Vận dụng phương pháp phát huy sức mạnh quần chúng trong quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng vào công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong giai đoạn hiện nay

TS Nguyễn Thị Thu Hà
Học viện Chính trị khu vực I
15:35, ngày 29-06-2024

TCCS - Sức mạnh của quần chúng là yếu tố quan trọng quyết định sự thành bại của mọi cuộc cách mạng. Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về vai trò của nhân dân trong lịch sử và tư tưởng “nước lấy dân làm gốc”(1) của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta đã vận dụng sáng tạo phương pháp phát huy sức mạnh quần chúng vào công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong giai đoạn hiện nay, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Đại tướng Tô Lâm, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Công an dự Ngày hội Văn hoá, thể thao và du lịch các dân tộc vùng Tây Nguyên lần thứ I, năm 2023, ngày 29-11-2023 _Nguồn: baokontum.com.vn

Phương pháp pháp huy sức mạnh quần chúng trong quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng

Cách mạng muốn thắng lợi, trước hết phải xác định đường lối và phương pháp đúng đắn và phù hợp. Trong đó, phương pháp cách mạng là cách thức để tổ chức thực hiện đường lối đạt hiệu quả, giải quyết được những yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng đặt ra trong từng thời kỳ; đồng thời, huy động cao nhất lực lượng cách mạng tự giác, tích cực tham gia đấu tranh giải phóng dân tộc với quyết tâm giành thắng lợi cao nhất. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, vì vậy, phương pháp cách mạng phải bao gồm việc tuyên truyền, giáo dục, giác ngộ, tập hợp và xây dựng lực lượng quần chúng thành “bức tường đồng” bất khả xâm phạm. Chỉ khi quy tụ, tập hợp toàn dân sẽ tạo thành sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc đưa đất nước vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, trường tồn trước những biến thiên của lịch sử, để “non sông nghìn thuở vững âu vàng”.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân là lực lượng đông đảo trong xã hội, nhưng nếu mỗi người đứng riêng rẽ thì sẽ không thể tạo thành sức mạnh, chỉ khi được giác ngộ, quy tụ trong một khối thống nhất mới tạo thành sức mạnh “muôn người như một”. Tuy nhiên, việc quy tụ, tập hợp và phát huy sức mạnh quần chúng nhân dân đòi hỏi phải có phương pháp, hình thức phù hợp, trong đó, Đảng phải là hạt nhân. Trên cơ sở kế thừa và tiếp nối truyền thống của cha ông về tinh thần “thân dân, trọng dân, yêu dân” và sức mạnh “chở thuyền”, “lật thuyền” của nhân dân; quán triệt sâu sắc tư tưởng “nước lấy dân làm gốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi nhân dân là “mạch nguồn” tạo nên sức mạnh nội sinh, quyết định sự hưng thịnh, suy vong của quốc gia - dân tộc; là “thành lũy” kiên cố vững chắc để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Ngay từ khi mới thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ chiến lược cơ bản của cách mạng Việt Nam là đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp bằng con đường “bạo lực cách mạng”. Đồng thời, nhấn mạnh, bạo lực cách mạng nhất thiết phải có sự tham gia đông đảo của quần chúng. Bởi, “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, chứ không phải là sự nghiệp của cá nhân anh hùng nào”(2), chỉ khi quần chúng được giác ngộ, quy tụ thành một khối thống nhất mới trở thành lực lượng hùng hậu chống lại bạo lực phản cách mạng. Rút kinh nghiệm từ thực tiễn các phong trào yêu nước trước khi Đảng ra đời (phong trào Cần Vương, phong trào của Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu…) đều thất bại do chưa có đường lối đấu tranh đúng đắn và phương pháp cách mạng phù hợp; trải qua ba cao trào cách mạng từ 1930 - 1945, Đảng đã chứng minh đường lối, phương pháp bạo lực dựa trên sức mạnh quần chúng là đúng đắn. Lòng dân, sức dân dưới sự lãnh đạo của Đảng được quy tụ, chuyển hóa thành sức mạnh vô địch làm nên kỳ tích lịch sử, mà đỉnh cao là cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Những bài học lớn về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 vẫn còn nguyên giá trị để Đảng ta vận dụng sáng tạo, linh hoạt trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng, đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái, thù địch hiện nay.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, nhưng ngay sau đó, vận mệnh của đất nước rơi vào tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” khi giặc đói, giặc dốt, đặc biệt là giặc ngoại xâm đang đe dọa nghiêm trọng nền độc lập, tự do của dân tộc. Với dã tâm “cướp nước ta một lần nữa”, thực dân Pháp đã đặt dân tộc Việt Nam trước thử thách mới: Hoặc chiến đấu để giữ vững nền độc lập, hoặc trở lại kiếp nô lệ một lần nữa. Trước tình thế hiểm nghèo của đất nước, ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, hiệu triệu cả dân tộc nhất tề đứng lên chống thực dân Pháp xâm lược. Đây là quyết định đúng đắn và kịp thời, thể hiện sự chủ động và bản lĩnh của Đảng ta với niềm tin sắt đá vào sức mạnh của quần chúng nhân dân, cùng với quyết tâm “thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”(3), Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm hoạch định đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính; đồng thời, sáng tạo trong việc khơi dậy, quy tụ sức mạnh của toàn dân tộc để xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, chủ động khai thác và động viên được sự ủng hộ, giúp đỡ của quốc tế, làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, viết nên thiên sử vàng cho lịch sử dân tộc.

Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng đã phát huy và đưa sức mạnh toàn dân lên tầm cao mới. Trong hoàn cảnh “nước sôi lửa bỏng”, vừa phải đương đầu với đế quốc Mỹ - một kẻ thù hùng mạnh nhất thế giới ở miền Nam, vừa phải giải quyết nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa ở xã hội ở miền Bắc, với trí tuệ, bản lĩnh sáng suốt, Đảng đã huy động tổng lực sức người, sức của trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao, văn hóa… để chi viện cho tiền tuyến, tạo sức mạnh tổng hợp đánh bại đế quốc Mỹ và tay sai, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Như vậy, trước sự tồn vong của dân tộc, với phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, dựa vào nhân dân, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bình tĩnh, sáng suốt chèo lái con thuyền cách mạng vượt qua thác ghềnh hiểm nguy, từng bước tiến lên.

Thực tiễn sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước đã minh chứng nhờ có đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, Đảng đã tập hợp, quy tụ, phát huy được sức mạnh to lớn của quần chúng nhân dân, làm cơ sở cho việc hình thành và phát triển một “đạo quân chính trị” hùng hậu cho cách mạng; khơi dậy và nhân lên sức mạnh của lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết toàn dân tộc, quyết tâm giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Đây là nét độc đáo trong phương pháp cách mạng của Đảng ở thời kỳ này.

Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Song, do lạc hậu về nhận thức lý luận, cùng với những sai lầm “tả khuynh”, “hữu khuynh” trong tổ chức thực hiện nên đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng toàn diện và nghiêm trọng; cùng với sự bao vây, cấm vận, chống phá của các thế lực thù địch. Trước hoàn cảnh đó, Đảng tiếp tục vận dụng sáng tạo, linh hoạt phương pháp phát huy sức mạnh quần chúng để xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, nắm vững thời cơ, vượt qua thách thức, đưa công cuộc đổi mới tiếp tục tiến lên giành nhiều thắng lợi mới. Với bản lĩnh kiên cường, kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thành công trong việc quy tụ, đoàn kết quần chúng nhân dân tạo thành sức mạnh vô địch đưa đất nước vượt qua mọi sóng to, gió lớn của thời cuộc, đạt nhiều thành tựu rất quan trọng, khá toàn diện, tạo nhiều dấu ấn nổi bật, đất nước phát triển nhanh và bền vững(4).

Điệu xòe Thái thể hiện tình đoàn kết và sức mạnh của cộng đồng _Ảnh: TTXVN

Vận dụng phương pháp phát huy sức mạnh quần chúng trong quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng vào công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay

Ngay từ khi ra đời và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng luôn nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch là nhiệm vụ sống còn, quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam, cũng như thành công của công cuộc đổi mới đất nước. Bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái, thù địch là công việc hệ trọng, thường xuyên, liên tục liên quan trực tiếp đến vận mệnh quốc gia - dân tộc và lợi ích của nhân dân. Do đó, cần dựa vào dân, phát huy sức mạnh toàn dân để thực hiện “nhiệm vụ sống còn” này, nhất là khi các thế lực thù địch ra sức đẩy mạnh các hoạt động chống phá cách mạng Việt Nam với nhiều hình thức, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt hòng kích động, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xóa bỏ cơ sở chính trị - xã hội quan trọng nhất đối với sự cầm quyền của Đảng là nền nhân dân. Nhân dân là lực lượng đông đảo trong xã hội, là “tai mắt” của Đảng, chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội, khi được tuyên truyền, giáo dục, huy động, quy tụ, tập hợp bằng phương pháp phù hợp, họ sẽ có khả năng “tự đề kháng” trước những thông tin xấu độc, có cách thức đấu tranh hiệu quả để mỗi người dân đều trở thành một chiến sĩ trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; luôn tin tưởng và chủ động bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Quán triệt sâu sắc quan điểm “nước lấy dân làm gốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh và vận dụng sáng tạo, linh hoạt phương pháp phát huy sức mạnh quần chúng nhân dân vào công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay, đã giúp củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước; “thắt chặt hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào dân để xây dựng Đảng”(5). Đây là vấn đề cốt lõi để xây dựng “thế trận lòng dân” bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng.

Thời gian qua, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo mang tính chiến lược về phát huy vai trò của nhân dân trong việc giám sát, tham gia xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Trong đó, Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 22-10-2018, của Bộ Chính trị “Về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới” nhấn mạnh nội dung “dựa vào dân”, phát huy sức mạnh của nhân dân để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới là giải pháp quan trọng hàng đầu. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Mọi công việc của Đảng và Nhà nước phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”(6), đồng thời, khẳng định chiến lược xây dựng “thế trận lòng dân” là nền tảng cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.

Sau hơn 5 năm triển khai Nghị quyết số 35-NQ/TW, nhận thức của các cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên về vai trò, vị trí, tầm quan trọng của công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái có nhiều chuyển biến rõ nét, tích cực; đồng thời huy động được sức mạnh tổng hợp trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Công tác thông tin, tuyên truyền có nhiều đổi mới, sáng tạo cả về nội dung, hình thức, phương thức thể hiện, phát huy tốt vai trò dẫn dắt, định hướng thông tin của các cơ quan báo chí, truyền thông; lan tỏa, nhân rộng những cách làm hay, gương người tốt, việc tốt tới cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân... Những kết quả này góp phần quan trọng giữ vững ổn định chính trị, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước.

Tuy nhiên, trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch hiện nay, việc xây dựng “thế trận lòng dân”, dựa vào dân và phát huy sức mạnh toàn dân có lúc, có nơi còn hạn chế, bất cập. Do đó, để xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, tạo sự đồng thuận, “đồng tâm hiệp lực” của nhân dân, kiên quyết, kiên trì đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, trong thời gian tới, cần tập trung thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau:

Một là, quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”, là chủ thể, là trung tâm trong đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Nhân dân là chủ thể, là trung tâm của công cuộc đổi mới, đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, do đó, mọi chủ trương, chính sách đều phải thực sự xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân; khơi dậy được sức mạnh của mọi tầng lớp nhân dân trong đấu tranh phản bác những luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch. Kiên trì thực hiện nguyên tắc “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Thường xuyên tiếp xúc, đối thoại, lắng nghe ý kiến, tâm tư, nguyện vọng của nhân dân để hiểu dân, kịp thời đáp ứng những nguyện vọng chính đáng của nhân dân, tránh để những bức xúc nổi cộm thành “điểm nóng”.

Hai là, đổi mới, nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, giáo dục, làm chuyển biến mạnh mẽ nhận thức, trách nhiệm của nhân dân trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, giáo dục bằng nhiều hình thức đa dạng, phong phú để giúp nhân dân nhận thức và hiểu rõ về vai trò, trách nhiệm công dân trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Đảng, chính quyền. Tăng cường trang bị cho nhân dân kiến thức, kỹ năng để nhận diện phương thức, phương tiện, âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch; kịp thời và chủ động thông tin, tuyên truyền về những vụ việc, vấn đề nhạy cảm, phức tạp, không để các thế lực thù địch lợi dụng chống phá, xuyên tạc, qua đó củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ.

Ba là, tăng cường xây dựng, chính đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện.

Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới; xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu quả; phát huy dân chủ gắn liền với tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong Đảng và toàn xã hội; đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Đẩy mạnh công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực với phương châm “không có vùng cấm”, “không có ngoại lệ”. Tiếp tục dựa vào dân để kiểm tra, giám sát, đánh giá công tác cán bộ, kiên quyết đấu tranh, phê phán với những biểu hiện thờ ơ, vô cảm, quan liêu, nhũng nhiễu nhân dân.

Bốn là, đẩy mạnh triển khai hiệu quả các chủ trương, chính sách hợp lòng dân, thường xuyên chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

Đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng - kỹ thuật; xây dựng, hoàn thiện hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao ở cơ sở góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo…; bảo đảm chính sách an sinh xã hội, nâng cao chất lượng công tác giáo dục, y tế. Tôn trọng và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân; làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc của các thế lực thù địch./.

--------------------------------

(1), Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 5, tr. 501
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 12, tr. 672
(3), Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 4, tr. 534, 89.
(4), (6) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 20, 27.
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. II, tr. 248.


Phản bác những đánh giá sai lệch về Sách trắng “Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam”

TS Phạm Thanh Hằng
Viện Tôn giáo và Tín ngưỡng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
11:39, ngày 20-06-2024

TCCS - Kể từ khi được công bố, Sách trắng “Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam” cung cấp những thông tin chân thực về tôn giáo, chính sách tôn giáo, thành tựu bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam và những ưu tiên nhằm thúc đẩy việc thụ hưởng ngày càng tốt hơn quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Với vai trò quan trọng đó, Sách trắng cũng trở thành tâm điểm công kích, phê phán thiếu thiện chí của các lực lượng cực đoan nhằm phủ nhận chính sách tôn giáo và những thành tựu quan trọng về bảo đảm quyền tự do tôn giáo của Đảng, Nhà nước Việt Nam trong suốt thời kỳ đổi mới. Do đó, việc nhận diện và phản bác những đánh giá sai lệch về Sách trắng “Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam” là rất cần thiết, nhằm khẳng định chính sách nhất quán của Việt Nam về tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.

Sách trắng “Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam” được Ban Tôn giáo Chính phủ cho ra mắt bạn đọc vào tháng 12-2022, là cuốn cẩm nang hữu ích, cung cấp đầy đủ thông tin về việc thực thi và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam. Cuốn sách tập trung vào các nội dung: Giới thiệu chung về các tôn giáo ở Việt Nam; quan điểm của Đảng về tín ngưỡng, tôn giáo trong thời kỳ đổi mới, những nguyên tắc hiến định và chính sách, pháp luật hiện hành về tín ngưỡng, tôn giáo; thành tựu, thách thức và hướng ưu tiên của Việt Nam trong việc bảo đảm tốt hơn quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.

Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Tô Lâm gặp mặt thân mật Đoàn đại biểu chức sắc, chức việc, lãnh đạo các tổ chức tôn giáo _Ảnh: TTXVN

Cuốn Sách trắng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, không chỉ cung cấp đầy đủ những thông tin chân thực về tình hình tôn giáo mà còn làm rõ cơ sở chính trị, căn cứ pháp lý vững chắc của việc bảo đảm thực thi quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, một số tổ chức phản động, thù địch và các lực lượng cực đoan đã cố tình bóp méo, xuyên tạc và bịa đặt trắng trợn nội dung, ý nghĩa của cuốn sách nhằm tạo luồng dư luận trái chiều, gây nhiễu loạn thông tin và kích động phản ứng tiêu cực từ một số tổ chức quốc tế và các đối tượng cơ hội chính trị, bất mãn trong nước. Những luận điệu sai trái, thù địch của các lực lượng chống phá được đăng tải trên các diễn đàn và trên các phương tiện truyền thông xã hội chủ yếu tập trung vào một số vấn đề sau:

Một là, trắng trợn vu cáo Sách trắng “Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam” là “bức bình phong” che đậy “các vi phạm về tôn giáo, tín ngưỡng kéo dài tại Việt Nam”(?!) - nguyên nhân khiến Hoa Kỳ đưa Việt Nam vào Danh sách theo dõi đặc biệt về tôn giáo (SWL) năm 2022 và khuyến nghị đưa trở lại Danh sách các nước cần quan tâm đặc biệt (CPC) năm 2023.

Như đã trở thành thông lệ, Ủy ban Tự do tôn giáo quốc tế (USCIRF) của Hoa Kỳ hằng năm đều tự cho mình cái quyền đưa các bản báo cáo nhân quyền, tự do tôn giáo để giám sát, can thiệp và áp dụng các biện pháp chế tài đối với các nước trên thế giới nếu “vi phạm hệ giá trị, chuẩn mực về nhân quyền, phẩm giá con người” mà Hoa Kỳ tự ý và chủ quan áp đặt. Theo Đạo luật tự do tôn giáo quốc tế Hoa Kỳ, những nước gần chạm ngưỡng CPC phải được đưa vào SWL để theo dõi sát sao và nếu sau một thời gian vẫn không cải thiện thì đó là căn cứ để chính thức đưa vào CPC. Các nước bị chỉ định CPC phải đối mặt với các biện pháp trừng phạt, nặng nhất là cấm vận.

Những nhận định thiếu khách quan của nhiều nước phương Tây về tự do tôn giáo ở Việt Nam trong các báo cáo thường niên về tự do tôn giáo quốc tế không còn là vấn đề mới(1). Trong nhiều năm trở lại đây, USCIRF luôn vu cáo Việt Nam “vi phạm tự do tôn giáo”,... Những cáo buộc này làm sai lệch thông tin về hoạt động tôn giáo và tự do tôn giáo ở Việt Nam. Phải khẳng định rằng, nguồn thông tin mà USCIRF của Hoa Kỳ thu thập trong các bản báo cáo chủ yếu là những thông tin phiến diện, không đáng tin cậy, có được do tiếp cận với các tổ chức phản động, cá nhân chống đối, có tư tưởng hẹp hòi dân tộc, thù hận, bất mãn với chế độ. Luận điệu của các tổ chức, cá nhân đó không thể đại diện cho bất kỳ tổ chức tôn giáo nào, không vì lợi ích cộng đồng, mà mang mưu đồ, lợi ích cá nhân, do đó không có giá trị tham khảo(2). USCIRF đã cố tình không trích dẫn những đánh giá của chức sắc, giáo sĩ... trong các tổ chức giáo hội đã được Nhà nước Việt Nam công nhận tư cách pháp nhân(3), có tiếng nói đại diện cho giáo hội, cho lợi ích của đại đa số chức sắc, tín đồ trong các tôn giáo ở Việt Nam.

Rõ ràng, việc USCIRF và các lực lượng cực đoan sử dụng những phát ngôn và nhận định thiếu cơ sở để cáo buộc Việt Nam vi phạm nhân quyền, vi phạm tự do tôn giáo trên các diễn đàn là thiếu khách quan; càng phi lý hơn khi lấy đó là lý do để phê phán Sách trắng của Việt Nam. Bởi, ở Việt Nam, không có cái gọi là  một sự “bưng bít” “những vi phạm kéo dài”, càng không thể có “bức bình phong” nào được tạo ra, vì Việt Nam luôn sẵn sàng công bố với quốc tế bức tranh chân thực về tình hình tôn giáo và chính sách tôn giáo với những nội dung thông tin phản ánh trung thực, súc tích và đầy sức thuyết phục của Sách trắng.

Hai là, xuyên tạc rằng, Sách trắng nhưng chưa minh bạch và vẫn thiếu tự do tôn giáo vì “chủ nghĩa tam vô”(?!).

Phải khẳng định rằng: “Chủ nghĩa tam vô” (vô gia đình, vô tổ quốc, vô tôn giáo) là sự phỉ báng lịch sử, xuyên tạc lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, bôi nhọ tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo, hạ thấp uy tín của Việt Nam, lấy đó làm sự xảo biện xuyên tạc nội dung của Sách trắng.

Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh luôn đề cao tinh thần yêu Tổ quốc kết hợp với tinh thần yêu thương nhân loại. Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Do đó, người cộng sản không những không “vô tổ quốc”, mà họ còn xứng đáng là những người yêu nước nhất. Những người cộng sản cũng luôn coi gia đình là tế bào của xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Rất quan tâm đến gia đình là đúng và nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân của xã hội là gia đình. Chính vì muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội mà phải chú ý hạt nhân cho tốt” (4).

Những người cộng sản cũng luôn thừa nhận và tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân, coi tôn giáo là nhu cầu tinh thần chính đáng của nhân dân. Do đó, trong Cương lĩnh, chính sách và hành động thực tế, Đảng, Nhà nước ta luôn tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, cũng như không tín ngưỡng, tôn giáo. Chỉ ra điểm tương đồng giữa lý tưởng của tôn giáo và lý tưởng của chủ nghĩa cộng sản, đó là xây dựng một xã hội tốt đẹp, giải phóng con người và mưu cầu tự do, hạnh phúc cho nhân dân.

Ở Việt Nam, ngay từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cao sự tương đồng về mục đích giữa tôn giáo và chủ nghĩa cộng sản(5). Theo đó, khác biệt giữa tôn giáo và chủ nghĩa cộng sản không nhất thiết dẫn tới sự biệt lập nếu đôi bên hiểu biết, tôn trọng lẫn nhau trong một khối đại đoàn kết toàn dân tộc, hướng về cách mạng, đi theo cách mạng. Người cho rằng, đồng bào có đạo vẫn có thể đứng trong hàng ngũ của Đảng, chỉ cần họ tích cực hoạt động cách mạng, “trung thành và hăng hái làm nhiệm vụ” (6). Ngày nay, thực hiện lời căn dặn của Người, cũng như quán triệt chủ trương của Đảng về kết nạp đảng viên là người theo tôn giáo, nhiều tín đồ, chức sắc của các tôn giáo đã được kết nạp vào Đảng, trở thành đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam(7).

Do đó, có thể khẳng định rằng, không có “chủ nghĩa tam vô” ở Việt Nam, đặc biệt là ở những đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây cũng là minh chứng cho thấy, Sách trắng hoàn toàn minh bạch khi tuyên bố công khai về tự do tôn giáo ở Việt Nam.

Ba là, xuyên tạc trắng trợn rằng, Sách trắng “Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam” công bố tự do tôn giáo song nhiều “nhóm tôn giáo độc lập bị đàn áp, ngăn cấm hoạt động”(?!).

“Các nhóm tôn giáo độc lập bị đàn áp, ngăn cấm hoạt động” được các tổ chức thiếu thiện chí nhắc đến, trên thực tế, là những tổ chức bất hợp pháp, đội lốt tôn giáo để truyền bá tư tưởng cực đoan, kích động chống phá Nhà nước Việt Nam. Các hoạt động của các tổ chức này vi phạm pháp luật của Việt Nam.

Pháp luật Việt Nam luôn tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân, tạo điều kiện thuận lợi để người dân tham gia các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trên cơ sở tuân thủ các quy định của pháp luật. Quyền tự do tôn giáo không thể đứng ngoài và đứng trên pháp luật. Việt Nam không chấp nhận việc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để xuyên tạc, kích động ly khai, chia rẽ các dân tộc, tôn giáo; gây rối trật tự công cộng và xâm phạm đến an ninh quốc gia. Điều này hoàn toàn phù hợp với tinh thần và nội dung về quyền tự do tôn giáo đã nêu trong các văn kiện quốc tế, như Công ước quốc tế năm 1966 về các quyền chính trị và dân sự quy định: “Quyền tự do bày tỏ tôn giáo hay tín ngưỡng của một người chỉ có thể bị giới hạn theo quy định của pháp luật và khi sự giới hạn đó là cần thiết để bảo vệ an ninh, trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức xã hội hoặc để bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của người khác” (8). Nội luật hóa hệ thống luật pháp quốc tế, ở mỗi quốc gia cũng đều có những quy định riêng về hoạt động tôn giáo để bảo vệ trật tự xã hội và an ninh quốc gia(9). Không một quốc gia nào cho phép hoạt động tôn giáo vượt ra ngoài sự quản lý của nhà nước. Pháp luật Việt Nam cũng có những quy định nghiêm cấm lợi dụng tôn giáo phá hoại độc lập, đoàn kết dân tộc, chống phá Nhà nước hay ngăn cản tín đồ thực hiện nghĩa vụ công dân. Điều này được phản ánh rất rõ trong Luật Tín ngưỡng, tôn giáo: “Nghiêm cấm các hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo xâm phạm quốc phòng, an ninh, chủ quyền quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, môi trường” (10).

Vì vậy, việc ngăn chặn kịp thời và xử lý nghiêm các nhóm đối tượng lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo, làm trái pháp luật Việt Nam là điều cần thiết. Đó không phải là sự đàn áp hay ngăn cấm hoạt động của các nhóm tôn giáo, mà là sự bảo đảm nguyên tắc thượng tôn pháp luật.

Bốn là, bóp méo rằng, Sách trắng “Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam” phản ánh sự áp đặt trong định hướng chính trị của chủ thể Nhà nước chứ không phản ánh sự tôn trọng niềm tin tôn giáo và bảo đảm thực hành nghi lễ tôn giáo của người dân(?!).

Chính sách tôn giáo nhất quán của Việt Nam được khẳng định trong Sách trắng là sự lựa chọn phù hợp với thực tiễn lịch sử và đáp ứng nguyện vọng, lợi ích chính đáng của nhân dân có tín ngưỡng. Đó là sự kết hợp hài hòa giữa “ý Đảng” và “lòng dân”.

Ngay từ khi mới ra đời, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã tuyên bố và thực hiện chính sách “tín ngưỡng tự do, lương giáo đoàn kết”. Hiến pháp năm 1946 khẳng định: “Mọi công dân Việt Nam đều có quyền tự do tín ngưỡng”. Nhờ chính sách đoàn kết dân tộc, tôn giáo, trong suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, hàng triệu người dân Việt Nam, dù “lương” hay “giáo” đều có những đóng góp tích cực cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc, sẵn sàng hy sinh vì nền độc lập của nước nhà(11). Ngày 14-6-1955, trong Sắc lệnh số 234/SL, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục nhấn mạnh: “Chính phủ bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và tự do thờ cúng của nhân dân, không ai được xâm phạm đến quyền tự do ấy”. Các Hiến pháp sau này (1959, 1980, 1992, 2013) vẫn hiến định phương châm, chính sách về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.

Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đến nay, chính sách tôn giáo của Nhà nước Việt Nam ngày càng phù hợp hơn với bối cảnh trong nước và quốc tế, đáp ứng tốt hơn nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân, góp phần củng cố và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Chính sách đó được thể hiện thông qua các văn kiện chính trị của Đảng và các văn bản pháp luật của Nhà nước.

Trẻ em vui chơi ở xứ Sở Kiện (thị trấn Kiện Khê, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam) _Nguồn: vietnamheritage.com.vn

Đảng và Nhà nước Việt Nam nhận thức rõ rằng, trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, cần xây dựng hệ thống pháp luật hoàn bị, bảo đảm tốt hơn nữa quyền tự do của con người, của công dân, trong đó có quyền tự do theo hoặc không theo tín ngưỡng, tôn giáo. Nhà nước tạo hành lang pháp lý cho hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo; thừa nhận, tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của tín đồ, cũng như lợi ích của các tổ chức tôn giáo; không kỳ thị, phân biệt đối xử với các tín ngưỡng, tôn giáo và người theo các tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau. Mọi người đều có quyền bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo; thực hành lễ nghi tín ngưỡng, tôn giáo. Ngay cả đối với người bị tạm giữ, tạm giam, chấp hành hình phạt tù cũng có quyền sử dụng kinh sách, bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo(12). Đồng thời, Nhà nước cũng đòi hỏi mọi tổ chức, cá nhân theo tôn giáo phải tuân thủ Hiến pháp, pháp luật; tôn trọng, bảo vệ trật tự xã hội và thể chế nhà nước cũng như quyền tự do của cá nhân và tổ chức khác. Các tôn giáo và người theo tôn giáo gắn bó, đồng hành với dân tộc, cùng chung tay xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc vì mục tiêu chung(13). Đặc biệt, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương “phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn giáo cho sự nghiệp phát triển đất nước”(14).

Chính vì thế, cần khẳng định rõ, không có bất kỳ sự áp đặt nào trong định hướng chính trị của Nhà nước đối với chính sách tôn giáo ở Việt Nam. Rõ ràng, phải dựa trên cơ sở tôn trọng, hiểu biết lẫn nhau, mỗi bên nhận thức được ranh giới, nghĩa vụ, quyền hạn của chính mình thì mới có thể chung sống hòa hợp, cùng nhau thúc đẩy sự phát triển chung. Nếu không phải là một chính sách tôn giáo tiến bộ, hợp thời đại và hợp lòng dân, chắc chắn không thể có một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam như ngày nay. Nội dung của Sách trắng hướng tới khẳng định, trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo luôn được Nhà nước ghi nhận, bảo hộ theo chiều hướng tiến bộ, tích cực(15). Nhà nước luôn coi trọng đời sống tín ngưỡng, tôn giáo của người dân, bảo đảm các hoạt động tôn giáo diễn ra bình thường theo đúng quy định của pháp luật. Đây là sự thật không thể phủ nhận!

Việc xuất bản Sách trắng chính là nhằm công khai rộng rãi tới công chúng trong nước và bạn bè quốc tế về chính sách ưu tiên, chính sách bền vững của Việt Nam đối với quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Nhà nước Việt Nam đã, đang và sẽ quyết tâm thực hiện mục tiêu ngày càng bảo đảm, bảo vệ và thúc đẩy tốt hơn các quyền cơ bản của người dân, trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo./.

------------

(1) Từ năm 2004 đến năm 2005, Việt Nam lần đầu tiên bị Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đưa vào CPC, tới năm 2006 Việt Nam được đưa ra khỏi danh sách này. Tuy nhiên, liên tiếp từ năm 2012 đến nay, USCIRF - cơ quan tham vấn độc lập do Quốc hội Hoa Kỳ thành lập và là “cánh tay nối dài” của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ - thường xuyên đề nghị đưa Việt Nam trở lại CPC, bất chấp những nỗ lực và thành tựu quan trọng của Việt Nam về bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo đã được cộng đồng quốc tế thừa nhận rộng rãi
(2) Xem: “Nhận diện những đánh giá sai lệch về Sách trắng Tôn giáo ở Việt Nam”, Trang Thông tin điện tử Công an Quảng Ninh, ngày 27-3-2023,  https://congan.quangninh.gov.vn/tin-antt-va-canh-bao-toi-pham/nhan-dien-nhung-danh-gia-sai-lech-ve-sach-trang-ton-giao-o-viet-nam-25069.html
(3) Thượng tọa Thích Đức Thiện, Phó Chủ tịch, Tổng Thư ký Hội đồng Trị sự, Giáo hội Phật giáo Việt Nam khẳng định: “Trong tất cả các hoạt động Phật sự của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, không hề có sự khó khăn nào trong việc thực hành niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo của mình”; Mục sư Charlie McKenzie, Cộng đồng Tin Lành quốc tế Hanoi International Fellowship nhận định: “Khi được biết các tổ chức cáo buộc Việt Nam vi phạm tự do tôn giáo, tôi muốn nói với họ rằng, hãy thử đến sống ở Việt Nam, cùng với người Việt Nam, đi hằng ngày trên các con đường ở Việt Nam và đặc biệt hãy đến nhà thờ vào ngày chủ nhật trước khi đưa ra phán xét. Tự do tôn giáo có ở Việt Nam không ư? Có nhiều là đằng khác!”, xem: “Luận điệu xuyên tạc về tự do tôn giáo tại Việt Nam”, phóng sự trên VTV4, ngày 12-6-2022, https://youtu.be/JgATs9LQE1E?si=EL93-dKpT7z2WkqN
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 12, tr. 300
(5) Người luôn chủ trương “cầu đồng tồn dị”, nghĩa là khuyến khích điểm tương đồng và chấp nhận sự dị biệt, không quá nhấn mạnh sự khác biệt về mặt tư tưởng - duy tâm hay duy vật, hễ là người dân Việt Nam dù theo tôn giáo hay không theo tôn giáo đều hướng đến mục tiêu xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Nội dung tư tưởng nhân văn, sâu sắc này của Hồ Chí Minh được chuyển tải cô đọng trong đoạn văn nổi tiếng của Người: “Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo Giêsu có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm của nó là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm của nó, chính sách của nó thích hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử, Giêsu, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng những có điểm chung đó sao? Họ đều muốn mưu hạnh phúc cho loài người, mưu phúc lợi cho xã hội. Nếu hôm nay họ còn sống trên cõi đời này, nếu họ hợp lại một chỗ, tôi tin rằng họ nhất định chung sống với nhau rất hoàn mỹ như những người bạn thân thiết. Tôi cố gắng làm người học trò của các vị ấy” (Xem: Viện Nghiên cứu Tôn giáo: Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998, tr. 13)
(6) Xem: Phạm Hữu Xuyên: “Quan điểm của Hồ Chí Minh về đề cao sự tương đồng, tôn trọng sự khác biệt giữa tôn giáo và chủ nghĩa xã hội”, Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, số 5, 2006
(7) Từ năm 2019 đến nay, cùng với việc triển khai Quy định số 06-QĐ/TW, ngày 28-8-2018, của Bộ Chính trị, về Một số điểm về kết nạp đảng viên đối với người theo tôn giáo và đảng viên là người theo tôn giáo tham gia sinh hoạt tôn giáo (thay thế Quy định số 123-QĐ/TW, ngày 28-9-2004, quy định về kết nạp Đảng của người có đạo), công tác kết nạp đảng viên là người theo tôn giáo đạt được nhiều kết quả đáng khẳng định. Tính đến tháng 6-2021, theo số liệu thống kê từ cấp ủy các địa phương, toàn Đảng có 79.219 đảng viên theo tôn giáo (chiếm 1,5% tổng số đảng viên trong toàn Đảng), trong đó 60.946 đảng viên là tín đồ tôn giáo, 17.686 đảng viên là nhà tu hành tôn giáo, 486 đảng viên là chức việc tôn giáo, 101 đảng viên là chức sắc tôn giáo (Dẫn theo: Lê Tâm Đắc: “Công tác kết nạp đảng viên là người theo tôn giáo ở Việt Nam hiện nay: Từ lý luận đến thực tiễn”, Tạp chí Công tác tôn giáo, số 7, 2022, tr. 29)
(8) United Nations: International Convenant on Civil and Political rights, https://treaties.un.org/doc/treaties/1976/03/19760323%2006-17%20am/ch_iv_04.pdf, 1967
(9) Ở Hoa Kỳ, mặc dù không ban bố luật pháp riêng về tôn giáo nhưng các hoạt động tôn giáo đều được đặt dưới hệ thống pháp luật dân sự giống như bất kỳ tổ chức xã hội nào khác. Ở Pháp, “Luật phân ly” không thiếu các điều khoản nhằm tăng cường sự giám sát của chính quyền đối với các hiệp hội tôn giáo và ngăn chặn các hoạt động lợi dụng tôn giáo gây chia rẽ, ly khai dân tộc. Tháng 2-2016, Chính phủ Pháp còn ban hành Đạo luật ly khai, trong đó cấm các hoạt động tôn giáo tuyên truyền về ly khai. Ở Nhật Bản, chính phủ Nhật Bản phải sửa đổi, bổ sung “Luật Pháp nhân tôn giáo” để hạn chế quyền của các nhóm tôn giáo, tránh làm tổn hại đến an ninh quốc gia
(10) Ban Tôn giáo Chính phủ: Tài liệu giới thiệu Luật Tín ngưỡng, tôn giáo, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, 2017, tr. 9
(11) Lịch sử Việt Nam ghi nhận, trong các cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, nhiều nhà sư phát nguyện cởi áo cà sa ra trận, trở thành những chiến sĩ vệ quốc đoàn kiên trung, nhiều cơ sở tôn giáo là căn cứ địa cách mạng nuôi giấu cán bộ kháng chiến, hàng vạn thanh niên trong vùng đồng bào có đạo hăng hái tham gia tòng quân, chi viện cho chiến trường
(12) Sách trắng nêu rõ, để bảo đảm quyền tự do tôn giáo đối với người chấp hành án phạt tù, hiện nay đã cung cấp 4.418 cuốn thuộc 17 đầu sách liên quan đến tôn giáo được đưa vào thư viện của 54 trại giam, tr. 92
(13) Xem: Vũ Hoàng Công: Chính sách tôn giáo trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Tlđd
(14) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I,  tr. 171
(15) Xem: Ban Tôn giáo Chính phủ: Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, 2022, tr. 73


Công tác đối ngoại góp phần bảo vệ và phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới

TRẦN CHÍ TRUNG - NGUYỄN ĐỨC PHÚC
Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược, Học viện Ngoại giao, Bộ Ngoại giao - Bộ Ngoại giao
09:40, ngày 30-05-2024

TCCS - Dựa trên nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đối ngoại Việt Nam có vai trò tiên phong trong việc bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, góp phần nâng cao vị thế đất nước, xây dựng và quảng bá hình ảnh Việt Nam, đưa đất nước gắn kết ngày càng chặt chẽ với thế giới; đồng thời, đóng góp quan trọng bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch.

Một số vấn đề chung về bảo vệ và phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng trong lĩnh vực đối ngoại

Bảo vệ và phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng là quan điểm xuyên suốt và được đặt ở vị trí hàng đầu trong công tác xây dựng Đảng. Đại hội VII của Đảng (năm 1991) xác định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”(1). Ngày 22-10-2018, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 35-NQ/TW, “Về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”(2). Đại hội XIII của Đảng (năm 2021) tiếp tục khẳng định: “kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh”(3).

Tư duy đối ngoại Việt Nam là luôn nắm vững và xử lý tốt mối quan hệ lớn giữa ổn định, đổi mới và phát triển. Để đổi mới và phát triển cần dựa trên nền tảng vững chắc. Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhận định: “Đổi mới tư duy về đối ngoại trước hết là sự kế thừa và phát triển truyền thống ngoại giao của dân tộc, vận dụng sáng tạo, linh hoạt chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp với sự phát triển nhận thức về đối ngoại qua các nhiệm kỳ Đại hội Đảng và gắn với thực tiễn trong nước và bối cảnh quốc tế của từng thời kỳ, chọn lọc và tiếp thu tinh hoa của nhân loại. Đổi mới tư duy đúng và kịp thời sẽ giúp tạo dựng và nắm bắt cơ hội, đổi mới tư duy chậm thì sẽ dẫn đến trì trệ, thậm chí biến thành thách thức”(4).

Từ đó, nhiệm vụ bảo vệ và phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng trong lĩnh vực đối ngoại có thể hiểu là: 1- Vận dụng sáng tạo những giá trị thời đại trong quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại để những giá trị đó ngày càng thấm sâu, đóng vai trò chủ đạo trong nhận thức của toàn Đảng, toàn dân và trong quan hệ với bạn bè quốc tế; 2- Đề xuất, luận chứng các giải pháp đối ngoại nhằm bảo vệ và phát triển nền tảng tư tưởng, đường lối, chính sách của Đảng, những thành tựu phát triển của đất nước; 3- Chủ động, kiên quyết đấu tranh dư luận và trong các hoạt động đối ngoại cụ thể nhằm phản bác, vô hiệu hóa những luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động; 4- Phát huy vai trò tiên phong trong dự báo, xác định xu hướng, đưa nền tảng tư tưởng của Đảng vào thực tiễn.

Ủy viên Trung ương Đảng, Quyền Chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân trao quyết định bổ nhiệm cho các tân đại sứ, ngày 24-2-2024 _Nguồn: chinhphu.vn

Mối quan hệ giữa đối ngoại với bảo vệ và phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng

Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng cho tư duy đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam

Thứ nhất, chủ nghĩa Mác - Lê-nin cung cấp thế giới quan và phương pháp luận khoa học giúp Đảng Cộng sản Việt Nam nhìn ra thế giới, luận giải tình hình, dự báo xu thế, từ đó đưa ra các quyết sách đối ngoại sáng suốt. Đây là sự kế thừa và phát triển những giá trị tiến bộ của tư tưởng nhân loại, được vận dụng và phát triển phù hợp với thực tiễn lịch sử xã hội. Tiếp nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm thấy phương hướng, “cẩm nang” cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước, mà đến nay vẫn tiếp tục là “kim chỉ nam” cho đường lối đối ngoại Việt Nam.

Thứ hai, là người khai sinh ra nền ngoại giao của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại một hệ thống tư duy đối ngoại, quan điểm về các vấn đề quốc tế, chiến lược và sách lược cách mạng Việt Nam trong quan hệ với thế giới. Bắt nguồn từ triết lý và truyền thống ngoại giao của ông cha ta, Người đã kế thừa và phát triển những giá trị đó lên tầm cao mới. Tư tưởng của Người đến nay vẫn còn nguyên giá trị, tiếp tục soi sáng cho sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế của Việt Nam.

Đối ngoại góp phần tăng cường, bồi đắp, phát triển và đưa nền tảng tư tưởng của Đảng vào thực tiễn

Thứ nhất, mở rộng và nâng tầm quan hệ ngoại giao với các nước, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định từ sớm, từ xa”, góp phần quan trọng bảo vệ độc lập, chủ quyền và an ninh của đất nước, đồng thời tạo sự hiểu biết và ủng hộ của bạn bè quốc tế, trao đổi lý luận phục vụ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Thứ hai, tạo môi trường quốc tế thuận lợi và huy động hiệu quả các nguồn lực từ bên ngoài nhằm đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế - xã hội, góp phần xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Thứ ba, đẩy mạnh quảng bá sâu rộng công cuộc đổi mới, hình ảnh đất nước, con người Việt Nam, tích cực, đóng góp trách nhiệm vào nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế, từ đó nâng cao vị thế và uy tín quốc tế của đất nước, khẳng định nền tảng tư tưởng đúng đắn và vai trò cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế.

Kết hợp hài hòa giữa “xây” và “chống”

Công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay cần kết hợp nhuần nhuyễn giữa “bảo vệ” và “đấu tranh”, giữa xây” và “chống”. Gắn kết chặt chẽ giữa xây” và “chống”, trong đó xây” là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược và lâu dài; chống” là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên và cấp bách. Với nhiệm vụ “bảo vệ” kết hợp với “đấu tranh”, cần dựa trên quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về “thêm bạn, bớt thù”(5), lấy tâm công” làm nền tảng, lấy giáo dục, thuyết phục, tuyên truyền làm trọng, lấy thực tiễn sinh động để chứng minh đường lối đúng đắn, tiến tới chuyển hóa được “đối tượng” thành “đối tác”, qua đó giữ vững đường lối đối ngoại. Cùng với đó, cần chủ động phòng ngừa, kiên quyết, kiên trì đấu tranh không khoan nhượng đối với những nội dung, chủ thể “chống” trong những điều kiện cần thiết.

Chủ thể cần bảo vệ (xây) là chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, quan điểm, đường lối đối nội và đường lối đối ngoại của Đảng và cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín quốc tế của đất nước. Bên cạnh đó, cần bảo vệ nhân dân, bảo vệ Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc, sự nghiệp đổi mới và quan hệ đối ngoại của đất nước; giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước, đồng thời xây dựng đội ngũ cán bộ đối ngoại bản lĩnh, kiên định, trình độ, tận tâm...

Với nền tảng là chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đối ngoại tiếp tục góp phần bồi đắp, phát triển, đưa nền tảng tư tưởng của Đảng đi vào thực tiễn. Bằng sự vận dụng sáng tạo và không ngừng đổi mới tư duy, công tác lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam luôn phát huy giá trị trong thời đại mới, ứng phó kịp thời trước những biến động nhanh chóng của thế giới.

Đối tượng phải đấu tranh (chống) là những quan điểm sai trái, thù địch, lợi dụng dư luận để xuyên tạc, kích động chống phá chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước; bôi nhọ uy tín, danh dự của lãnh đạo Đảng, Nhà nước. Hơn nữa, cần nhanh chóng dùng sự thật chân thực và thực tiễn cuộc sống của đất nước trên mọi phương diện để phản bác những thông tin sai lệch phủ nhận những thành tựu phát triển và hội nhập quốc tế của đất nước, đấu tranh chống những hành động nguy hại đối với môi trường hòa bình, ổn định, cố tình hạ thấp vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế...

Trước tình hình các thế lực thù địch, phản động có những hoạt động chống phá ngày càng tinh vi và diễn ra bằng nhiều hình thức, với nhiều thành phần, không chỉ là chủ nghĩa đế quốc, mà còn là một số thành phần theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan, nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong lĩnh vực đối ngoại không chỉ diễn ra bên ngoài, mà cả ở bên trong. Bảo vệ Đảng trước âm mưu “diễn biến hòa bình”, đồng thời bảo vệ lý tưởng của Đảng trước sự thoái hóa, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên.

Kiên quyết bác bỏ các luận điệu sai trái, thù địch hòng xuyên tạc, bôi nhọ, công kích đường lối đối ngoại của Đảng, hòng làm xói mòn niềm tin của nhân dân, phá hoại môi trường hòa bình, ổn định của đất nước

Một là, các thế lực thù địch, phản động xuyên tạc rằng tư duy và đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam là lạc hậu, lỗi thời, lý thuyết và phi thực tế.

Có thể khẳng định, tư duy và đường lối đối ngoại của Đảng luôn vì lợi ích quốc gia - dân tộc. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Muốn làm gì cũng cần vì lợi ích của dân tộc mà làm”(6), nghĩa là phải luôn đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên hàng đầu. Lời căn dặn của Người đã trở thành nguyên tắc nhất quán của đường lối đối ngoại Việt Nam trong suốt những năm tháng cách mạng và ngày nay.

Trên cơ sở bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam không ngừng đổi mới tư duy đối ngoại, không ngừng bám sát thực tế. Đó là quá trình phát triển từng bước vững chắc, luôn được kiểm nghiệm trong thực tiễn, có sự kế thừa và tiếp nối cho phù hợp với bối cảnh đất nước và xu thế bên ngoài(7). Tư duy đối ngoại của Đảng luôn kế thừa truyền thống lịch sử và có tính biện chứng, khoa học, thực tiễn.

Nhờ sự kiên định, vận dụng sáng tạo nền tảng tư tưởng đối ngoại của Đảng, cùng với quá trình đổi mới, Việt Nam đã hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng vào khu vực và toàn cầu, khơi thông, mở rộng và làm sâu sắc hơn các mối quan hệ đối ngoại. Thông qua đó, Việt Nam có nhiều điều kiện thuận lợi trong huy động các nguồn lực bên ngoài phục vụ quá trình phát triển, phát huy vai trò nòng cốt của đối ngoại và từng bước nâng cao vị thế quốc gia trên trường quốc tế. Những kết quả đạt được trong quá trình hội nhập quốc tế đã góp phần quan trọng vào những thành tựu to lớn chung của đất nước.

Hai là, các thế lực thù địch, phản động xuyên tạc, cổ xúy cho rằng, Việt Nam sẽ phải liên minh với một nước lớn chống nước khác.

Có thể thấy, trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc từ trước đến nay, nhân dân Việt Nam luôn kế thừa và phát huy truyền thống yêu nước, nêu cao ý chí độc lập, tự chủ. Đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ thể hiện qua chính sách quốc phòng “bốn không”(8) được Đảng, Nhà nước Việt Nam nhất quán thực hiện và khẳng định tính đúng đắn trong từng giai đoạn của đất nước.

Xuyên suốt lịch sử, đối ngoại Việt Nam luôn phục vụ lợi ích quốc gia - dân tộc, vì lợi ích chung của cả nhân loại, không gây bất lợi cho đối tác bên ngoài và càng không vì một đối tác bên ngoài mà làm ảnh hưởng tới lợi ích chính đáng của đối tác khác.

Có thể khẳng định, quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam hiện nay hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với xu thế chung của thế giới. Ưu tiên hàng đầu là bảo đảm cao nhất lợi ích của quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả.

Ba là, các thế lực thù địch, phản động xuyên tạc  rằng, Việt Nam thực hiện ngoại giao đu dây”, “không dám thể hiện lập trường”.

Đối ngoại của Việt Nam luôn nhất quán, đó là thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại; là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng. Việt Nam không chọn bên mà chọn chính nghĩa, sự công bằng, công lý và lẽ phải. Điều này cũng thể hiện tính xuyên suốt, nhất quán trong đường lối đối ngoại của Việt Nam. Đơn cử như, đối với cuộc xung đột Nga - U-crai-na, quan điểm nhất quán của Việt Nam là đứng về công lý và đề xuất biện pháp đối thoại, ngoại giao để giải quyết vấn đề. Quan điểm này của Việt Nam cũng phù hợp với tinh thần thông điệp của Đại hội đồng Liên hợp quốc: “Hãy mở rộng cánh cửa đối thoại và ngoại giao ngay từ bây giờ”(9). Đối với Việt Nam, cả Nga và U-crai-na đều là đối tác quan trọng. Việt Nam kêu gọi hai bên giảm leo thang căng thẳng, nối lại đối thoại và tìm kiếm giải pháp lâu dài trên cơ sở lợi ích và quan ngại của các bên, tôn trọng luật pháp quốc tế, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, an toàn của cư dân sinh sống, trong đó có cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Đây cũng là cách mà nhiều quốc gia trên thế giới đã lựa chọn(10).

Bốn là, các thế lực thù địch, phản động xuyên tạc tìm cách lôi kéo dư luận hòng can thiệp các vấn đề nhân quyền, dân tộc, tôn giáo, âm mưu làm xói mòn lòng tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng, Nhà nước; gây rối, ảnh hưởng đến an ninh, trật tự xã hội, phá hoại môi trường hòa bình ổn định để phát triển đất nước.

Có thể thấy, dân chủ là bản chất của chế độ Việt Nam, vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển đất nước, vì vậy trong mỗi tiến trình phát triển của đất nước, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn chú trọng hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân(11). Trên nền tảng đó, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trong bảo đảm quyền con người, trở thành một trong những nước chủ động, tích cực tham gia các điều ước quốc tế về nhân quyền của Liên hợp quốc và các tổ chức quốc tế. Việt Nam đã phê chuẩn, gia nhập 7/9 điều ước cơ bản của Liên hợp quốc về quyền con người; phê chuẩn, gia nhập 25 công ước của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO). Đó là minh chứng sinh động về tính đúng đắn của chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam trong lĩnh vực dân chủ, nhân quyền và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay.

Năm là, các thế lực thù địch, phản động xuyên tạc tập trung bôi nhọ, công kích lãnh đạo Đảng, Nhà nước, cán bộ ngoại giao và cơ quan ngoại giao Việt Nam.

Trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ nền độc lập, hòa bình, xây dựng và phát triển đất nước, những dấu mốc thắng lợi và thành tựu to lớn của Đảng và Nhà nước Việt Nam chính là sự khẳng định thuyết phục nhất, chân thực nhất về công lao và cống hiến to lớn của các thế hệ lãnh đạo Đảng, Nhà nước cùng toàn thể cán bộ đối ngoại. Trên thực tế, nhiều thủ đoạn bôi nhọ, công kích cán bộ vẫn còn hiện hữu, nhất là đối với lãnh đạo Đảng, Nhà nước, hòng gây chia rẽ nội bộ, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Việc bịa đặt, bôi nhọ, tạo dựng thông tin sai lệch về con người, là việc làm xấu xa, trái với đạo đức, truyền thống quý báu của dân tộc.

Chủ tịch Hồ Chí Minh - nhà ngoại giao kiệt xuất, người sáng lập nền ngoại giao Việt Nam hiện đại, đã trực tiếp dẫn dắt, chỉ đạo những thế hệ cán bộ ngoại giao đầu tiên sau cách mạng. Những di sản to lớn về tư tưởng, phong cách và nghệ thuật ngoại giao của Người đến nay vẫn tiếp tục soi sáng cho ngành ngoại giao. Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đội ngũ cán bộ ngành ngoại giao luôn phấn đấu trở thành những cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, nắm vững chuyên môn, thông thạo kỹ năng và năng động thích ứng với tình hình(12), hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao phó.

Các nhà ngoại giao Việt Nam qua từng thời kỳ đã khẳng định trình độ, bản lĩnh khi đại diện cho đất nước giữ những trọng trách quan trọng tại các tổ chức, diễn đàn quốc tế lớn ở khu vực và toàn cầu(13). Hiện nay, Việt Nam đang tự tin bước trên con đường hội nhập quốc tế với tâm thế mới, vận hội mới. Điều đó tiếp tục là một trong những minh chứng rõ nét khẳng định uy tín, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, Nhà nước, các nhà lãnh đạo và cán bộ làm công tác đối ngoại, góp phần vào cuộc đấu tranh chung trên mặt trận tư tưởng hiện nay.

Liền chị mời trầu các nữ đại sứ và trưởng cơ quan đại diện nước ngoài tại Việt Nam thưởng thức chương trình dân ca quan họ Bắc Ninh _Nguồn: baoquocte.vn

Phương hướng phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong bảo vệ và phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng trên lĩnh vực đối ngoại

Trong suốt chặng đường gần 40 năm đổi mới, đối ngoại đã phát huy mạnh mẽ vai trò tiên phong, góp phần bảo vệ và phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng trong một thế giới đầy biến động. Trong thời gian tới, để tiếp tục phát huy vai trò tiên phong trong bảo vệ và phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng, đối ngoại cần ưu tiên một số nội dung chính sau:

Thứ nhất, tập trung tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, vận dụng và phát triển những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại.

Quá trình này sẽ góp phần minh chứng tính đúng đắn, khoa học, sáng tạo trong đường lối đối ngoại của Đảng, phục vụ lợi ích quốc gia - dân tộc, đặt con người vào vị trí trung tâm, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, việc tổng kết thực tiễn đối ngoại qua các thời kỳ, phân tích, đánh giá những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân sẽ giúp rút ra những bài học quý giá để vận dụng vào công tác đối ngoại trong giai đoạn mới. Với nhận thức đó, đối ngoại cần phát huy vai trò tiên phong trong bảo vệ môi trường hòa bình, an ninh “từ sớm, từ xa”, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển và nâng cao vị thế của đất nước. Quán triệt sâu sắc đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác, phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa trên cơ sở kế thừa và phát huy tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh. Chú trọng xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng. Cần vận dụng linh hoạt, sáng tạo, phù hợp với bối cảnh tình hình mới, kế thừa những giá trị cốt lõi về đối ngoại của Chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc xử lý hài hòa, khéo léo các mối quan hệ, nhất là với các nước láng giềng và nước lớn, luôn biết mình, biết người”, biết thời, biết thế”, đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên hàng đầu và tôn trọng luật pháp quốc tế.

Thứ hai, đẩy mạnh nghiên cứu, dự báo, bám sát tình hình để kịp thời đổi mới tư duy, chủ động ứng phó và có giải pháp thích hợp trong công tác đối ngoại.

Trong bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều biến động, nghiên cứu khoa học và nghiên cứu cơ bản trong lĩnh vực đối ngoại đã có những bước tiến đáng kể, dành được sự quan tâm lớn của ngành ngoại giao(14). Công tác nghiên cứu, dự báo sẽ góp phần đắc lực vào quá trình phát triển đất nước, đồng thời giúp Việt Nam tránh bị động trong đối phó, tạo cớ cho các thế lực thù địch, phản động lợi dụng.

Đối ngoại cần tiếp tục chủ động bám sát tình hình quốc tế và trong nước, nâng cao hiệu quả công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược, xây dựng kịch bản, tranh thủ các mạng lưới đối tác, tư vấn quốc tế, đối thoại chính sách kinh tế cho Việt Nam. Mặt khác, cần xây dựng cơ chế phối hợp nhanh chóng, hiệu quả trong xử lý các vấn đề quan trọng, đột xuất, những vấn đề mang tính quốc tế ở cả trong và ngoài nước, góp phần chủ động hơn nữa trong nắm bắt dư luận, sớm phát hiện các hoạt động chống phá, đấu tranh phản bác thông tin sai lệch, nhất là trong các vấn đề chủ quyền lãnh thổ, quan hệ nước lớn, xung đột, dân chủ, nhân quyền,... để có hình thức đấu tranh phù hợp, xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa đối tác và đối tượng, giữa xây” và “chống”, qua đó giữ vững môi trường hòa bình, an ninh Tổ quốc.

Thứ ba, chủ động, sáng tạo trong giải thích, thông tin, truyền thông đối ngoại về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước để công chúng thấu hiểu, tự giác nâng cao nhận thức, giác ngộ trước các mưu đồ, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động.

Công tác thông tin đối ngoại cần đẩy mạnh quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam để thế giới biết đến và thêm yêu mến Việt Nam. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư ngày càng phát triển, công tác thông tin đối ngoại đứng trước những yêu cầu, nhiệm vụ quan trọng mới, trong đó có sự chỉ đạo, trao đổi thông tin kịp thời giữa các cơ quan thông tấn, báo chí, các cơ quan đại diện trong và ngoài nước nhằm nắm bắt thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng, các trang mạng xã hội,... nhất là nêu cao sự cảnh giác, nhanh nhạy và sắc bén trong nhận diện, đấu tranh, phản bác các thông tin xấu độc, quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, phản động.

Đối ngoại cần chủ động và tích cực tham gia cuộc đấu tranh dư luận bằng các biện pháp phù hợp, kể cả trên mặt trận tư tưởng văn hóa đến các phương tiện truyền thông đối ngoại, đồng thời đẩy mạnh hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý thông tin trên nền tảng số, mạng xã hội; chủ động cung cấp thông tin nhằm định hướng dư luận, đẩy lùi thông tin, văn hóa xấu, độc, nâng cao ý thức cảnh giác trước âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động.

Tích cực đổi mới phương thức, nội dung và tăng cường ứng dụng công nghệ hiện đại nhằm nâng cao hiệu quả tuyên truyền; coi trọng nội dung giáo dục nền tảng tư tưởng của Đảng, văn hóa, lịch sử, truyền thống dân tộc, bảo đảm thực hiện tốt, hiệu quả nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong đấu tranh dư luận, cần chú trọng kết hợp các dạng thức truyền thông trên cơ sở phân cấp rõ ràng giữa các đơn vị triển khai nhằm tạo mặt trận dư luận có trình tự rõ ràng, bổ sung, hỗ trợ cho nhau, không tạo khe hở để lực lượng cực đoan bên ngoài lợi dụng, kích động dư luận.

Thứ tư, xây dựng đội ngũ cán bộ đối ngoại bản lĩnh chính trị, “vừa hồng, vừa chuyên”.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”(15); Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”(16). Những năm tới là thời gian chuyển giao thế hệ những cán bộ làm công tác đối ngoại(17), do đó vấn đề kế thừa và phát triển đội ngũ cán bộ đối ngoại bản lĩnh, vừa hồng, vừa chuyên, bảo đảm sự chuyển giao thế hệ một cách vững vàng là một yêu cầu cấp thiết.

Trước hết, cần đẩy mạnh công tác xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại về bản lĩnh, phẩm chất. Đây là khâu quan trọng nhất, bởi khi đã thấm nhuần đường lối, chủ trương của Đảng, bản sắc ngoại giao Việt Nam, cán bộ đối ngoại khi tham gia vào đời sống quốc tế mới đủ bản lĩnh, năng lực để kiến tạo điểm tương đồng, giảm thiểu điểm khác biệt, tiếp tục đấu tranh, bảo vệ và đẩy mạnh hợp tác quốc tế vì lợi ích quốc gia - dân tộc(18). Đặc biệt, tổ chức học tập, quán triệt thực hiện các văn bản, nghị quyết của Đảng về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, trong đó có Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18-5-2021, của Bộ Chính trị, “Về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15-5-2016, của Bộ Chính trị khóa XII, “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”.

Ngoài ra, chú trọng nghiên cứu tư tưởng, trường phái ngoại giao Việt Nam, qua đó vận dụng, phát huy các giá trị thời đại của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và truyền thống ngoại giao Việt Nam. Xây dựng kế hoạch phát triển nguồn nhân lực toàn diện, bảo đảm cả về chất lượng và số lượng. Ưu tiên đề cử, giới thiệu cán bộ có tiềm năng, triển vọng tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng ở trong và ngoài nước. Chú trọng đào tạo tại chỗ, gắn đào tạo, bồi dưỡng với thi đua - khen thưởng, phát huy vai trò người đứng đầu. Bên cạnh đó, quán triệt thực hành rộng rãi, duy trì kỷ cương phép nước, chống quan liêu, lãng phí; tích cực, chủ động hội nhập quốc tế, góp phần nâng cao tiềm lực, vị thế và uy tín Việt Nam trên trường quốc tế.

Đại hội XIII của Đảng đã mang đến cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta xung lực mới để vượt qua mọi thử thách, đóng góp nhiều hơn cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Bước vào giai đoạn mới, bảo vệ và phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng trong lĩnh vực đối ngoại trở thành một nhiệm vụ then chốt. Mọi cấp, mọi ngành, mọi cán bộ, đảng viên, người dân trong nước, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài cần thấm nhuần và nâng cao hơn nữa ý thức, trách nhiệm của mình trong tham gia công tác đối ngoại.

Nhằm giữ vững và phát huy di sản quý báu, to lớn của các thế hệ đi trước, ngoại giao Việt Nam sẽ tiếp tục vững bước tiến lên, và luôn đặt trên vai trọng trách thiêng liêng nhất là bảo vệ và phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới, đóng góp xứng đáng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.

---------------------------

(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 127
(2) Đảng đã khẳng định và cụ thể hóa: “Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là bảo vệ Đảng, Cương lĩnh chính trị, đường lối của Đảng; bảo vệ nhân dân, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bảo vệ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước”. Xem: Nguyễn Ngọc Cơ: “Mỗi đảng viên phải có trách nhiệm bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng”, Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 12-11-2021, https://dangcongsan.vn/bao-ve-nen-tang-tu-tuong-cua-dang/moi-dang-vien-phai-co-trach-nhiem-bao-ve-nen-tang-tu-tuong-cua-dang-596992.html
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 33
(4) Nguyễn Phú Trọng: “Kế thừa, phát huy truyền thống dân tộc, tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, quyết tâm xây dựng và phát triển nền đối ngoại, ngoại giao toàn diện, hiện đại, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 21-11-2023, https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/ke-thua-phat-huy-truyen-thong-dan-toc-tu-tuong-ngoai-giao-ho-chi-minh-quyet-tam-xay-dung-va-phat-trien-nen-doi-ngoai-ngoai-giao-toan-dien-hien-dai-man
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 4, tr. 215
(6) Nguyễn Dy Niên: Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 112
(7) Đổi mới tư duy đối ngoại được thể hiện rõ và đặc sắc nhất trong thời kỳ đổi mới, với ba giai đoạn: 1- Giai đoạn phá thế bao vây, cấm vận (1986 - 1995); 2- Giai đoạn mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế (1996 - 2010); 3- Giai đoạn đưa quan hệ đối ngoại đi vào chiều sâu và hội nhập quốc tế sâu rộng, toàn diện (từ năm 2011 đến nay)
(8) 1- Không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ để chống lại nước khác; 2- Không tham gia liên minh quân sự; 3- Không liên kết với nước này để chống nước kia; 4- Không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế
(9) António Guterres: “Secretary-General’s press remarks following vote of General Assembly on Ukraine” (Tạm dịch: Phát biểu với báo chí của Tổng Thư ký Liên hợp quốc sau cuộc bỏ phiếu của Đại hội đồng Liên hợp quốc về U-crai-na), United Nations, ngày 2-3-2022, https://www.un.org/sg/en/content/sg/
speeches/2022-03-02/remarks-following-vote-of-general-assembly-ukraine

(10) Nhiều quốc gia bỏ phiếu trắng khi thông qua hai nghị quyết của Đại hội đồng Liên hợp quốc. Xem: Mai Chi: “Công lý, đối thoại và ngoại giao”, Tạp chí Tuyên giáo điện tử, ngày 8-4-2022, https://tuyengiao.vn/cong-ly-doi-thoai-va-ngoai-giao-143037
(11) Vũ Văn Hiền: Một số luận cứ phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, chống phá Đại hội XIII của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. 1, tr. 194
(12) Phạm Quang Hiệu: “Xây dựng đội ngũ cán bộ đối ngoại toàn diện, hiện đại, ngang tầm nhiệm vụ”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 22-4-2021, https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/quoc-phong-an-ninh-oi-ngoai1/-/2018/821754/xay-dung-doi-ngu-can-bo-doi-ngoai-toan-dien%2C-hien-dai%2C-ngang-tam-nhiem-vu.aspx
(13) Tổng Thư ký ASEAN, Phó Tổng Thư ký ASEAN, Thành viên Ủy ban Luật pháp quốc tế của Liên hợp quốc (ILC)...
(14) Thể hiện qua việc đánh giá tình hình, đề ra đối sách, tham mưu điều hành kinh tế, tranh thủ tư vấn nước ngoài, nhìn nhận những xu thế mới trên thế giới để phục vụ lãnh đạo Đảng, Nhà nước và các cơ quan hữu quan trong đưa ra những quyết sách thích hợp. Xem: Bộ Ngoại giao: Ngoại giao Việt Nam 2000 - 2015, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2019, tr. 186
(15), (16) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 309, 280
(17) Chuyển giao từ thế hệ cán bộ sinh ra trong lúc đất nước còn chiến tranh, học tập ở các nước xã hội chủ nghĩa sang thế hệ cán bộ sinh ra, lớn lên trong thời bình, được đào tạo từ trong nước và ngoài nước, sẽ đảm đương những nhiệm vụ quan trọng trên mặt trận đối ngoại
(18) Nguyễn Minh Vũ: Phát triển đội ngũ cán bộ đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng (phần cuối), Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương, ngày 6-11-2021, http://hdll.vn/vi/nghien-cuu---trao-doi/phat-trien-doi-ngu-can-bo-du-kha-nang-lam-viec-trong-moi-truong-quoc-te--dap-ung-yeu-cau-hoi-nhap-quoc-te-toan-dien-va-sau-rong-phan-cuoi.html


Đấu tranh chống chiêu trò lợi dụng tình trạng cán bộ sợ trách nhiệm, né tránh trách nhiệm để chống phá Đảng và Nhà nước - Nhìn từ cuốn sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng

NGUYỄN THANH SƠN - TRỊNH XUÂN THẮNG
Tạp chí Cộng sản - Học viện Chính trị khu vực IV
11:21, ngày 18-05-2024

TCCS - Trong cuốn sách “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nêu, làm rõ thực trạng cán bộ, công chức, viên chức (CBCCVC) sợ trách nhiệm, né tránh trách nhiệm trong thực thi nhiệm vụ; đồng thời vạch ra những nhiệm vụ, giải pháp để phòng trị, ngăn chặn thực trạng này. Đây là cơ sở lý luận và thực tiễn rất quan trọng để đấu tranh với những chiêu trò, luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù định, lợi dụng hiện tượng một bộ phận CBCCVC sợ trách nhiệm, né tránh trách nhiệm để chống phá Đảng và Nhà nước ta; đồng thời là cẩm nang quý để xây dựng đội ngũ CBCCVC toàn tâm, toàn ý phục vụ lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, của Đảng, góp phần xây dựng Đảng và hệ thống chính trị ngày càng trong sạch, vững mạnh.

Nâng cao chất lượng công tác cán bộ để xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức toàn tâm, toàn ý phục vụ lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân _Nguồn: baovephapluat.vn

Nhận diện, đấu tranh với chiêu trò lợi dụng tình trạng cán bộ, công chức, viên chức sợ trách nhiệm, né tránh trách nhiệm để chống phá Đảng và Nhà nước ta

Trách nhiệm của CBCCVC là thực hiện đúng, đầy đủ chức trách, nhiệm vụ, thẩm quyền đã được Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó để phục vụ lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, của Đảng. Thời gian qua, nhiều địa phương, đơn vị xuất hiện tình trạng một bộ phận CBCCVC không thực hiện hoặc chậm trễ trong việc thực hiện nhiệm vụ, chức trách của mình, làm ảnh hưởng đến lợi ích của người dân, doanh nghiệp, địa phương, đất nước. Lợi dụng điều này, các thế lực thù địch đã tung ra luận điệu xuyên tạc để phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng, chống phá Đảng và Nhà nước ta, vì thế, cần vạch rõ bản chất của âm mưu, thủ đoạn đen tối này để có giải pháp đấu tranh ngăn chặn hiệu quả.

Thứ nhất, đấu tranh phản bác luận điệu cho rằng cán bộ sợ trách nhiệm, né tránh trách nhiệm là bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa.

Các thế lực thù địch xuyên tạc rằng, bệnh sợ trách nhiệm, né tránh trách nhiệm không phải mới có mà đã tồn tại từ lâu, mang tính bản chất của chế độ ta, từ đó, quy chụp bộ máy nhà nước ta biến chất, cần phải xây dựng một bộ máy nhà nước khác (?!).

Sự thật là, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả hoạt động của Nhà nước đều nhằm mục đích bảo đảm cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Với mục tiêu, lý tưởng cao đẹp đó, hàng triệu đảng viên và CBCCVC trong các cơ quan của Đảng và Nhà nước các cấp không ngừng phấn đấu, vượt qua mọi khó khăn, thách thức, thậm chí có người đã hy sinh cả tính mạng của mình vì lợi ích của đất nước, của nhân dân, của Đảng. “Đảng và Nhà nước ta đã có rất nhiều cố gắng chăm lo đời sống nhân dân. Đảng luôn luôn coi việc bảo đảm và cải thiện đời sống nhân dân là trách nhiệm to lớn thường xuyên của mình”(1). Nhưng, bên cạnh những CBCCVC luôn giữ được phẩm chất, đạo đức cách mạng, cũng có một bộ phận CBCCVC thoái hóa, biến chất về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, ngại khó, ngại khổ, sợ trách nhiệm, nên không dám làm mà né tránh hay đùn đẩy trách nhiệm cho người khác. Tuy nhiên, không phải vì thế mà lấy hiện tượng để đánh giá bản chất, khi cho rằng CBCCVC trong hệ thống chính trị của chúng ta đều xấu, rằng “cán bộ sợ trách nhiệm, né tránh trách nhiệm là bản chất” của nhà nước ta, bởi như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định, “nếu xấu như vậy thì tại sao những năm qua chúng ta tiến hành sự nghiệp đổi mới đạt được những thành tựu to lớn mà cả thế giới thừa nhận, vị thế nước ta trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao?”(2). Đảng ta sẵn sàng nhìn nhận một cách khách quan, bên cạnh những thành tựu trong công tác xây dựng, phát triển đội ngũ đảng viên, CBCCVC, thời gian qua, vẫn còn một bộ phận đảng viên, CBCCVC sợ trách nhiệm, né tránh trách nhiệm và đặt ra yêu cầu phải đấu tranh không khoan nhượng với những hạn chế, khuyết điểm đó. “Chiến đấu ở đây không phải chỉ hiểu đơn thuần là chiến đấu với kẻ thù, mà chiến đấu với tình trạng trì trệ, không phát triển; chiến đấu với việc làm sai trái; chiến đấu với chính bản thân mình để vượt lên những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân; chiến đấu chống lại những âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch”(3).

Thứ hai, đấu tranh phản bác luận điệu cho rằng cán bộ sợ trách nhiệm, né tránh trách nhiệm là do chế độ một đảng lãnh đạo.

Các thế lực thù địch xuyên tạc rằng, do ở Việt Nam chỉ có một đảng duy nhất lãnh đạo nên quyền lực chính trị tập trung, hạn chế sự sáng tạo của các cá nhân, dẫn đến nhiều CBCCVC thụ động, không dám có sáng kiến, coi “ý đảng” đứng trên pháp luật. Từ đó, các thế lực thù địch cho rằng, cần thực hiện đa nguyên, đa đảng, để quyền lực không còn tập trung, để có pháp luật bảo vệ (?!)

Sự thật là, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 khẳng định, Đảng Cộng sản Việt Nam “là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”(4), “Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”(5). Do đó, không có chuyện Đảng đứng trên pháp luật hay không theo pháp luật để lãnh đạo đất nước; nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước bảo đảm tính thống nhất, không mâu thuẫn với nhau, bởi pháp luật chính là sự thể chế hoá chủ trương, đường lối, quan điểm được thể hiện trong nghị quyết của Đảng và nghị quyết của Đảng cũng không thể trái pháp luật. Đảng lãnh đạo Nhà nước nhưng không can thiệp vào công việc cụ thể của Nhà nước mà chỉ định hướng hoạt động thông qua nghị quyết, đường lối của Đảng; thông qua tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục; thông qua đội ngũ đảng viên trong bộ máy nhà nước, thông qua công tác kiểm tra, giám sát và sự gương mẫu của đảng viên. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo tổ chức quyền lực theo nguyên tắc phân công quyền lực, nhà nước của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, kế thừa những nhân tố hợp lý của mô hình nhà nước pháp quyền của nhân loại với mục tiêu bảo đảm cho pháp luật trở thành tối thượng, được thực thi trên thực tế. Điều đó thể hiện ở việc Đảng ta chỉ đạo thể chế hóa tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”(6). Như vậy, quyền lực nhà nước vẫn bảo đảm được vận hành hiệu quả “trên cơ sở các nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước”(7). Ở Việt Nam, dù một đảng lãnh đạo, dù chúng ta không thực hiện tam quyền phân lập, song vẫn bảo đảm Hiến pháp là tối thượng thông qua nguyên tắc pháp quyền. Không có cá nhân, tổ chức nào hoạt động đứng ngoài hay đứng trên pháp luật. Pháp luật ở nước ta đã quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của CBCCVC trong hoạt động công vụ(8) và đó cũng là cơ sở để xác định rõ trách nhiệm của CBCCVC. Vì vậy, để khắc phục tình trạng CBCCVC sợ trách nhiệm, né tránh trách nhiệm, vấn đề cốt yếu không phải là “thay đổi thể chế chính trị” như các thế lực thù địch rêu rao, xuyên tạc, mà chính là cần phải hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, gắn với xây dựng một hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, mở đường cho đổi mới sáng tạo, phát triển bền vững và cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật nghiêm minh, nhất quán.

Thứ ba, đấu tranh phản bác luận điệu cho rằng, cán bộ sợ trách nhiệm, né tránh trách nhiệm là do đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực quá quyết liệt.

Các thế lực thù địch xuyên tạc rằng, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực chỉ nhằm “đấu đá nội bộ, triệt phe cánh đối lập”; do Đảng ta xử lý kỷ luật mạnh tay những đảng viên, CBCCVC tham nhũng, tiêu cực, cả những cán bộ đã nghỉ hưu, lật lại những vụ tham nhũng, tiêu cực cách đây nhiều năm, nên nhiều CBCCVC sợ trách nhiệm vì mang tâm lý “làm nhiều sai nhiều, làm ít sai ít, không làm thì không sai”, né tránh trách nhiệm để bảo đảm “an toàn”(?!).

Phát biểu tại Phiên họp thứ 21 của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, ngày 20-1-2022, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã yêu cầu phải: “Chấn chỉnh, đấu tranh đẩy lùi, loại bỏ tư tưởng lo ngại việc đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng sẽ “làm chậm sự phát triển”, làm “hạn chế sức sáng tạo, dám nghĩ, dám làm”, “nhụt chí”, “làm cầm chừng”, “phòng thủ” trong một bộ phận cán bộ, công chức, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp”(9). Tổng Bí thư khẳng định: “Đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng và xây dựng, chỉnh đốn Đảng chỉ làm “chùn bước” những ai có động cơ không trong sáng, đã trót “nhúng chàm” và những người không nắm vững chủ trương, chính sách của Đảng, thiếu kiến thức, kinh nghiệm và bản lĩnh”(10).

Ngoài ra, thực tế cho thấy, tình trạng sợ trách nhiệm, né tránh trách nhiệm có một phần nguyên nhân từ sự yếu kém của một bộ phận CBCCVC do hạn chế về năng lực, về phẩm chất, đạo đức hay đã từng mắc phải sai phạm trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ, nay sợ bị phát hiện và bị xử lý, nên không dám làm hoặc làm “cầm chừng”, “đối phó”, né tránh trách nhiệm để mong được “an toàn”. Cần nhận thức rằng, cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực do Đảng ta, đứng đầu là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng lãnh đạo, với phương châm “kiên quyết, kiên trì, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai” được tiến hành mạnh mẽ, quyết liệt thời gian qua là động lực quan trọng để thúc đẩy phát triển đất nước, “chính nhờ làm tốt công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng đã góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, tăng cường quốc phòng, an ninh và đối ngoại”(11). Đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực hiệu quả góp phần làm trong sạch bộ máy của Đảng, Nhà nước, giảm bớt sự nhũng nhiễu của một bộ phận CBCCVC đối với người dân, doanh nghiệp, qua đó, ngày càng củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Như vậy, rõ ràng, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực mang lại nhiều lợi ích, không hề “làm cản trở sự phát triển của đất nước” như các thế lực thù địch xuyên tạc.

Giải pháp phòng, trị bệnh sợ trách nhiệm, né tránh trách nhiệm

Tình trạng CBCCVC sợ trách nhiệm, né tránh trách nhiệm như một căn bệnh đã và đang gây nhiều tác động tiêu cực đối với sự phát triển đất nước. “Thái độ sợ trách nhiệm của một số cán bộ, đảng viên đang là một trở ngại cho công tác của Đảng và Nhà nước, làm cho công việc bị trì trệ, dậm chân tại chỗ, làm cho những nhân tố mới không phát huy được, những khuyết điểm và nhược điểm không được khắc phục kịp thời, và làm cho trình độ, năng lực công tác của cán bộ chậm được nâng cao”(12). Trước hết, bệnh sợ trách nhiệm làm cho nhiều CBCCVC thụ động trong công việc, đùn đẩy trách nhiệm. Vì vậy, nhiều nhu cầu thiết thực, chính đáng của người dân, doanh nghiệp không được giải quyết kịp thời, dẫn đến sự suy giảm niềm tin đối với bộ máy công quyền. “Người sợ trách nhiệm thường làm việc một cách cầm chừng cho “đủ bổn phận”, cốt sao không phạm phải khuyết điểm gì lớn. Vì luôn luôn lo sợ phải chịu trách nhiệm về những việc sẽ xảy ra, cho nên không muốn cải tiến công tác, không dám mạnh dạn thay đổi những cái không hợp lý, chỉ làm theo nếp cũ. Vì sợ trách nhiệm mà đi đến bảo thủ”(13). Đáng lo ngại hơn, bệnh sợ trách nhiệm còn làm cho những khuyết điểm trong thực thi công vụ không được chỉ ra, vì “Người sợ trách nhiệm còn ngại “va chạm” trong quan hệ với các đồng chí trong đơn vị, với cấp trên và cả với cấp dưới. Lấy cớ phải có tác phong “thận trọng, chín chắn”, phải “giữ gìn đoàn kết”, các đồng chí đó không thẳng thắn phê bình những người phạm khuyết điểm, không đấu tranh chống những hiện tượng tiêu cực, những tư tưởng và việc làm trái với đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước”(14).

Để phòng, trị có hiệu quả những tác hại nghiêm trọng của căn bệnh sợ trách nhiệm, né tránh trách nhiệm của một bộ phận CBCCVC, cần chú trọng thực hiện một số giải pháp:

Thứ nhất, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật. Bệnh sợ trách nhiệm, né tránh trách nhiệm có một phần nguyên nhân là do hệ thống pháp luật hiện hành còn những bất cập, chồng chéo, thiếu thống nhất, có thể cùng một vấn đề nhưng có nhiều cách hiểu và vận dụng khác nhau, dễ sai phạm, nên nhiều CBCCVC né tránh việc thực hiện. Vì vậy, cần quan tâm nghiên cứu, sửa đổi, hoàn thiện các quy định của pháp luật, đặc biệt là các văn bản dưới luật, khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo, bảo đảm tính thống nhất, chặt chẽ, đồng bộ, dễ hiểu, dễ triển khai thực hiện, tạo cơ sở pháp lý vững chắc để CBCCVC tự tin thực thi trách nhiệm công vụ trong chức trách, thẩm quyền của mình.

Thứ hai, quy định rõ trách nhiệm cá nhân, tập thể trong hoạt động công vụ. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ: “Hiện nay còn có những cơ quan, đơn vị vì phân công không rõ ràng, quy định không rành mạch về trách nhiệm và quyền hạn của từng người cho nên không thể đánh giá đúng ai làm tốt, ai làm không tốt; khi xảy ra việc làm sai gây tổn hại cho Đảng và Nhà nước thì chỉ có thể kiểm điểm tập thể chung chung, không biết quy trách nhiệm cụ thể về ai”(15). Do đó, cần tiếp tục thực hiện có hiệu quả chủ trương một người có thể làm nhiều việc nhưng công việc nào cũng phải có người phụ trách, quy định và phân biệt rạch ròi trách nhiệm cá nhân và tập thể, tránh trường hợp “tranh công đổ lỗi”, khi thành công thì nhận thành tích cá nhân, khi thất bại, kém hiệu quả lại đổ lỗi cho tập thể. Đặc biệt, cần có những quy định xác định rõ trách nhiệm cá nhân không chỉ khi thực hiện sai quy định pháp luật mà còn cả khi không thực hiện đầy đủ theo thẩm quyền được giao, để công việc bị chậm trễ. Khi trách nhiệm cá nhân trong hoạt động công vụ rõ ràng sẽ hạn chế được tình trạng CBCCVC không dám làm, sợ trách nhiệm, né tránh trách nhiệm.

Thứ ba, phát huy dân chủ trong thực thi công vụ. Tình trạng cấp trên bao biện, không chú ý lắng nghe ý kiến và trao quyền cho cấp dưới đã và đang xảy ra ở nhiều cấp, nhiều ngành, tạo ra một đội ngũ CBCCVC thụ động, không dám làm, không dám quyết định và né tránh trách nhiệm. Tổng Bí thư đã chỉ rõ: “Có những cán bộ cấp trên không tôn trọng chức trách, quyền hạn của cấp dưới, đã không chú ý đề cao, phát huy tính chủ động sáng tạo của cán bộ cấp dưới, rồi tự cho mình là đi sâu đi sát, là có tác phong cụ thể. Cách làm việc như vậy thường khiến cho những cán bộ vốn ỷ lại, thụ động dễ dàng lẩn tránh trách nhiệm. Cũng có trường hợp người lãnh đạo ở cấp trên không khách quan lắng nghe ý kiến của cán bộ cấp dưới, chỉ muốn nghe những lời khen và đồng tình với mình, không thích những cán bộ có ý kiến trái với mình, cho nên không cổ vũ, khuyến khích cán bộ cấp dưới độc lập suy nghĩ, chủ động sáng tạo trong công việc và thẳng thắn phát biểu, đề đạt ý kiến. Thái độ đó của cấp trên thực tế là ủng hộ những cán bộ sợ trách nhiệm, những người “chỉ làm những việc mà người ta bảo làm””(16). Do đó, phải đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, trao quyền nhiều hơn cho cơ quan cấp dưới, cán bộ cấp dưới để họ có quyền quyết định và tự chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Đồng thời, cán bộ lãnh đạo, quản lý phải có phong cách lãnh đạo và làm việc dân chủ, luôn lắng nghe, tôn trọng ý kiến của cấp dưới, khuyến khích cấp dưới phát biểu, đối thoại, đề ra sáng kiến, kể cả trái với quan điểm của mình, từ đó sẽ tạo ra một đội ngũ CBCCVC dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm.

Đoàn viên, thanh niên đọc tìm hiểu cuốn sách “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng _Ảnh: TTXVN

Thứ tư, nâng cao chất lượng công tác cán bộ. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng không chỉ làm rõ nguyên nhân khách quan, bên ngoài của căn bệnh CBCCVC sợ trách nhiệm, né tránh trách nhiệm như thể chế, pháp luật…, mà còn nêu ra nguyên nhân chủ quan, bên trong. “Nguồn gốc chủ yếu của bệnh sợ trách nhiệm là chủ nghĩa cá nhân. Chính vì luôn luôn tính toán cho lợi ích cá nhân, bo bo “bảo vệ” lấy cái cá nhân của mình mà mất cả dũng khí đấu tranh,… không dám đương đầu trước khó khăn, không dám nghĩ, không dám làm, chỉ tránh khó ngại phiền”(17). Do đó, để trị tận gốc căn bệnh này, phải đổi mới toàn diện công tác cán bộ, trước hết là phải thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện, nâng cao trình độ, năng lực, bản lĩnh chính trị, phẩm chất, đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Khi đã một lòng, một dạ vì đất nước, lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu, lý tưởng phấn đấu thì họ sẽ không ngại đương đầu với khó khăn, thử thách, sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân để thực hiện mục tiêu, lý tưởng mà mình đã lựa chọn. Từ đó, bệnh sợ trách nhiệm, né tránh trách nhiệm sẽ khó có đất để tồn tại.

Cùng với công tác đào tạo, bồi dưỡng, cần chú trọng đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đánh giá CBCCVC theo hướng bổ sung tiêu chí cụ thể đối với những CBCCVC dám nghĩ, dám làm, có nhiều đổi mới, sáng kiến được tập thể, lãnh đạo cơ quan, đơn vị công nhận, đánh giá tốt, là tấm gương để những cán bộ sợ trách nhiệm, né tránh trách nhiệm thay đổi thái độ, tinh thần trách nhiệm trong công việc. Gắn việc đánh giá với công tác khen thưởng, kỷ luật, bổ nhiệm, thay thế, điều động, luân chuyển CBCCVC. Những cán bộ có tinh thần trách nhiệm cao trong thực thi công vụ, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, có tinh thần đổi mới, sáng tạo cần được đánh giá khách quan, khen thưởng kịp thời, được đề bạt, bổ nhiệm lên vị trí cao hơn. Ngược lại, những cán bộ làm việc cầm chừng, cố tình đùn đẩy, né tránh trách nhiệm cần có hình thức xử lý thích hợp, thậm chí điều chuyển hoặc truy cứu trách nhiệm chính trị, pháp lý, kỷ luật, thay thế kịp thời. Nâng cao chất lượng của công tác cán bộ ở tất cả các khâu, các quy trình là giải pháp vừa cấp bách trước mắt, vừa căn cơ lâu dài để phòng, trị căn bệnh sợ trách nhiệm, né tránh trách nhiệm.

Để khắc phục tình trạng cán bộ sợ trách nhiệm, né tránh trách nhiệm, cần vừa đấu tranh với luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, lợi dụng hạn chế này để chống phá Đảng và Nhà nước ta, vừa phải quyết liệt đấu tranh với chính những tiêu cực, hạn chế từ trong nội bộ đội ngũ CBCCVC của Đảng và hệ thống chính trị. Ngăn chặn, hạn chế tình trạng cán bộ sợ trách nhiệm, né tránh trách nhiệm là yêu cầu cấp thiết để thực hiện thành công chủ trương xây dựng đội ngũ cán bộ “7 dám” (dám nghĩ; dám nói; dám làm; dám chịu trách nhiệm; dám đổi mới sáng tạo; dám đương đầu với khó khăn, thử thách; dám hành động vì lợi ích chung), mà Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã đề ra, góp phần xây dựng Đảng và hệ thống chính trị ngày càng trong sạch, vững mạnh./.

--------------------------

(1), (2), (3), (9), (10), (11), (12), (13), (14), (15), (16), (17) Nguyễn Phú Trọng: Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2023, tr. 229, 305, 293, 204 - 205, 100, 99, 468, 466, 467 - 468, 470, 470, 469
(4) Khoản 1, Điều 4, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013
(5) Khoản 3, Điều 4, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013
(6) Khoản 3, Điều 2, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013
(7) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 175
(8) Luật Cán bộ, công chức năm 2008; Luật Viên chức năm 2010; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức năm 2019


Nhận diện, đấu tranh với chiêu trò “nhân danh nhân dân”  để chống phá Đảng và Nhà nước ta của các thế lực thù địch

NGUYỄN YẾN NHI - TS NGUYỄN THÀNH TRUNG
Học viện Chính trị khu vực IV
17:29, ngày 12-04-2024

TCCS - Nhân dân đóng vai trò quyết định đối với sự thành công của quá trình giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Tuy nhiên, trên thực tế, một số đối tượng đã dùng chiêu trò “nhân danh nhân dân” để chống phá Đảng, Nhà nước, chống phá sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa mà toàn Đảng, toàn dân ta đã và đang dày công xây dựng. Vì thế, việc nhận diện và có giải pháp hiệu quả để đấu tranh phòng, chống những âm mưu, thủ đoạn thâm độc này nhằm bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta là một yêu cầu cấp thiết hiện nay.

Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng ta về vai trò, vị trí chính trị của nhân dân

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, nhân dân là cộng đồng xã hội nhất định được gắn kết bởi lợi ích chung, là quần chúng đông đảo những người bị trị so với thiểu số giai cấp thống trị. Theo V.I. Lê-nin, “quần chúng là đa số, và hơn thế nữa, chẳng những chỉ là đa số công nhân, mà là đa số tất cả những người bị bóc lột”(1). Nhấn mạnh tính giai cấp khi đề cập đến khái niệm “nhân dân”, V.I. Lê-nin khẳng định: “Khi dùng danh từ nhân dân, Mác không thông qua danh từ ấy xóa mờ tất cả sự khác biệt về giai cấp…”(2). Xét theo quan điểm đó, động lực cách mạng chính là nhân dân, với nghĩa là cộng đồng người thuộc về giai cấp bị áp bức, bóc lột và cần phải được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột. Nhân dân là chủ thể sáng tạo lịch sử, sáng tạo ra mọi của cải vật chất và những giá trị tinh thần, đồng thời là lực lượng cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội.

Kế thừa và phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về nhân dân, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nội hàm “nhân dân” được Người nhấn mạnh tính dân tộc khi định nghĩa: “Nhân dân là bốn giai cấp công, nông, tiểu tư sản, tư sản dân tộc và những phần tử yêu nước khác”(3). Đó là tập hợp gắn kết đa số người khác nhau về dân tộc, tôn giáo, giới tính, giai tầng, địa vị… trong xã hội, song thống nhất thành một cộng đồng chung là toàn thể dân tộc Việt Nam. Người khẳng định địa vị chính trị của nhân dân: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”(4) và nhấn mạnh vai trò đặc biệt quan trọng của nhân dân trong thực hiện sứ mệnh cách mạng: “Dân chúng đồng lòng, việc gì cũng làm được. Dân chúng không ủng hộ, việc gì làm cũng không nên”(5). Để phát huy sức mạnh vĩ đại của nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định vai trò to lớn của Đảng với tư cách là người tổ chức lãnh đạo nhân dân thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình: “Lực lượng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động là rất to lớn, là vô cùng vô tận. Nhưng lực lượng ấy cần có Đảng lãnh đạo mới chắc chắn thắng lợi”(6), và “Cách mạng thắng lợi rồi, quần chúng vẫn cần có Đảng lãnh đạo”(7).

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm gia đình có công với cách mạng ở Bản Sáng, xã Quang Chiểu, huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa _Ảnh: TTXVN

Trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, trong suốt quá trình xây dựng, trưởng thành và lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định rõ vai trò và địa vị chính trị của nhân dân, luôn quán triệt quan điểm dân là gốc của nước, là cơ sở của mọi thắng lợi, là lực lượng tạo ra mọi của cải vật chất, tinh thần; cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Khẳng định và đề cao “vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(8), trải qua các thời kỳ cách mạng, đặc biệt trong gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm phát huy tối đa tính tích cực chính trị - xã hội, quyền và trách nhiệm của nhân dân trong tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xác định rõ địa vị pháp lý của nhân dân: “Công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam”(9); “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”(10), và hiến định: “Công dân có nghĩa vụ trung thành với Tổ quốc. Phản bội Tổ quốc là tội nặng nhất”(11).

Chủ trương của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước đã thể hiện đầy đủ các đặc điểm của phạm trù “nhân dân”: (1) Nhân dân Việt Nam là người Việt Nam, xét về cả phương diện pháp lý và văn hóa xã hội là một chủ thể thống nhất của 54 tộc người, bao gồm người Việt Nam đang sống trên đất nước Việt Nam và ở nước ngoài; (2) Nhân dân Việt Nam đã lựa chọn Đảng Cộng sản Việt Nam làm người lãnh đạo trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, xây dựng và phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Nhân dân Việt Nam là những người Việt Nam yêu nước, cùng chung ý chí xây dựng, bảo vệ, phát triển đất nước nhằm hiện thực hóa mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Nhận diện các chiêu trò “nhân danh nhân dân” để chống phá Đảng và Nhà nước

Thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đã núp dưới chiêu bài “nhân danh nhân dân” để thực hiện các hành vi chống phá Đảng, Nhà nước, xâm phạm những quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, hòng chia rẽ mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với dân. Hành vi “nhân danh nhân dân” của họ có một số biểu hiện:

Một là, lợi dụng hoặc núp dưới danh nghĩa “nhân dân” để thực hiện nhiều âm mưu, thủ đoạn tấn công, phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng thông qua việc tuyên truyền xuyên tạc Cương lĩnh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; xuyên tạc lịch sử dân tộc, lịch sử Đảng, lịch sử cách mạng, lịch sử vùng đất; bôi nhọ cá nhân lãnh tụ, lãnh đạo cao cấp của Đảng. Lợi dụng những sai lầm, khuyết điểm của một bộ phận cán bộ, đảng viên; đặc biệt là lợi dụng cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng của Đảng, những vụ, việc cán bộ, đảng viên bị kỷ luật do liên quan đến các vụ án tham nhũng, tiêu cực,… Thời gian qua, các đối tượng chống phá đã quy kết rằng tham nhũng là tình trạng phổ biến, là hệ quả của chế độ nhất nguyên chính trị, một đảng duy nhất cầm quyền (?!). Bên cạnh đó, ra sức tán dương sự hào nhoáng của chủ nghĩa tư bản; đồng thời hạ thấp, xuyên tạc những thành tựu mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã đạt được trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, từ đó “nhân danh nhân dân” đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, đòi đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, thực hiện xã hội dân sự và cho rằng chỉ có như vậy mới sửa chữa được những “khuyết tật” của chủ nghĩa xã hội (?!)

Hai là, lợi dụng sự phát triển của internet và các phương tiện truyền thông xã hội, các thế lực thù địch “nhân danh nhân dân” lập ra nhiều trang web, tài khoản mạng xã hội,… rồi thông qua đó, lấy danh nghĩa là các “chuyên gia phân tích chính trị”, các nhóm theo đuổi nhân quyền, dân chủ,… tung ra nhiều giọng điệu xuyên tạc, nhiều thông tin giả, khai thác triệt để các thủ thuật bóp méo sự thật,… nhằm đánh lạc hướng người dân, nhất là giới trẻ, để công kích Đảng, Nhà nước và chế độ ta. Từ một vài sự việc, “điểm nóng” nhỏ lẻ, họ tìm cách tô vẽ, thổi phồng, dùng các thủ đoạn kích động tâm lý để lôi kéo sự đồng cảm của một số người thiếu thông tin, thiếu hiểu biết, tạo thành các hội, nhóm tự xưng là “đại diện nhân dân”, lấy danh nghĩa “người dân” để kích động biểu tình, lên tiếng đấu tranh đòi dân chủ, nhân quyền, qua đó chống phá các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Song song với đó, họ còn lập ra các tổ chức, diễn đàn núp dưới danh nghĩa “nhân dân” để nêu ra các “yêu sách”, “kiến nghị” đối với Đảng và Nhà nước trong giải quyết các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội, quốc phòng, an ninh, môi trường,… thực chất là để tự nâng mình lên, đồng thời hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước. Hành vi “nhân danh nhân dân” của họ không chỉ gây nhiễu loạn thông tin mà còn tạo ra sự sự hoang mang, hoài nghi, ảnh hưởng đến mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân.

Ba là, tìm mọi cách để o bế các đối tượng bị bắt, bị pháp luật xử tội do chống phá Đảng, Nhà nước. Những kẻ “nhân danh nhân dân” thường tung ra luận điệu cho rằng những đối tượng này là những “nhà hoạt động dân chủ”, “nhà hoạt động xã hội” "có trách nhiệm" với Tổ quốc, là những "người dũng cảm", dám nói lên tiếng nói của nhân dân "bị xử oan" (?!). Từ đó, họ tìm mọi cách móc nối với các cá nhân, tổ chức lưu vong chống phá Đảng và Nhà nước ở trong và ngoài nước, “nhân danh nhân dân” đòi “công lý”, đòi trả tự do cho những đối tượng phạm pháp. Mặt khác, khi một số đối tượng có dấu hiệu phạm pháp tìm đường lẩn trốn ra nước ngoài bị lực lượng chức năng của ta ngăn chặn, những kẻ “nhân danh nhân dân” đã sử dụng nhiều phương tiện truyền thông, chủ yếu là các phương tiện truyền thông xã hội, để kêu gọi sự bênh vực, can thiệp, bảo lãnh từ các tổ chức nhân quyền quốc tế.

Bốn là, nhiều đối tượng nhận viện trợ của các nhóm phản động, các thế lực thù địch để thành lập các tổ chức xúi giục biểu tình, kiện tụng, đòi giải quyết những vụ, việc “nóng”, dù không liên quan đến quyền lợi trực tiếp của họ. “Nhân danh nhân dân” tạo lập nhiều tổ chức bất hợp pháp, lôi kéo nhiều người (trong đó có một số trí thức, văn nghệ sĩ…) có lập trường tư tưởng, bản lĩnh chính trị không vững vàng, gây dựng họ thành lực lượng chống đối cực đoan với Đảng và Nhà nước ta. Từ những vấn đề chưa có kết luận chính thức của Đảng và Nhà nước (như những vấn đề nhạy cảm trong quan hệ quốc tế, tình hình Biển Đông,…), các đối tượng tạo dựng tin đồn, dư luận xã hội cho rằng chính quyền giải quyết mập mờ, có dấu hiệu làm tổn hại lợi ích quốc gia - dân tộc (?!). Lợi dụng danh nghĩa “nhân dân”, họ lôi kéo, kích động những phần tử cực đoan, người thiếu thông tin chính thống, thiếu hiểu biết thực hiện những cuộc biểu tình, đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, cải tổ Nhà nước.

Năm là, lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc, các đối tượng “nhân danh nhân dân” tìm mọi cách tấn công, gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc bằng cách lợi dụng tình hình khó khăn ở một số khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa để kích động người dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số, đòi “ly khai”. Hoặc lợi dụng niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo để mua chuộc một bộ phận chức sắc, tín đồ tôn giáo, tập hợp lực lượng, sử dụng chiêu bài đòi “tự do tôn giáo, dân chủ, nhân quyền cho người dân tộc thiểu số”; nhân danh “đồng bào dân tộc thiểu số”, “đồng bào tôn giáo” đòi tự trị, tiến tới thành lập tôn giáo riêng và nhà nước riêng (?!).

Một số giải pháp đấu tranh chống chiêu trò "nhân danh nhân dân" để chống phá Đảng và Nhà nước

Những chiêu trò trên cho thấy, nhiều đối tượng đã lấy “nhân dân” làm tấm bình phong, lợi dụng “nhân dân” để tiến hành các hành vi xuyên tạc, bóp méo sự thật nhằm thực hiện các âm mưu, thủ đoạn thâm độc phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng, chống phá Đảng và Nhà nước ta. Chúng cố ý không tôn trọng thực tế khách quan là chính nhân dân, dân tộc Việt Nam đã lựa chọn con đường đi đúng đắn cho mình; Đảng và Nhà nước Việt Nam là người con do nhân dân Việt Nam sinh ra, nhờ nhân dân mà trưởng thành, vì nhân dân mà phục vụ. Nhân dân Việt Nam không chấp nhận bất cứ kẻ nào nhân danh mình, thay mình thực hiện sứ mệnh xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Không thể tồn tại một thế lực nào tự cho mình cái quyền “đại diện nhân dân” để đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, vai trò quản lý của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đảng và Nhà nước ta có trách nhiệm bảo vệ danh dự, uy tín và lợi ích chính đáng của nhân dân và kiên quyết xử lý nghiêm minh tất cả những kẻ có mưu đồ “nhân danh nhân dân” để chống phá chế độ xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã và đang dày công gây dựng.

Trong bối cảnh hiện nay, để phòng, chống, đập tan âm mưu, thủ đoạn “nhân danh nhân dân” chống phá Đảng và Nhà nước của các thế lực thù địch, phản động, cần tập trung thực hiện đồng bộ một số giải pháp chủ yếu:

Một là, quán triệt quan điểm “dân là gốc”; làm sâu sắc thêm mối quan hệ giữa “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” trong tiến trình đổi mới và phát triển đất nước. Kiên trì thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”(12) trên cơ sở đẩy mạnh công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Kiên quyết đấu tranh loại trừ mọi biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, tránh "tạo cớ" để các thế lực thù địch, phản động khai thác, lợi dụng, xuyên tạc bản chất của chế độ, làm suy giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.

Thắm tình quân dân _Nguồn: nhiepanhdoisong.vn

Hai là, tập trung phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Đồng thời, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc; bảo đảm chính sách lao động, việc làm, thu nhập của mọi người dân; bảo đảm hài hòa và hợp lý hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội và bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội ngay trong từng bước đi, từng chính sách phát triển. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường; tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc về cơ chế, chính sách để khơi dậy và phát huy tối đa mọi tiềm năng, nguồn lực, tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Hiệu quả kinh tế - xã hội chính là thước đo xác thực và thuyết phục nhất lòng tin của người dân đối với chủ thể cầm quyền.

Ba là, chú trọng thực hành văn hóa chính trị, nhất là văn hóa trong Đảng, văn hóa công sở và đạo đức công vụ, văn hóa dân chủ, văn hóa công dân. Đẩy mạnh nghiên cứu, xác định và xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới. Tăng cường giáo dục lòng yêu nước, lòng tự hào về truyền thống và lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ; làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực, mọi quan hệ của đời sống xã hội, thực sự trở thành động lực, là nguồn lực nội sinh và nền tảng cho sự phát triển đất nước nhanh, bền vững.

Bốn là, việc giải quyết và xử lý hiện tượng “nhân danh nhân dân” để chống phá Đảng và Nhà nước cần dựa trên các nguyên tắc về nhân dân của Đảng, trên cơ sở kế thừa và phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân. Đó là cơ sở để nhận diện đúng và vạch trần bộ mặt thật của những đối tượng “nhân danh nhân dân”, núp dưới “chiêu bài nhân dân” để thực hiện những hành vi, mưu đồ đen tối chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Đối với những cá nhân, tổ chức "nhân danh nhân dân" để đi ngược lại ý chí chung của toàn Đảng, toàn dân, đi ngược lại lợi ích quốc gia - dân tộc thì Nhà nước cần kiên quyết xử lý nghiêm trên cơ sở thượng tôn pháp luật, nhằm phòng, chống, ngăn chặn, loại trừ có hiệu quả tất cả những âm mưu chống phá thâm độc./.

----------------------

(1), (2) V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1977, t. 41, tr. 38; t. 41, tr. 159
(3), (4), (5), (6), (7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 8, tr. 264; t. 7, tr. 434; t. 5, tr. 333; t. 11, tr. 609; t. 8, tr. 274
(8), (12) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 173; t. I, tr. 27
(9), (10), (11) Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2014, Điều 17; Điều 2; Điều 44