh toàn cầu hóa dưới lá bài chủ nghĩa tân tự do để khuyến khích các nước mở toang biên giới cho tư bản được tự do tràn vào mọi nơi nhằm tối đa hóa lợi nhuận ở quy mô và mức độ cao hơn nhiều so với thời kỳ của chủ nghĩa tự do cổ điển, với sự hỗ trợ của các tập đoàn xuyên quốc gia, các định chế tài chính toàn cầu hùng hậu, tạo sức ép và sợi dây ràng buộc, lệ thuộc lớn về kinh tế, chính trị lên các quốc gia kém phát triển hơn, thúc đẩy tư nhân hóa các nền kinh tế nó đi qua, chuyển quyền lực cùng các nguồn lực sang các nhà tư sản trong nước và nước ngoài. Các thiết chế tài chính quốc tế nghiễm nhiên đòi giữ vai trò giám sát, thậm chí can thiệp vào nền kinh tế của các nước đang phát triển, nhất là các nước vay nợ... Nó gia tăng sự vay nợ trên bình diện toàn cầu, trong đó không ít trường hợp tạo ra gánh nặng nợ nần, đè nặng lên vai các nước đang phát triển. Chủ nghĩa tân tự do cũng là một tác nhân góp phần gây nên những cuộc khủng hoảng tài chính chu kỳ, nhất là khi dòng vốn tự do mất kiểm soát bị di chuyển ồ ạt, gây tổn thương lớn tới các quốc gia đang phát triển do khả năng chống chịu với các cú sốc toàn cầu còn yếu. Có thể nói, trong thời đại chủ nghĩa tư bản toàn cầu hóa, chủ nghĩa tự do mới đưa sự bất bình đẳng và bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản vươn ra ở quy mô toàn cầu, sự bóc lột giá trị thặng dư mang “tính quốc tế” và ngày càng tinh vi hơn...
Việc thấu rõ bản chất của chủ nghĩa tân tự do để chúng ta tuyệt đối không mơ hồ, mất cảnh giác, không để rơi vào bẫy “tự do kinh tế” theo mô hình tư bản chủ nghĩa; đồng thời kiên định phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; tạo mọi điều kiện để phát triển kinh tế tư nhân như là một động lực quan trọng, song tuyệt đối phải giữ vững vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, trên cơ sở nâng cao hiệu quả hoạt động của thành phần kinh tế này, khuyến khích nhưng phải có chọn lọc phát triển kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới một cách chủ động, chắc chắn, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc; nắm vững và xử lý tốt mối quan hệ lớn giữa tuân theo các quy luật kinh tế thị trường với bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế, không ngừng vun bồi nội lực quốc gia, nhuần nhuyễn trong kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại, phát huy cao nhất tinh thần “tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc”...
Việc thấu rõ bản chất của chủ nghĩa tân tự do cũng để chúng ta nhận diện và đấu tranh hiệu quả với học thuyết này, cùng niềm tin khoa học vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam, về thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội.
(Còn nữa)
--------------------
(1), (2) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2005, t. 23, tr. 50
(3) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2006, t. 38, tr. 158 - 159
(4) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 25, tr. 131
(5) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 23, tr. 49
(6), (7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 11, tr. 238
(8) Trường phái kinh tế Keynes do John Maynard Keynes (1883 - 1946), nhà kinh tế nổi tiếng người Anh sáng lập, tập trung vào giải quyết vấn đề lớn là tăng trưởng và việc làm trên cơ sở phát huy vai trò điều tiết nền kinh tế của nhà nước
(9) Friedrich August von Hayek (1899 - 1992) là nhà kinh tế người Anh gốc Áo, là một trong những người sáng lập chủ nghĩa tân tự do, nghiên cứu các cuộc khủng hoảng và bảo vệ thuyết trọng tiền, chống học thuyết Keynes, cũng là một trong những nhà kinh tế chống chủ nghĩa xã hội quyết liệt.
(10) Những tư tưởng về tự do kinh tế xuất hiện rất sớm trong lịch sử, được thể hiện trong tác phẩm của các nhà kinh tế học tư sản cổ điển và chủ nghĩa tự do kinh tế thực sự xuất hiện và trở thành tư tưởng thống trị trong các lý thuyết tư sản trước những năm 30 của thế kỷ XX. Chủ trương tự do kinh tế là các lý thuyết tư sản coi nền kinh tế tư bản chủ nghĩa là hệ thống hoạt động tự động, do các quy luật kinh tế khách quan tự phát điều tiết. Tư tưởng cơ bản của nó là tự do kinh doanh, tự do tham gia thị trường, chống lại sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế.
(11) Adam Smith (1723 - 1790) là nhà kinh tế học người Scotland và David Ricardo (1772 - 1823) là nhà kinh tế học người Anh, là các đại diện tiêu biểu cho kinh tế chính trị tư sản cổ điển.
(12) Joseph E. Stiglitz: “The End of Neoliberalism and the Rebirth of History” (Tạm dịch: Sự cáo chung của chủ nghĩa tân tự do và sự tái sinh của lịch sử), Project Syndicate, 4-11-2019
(13) Nguyễn Văn Thanh: Nhận diện chủ nghĩa tự do mới, Nxb. Chính trị quốc gia, 2005, tr. 29
(14) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, t. 23, tr. 872
(15) Đỗ Thế Tùng: “Nhận thức và ứng xử đúng quy luật với vấn đề bóc lột trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 22-10-2019. https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/kinh-te/-/2018/814223/nhan-thuc-va-ung-xu-dung-quy-luat-voi-van-de-boc-lot-trong-qua-trinh-phat-trien-nen-kinh-te-thi-truong-dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia-o-viet-nam.aspx
(16) Joseph E. Stiglitz: “The End of Neoliberalism and the Rebirth of History” (Tạm dịch: Sự cáo chung của chủ nghĩa tân tự do và sự tái sinh của lịch sử), Sđd
(17) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1995, t. 4, tr. 616
(18) Nguyễn Văn Thanh: Nhận diện chủ nghĩa tự do mới, Sđd, tr. 33
(19) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Sđd, t. 2, tr. 200
(20) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 610