Phát huy vai trò của báo chí trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

LÊ QUỐC MINH
Ủy viên Trung ương Đảng, Tổng Biên tập Báo Nhân dân, Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam
15:20, ngày 03-07-2025

TCCS - Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng, “kim chỉ nam” dẫn dắt dân tộc Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đưa sự nghiệp cách mạng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trong bối cảnh mới, công cuộc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là cuộc chiến của lý luận, để bảo vệ lý tưởng và củng cố niềm tin vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Trước sự chống phá của các thế lực thù địch ngày càng gia tăng cả về quy mô lẫn mức độ tinh vi, nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trở nên cấp bách hơn; trong đó, báo chí đóng vai trò hết sức quan trọng.

Nền tảng tư tưởng của Đảng - “Kim chỉ nam” cho hành động

Với nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác với các chiến thắng vang dội, như Điện Biên Phủ (năm 1954), Đại thắng mùa Xuân năm 1975 giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (ngày 30-4-1975). Với tinh thần “dĩ bất biến ứng vạn biến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta đã lãnh đạo, đưa đất nước Việt Nam từ một quốc gia nghèo nàn, lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá vươn lên trở thành nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng ấn tượng. Năm 2024, GDP bình quân đầu người của Việt Nam đạt 4.700USD, tiếp cận ngưỡng thu nhập trung bình cao(1). Những thành tựu đó minh chứng cho tính đúng đắn của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã chọn lựa. Hiện nay, Việt Nam là thành viên tích cực của Liên hợp quốc, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao về vai trò chủ động và tinh thần trách nhiệm. Với độ mở của nền kinh tế thuộc những nước hàng đầu thế giới, Việt Nam đồng thời khẳng định vị thế của một quốc gia không chỉ phát triển kinh tế, mà còn giữ vững bản sắc dân tộc. Những thành tựu này là kết quả của sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, sự đồng lòng, chung sức của toàn dân tộc dựa trên nền tảng tư tưởng vững chắc là chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong bối cảnh Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng, nền tảng tư tưởng của Đảng vừa là “kim chỉ nam”, vừa tạo ra sự thống nhất ý chí và hành động.

Theo tinh thần Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 22-10-2018, “Về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là nhiệm vụ chiến lược, sống còn. Bởi lẽ, đó không chỉ là cơ sở để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, mà còn củng cố niềm tin của nhân dân vào con đường phát triển đất nước.

Đồng chí Nguyễn Trọng Nghĩa, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương tham quan gian trưng bày tại Hội Báo toàn quốc 2025 _Nguồn: nhandan.vn

Thách thức đang đặt ra

Cuộc chiến bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch chưa bao giờ khốc liệt như trong kỷ nguyên số hiện nay. Không gian mạng, vốn là thành tựu vĩ đại của nhân loại, giờ bị các thế lực thù địch, phản động lợi dụng biến thành “trận địa mới” để lan truyền các luận điệu chống phá, xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành quả cách mạng, gieo rắc hoài nghi trong quần chúng nhân dân, đòi đa nguyên, đa đảng, hòng lật đổ chế độ. Thách thức này không chỉ đòi hỏi người sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội thận trọng, nâng cao cảnh giác, mà còn đặt ra yêu cầu cấp thiết về một chiến lược phản ứng toàn diện của cả hệ thống chính trị; trong đó, báo chí đóng vai trò tiên phong.

Sự nguy hiểm của thông tin xấu, độc trong không gian số không chỉ nằm ở tốc độ lan truyền, mà còn ở khả năng tấn công vào các nhóm đối tượng và lĩnh vực nhạy cảm, gây ra hệ lụy sâu rộng đến nhận thức, niềm tin và sự ổn định xã hội. Giới trẻ - lực lượng chiếm đa số trên mạng xã hội là nhóm đặc biệt dễ bị ảnh hưởng bởi nội dung sai lệch do thói quen tiếp nhận thông tin nhanh và dễ bị cuốn theo các trào lưu, nhất là với người chưa vững vàng trong nhận thức chính trị. Các thế lực thù địch, phản động đã tung ra hàng chục nghìn bài viết và video liên quan trên Facebook và YouTube. Với nông dân, các luận điệu xuyên tạc về chính sách đất đai là “điểm nóng” mà các thế lực thù địch thường tập trung khai thác. Chẳng hạn, vào tháng 3-2024, một bài viết giả mạo trên Facebook lan truyền thông tin rằng, “Chính phủ thu hồi đất nông nghiệp để bán cho nước ngoài” đã gây hoang mang cho nhiều người dân tại một số tỉnh miền Tây Nam Bộ, dẫn đến tụ tập đông người trước khi cơ quan chức năng kịp làm sáng tỏ. Các tin giả không chỉ kích động bất ổn ở khu vực nông thôn, mà còn làm suy giảm sự đồng thuận xã hội - nền tảng sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc mà Đảng ta đã dày công xây dựng. Đối với giới trí thức, các tổ chức phản động thường nhắm vào bằng cách lan truyền thông tin về “đa nguyên, đa đảng” hoặc xuyên tạc vai trò lãnh đạo của Đảng. Một ví dụ điển hình là chiến dịch trên Twitter (X) vào giữa năm 2024, khi một số tài khoản giả mạo học giả Việt Nam đăng tải bài viết kêu gọi “tự do hóa chính trị”, thu hút hàng nghìn lượt chia sẻ từ các nhóm trí thức trước khi bị phát hiện và ngăn chặn. Các luận điệu này gây hoang mang về định hướng phát triển đất nước, đặc biệt là trong bối cảnh Việt Nam đang hội nhập sâu rộng với thế giới.

Ngoài ra, các thế lực thù địch, phản động còn tấn công trực tiếp vào lĩnh vực nhạy cảm, đe dọa an ninh quốc gia và niềm tin của nhân dân. Trong lĩnh vực kinh tế, đầu năm 2025, một chiến dịch tin giả về “khủng hoảng kinh tế” được tung lên mạng xã hội, kèm theo hình ảnh giả mạo lãnh đạo cấp cao thừa nhận “thất bại chính sách”. Chỉ trong vài giờ, thông tin này đã lan truyền trên TikTok và Facebook, gây hoang mang dư luận và ảnh hưởng đến tâm lý nhà đầu tư, dù tăng trưởng GDP Việt Nam năm 2024 rất tích cực, là điểm sáng trên thế giới (7,05%). Trong lĩnh vực tôn giáo, chiến dịch vu khống “Đảng Cộng sản Việt Nam đàn áp tự do tôn giáo”(?!) vào năm 2023 đã có hàng chục nghìn bài viết và video liên quan xuất hiện trên Facebook và YouTube, thu hút hàng triệu lượt xem trước khi bị gỡ bỏ. Đến năm 2024, nội dung tương tự vẫn tiếp tục xuất hiện, trong khi Việt Nam được Liên hợp quốc cũng như cộng đồng quốc tế công nhận về tự do tín ngưỡng. Trong lĩnh vực quốc phòng, các thế lực thù địch không ngừng xuyên tạc vai trò của Quân đội nhân dân Việt Nam, lan truyền tin giả, như “quân đội bị thao túng bởi nước ngoài”(?!) hoặc “Chiến thắng Điện Biên Phủ 1954 là dàn dựng”(?!). Một đoạn video sử dụng công nghệ deepfake giả mạo phát biểu của một tướng lĩnh quân đội, đăng tải trên YouTube vào cuối năm 2024. Nội dung này không chỉ bôi nhọ lịch sử, mà còn làm suy yếu mối quan hệ gắn bó máu thịt, mật thiết giữa quân đội và nhân dân - một trong những trụ cột bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Bên cạnh đó, sự lan truyền với tốc độ chóng mặt của thông tin trên không gian mạng là minh chứng rõ ràng cho mức độ phức tạp ngày càng tăng trong kỷ nguyên số. Nếu trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh (1947 - 1991), các luận điệu sai trái, thù địch thường được phát tán qua đài phát thanh nước ngoài hay dưới dạng tài liệu từ các tổ chức phản động lưu vong, thì nay với sự bùng nổ của mạng xã hội, một bài viết sai sự thật hay video xuyên tạc chỉ cần vài cú nhấp chuột là có thể tiếp cận hàng triệu người trong tích tắc. Sự tinh vi của các thế lực thù địch, phản động không chỉ dừng ở việc tận dụng mạng xã hội, mà còn nằm ở việc ứng dụng công nghệ hiện đại như trí tuệ nhân tạo (AI) để tạo ra nội dung giả mạo và lan truyền với tốc độ chóng mặt, để lại hậu quả khó lường về mặt nhận thức và niềm tin trong nhân dân. Trong khi đó, truyền thông chính thống lại đang đối mặt với khó khăn, bất cập trong việc phản ứng với các cuộc tấn công thông tin. Khi một tin giả lan truyền với tốc độ khó kiểm soát trên mạng xã hội, thì bài viết phản bác chính thống thường xuất hiện muộn hơn.

Trước thách thức từ không gian số và sự chống phá tinh vi của các thế lực thù địch, phản động, yêu cầu đối với báo chí không chỉ đơn thuần là giải quyết vấn đề kỹ thuật, mà còn là bài toán mang tính chiến lược.

Phóng viên tác nghiệp tại một sự kiện _Ảnh: TTXVN

Vai trò quan trọng của báo chí trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

Hành trình 100 năm của báo chí cách mạng Việt Nam, từ tờ Thanh niên do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sáng lập năm 1925 đến nền tảng đa phương tiện hiện đại ngày nay, cho thấy sức mạnh của báo chí cách mạng không ngừng được tôi rèn qua thời gian. Tuy nhiên, trong bối cảnh các thế lực thù địch, phản động ra sức khai thác không gian mạng để chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng với cách thức tinh vi, báo chí cách mạng không thể chỉ dừng lại ở vai trò phản ứng trước tin giả, mà cần tiên phong định hướng dư luận, kiến tạo dòng chảy thông tin tích cực để ngăn chặn các luận điệu sai trái ngay từ khi mới manh nha, phản bác sắc bén các luận điệu sai trái và củng cố niềm tin vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Để làm được điều này, báo chí cần triển khai đồng bộ giải pháp chiến lược, vừa phản bác kịp thời, vừa chủ động phản ánh và định hướng dư luận xã hội.

Trước hết, báo chí cần tiên phong xây dựng chiến dịch tuyên truyền tích cực, chiếm lĩnh không gian số bằng nội dung hấp dẫn, chính xác và mang tính định hướng cao. Không chỉ tập trung phản bác tin giả sau khi được lan truyền, báo chí cần tiếp tục chủ động sản xuất nội dung về thành tựu cách mạng, lịch sử dân tộc và đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để lấp đầy “khoảng trống thông tin” - nơi các thế lực thù địch, phản động thường lợi dụng để gieo rắc luận điệu xuyên tạc. Như Báo Nhân Dân đã tiên phong đẩy mạnh tuyên truyền về “Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam” từ thông điệp của Tổng Bí thư Tô Lâm. Nội dung này được Báo Nhân Dân lan tỏa qua các kênh số chính thức, như nhandan.vn và fanpage Facebook “Báo Nhân Dân” (facebook.com/baonhandan), đạt hơn 150.000 lượt tiếp cận trong vòng 48 giờ sau khi đăng tải (số liệu thống kê ngày 25-11-2024). Chiến dịch tuyên truyền này đã góp phần định hướng dư luận tích cực trước thềm Hội nghị Trung ương 10 khóa XIII vào cuối năm 2024, khẳng định vai trò chủ động của báo chí trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Thứ hai, báo chí cần chú trọng đổi mới phương thức tuyên truyền, đa dạng hóa loại hình báo chí và kênh phân phối nội dung để phù hợp với yêu cầu của thời đại số. Chỉ thị số 23-CT/TW, ngày 9-2-2018, của Ban Bí thư, “Về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả học tập, nghiên cứu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới”, nhấn mạnh yêu cầu “kết hợp giữa truyền thống và hiện đại” để định hướng dư luận. Thực tế, thời gian qua một số cơ quan báo chí chủ lực đã tiên phong ứng dụng công nghệ. Đáng chú ý, một số cơ quan báo chí đã triển khai hệ thống phân tích dữ liệu lớn (big data) để phát hiện sớm xu hướng thông tin sai lệch, giúp giảm 20% thời gian phản ứng so với trước đây. Có cơ quan báo chí đã sử dụng trí tuệ nhân tạo (AI) để tự động theo dõi từ khóa nhạy cảm trên mạng xã hội, kịp thời đưa ra phản bác trước khi tin giả lan rộng.

Trong khi các thế lực thù địch, phản động dùng video ngắn, ảnh “bắt mắt” để thu hút giới trẻ, báo chí không thể mãi “đóng khung” trong bài viết theo kiểu truyền thống, mà cần đa dạng hóa cách thức thể hiện cũng như cách thức tiếp cận công chúng. Cụ thể, báo chí cần sáng tạo trong cách tiếp cận, sử dụng ngôn ngữ gần gũi, hình thức thể hiện sinh động để thu hút độc giả, đặc biệt là giới trẻ. Báo chí cần tận dụng các nền tảng số, như mạng xã hội, ứng dụng di động để đưa thông tin chính thống đến gần hơn với công chúng; giảm tác động tiêu cực của các hình thức truyền bá thông tin không chính thống. Thời gian qua, Báo Nhân Dân đã chú trọng sản xuất loạt video ngắn đăng tải trên TikTok về đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thu hút rất đông người xem, trong đó chủ yếu là người trẻ. Trong đợt tuyên truyền kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ, Báo Nhân Dân đã tổ chức chuyên trang bao gồm 6 chuyên mục: Tin tức; Diễn tiến chiến dịch; Dư luận quốc tế; Điện Biên hôm nay; Hỏi đáp về chiến dịch Điện Biên Phủ; Multimedia. Đáng chú ý tại chuyên mục Hỏi đáp về chiến dịch Điện Biên Phủ, tư liệu lịch sử được thiết kế dưới dạng Quiz tương tác, từ mỗi câu hỏi sẽ kết nối với một câu chuyện lịch sử cung cấp thông tin ngắn gọn, thú vị, dễ hiểu, dễ nhớ nên đã thu hút được lượt xem và tương tác cao của bạn đọc, góp phần định hướng nhận thức lịch sử cho độc giả trước các luận điệu xuyên tạc trên mạng xã hội. Thiết thực chào mừng các ngày lễ lớn của đất nước trong năm 2025, Báo Nhân Dân đã đa dạng hóa hình thức tuyên truyền trên nền tảng số, góp phần chiếm lĩnh “trận địa” thông tin, định hướng dư luận, nhân lên niềm tự hào dân tộc trong cộng đồng. Tiêu biểu có thể kể đến dự án “Yêu lắm Việt Nam” với ý tưởng “non sông liền một dải, kết nối mọi miền bằng du lịch”; hay việc phủ sóng tin tức của Báo Nhân Dân trên các ứng dụng VNeID, Momo và FPT Long Châu,... Đây là minh chứng cho việc khi đổi mới nội dung cùng với việc tận dụng tốt công nghệ, báo chí có thể vượt lên, làm tốt công tác phản ánh và hướng dẫn dư luận xã hội.

Thứ ba, cần xây dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa báo chí và các cơ quan chức năng. Một hệ thống cảnh báo sớm, kết nối báo chí với cơ quan có thẩm quyền có thể giúp phát hiện và ngăn chặn thông tin xấu ngay từ khi vừa xuất hiện. Năm 2024, nhờ sự phối hợp này, Việt Nam đã yêu cầu Google gỡ 6.043 nội dung vi phạm trên YouTube với tỷ lệ 91%. Nếu hệ thống này được nâng cấp, tích hợp với các tòa soạn báo lớn thì có thể rút ngắn 30% thời gian phản ứng; từ đó, hạn chế tối đa tác động của tin giả trước khi chúng kịp tiêm nhiễm vào nhận thức của một bộ phận công chúng.

Thứ tư, nâng cao năng lực và bản lĩnh của đội ngũ nhà báo là giải pháp cốt lõi. Điều 25 Luật Báo chí năm 2016 yêu cầu nhà báo giữ vững lập trường chính trị, đấu tranh phòng, chống các tư tưởng, hành vi sai phạm. Một số người làm báo vẫn còn yếu kém về nhận thức, không thường xuyên trau dồi, nâng cao bản lĩnh chính trị dẫn đến tình trạng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, tạo kẽ hở cho đối tượng phản động khai thác, lợi dụng. Do đó, bên cạnh việc phát huy tính chủ động của mỗi cá nhân người làm báo, cơ quan chức năng, hội nghề nghiệp cần thường xuyên tổ chức chương trình đào tạo chuyên sâu về lý luận Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và lớp tập huấn nâng cao kỹ năng phản biện. Đồng thời, việc bồi dưỡng, đào tạo nhà báo có kỹ năng phân tích dữ liệu và sản xuất nội dung số cũng hết sức quan trọng. Người làm báo hiện đại không chỉ cần ngòi bút sắc sảo, mà còn phải thành thạo công nghệ, từ phân tích big data đến chỉnh sửa video, để đáp ứng nhịp độ nhanh của thời đại.

Cuối cùng, chú trọng nâng cao nhận thức chính trị cho công chúng trước sự chống phá tinh vi của các thế lực thù địch, phản động, góp phần tạo “lá chắn” bền vững để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Báo chí cần phối hợp với hệ thống giáo dục và tổ chức xã hội, đề ra các hình thức tuyên truyền phù hợp cho các nhóm đối tượng. Nếu có thể tổ chức tốt chiến dịch nhận diện tin giả thì sẽ giúp công chúng có kỹ năng phân biệt thông tin chính thống và luận điệu xuyên tạc; từ đó, tự tạo khả năng “miễn dịch” về tư tưởng, như vậy các thế lực thù địch, phản động sẽ khó lòng gieo rắc hoài nghi, đầu độc bằng thông tin gây hại.

Các giải pháp trên, nếu được thực hiện đồng bộ, sẽ giúp báo chí không chỉ đáp ứng tốt yêu cầu về việc cung cấp thông tin kịp thời, chính xác về sự kiện, vấn đề trong đời sống xã hội, mà còn là lực lượng tiên phong, đủ sức làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá của thế lực thù địch, phản động trên mặt trận tư tưởng, góp phần xây dựng một đất nước Việt Nam ngày càng vững mạnh, hùng cường, tự tin tiến bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc./.

--------------------------

(1) Báo cáo đánh giá bổ sung kết quả thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2024 do Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính trình bày tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV, ngày 5-5-2025


“Chọn chính nghĩa, không chọn bên”: Chính sách đối ngoại nhất quán, đúng đắn của Việt Nam

TS Bùi Đình Tiệp
Đại tá, Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng
09:19, ngày 20-06-2025

TCCS - “Chọn chính nghĩa, không chọn bên” trong quan hệ quốc tế là quan điểm nhất quán, lập trường trước sau như một của Việt Nam. Tuy nhiên, thời gian vừa qua, các thế lực thù địch, phản động thường xuyên đưa ra các luận điệu xuyên tạc, kích động, hòng chống phá đường lối, chính sách đối ngoại đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta. Việc nhận diện, đấu tranh làm thất bại âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, phản động luôn là vấn đề cấp bách hiện nay.

Nhận diện âm mưu xuyên tạc, chống phá đường lối, chính sách đối ngoại của các thế lực thù địch, phản động

Là một quốc gia phải trải qua nhiều thời kỳ đấu tranh chống giặc ngoại xâm, giành độc lập, tự do, thống nhất đất nước, dân tộc Việt Nam luôn thấu hiểu giá trị của hòa bình, độc lập, luôn mong muốn được sống trong hòa bình, độc lập. Trong quan hệ quốc tế, Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”(1).

Tại các diễn đàn, hội nghị quốc tế, lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định nhất quán quan điểm: Việt Nam chọn chính nghĩa, không chọn bên trong quan hệ quốc tế. Theo đó, giữa độc lập và phụ thuộc, Việt Nam chọn độc lập; giữa thương lượng và đối đầu, Việt Nam chọn thương lượng; giữa đối thoại và xung đột, Việt Nam chọn đối thoại; giữa hòa bình và chiến tranh, Việt Nam chọn hòa bình; giữa hợp tác và cạnh tranh, Việt Nam chọn hợp tác và cạnh tranh thì phải lành mạnh, bình đẳng, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhau(2).

Quan điểm nhất quán trên thể hiện rõ mong muốn, thiện chí của Việt Nam trong quan hệ quốc tế hiện nay. Tuy nhiên, trong thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị, đã tự huyễn hoặc gắn cho mình mác “người yêu nước”, có “tâm huyết”, “trách nhiệm” với vận mệnh quốc gia - dân tộc, thường xuyên có hành động kích động, cố tình “rao giảng” các luận điệu xuyên tạc, bịa đặt, hòng mưu đồ chống phá, hạ thấp vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.

Một là, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn đang diễn ra gay gắt như hiện nay, Việt Nam vẫn thực hiện chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ là “tự cô lập mình”, cần phải thay đổi. Hơn nữa, “đã độc lập, tự chủ sẽ cản trở hội nhập quốc tế và ngược lại, đã hội nhập quốc tế thì không thể có độc lập, tự chủ”… Từ đó, “kêu gọi” Việt Nam phải mạnh dạn “đổi mới” đường lối, chính sách đối ngoại hiện nay.

Hai là, tập trung xuyên tạc, công kích quan điểm của Việt Nam đối với những sự kiện phức tạp xảy ra trên thế giới gần đây như vấn đề xung đột quân sự giữa Nga và Ukraine… Cho rằng, “Việt Nam đang phải chịu sức ép của thế lực nào đó”, vì vậy không thể thể hiện lập trường, quan điểm... Đồng thời, lợi dụng các chuyến thăm của lãnh đạo cao cấp Đảng, Nhà nước ta ra nước ngoài, viện dẫn vô căn cứ rằng Việt Nam đã “từ bỏ chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ của mình”, “Việt Nam đang chọn phe”(?!)…

Từ những xảo biện trên, đưa ra những “kiến nghị”, “đề xuất”, “hiến kế” dưới danh nghĩa xuất phát từ lòng yêu nước, vì chủ quyền, lợi ích quốc gia - dân tộc để kêu gọi Việt Nam tham gia các liên minh quân sự, “chọn bên” trong quan hệ quốc tế, dần đi sâu vào quỹ đạo lệ thuộc bên ngoài, đánh mất độc lập, tự chủ trong các hoạt động quân sự, quốc phòng và đối ngoại (?!).

Trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt như hiện nay, tất cả các quốc gia, nhất là các nước chậm phát triển, trong đó có các nước ở khu vực Đông Nam Á rơi vào nguy cơ bị lôi kéo, chia rẽ, đứng trước sức ép buộc phải “chọn bên”. Những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động mặc dù không thể làm chệch hướng đường lối, chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ; không thể phủ nhận bản lĩnh, trí tuệ, khát vọng hòa bình của Việt Nam, song cũng khiến một số người hoang mang, dao động, tác động tới niềm tin vào đường lối, chính sách đối ngoại của Việt Nam trong quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế. Việc nhận diện và đấu tranh làm thất bại mưu đồ chống phá của các thế lực thù địch, phản động luôn là vấn đề cấp thiết.

Khẳng định quan điểm “chọn chính nghĩa, không chọn bên” của Việt Nam là đúng đắn, phù hợp với thực tiễn

Thứ nhất, trong lịch sử, dân tộc Việt Nam luôn nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường để giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc.

Xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn, xuyên suốt chiều dài lịch sử của dân tộc: “Bên cạnh các cuộc chiến đấu ngoan cường bảo vệ độc lập, chủ quyền của đất nước, ông cha ta luôn chú trọng bang giao hòa hiếu với các quốc gia láng giềng, tạo dựng nên những truyền thống và bản sắc riêng, rất độc đáo của ngoại giao Việt Nam: Đầy hào khí, giàu tính nhân văn, hòa hiếu, trọng lẽ phải, công lý và chính nghĩa”(3). Đồng thời, luôn nêu cao ý chí độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường; lấy lợi ích quốc gia - dân tộc là nguyên tắc bất biến, sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong quan hệ đối ngoại của Việt Nam.

Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và lãnh đạo các nước ASEAN, Timor-Leste tham dự Phiên toàn thể Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 46 _Ảnh: TTXVN

Dưới sự lãnh đạo của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh, tinh thần tự lực, tự cường “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta” càng được phát huy cao độ. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh trên cương vị là Bộ trưởng Ngoại giao đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là người đặt nền móng và trực tiếp chỉ đạo, dẫn dắt nền ngoại giao cách mạng ngày càng phát triển. Người đã nhiều lần chỉ rõ vai trò, tầm quan trọng của sức mạnh nội lực, của tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường: “Cố nhiên sự giúp đỡ của các nước bạn là quan trọng, nhưng không được ỷ lại, không được ngồi mong chờ người khác. Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”(4); “Ta có mạnh thì họ mới chịu “đếm xỉa đến”. Ta yếu thì ta chỉ là một khí cụ trong tay của kẻ khác, dầu là kẻ ấy có thể là bạn đồng minh của ta vậy”(5). Do đó: “Phải trông ở thực lực. Thực lực mạnh, ngoại giao sẽ thắng lợi. Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to tiếng mới lớn”(6).

Cùng với việc nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chú trọng xây dựng mối quan hệ đoàn kết, hữu nghị với tất cả các quốc gia, dân tộc. Người đặc biệt coi trọng việc xử lý khéo léo mối quan hệ với các nước láng giềng và các nước lớn; luôn căn dặn phải “biết mình, biết người”, “biết thời, biết thế” để “cương nhu kết hợp”; không chỉ “hóa giải tương khắc”, mà còn phải biết “kiến tạo tương đồng”, để “thêm bạn, bớt thù” trong quan hệ quốc tế. Phải luôn vì lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, dùng ngoại giao để đẩy lùi chiến tranh, xung đột; phát huy cao độ tinh thần tự lực, tự cường gắn với tăng cường đoàn kết quốc tế, kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để tạo thành sức mạnh tổng hợp cho đất nước. Chính tư tưởng và những chỉ đạo về ngoại giao độc lập, tự chủ, mềm dẻo, sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa cách mạng Việt Nam vượt qua mọi chông gai, thử thách, giành những thắng lợi to lớn, vẻ vang.

Điều này đã được thực tiễn chứng minh, sau Cách mạng Tháng Tám (năm 1945), khi vận mệnh dân tộc ở vào tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, chính phương châm “Dĩ bất biến ứng vạn biến” và đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã phát huy cao độ sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần tranh thủ được sự giúp đỡ to lớn của bạn bè quốc tế, kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo thành sức mạnh tổng hợp để dân tộc ta vượt qua khó khăn, thử thách, lần lượt đánh bại thực dân, đế quốc xâm lược, giành độc lập, thống nhất đất nước.

Thứ hai, đường lối, chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới là nhất quán, đúng đắn.

Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt, từ khi tiến hành công cuộc đổi mới (năm 1986) đến nay, chính đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa, đã trở thành “mặt trận tiên phong” góp phần phá vỡ thế bị bao vây, cấm vận, khơi thông quan hệ quốc tế, mở ra cục diện mới, thế và lực mới cho đất nước.

Xuyên suốt Chiến lược bảo vệ Tổ quốc cũng như chính sách đối ngoại, chính sách quốc phòng của Đảng và Nhà nước ta đều khẳng định nhất quán quan điểm: “Chúng ta bảo vệ Tổ quốc bằng sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại. Trong đó, sức mạnh bên trong của đất nước, của chế độ chính trị, nền kinh tế và tiềm lực quốc gia là nhân tố quyết định”(7).

Nghị quyết số 24-NQ/TW, ngày 16-4-2018, của Bộ Chính trị (khóa XII), “Về Chiến lược quốc phòng Việt Nam” nhấn mạnh: Xây dựng, củng cố quan hệ, lòng tin chiến lược với các nước, nhất là các đối tác chiến lược, tạo thế để bảo vệ Tổ quốc; sẵn sàng đánh thắng mọi hình thái chiến tranh xâm lược nếu xảy ra; tham gia tích cực, trách nhiệm, hiệu quả vào các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc và các vấn đề liên quan của cộng đồng quốc tế, góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, hợp tác, phát triển trong khu vực và trên thế giới.

Nhất quán với chính sách quốc phòng “bốn không”, trong Sách trắng Quốc phòng năm 2019 khẳng định rõ: “Việt Nam chủ trương phát triển quan hệ hợp tác quốc phòng với tất cả các nước, nhất là các nước láng giềng, các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, xây dựng lòng tin, tạo sự ủng hộ, giúp đỡ quốc tế để ngăn ngừa nguy cơ và đối phó với chiến tranh xâm lược; giúp đỡ nước khác khi được yêu cầu bằng khả năng của mình, bảo đảm tuân thủ Hiến pháp, pháp luật và lợi ích quốc gia - dân tộc, phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, sẵn sàng mở rộng quan hệ hợp tác quốc phòng trên cơ sở không phân biệt sự khác nhau về chế độ chính trị và trình độ phát triển”(8).

Tùy theo diễn biến của tình hình và trong những điều kiện cụ thể, Việt Nam cân nhắc phát triển các mối quan hệ quốc phòng, quân sự với mức độ thích hợp trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, cũng như các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, hợp tác cùng có lợi, vì lợi ích chung của khu vực và cộng đồng quốc tế. Đặc biệt, Sách trắng Quốc phòng năm 2019 nhấn mạnh: “Việt Nam không chấp nhận quan hệ hợp tác quốc phòng dưới bất kỳ điều kiện áp đặt hoặc sức ép nào. Việt Nam tăng cường hợp tác quốc phòng đa phương nhằm góp phần bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền quốc gia”(9).

Những khẳng định trên cho thấy mong muốn, thiện chí và lập trường trước sau như một của Việt Nam trong thực thi chính sách quốc phòng là vì một thế giới hòa bình, hợp tác và phát triển, không có xung đột, chiến tranh.

Lập trường “chọn chính nghĩa, không chọn bên” tiếp tục được Đảng ta khẳng định rõ trong Nghị quyết số 34-NQ/TW, ngày 9-1-2023, của Bộ Chính trị, “Về một số định hướng, chủ trương lớn triển khai đường lối đối ngoại Đại hội XIII của Đảng”: Thực hiện trường phái “ngoại giao cây tre”, “dĩ bất biến ứng vạn biến”; kiên định về nguyên tắc, mục tiêu chiến lược; linh hoạt về sách lược; tích cực, chủ động ngăn ngừa chiến tranh góp phần bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”, không để bị động, bất ngờ, không để rơi vào thế cô lập, lệ thuộc, đối đầu; xử lý nhuần nhuyễn, hiệu quả quan hệ giữa “đối tác”, “đối tượng”, giữa hợp tác và đấu tranh; phát triển cân bằng các quan hệ đối ngoại trên cơ sở lợi ích quốc gia - dân tộc.

Nghị quyết số 2662-NQ/QUTW, ngày 26-2-2024, của Quân ủy Trung ương, “Về hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng đến năm 2030 và những năm tiếp theo” khẳng định quan điểm: Hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng phải tạo thế đan xen lợi ích, củng cố tin cậy chiến lược với các đối tác, nhất là các nước láng giềng, các nước lớn, đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, các nước Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và các nước bạn bè truyền thống; ngăn ngừa nguy cơ xung đột, đối đầu, tránh bị cô lập, phụ thuộc, không “chọn bên”; đồng thời, tranh thủ tối đa sự ủng hộ quốc tế, góp phần tăng cường tiềm lực, khả năng tự lực, tự cường về quân sự, quốc phòng, nâng cao sức mạnh tổng hợp góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong tình hình mới.

Những quan điểm nhất quán trên là minh chứng rõ ràng cho thấy, Việt Nam không hề khép kín, không tự cô lập mình hay đi ngược lại với xu thế của thời đại như luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động, mà trái lại, luôn tích cực, chủ động mở rộng quan hệ đối ngoại trên tất cả các lĩnh vực, kể cả lĩnh vực quân sự, quốc phòng nhằm tăng cường sức mạnh bảo vệ Tổ quốc. Sẵn sàng giải quyết mọi bất đồng, tranh chấp bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế; nỗ lực ngăn ngừa chiến tranh, xung đột, thúc đẩy hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển trong khu vực và trên thế giới.

Khối Gìn giữ hòa bình Việt Nam hợp luyện diễu binh, diễu hành Lễ kỷ niệm 50 năm Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước _Nguồn: dantri.vn

Thứ ba, thành tựu hoạt động đối ngoại trong thời kỳ đổi mới là bằng chứng rõ ràng nhất để đập tan luận điệu xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch, phản động.

Với đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, sau gần 40 năm đổi mới, đối ngoại đã thực sự trở thành mũi nhọn “tiên phong” trong phá thế bao vây, cô lập của các thế lực thù địch, phản động, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”.

Đến nay, Việt Nam đã mở rộng và nâng tầm quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia, quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với 30 nước, trong đó có tất cả các nước lớn và toàn bộ 5 nước Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc; là thành viên tích cực và có trách nhiệm của hơn 70 tổ chức, diễn đàn quốc tế quan trọng, như Liên hợp quốc, ASEAN, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Hội nghị thượng đỉnh Á - Âu (ASEM), Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)... Từ một nước có nền kinh tế chậm phát triển, bị bao vây, cấm vận, đến nay Việt Nam đã có quan hệ kinh tế - thương mại với 230 quốc gia và vùng lãnh thổ, tham gia hơn 500 hiệp định thương mại song phương và đa phương, trong đó có 17 hiệp định thương mại tự do (FTA), bao gồm FTA thế hệ mới như Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP).... Những kết quả trên góp phần đưa Việt Nam hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đem lại nguồn lực to lớn để phát triển đất nước.

Có thể khẳng định, hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng của Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Quan hệ hợp tác quốc phòng song phương với các nước tiếp tục được củng cố, tăng cường, đạt hiệu quả thiết thực, đi vào chiều sâu, thực chất, góp phần xây dựng lòng tin, tạo thế đan xen chiến lược, bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc. Việt Nam đã xử lý tốt quan hệ quốc phòng với các nước, nhất là với các nước láng giềng, nước lớn, đối tác chiến lược, các nước ASEAN và bạn bè truyền thống.

Đến nay, Bộ Quốc phòng Việt Nam đã mở rộng và thiết lập quan hệ hợp tác với trên 100 quốc gia, trong đó có 5 nước Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và tất cả nước lớn với nhiều lĩnh vực, cơ chế hợp tác thực chất, hiệu quả như: trao đổi đoàn, đối thoại chính sách quốc phòng, đào tạo, hợp tác quân, binh chủng, công nghiệp quốc phòng, an ninh biển, quân y, cứu hộ - cứu nạn, khắc phục hậu quả chiến tranh, gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc, đối ngoại biên giới… Việt Nam đã cử 33 cơ quan tùy viên quốc phòng trực tiếp và kiêm nhiệm tại 41 nước và Liên hợp quốc; có 52 nước đặt cơ quan tùy viên quốc phòng, tùy viên quân sự tại Việt Nam. Trao đổi, tiếp xúc cấp cao giữa lãnh đạo Bộ Quốc phòng Việt Nam với các đối tác được tiến hành thường xuyên, hiệu quả thông qua các cơ chế tham vấn. Công tác đối ngoại biên giới với các quốc gia láng giềng tiếp tục được đẩy mạnh và đạt được nhiều kết quả quan trọng, tạo điều kiện thuận lợi để mở rộng quan hệ quốc tế với các quốc gia, khu vực khác trên thế giới và tạo lập được quan hệ ổn định và cân bằng với các nước lớn.

Về đối ngoại quốc phòng đa phương, Việt Nam đã tích cực tham gia trách nhiệm và chủ động đóng góp xây dựng, đề xuất nhiều sáng kiến thiết thực tại các cơ chế hợp tác về quốc phòng, an ninh của khu vực và quốc tế, như Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN (ADMM), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN mở rộng (ADMM+), Diễn đàn An ninh khu vực ASEAN (ARF), Đối thoại Shangri-La, Hội nghị An ninh quốc tế Mát-xcơ-va, Diễn đàn Hương Sơn - Bắc Kinh, Đối thoại Quốc phòng Xơ-un,... Đến nay, Việt Nam đã tham gia đầy đủ, liên tục tất cả cơ chế hợp tác quân sự, quốc phòng do ASEAN dẫn dắt; tham gia đầy đủ ở cấp phù hợp với các diễn đàn an ninh quốc tế lớn trong khu vực; tham gia trách nhiệm vào các tổ chức đa phương quốc tế và khu vực. Đặc biệt, đối ngoại quốc phòng đa phương đã có sự chuyển biến mạnh về tư duy từ “tham dự” sang “chủ động đóng góp xây dựng, định hình luật chơi chung”, đảm nhận và chủ trì thành công nhiều hoạt động hợp tác quốc phòng đa phương; đã ba lần tổ chức thành công Triển lãm Quốc phòng quốc tế (năm 2022, năm 2023 và năm 2024), qua đó góp phần khẳng định đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, thúc đẩy hội nhập quốc tế về quốc phòng, tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài để từng bước hiện đại hóa vũ khí, trang bị kỹ thuật, nâng cao trình độ, khả năng sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu của Quân đội, nâng cao tiềm lực quốc phòng của đất nước.

Trong giải quyết các bất đồng, tranh chấp, Việt Nam luôn sẵn sàng đối thoại, hợp tác để xử lý các khác biệt, bất đồng, đóng góp vào hòa bình, ổn định và phát triển của thế giới; đồng thời bảo đảm hài hòa lợi ích và giải quyết thỏa đáng các mối quan tâm của các đối tác, các quốc gia, cộng đồng quốc tế. Trong giải quyết các tranh chấp, xung đột ở khu vực và trên thế giới, trong đó có Biển Đông, Việt Nam luôn chủ trương duy trì hòa bình, ổn định, bảo đảm an ninh, an toàn, tự do hàng hải và hàng không; bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, giải quyết bất đồng bằng các biện pháp hòa bình, thông qua đối thoại, trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982. Việt Nam đã thực hiện hiệu quả và đầy đủ Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), phấn đấu xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC) thực chất, hiệu quả, phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS 1982.

Việt Nam luôn tích cực, chủ động tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình, hỗ trợ nhân đạo, cứu trợ thảm họa của Liên hợp quốc với hình thức, quy mô, lực lượng và địa bàn ngày càng được mở rộng. Từ năm 2014 đến nay, Việt Nam đã cử gần 1.100 lượt cán bộ, nhân viên tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc tại 3 phái bộ và trụ sở Liên hợp quốc. Hiện tại, Cục Gìn giữ hòa bình Việt Nam đang tích cực chuẩn bị thành lập Đội Công binh số 4 và Bệnh viện dã chiến cấp 2 số 7 để triển khai trong năm 2025. Đặc biệt, Việt Nam là quốc gia đi đầu về số lượng quân nhân nữ tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình, với tỷ lệ là 16,6% (tỷ lệ trung bình của các nước là gần 10%)(10). Việc tham gia ngày càng tích cực, hiệu quả hoạt động gìn giữ hòa bình thế giới của Việt Nam đã được Liên hợp quốc ghi nhận và đánh giá cao, để lại những ấn tượng tốt đẹp, sự trân trọng, quý mến của chính quyền, người dân nước sở tại và bạn bè quốc tế, góp phần nâng cao uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, thể hiện vai trò là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.

Đây là những bằng chứng khẳng định rõ đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, chủ trương “chọn chính nghĩa, không chọn bên” trong quan hệ quốc tế của Đảng, Nhà nước ta là đúng đắn, phù hợp với thực tiễn; là cơ sở khách quan để bác bỏ toàn bộ luận điệu xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch, phản động.

Thứ tư, thực tiễn quan hệ quốc tế hiện nay cho thấy sự lựa chọn của Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn.

Hiện nay, cục diện thế giới đa cực, đa trung tâm đang hình thành ngày càng rõ nét hơn; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt, toàn diện, quyết liệt, thậm chí đối đầu, đang cuốn nhiều quốc gia khác vào “vòng xoáy” quyền lực. Các nước lớn tăng cường điều chỉnh chiến lược, đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết; ra sức lôi kéo liên minh, tập hợp lực lượng, vừa hợp tác, vừa đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau, nhưng cũng sẵn sàng thỏa hiệp với nhau khi cần, đồng thời can dự, chi phối ngày càng sâu vào các khu vực, nội bộ của các quốc gia khác. Điều này dẫn đến sức ép “chọn bên”, “chọn phe” trong quan hệ quốc tế. Trong bối cảnh đó, vì mục tiêu chiến lược, không ít quốc gia đã thực hiện “chọn bên”, “chọn phe” trong quan hệ quốc tế. Nhưng thực tế cho thấy, dù chọn bên nào thì khi tranh chấp, xung đột xảy ra cũng sẽ để lại hậu quả nặng nề cho các bên liên quan. Hơn nữa, “chọn bên”, “chọn phe” đồng nghĩa với việc phải chấp nhận chịu sự chi phối, lệ thuộc vào một bên, quan trọng hơn là đánh mất sự độc lập, tự chủ.

Bài học rút ra đối với các nước vừa và nhỏ là phải cân bằng mối quan hệ với các nước lớn, không để bị cuốn vào vòng xoáy cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, không bị đẩy vào tình thế buộc phải “chọn bên”, “chọn phe”, không bị biến thành “quân cờ” trong tay các nước lớn và không trở thành nạn nhân vì những tính toán sai lầm. Trên hết, cần phải kiên quyết giữ vững độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, không dao động trong mọi tình huống, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc bằng sức mạnh nội lực của mình.

Rõ ràng, cả trong lịch sử và hiện tại, trong chính sách và trên thực tiễn đều cho thấy, trong một thế giới luôn biến động nhanh chóng, phức tạp và khó lường, trước sức ép “chọn bên”, “chọn phe” ngày càng khó khăn, gay gắt như hiện nay, chính đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ với quan điểm nhất quán “chọn chính nghĩa, lẽ phải; không chọn bên, chọn phe”, ngoại giao Việt Nam đã cùng với quốc phòng, an ninh trở thành lực lượng “tiên phong”, “trọng yếu, thường xuyên” kiến tạo và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước, bảo vệ vững chắc Tổ quốc “từ sớm, từ xa”. Đây là minh chứng khách quan, thuyết phục khẳng định đường lối, chính sách đối ngoại của Việt Nam là đúng đắn, sáng tạo; đồng thời là luận cứ đanh thép để đập tan mọi âm mưu xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch, phản động./.

--------------------------------------

(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 161 - 162
(2) Xem: Vũ Khuyên: “Thủ tướng: "Giữa độc lập và phụ thuộc, chúng tôi luôn chọn độc lập", Đài tiếng nói Việt Nam, ngày 12-5-2022, https://vov.vn/chinh-tri/thu-tuong-giua-doc-lap-va-phu-thuoc-chung-toi-luon-chon-doc-lap-post943187.vov
(3) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr. 180 - 181
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 7, tr. 445
(5) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 7, tr. 112
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tậpSđd, t. 4, tr. 147
(7) Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986 - 2016), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 119 - 120
(8), (9) Bộ Quốc phòng: Quốc phòng Việt Nam 2019Sđd, tr. 28
(10) Hoàng Xuân Chiến: “Quân đội tích cực, chủ động hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng trong tình hình mới”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, tháng 11-2023, tr. 2


Không thể xuyên tạc bản chất, mục tiêu chính trị của Quân đội nhân dân Việt Nam

TS NGUYỄN VĂN LÀNH - TS HOÀNG MẠNH CƯỜNG
Đại tá, Trường Đại học Nguyễn Huệ - Trung tá, Trường Đại học Nguyễn Huệ
15:32, ngày 13-06-2025

TCCS - Hiện nay, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị ra sức thực hiện âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội, không ngừng xuyên tạc bản chất, mục tiêu chính trị của Quân đội nhân dân Việt Nam. Trước sự chống phá của các thế lực thù địch, cần nhận thức đúng đắn, đầy đủ Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Quân đội nhân dân là nguyên tắc quyết định sự trưởng thành, chiến thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Nhận diện các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch

Các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị tung ra các luận điệu hòng “phi chính trị hóa”, “phi Đảng hóa”, “quốc hữu hóa” quân đội với lý lẽ kiểu “quân đội đứng ngoài chính trị”, “quân đội chỉ của quốc gia, dân tộc” và có nhiệm vụ “bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia và phục vụ nhân dân chứ không phải bảo vệ chế độ”(?!). Chúng rêu rao rằng, đặt Quân đội dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp, về mọi mặt của Đảng là sai lầm. Có thể thấy, các luận điệu xuyên tạc này đều nhằm mục đích kích động, chia rẽ mối quan hệ hữu cơ giữa Đảng với quân đội, tách quân đội khỏi sự lãnh đạo của Đảng, tiến tới vô hiệu hóa quân đội, từ đó mưu đồ lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Cụ thể:

Về chức năng của quân đội, chúng tung ra nhiều luận điệu bề ngoài tỏ vẻ thân thiện, như “Quân đội nhân dân Việt Nam không nên thực hiện sản xuất, lao động mà chỉ thuần túy làm nhiệm vụ quốc phòng, an ninh”; “quân đội không làm kinh tế là sự đột phá về tư duy” và làm kinh tế thì “lợi ít, hại nhiều”, gây thất thoát, lãng phí cho nhà nước, nhân dân…; quân đội tham gia phát triển kinh tế là sai lầm; Đảng, Nhà nước đang “dung túng”, “o bế” quân đội, cho quân đội thực hiện chức năng sản xuất để thực hiện những lợi ích riêng; rằng quân đội chỉ cần thực hiện chức năng đội quân chiến đấu chứ không cần chức năng đội quân công tác, đội quân lao động, sản xuất(?!)

Đường lối đối ngoại về quốc phòng, an ninh của Việt Nam. Xét về chính sách quốc phòng, Đảng, Nhà nước ta đang nhất quán thực hiện chủ trương “bốn không”, bao gồm không tham gia các liên minh quân sự, không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào; không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam; không dựa vào nước này để chống nước kia; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Thế nhưng, chúng lại tìm mọi cách phủ nhận chủ trương “bốn không” của Đảng và Nhà nước ta, nào là khăng khăng rằng, chính sách “bốn không” là “tự trói tay chân mình”; là “không đủ khả năng để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ”, là lạc hậu, lỗi thời, không phù hợp với thực tế, đi ngược lại xu thế toàn cầu hóa. Chúng xuyên tạc, Đảng và Nhà nước Việt Nam làm như vậy với mục đích riêng và phục vụ cho lợi ích của Đảng, chứ không phải vì lợi ích của dân tộc, vì sự thịnh vượng và phát triển của đất nước, khu vực.

Vấn đề xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại. Chúng xuyên tạc rằng đó là sự đầu tư không thích đáng, ngụy biện thời bình không cần xây dựng lực lượng vũ trang, hiện đại hóa quân đội, đó là sự “lãng phí, tốn kém”, ảnh hưởng đến phát triển kinh tế đất nước; đặc biệt, trong điều kiện Việt Nam đang đẩy mạnh quan hệ đối ngoại, hợp tác toàn diện, sâu rộng với các nước, các đối tác, tổ chức quốc tế... thì càng không có nguy cơ xảy ra xung đột, chiến tranh, nên không cần xây dựng quân đội hiện đại. Chúng hô hào chủ trương này là sự “dung túng” của Đảng, Nhà nước đối với quân đội và để quân đội giữ vững và bảo vệ lợi ích của Đảng. Chúng lợi dụng sai phạm của một số cán bộ cao cấp xuyên tạc xây dựng quân đội hiện đại chính là “mảnh đất màu mỡ” cho nạn tham nhũng “đâm chồi, nảy lộc”. Chúng hô hào rằng, các vấn đề liên quan đến quân sự, quốc phòng phải được nhân dân bàn bạc công khai và quyết định thông qua những “diễn đàn dân chủ”; lợi dụng chủ trương tinh giản biên chế trong quân đội để kích động, quy chụp về lợi ích nhóm, đấu đá quyền lực, thanh trừ lẫn nhau; vu cáo với các luận điệu kiểu như “ngân sách quốc phòng cao gấp nhiều lần ngân sách giáo dục”, “giáo dục Việt Nam đi về đâu”, “phát triển hay mị dân”...

Công tác chính sách đối với cán bộ về hưu, lão thành cách mạng, người có nhiều cống hiến trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược. Bất chấp truyền thống, đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, “Đền ơn đáp nghĩa” tốt đẹp của dân tộc, chúng phủ nhận một cách vô căn cứ đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước ta đối với người có công, “đánh lận con đen” rằng Đảng, Nhà nước ưu ái cho cán bộ quân đội, để họ có cuộc sống hưởng lạc, “công thần” với mục đích để bảo vệ lợi ích riêng của Đảng mà thôi. Chúng tìm mọi cách bôi nhọ đời tư, thân thế, sự nghiệp của các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Bộ Quốc phòng, cố tình hạ thấp uy tín, danh dự, phẩm chất, nhân cách “Bộ đội Cụ Hồ”.

Đối với công tác phòng, chống tham nhũng ở nước ta, chúng xuyên tạc, nào là quân đội là “vùng cấm”, không có việc đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong quân đội, có chăng cũng chỉ làm sơ sơ, theo kiểu “gọi là”, làm “cho có”, làm ở cấp nhỏ, cấp lãnh đạo lớn không dám làm, không dám đụng đến, bởi quân đội được Đảng “dung túng”, “nâng đỡ”, “bao che”, “hậu thuẫn, là “quốc gia” trong “quốc gia”...; nào là quân đội bị phanh phui tham ô, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực thì sẽ mất uy tín, không thể là vỏ bọc để bảo vệ lợi ích của Đảng nên Đảng phải “bao che” khuyết điểm, suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống của cán bộ quân đội, nhất là cán bộ cấp chiến dịch, chiến lược, với mục đích là bảo vệ sự độc tôn lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Bản chất, mục tiêu chính trị của Quân đội luôn gắn với bản chất giai cấp và nội dung của Nhà nước

Luận điệu “Đảng Cộng sản Việt Nam dung túng cho Quân đội”, “nuôi dưỡng Quân đội để tạo vỏ bọc bảo vệ lợi ích của Đảng” là luận điệu không đúng sự thật; không có căn cứ khoa học, thực tiễn, là luận điệu được lập luận theo lối xảo trá, “đánh lận con đen”, thổi phồng vụng về, xuyên tạc bản chất, kích động người dân có những hành động thiếu kiểm soát. Bởi lẽ:

Thứ nhất, từ lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin và thực tiễn lịch sử ra đời, phát triển của quân đội đã chỉ rõ, quân đội nào cũng đều do giai cấp thống trị xã hội đó tổ chức ra, là công cụ chuyên chính bảo vệ lợi ích, địa vị thống trị của giai cấp ấy. “Bản chất giai cấp và nội dung của nhà nước như thế nào thì quân đội - người bảo vệ lợi ích của nó như thế ấy”(1). Quân đội nhân dân Việt Nam là quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện, ra đời trước khi nhân dân ta giành được chính quyền, thành lập nhà nước. Do đó, sự lãnh đạo của Đảng trở thành nguyên tắc trong xây dựng quân đội, quyết định bản chất giai cấp, mục tiêu lý tưởng chiến đấu, sự trưởng thành, lớn mạnh và chiến thắng của Quân đội. Sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội và sự trung thành tuyệt đối của Quân đội đối với Đảng là hai mặt thống nhất, có mối quan hệ biện chứng, không thể tách rời.

Khối chiến sĩ Đặc nhiệm dù diễu binh, diễu hành kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước _Ảnh: TTXVN

Bản chất giai cấp, mục tiêu chiến đấu, chức năng, nhiệm vụ của quân đội phụ thuộc vào bản chất giai cấp, mục đích chính trị của nhà nước tổ chức ra và nuôi dưỡng nó, không có quân đội trung lập về chính trị, quân đội đứng ngoài giai cấp và nhà nước. Trong xã hội có giai cấp, không bao giờ có quân đội đứng ngoài chính trị, không mang bản chất chính trị của giai cấp, nhà nước nào. V. I. Lê-nin khẳng định: “Hiện nay, cũng như trước kia và sau này, quân đội sẽ không bao giờ có thể trung lập được”(2). Thực tiễn lịch sử nhân loại chứng minh rằng, sự nghiệp cách mạng và con đường phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc, bao giờ cũng do một lực lượng chính trị đại biểu cho lợi ích quốc gia, dân tộc lãnh đạo. Lực lượng chính trị ấy sẽ tổ chức, lãnh đạo quân đội, bảo đảm cho nó thực sự là công cụ bạo lực vũ trang của lực lượng chính trị đại biểu cho lợi ích quốc gia, dân tộc đang lãnh đạo, dẫn dắt dân tộc đó phát triển. Điều này cho thấy rõ tính chất phi lý, phản khoa học của cái gọi là “quân đội phi giai cấp”. Đảng Cộng sản Việt Nam là người lãnh đạo, dẫn dắt nhân dân Việt Nam đấu tranh giành độc lập dân tộc, mang lại quyền tự do, dân chủ, hòa bình, hạnh phúc cho nhân dân. Do đó, Đảng lãnh đạo Quân đội là tất yếu và Quân đội mang bản chất giai cấp công nhân của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng ta luôn quan tâm chăm lo xây dựng Quân đội về chính trị, củng cố, tăng cường bản chất giai cấp công nhân, chú trọng xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, làm cơ sở nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu. Mối quan hệ giữa Đảng với Quân đội là mối quan hệ lãnh đạo và phục tùng, Đảng giữ vai trò lãnh đạo đối với Quân đội bằng một cơ chế đặc thù, bảo đảm cho Đảng thường xuyên giữ vững sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt. Thực tiễn đó là không thể phủ nhận, hơn thế còn là minh chứng thuyết phục nhất để bác bỏ mọi luận điểm xuyên tạc, kích động đòi tách Quân đội ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng.

Thứ hai, từ nghìn đời nay cha ông ta có truyền thống xây dựng đội quân vừa chiến đấu, vừa sản xuất, như chính sách “ngụ binh ư nông”, “thực túc binh cường”, “quốc thịnh binh cường”, lúc thời bình sản xuất huấn luyện, khi có giặc người lính xung kích cùng toàn dân đánh giặc. Theo chủ trương của Chủ tịch Hồ Chí Minh, “ngày 22-12-1944, Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân ra đời tại khu rừng nằm giữa hai tổng Trần Hưng Đạo và tổng Hoàng Hoa Thám, châu Nguyên Bình (Cao Bằng), bao gồm 34 người do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy”(3). Người xác định Quân: “Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”(4); khẳng định Quân đội vừa chiến đấu, vừa công tác, sản xuất, trong đó chiến đấu là nhiệm vụ chủ yếu. Ngày nay, vấn đề kết hợp quốc phòng, an ninh với phát triển kinh tế - xã hội là chủ trương hết sức đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta góp phần xây dựng nền kinh tế, phát triển đất nước, đúng với chức năng, nhiệm vụ của Quân đội, tạo điều kiện thuận lợi để bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”. Các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã nêu rõ: “Nói chung, quân đội đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế”(5). Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Tham gia sản xuất là một nhiệm vụ vẻ vang mà Đảng và Chính phủ giao cho Quân đội”(6). Quân đội phải tham gia lao động, sản xuất góp phần phát triển kinh tế, giảm bớt một phần đóng góp của nhân dân. Người cũng yêu cầu, “đẩy mạnh công tác nghiên cứu và phổ biến khoa học và kỹ thuật một cách có trọng điểm, có từng bước vững chắc, nhằm phục vụ sản xuất, phục vụ dân sinh, phục vụ quốc phòng”(7). Trong cuốn sách Một số vấn đề về đường lối quân sự, chiến lược quốc phòng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa thời kỳ mới, của đồng chí cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu rõ, bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa” là bảo vệ từ trước, phòng ngừa từ trước, chủ động chuẩn bị điều kiện để bảo vệ vững chắc Tổ quốc ngay trong thời bình, khi đất nước chưa có chiến tranh, nguy biến(8). Việc bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa” không chỉ cần tập trung tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh đơn thuần, mà còn phải đẩy mạnh phát triển toàn diện các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội, chăm lo xây dựng làm cho mình ngày càng mạnh lên, để giữ cho “trong ấm”. Như vậy, vấn đề Quân đội thực hiện chức năng đội quân công tác, đội quân sản xuất là hoàn toàn hợp lý, không phải như luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch vẫn rêu rao.

Thứ ba, trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, các mối quan hệ quốc tế ngày càng mở rộng, bên cạnh việc hợp tác cùng phát triển, giữa các quốc gia vẫn luôn tồn tại sự cạnh tranh. Suy cho cùng, chỉ có lợi ích quốc gia, dân tộc là tối thượng, là vĩnh viễn. Chính sách quốc phòng có vai trò đặc biệt quan trọng, quan hệ trực tiếp đến vận mệnh của quốc gia, dân tộc. Điều kiện tiên quyết là sức mạnh nội lực phải ở vị trí trọng tâm, không thể dựa dẫm, phụ thuộc. Trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực tiềm ẩn nhiều biến động phức tạp, khó lường, quốc phòng, an ninh của Việt Nam không thể tách rời an ninh khu vực nói riêng và an ninh thế giới nói chung. Hợp tác quốc phòng là một trong những yếu tố quan trọng để duy trì hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới, là yếu tố quan trọng để thực hiện các mục tiêu quốc phòng của Việt Nam. Quân đội chủ động, nhạy bén, nâng cao năng lực nghiên cứu, dự báo, thực hiện tốt chức năng tham mưu chiến lược với Đảng và Nhà nước về quân sự, quốc phòng. Kịp thời nhận diện, xử lý đúng đắn, hài hòa, linh hoạt đối tác, đối tượng quốc phòng; có đối sách xử lý phù hợp, hiệu quả các vấn đề biên giới, biển, đảo, không để bị động, bất ngờ, ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh, xung đột “từ sớm, từ xa”. Có bảo vệ được hòa bình sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho đất nước ổn định, phát triển. Ngược lại, đất nước có phát triển, tiềm lực dồi dào thì vị thế, uy tín của đất nước càng được nâng cao, là điều kiện căn cốt để bảo vệ hòa bình.

Điều 4, Luật Quốc phòng năm 2018 xác định: “Thực hiện đối ngoại quốc phòng phù hợp với đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chống chiến tranh dưới mọi hình thức; chủ động và tích cực hội nhập, mở rộng hợp tác quốc tế, đối thoại quốc phòng, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Sách trắng Quốc phòng Việt Nam 2019 nêu rõ: Việt Nam không chấp nhận quan hệ hợp tác quốc phòng dưới bất kỳ điều kiện áp đặt hoặc sức ép nào. Việt Nam tăng cường hợp tác quốc phòng đa phương nhằm góp phần bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền quốc gia. Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Nỗ lực phấn đấu để ngăn ngừa xung đột, chiến tranh và giải quyết các tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển của Tổ quốc”(9). Vì vậy, việc Việt Nam thực hiện chính sách không tham gia liên minh quân sự không phải là hành động “tự trói tay chân” như các đối tượng vẫn rêu rao.

Thứ tư, quan điểm “Xây dựng Quân đội hiện đại” của Đảng ta được nghiên cứu, kế thừa trên cơ sở tư tưởng, bài học kinh nghiệm quý của ông cha ta về xây dựng quân đội trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, như “Binh quý hồ tinh, bất quý hồ đa”, “quân lính thì cốt hòa thuận không cốt đông, cốt tinh nhuệ không cốt nhiều”(10), “quân hùng, tướng mạnh, thống soái tài ba”, “phụ tử chi binh”, “cả nước là lính, toàn dân đánh giặc”..., giúp phát huy được sức mạnh tổng hợp của đất nước, sức mạnh của quân đội, đánh tan mọi thế lực xâm lược ngoại bang, giữ yên bờ cõi, mang lại nền “thái bình, thịnh trị” cho muôn dân. Trong đó, chú trọng nghiên cứu, vận dụng luận điểm: giai cấp vô sản muốn giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, thì phải tổ chức ra quân đội của mình và xây dựng lực lượng đó đủ mạnh để chiến thắng chủ nghĩa đế quốc, xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, thấy rõ sự cần thiết nâng cao khả năng chiến đấu cho quân đội: “Quân đội của chúng ta là một bảo đảm thực sự khiến cho các cường quốc đế quốc chủ nghĩa không dám có chút mưu toan hành động gì, mưu toan xâm phạm gì đối với chúng ta được”(11).

Lý luận về xây dựng quân đội kiểu mới của V. I. Lê-nin là cơ sở để Đảng ta xác định chủ trương xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam, đồng thời hoạch định kế hoạch, lộ trình, bước đi phù hợp, vững chắc trong quá trình hiện đại hóa Quân đội. Đặc biệt, chủ trương “Xây dựng Quân đội hiện đại” còn được Đảng ta kế thừa, phát triển, vận dụng sáng tạo, hiệu quả tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh về tổ chức xây dựng quân đội hiện đại. Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Chúng ta phải ra sức xây dựng Quân đội ta thành một quân đội nhân dân hùng mạnh, một quân đội cách mạng tiến lên chính quy và hiện đại, để giữ gìn hòa bình, bảo vệ Tổ quốc”(12). Đây là cơ sở để Đảng ta nhận thức, phát triển tư duy lý luận về xây dựng, hiện đại hóa Quân đội, cho phép khẳng định: xây dựng và hiện đại hóa Quân đội là nguyên tắc tổ chức lực lượng vũ trang cách mạng, mang tính tất yếu, khách quan, phù hợp với xu thế thời đại và thực tiễn tình hình đất nước. Vì vậy, không thể dung thứ cho luận điệu xuyên tạc, sai trái, thiếu cơ sở khoa học của các thế lực thù địch cho rằng xây dựng quân đội hiện đại là không cần thiết, là tạo điều kiện cho quân đội tham ô, tham nhũng, là sự “dung túng” của Đảng.

Thứ năm, vấn đề phòng chống tham nhũng, Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng, tiêu cực Bộ Quốc phòng được thành lập do Thứ trưởng Bộ Quốc phòng làm Trưởng ban. Như vậy, cả trên phương diện lý luận và thực tiễn, việc thành lập Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng, tiêu cực từ Trung ương đến địa phương là chủ trương hết sức đúng đắn, khoa học, cần thiết, thể hiện rõ tinh thần triển khai quyết liệt, đồng bộ từ Trung ương đến địa phương “trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt”. Quán triệt chủ trương phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng và với tinh thần chủ động, quyết liệt, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng chỉ đạo triển khai nhiều biện pháp trong đó, xây dựng và thực hiện Đề án “Phòng, chống tiêu cực, tham nhũng, lãng phí trong Quân đội” là một nội dung trọng tâm. Thông qua Đề án, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo Đảng bộ Quân đội và toàn quân quyết tâm chống “giặc nội xâm”, kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tiêu cực, tham nhũng, lãng phí, góp phần xây dựng Đảng bộ Quân đội trong sạch, vững mạnh, xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại. Để hiện thực hóa quyết tâm “trong Quân đội không còn tham ô, lãng phí” và trên cơ sở quán triệt sâu sắc các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương, nhất là Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII, XIII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Quân ủy Trung ương đã ban hành Kế hoạch số 64-KH/QUTW, ngày 1-2-2017, với 5 nhóm nhiệm vụ chủ yếu, 48 giải pháp cụ thể; đồng thời, xác định rõ nhiệm vụ trọng tâm, lựa chọn giải pháp đột phá để triển khai thực hiện. Trên cơ sở đó, Bộ Quốc phòng ban hành Chương trình hành động số 2518/CTr-BQP, ngày 13-3-2017, thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, bao gồm 7 nội dung chính, 42 giải pháp để triển khai thực hiện.

Đồng thời, tập trung rà soát, sửa đổi, bổ sung, ban hành quy chế, quy định, chế độ, định mức, tiêu chuẩn; công khai, minh bạch lĩnh vực công tác trọng yếu; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, nhằm phát hiện, phòng ngừa tiêu cực, tham nhũng, lãng phí; kịp thời điều tra, truy tố, xét xử vụ án tham nhũng, bảo đảm chặt chẽ, đúng pháp luật, đạt chất lượng, hiệu quả. Thường xuyên quan tâm, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ có phẩm chất đạo đức trong sáng, có ý thức tự giác thực hiện nghiêm các quy chế, quy định về công tác quản lý kinh tế, tài chính… tập trung vào đội ngũ cán bộ chủ trì, cán bộ đảm nhiệm vị trí công tác nhạy cảm, dễ nảy sinh tiêu cực; thực hiện tốt việc thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, quy định về quản lý tài chính, tài sản công. Sai phạm xảy ra trong quá trình thực hiện được giải quyết, xử lý kịp thời, nghiêm minh… Chỉ tính từ đầu nhiệm kỳ Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ X đến nay, toàn quân đã thi hành kỷ luật hơn 2.730 cán bộ, đảng viên; trong đó, có hơn 230 đảng viên vi phạm phẩm chất đạo đức, lối sống; gần 70 đảng viên bị kỷ luật liên quan đến tham nhũng; 15 sĩ quan cấp tướng bị điều tra, xét xử(13). Đây cũng là cơ sở khoa học để đấu tranh, phản bác luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, khẳng định không có chuyện quân đội được Đảng “bao che”, “dúng túng”, là “không thể đụng đến” như các luận điệu xuyên tạc trong thời gian qua.

Bộ đội biên phòng giúp dân chống bão _Nguồn: nhiepanhdoisong.vn

Kiên định bản chất, mục tiêu chính trị của Quân đội nhân dân Việt Nam

Luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch hết sức đa dạng, với nhiều biểu hiện khác nhau, nhưng không khó nhận diện. Chủ yếu vẫn là: đòi “phi chính trị hóa” Quân đội, phủ nhận nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với lực lượng vũ trang và sự nghiệp quốc phòng; xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, nhất là “thế trận lòng dân”. Chúng đặc biệt chú ý đến trạng thái tâm lý của quân và dân ta, của dư luận xã hội để xuyên tạc vị trí, chức năng, nhiệm vụ của Quân đội; đặt lợi ích kinh tế đối lập với yêu cầu của quốc phòng, an ninh; đối lập giữa hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hòng phủ định vai trò của quốc phòng, an ninh trong sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Để tiếp tục nhận diện và đấu tranh hiệu quả với các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động đối với Quân đội cần tiếp tục quán triệt và thực hiện một số vấn đề sau:

Một là, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp trong Đảng bộ Quân đội tiếp tục quán triệt sâu sắc các chỉ thị, kết luận của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Thường vụ Quân ủy Trung ương về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong tình hình mới gắn với nghiên cứu, quán triệt, học tập và thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ XI và nghị quyết của cấp ủy các cấp. Để cán bộ, đảng viên và quần chúng đều nhận thức sâu sắc, nắm vững phương pháp luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, từ đó vạch trần có cơ sở khoa học luận điệu của các thế lực thù địch về “phi chính trị hóa” quân đội. Đây là vấn đề quan trọng để xây dựng quân đội cách mạng, thực sự là công cụ bạo lực sắc bén trong sự nghiệp giành, giữ chính quyền cách mạng.

Hai là, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội. Phải thường xuyên chăm lo xây dựng tổ chức đảng các cấp trong quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức và cán bộ, kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện tiêu cực, sự suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, nhất là cấp ủy, chỉ huy các cấp; hết sức tránh mọi biểu hiện hạ thấp vai trò lãnh đạo của cấp ủy, chi bộ, đảng bộ đối với cơ quan, đơn vị. Kết hợp chặt chẽ xây dựng tổ chức đảng các cấp trong quân đội trong sạch, vững mạnh với xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện. Xây dựng được đội ngũ cán bộ các cấp có trình độ cao, phẩm chất và năng lực toàn diện đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội trong những năm tới. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa lãnh đạo với chỉ huy, giữa tổ chức đảng với các tổ chức trong đơn vị, giữa đảng viên với quần chúng, cán bộ với chiến sĩ.

Ba là, tăng cường giáo dục, giác ngộ bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc của quân đội. Cần tăng cường giáo dục về chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, mục tiêu lý tưởng, quan điểm, đường lối của Đảng, nhiệm vụ của cách mạng, nhiệm vụ của quân đội và âm mưu, thủ đoạn mới của các thế lực thù địch cho cán bộ, chiến sĩ. Trên cơ sở đó, củng cố niềm tin cho cán bộ, chiến sĩ vào sự lãnh đạo của Đảng, quyết tâm thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đồng thời, với việc coi trọng giác ngộ bản chất giai cấp công nhân, cần giáo dục chủ nghĩa yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, bồi dưỡng tình cảm đối với quê hương, đất nước, con người Việt Nam cho cán bộ, chiến sĩ trong quân đội.

Bốn là, chăm lo xây dựng Quân đội nhân dân vững mạnh về chính trị. Thực hiện tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ; đẩy mạnh biện pháp phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; biện pháp giữ gìn an ninh quân đội, nhất là đối với cơ quan, đơn vị trọng yếu, cơ mật, tích cực phòng, chống địch cài cắm, móc nối, lôi kéo mua chuộc, dụ dỗ, kích động. Đồng thời, tăng cường công tác dân vận và các mặt công tác khác nhằm bảo đảm cho Quân đội thực sự vững mạnh về chính trị, gắn bó máu thịt với nhân dân, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, Quân đội và chế độ xã hội chủ nghĩa./.

------------

(1) C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 14, tr. 11
(2) V.I.Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t. 43, tr. 277
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia,  Hà Nội, 2011, t. 14, tr. 777
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.14, tr. 435
(5) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tậpSđd, t. 29, tr. 246
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 9, tr. 143
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 14, tr. 96
(8) Xem: Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề về đường lối quân sự, chiến lược quốc phòng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa thời kỳ mới, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2023, tr. 166 - 179
(9) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. 1, tr. 156 - 157
(10) Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử tư tưởng quân sự Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2014, t. II, tr. 372
(11) V. I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 40, tr. 288
(12) Hồ Chí Minh: Toàn tậpSđd, t. 11, tr. 585
(13) Phùng Chất - Công Toàn: “Quân đội nhân dân gương mẫu đi đầu đấu tranh phòng, chống “giặc nội xâm”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, ngày 8-8-2023, http://tapchiqptd.vn/vi/quan-triet-thuc-hien-nghi-quyet/quan-doi-nhan-dan-guong-mau-di-dau-dau-tranh-phong-chong-giac-noi-xam/20636.html


Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam - Sự đột phá, sáng tạo về tư duy lý luận của Đảng, đưa đất nước khẳng định vị thế trên trường quốc tế

TS LÊ VĂN TUYÊN
Học viện Kỹ thuật quân sự
14:25, ngày 26-05-2025

TCCS - Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là thành quả lý luận quan trọng sau gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu chọn lọc kinh nghiệm thế giới. Tuy nhiên, hiện các thế lực thù địch, phản động đang hằng ngày, hằng giờ tìm mọi cách chống phá, xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Hiện nay, các thế lực thù địch, phản động đang ra sức chống phá hòng phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Chúng liên tục phát tán các bài viết với nội dung sai trái, bóp méo sự thật xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh hòng gây tâm lý bất ổn trong xã hội. Âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động càng trở nên nguy hiểm và thâm độc trong bối cảnh của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, khi công nghệ thông tin và truyền thông phát triển mạnh mẽ, tốc độ lan truyền thông tin nhanh hơn, rộng hơn, sâu hơn tới mọi đối tượng trong xã hội. Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta, tạo môi trường thuận lợi để huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả nguồn lực, thúc đẩy đầu tư, sản xuất, kinh doanh, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh dân chủ, công bằng, văn minh”. Tuy nhiên, kinh tế - xã hội phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của đất nước. Nhiều khó khăn, thách thức còn hiện hữu. Kiên quyết, kiên trì việc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam vừa bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, vừa bảo đảm xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường.

Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam - mô hình phát triển đầy sáng tạo, thành quả của việc tiếp thu văn minh nhân loại phù hợp với điều kiện Việt Nam

Thứ nhất, bất cứ quốc gia, dân tộc nào cũng có thể tiếp nhận, thụ hưởng những thành tựu và giá trị chung, phổ biến của kinh tế thị trường - thành quả của văn minh nhân loại.

Các thế lực thù địch, phản động xuyên tạc: không có nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chúng gán kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản, coi kinh tế thị trường là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản, gán ghép “kinh tế thị trường” với “định hướng xã hội chủ nghĩa” là chủ quan, duy ý chí, như “nước” với “lửa”, không thể kết hợp với nhau, nếu bỏ “cụm từ” định hướng xã hội chủ nghĩa thì nền kinh tế Việt Nam còn phát triển nhanh hơn nữa, đạt được thành tựu lớn hơn nữa.

Cần nhất quán khẳng định kinh tế thị trường là thành quả của văn minh nhân loại, được hình thành, phát triển trong tiến trình phát triển của nhân loại khi kinh tế hàng hóa đã đạt đến trình độ nhất định.

Như chúng ta đã biết, kinh tế thị trường là kinh tế hàng hóa phát triển ở trình độ cao ở đó, tất cả quan hệ kinh tế đều được thực hiện ở trên thị trường. Kinh tế thị trường và kinh tế hàng hóa mặc dù có điểm giống nhau, nhưng không đồng nhất. Kinh tế thị trường và kinh tế hàng hóa đều ra đời dựa trên cơ sở phân công lao động xã hội và tính tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa những người sản xuất hàng hóa(1) mà khởi thủy là sự xuất hiện của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Kinh tế hàng hóa ra đời từ rất sớm, từ cuối chế độ công xã nguyên thủy, đầu chế độ chiếm hữu nô lệ, khi xã hội có đầy đủ hai điều kiện đề cập ở trên. Các phạm trù (giá trị, giá cả, lợi nhuận, hàng hóa, tiền tệ), quy luật (giá trị, cung - cầu, cạnh tranh, lưu thông tiền tệ và lạm phát) của kinh tế hàng hóa cũng chính là các phạm trù, quy luật của kinh tế thị trường. Các phạm trù, quy luật này có trước chủ nghĩa tư bản, được chủ nghĩa tư bản sử dụng để phát triển kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Như vậy, kinh tế thị trường là thành tựu của sự phát triển văn minh nhân loại, mang những giá trị chung và có tính phổ quát. Cho đến nay, kinh tế thị trường đã phát triển qua nhiều giai đoạn khác nhau, trong nhiều chế độ xã hội, đạt đến trình độ cao trong xã hội tư bản chủ nghĩa, nhưng điều này không có nghĩa kinh tế thị trường là sản phẩm riêng có của chủ nghĩa tư bản. Là mô hình kinh tế mang tính phổ biến, việc phát triển kinh tế thị trường là điều tất yếu, khách quan đối với tất cả quốc gia, dân tộc; bất cứ quốc gia, dân tộc nào cũng có thể tiếp nhận, thụ hưởng những thành tựu và giá trị chung, phổ quát của kinh tế thị trường, đồng thời vận dụng sáng tạo phù hợp với đặc điểm, điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của quốc gia, dân tộc mình.

Thực tiễn cũng cho thấy, kinh tế thị trường nảy sinh và phát triển trong nhiều chế độ xã hội khác nhau và với nhiều mô hình khác nhau, như mô hình kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đặc sắc ở Trung Quốc, mô hình kinh tế thị trường ở Nhật Bản, mô hình kinh tế thị trường nhà nước phúc lợi ở Thụy Điển và các nước Bắc Âu, mô hình kinh tế thị trường xã hội ở Cộng hòa Liên bang Đức,  mô hình kinh tế thị trường tự do ở Mỹ… Trong các mô hình kinh tế thị trường ở các nước tư bản, ở mức độ, tính chất khác nhau, các yếu tố xã hội chủ nghĩa đều hiện hữu, dù được thừa nhận hay không thừa nhận. Điều này chỉ ra rằng, mầm mống của chủ nghĩa xã hội xuất hiện ngay trong lòng các nước tư bản phát triển.

Ngược dòng thời gian, trong những năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga Xô-viết, V. I. Lê-nin đã nhận ra vấn đề của việc đồng nhất kinh tế hàng hóa với chủ nghĩa tư bản, không sử dụng quan hệ hàng hóa - tiền tệ để thúc đẩy sản xuất và cải thiện đời sống người dân. Từ đó, V. I. Lê-nin đã đề ra và tổ chức thực hiện “Chính sách kinh tế mới” (NEP), mà nội dung cơ bản là duy trì và phát triển các quan hệ thị trường dưới sự quản lý của nhà nước vô sản. Việc thực hiện chính sách kinh tế mới đã nhanh chóng đưa nước Nga Xô-viết thoát ra khỏi tình trạng trì trệ trong những năm 20 của thế kỷ XX; đồng thời, khẳng định tính hiện thực của mô hình kinh tế chứa đựng sự dung hợp giữa kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội. Từ sự phân tích trên có thể khẳng định, kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa hoàn toàn không đối lập nhau, có thể dung hợp với nhau để tạo thành mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Thứ hai, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, sự tham gia của Nhà nước trong việc điều tiết nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.

Các thế lực thù địch, phản động xuyên tạc rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam chấp nhận phát triển kinh tế thị trường là lựa chọn con đường phát triển tư bản chủ nghĩa. Chúng xuyên tạc chính sách khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân, việc coi kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, từ đó quy chụp rằng, Việt Nam đang lựa chọn con đường phát triển tư bản chủ nghĩa. Việc coi kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chính là bảo đảm việc ngày càng phát huy dân chủ trong đời sống kinh tế - xã hội, từng bước cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, cắt giảm thủ tục hành chính, bảo đảm sự phù hợp hơn của phương thức quản lý nhà nước với cơ chế thị trường, bảo vệ tốt hơn quyền tài sản, quyền tự do kinh doanh của cá nhân và tổ chức.

Điều cần khẳng định là việc xác định một nền kinh tế là “xã hội chủ nghĩa” hay “tư bản chủ nghĩa” không thể dựa vào tiêu chí về kinh tế tư nhân hay sự điều tiết của thị trường, mà quan trọng hơn là phải dựa vào mục tiêu phát triển của nền kinh tế đó là vì ai, giai cấp, tầng lớp nào, nguyên tắc hoạt động của nền kinh tế đó là gì, cũng như quá trình hình thành và phát triển của nền kinh tế đó như thế nào, ai là người chủ thật sự của nền kinh tế đó... Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định là “mô hình tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội... vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước”(2). Quá trình hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đều xuất phát từ lợi ích của nhân dân và Nhà nước (khi nền kinh tế chỉ huy với cơ chế kế hoạch hóa tập trung duy trì trong một thời gian dài bộc lộ hạn chế, yếu kém, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, chủ trương xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cho đến nay, sau gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn về phát triển kinh tế - xã hội, ngày càng khẳng định vị thế trên trường quốc tế. Do vậy, giữa nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam có sự khác nhau căn bản và điểm khác biệt rõ nhất là, trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, người làm chủ là giới chủ tư bản, là giai cấp tư sản; còn trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, người làm chủ là nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước.

Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nền kinh tế đang ở trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế tất yếu còn hiện hữu nhằm huy động mọi nguồn lực để phát triển đất nước, trong đó kinh tế tư nhân được Đảng ta xác định là một động lực quan trọng. Kinh tế tư nhân được khuyến khích phát triển ở tất cả ngành, nghề, lĩnh vực mà pháp luật không cấm, bình đẳng trước pháp luật với các thành phần kinh tế khác. Nhà nước tạo mọi điều kiện phát triển kinh tế tư nhân, nhưng không chấp nhận “tư nhân hóa” nền kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là công cụ, lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng, điều tiết, dẫn dắt các thành phần kinh tế khác, thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển nền kinh tế thị trường. Sự tham gia của Nhà nước trong vai trò ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng, điều tiết, dẫn dắt các thành phần kinh tế khác, thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội là yêu cầu quan trọng để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển nền kinh tế thị trường, cũng là cơ sở quan trọng để bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.

Bảo dưỡng hệ thống dẫn khí tại nhà máy nhiệt điện ở tỉnh Tiền Giang _Nguồn: nhiepanhdoisong.vn

Sự lựa chọn kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn

Để khẳng định tính đúng đắn của việc lựa chọn kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cần làm rõ hai vấn đề. Thứ nhất, tại sao Việt Nam lại lựa chọn kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thay cho kinh tế chỉ huy với cơ chế kế hoạch hóa tập trung? Thứ hai, những thành tựu Việt Nam đã đạt được khi xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Vấn đề thứ nhất, có thể thấy, sau khi đất nước hoàn toàn giải phóng (ngày 30-4-1975), việc duy trì kinh tế chỉ huy với cơ chế kế hoạch hóa tập trung bắt đầu bộc lộ hạn chế, yếu kém khiến cho nền kinh tế Việt Nam rơi vào trì trệ: “Giai đoạn 1976 - 1980, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của tổng sản phẩm xã hội chỉ đạt 1,4%, thu nhập quốc dân chỉ tăng 0,4%, trong khi đó dân số tăng với tốc độ bình quân 2,24%/năm. Tình hình đó đã khiến cho đời sống mọi tầng lớp dân cư trong xã hội hết sức khó khăn (theo ước tính vào những năm 80 của thế kỷ XX, cứ 10 người dân Việt Nam thì có 7 người sống trong tình trạng nghèo đói”(3). Tình hình đó đặt ra yêu cầu cấp bách phải định hình lại tư duy về phát triển kinh tế.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 12-1986) đánh dấu sự khởi đầu tiến trình đổi mới ở Việt Nam, trong đó bao hàm ý nghĩa là bước đột phá tư duy đầu tiên của Đảng về nền kinh tế thị trường, được thể hiện trên hai vấn đề chủ yếu: Một là, tư duy lại về cơ chế quản lý: “cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp từ nhiều năm nay không tạo được động lực phát triển, làm suy yếu kinh tế xã hội chủ nghĩa… kìm hãm sản xuất, làm giảm năng suất, chất lượng, hiệu quả, gây rối loạn trong phân phối lưu thông, và đẻ ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội”(4)Hai là, đề ra yêu cầu xây dựng cơ chế quản lý mới phù hợp với quy luật khách quan và với trình độ phát triển của nền kinh tế. Trong đó nhấn mạnh: quá trình từ sản xuất nhỏ đi lên sản xuất lớn ở nước ta là quá trình chuyển hóa nền kinh tế còn nhiều tính tự cấp, tự túc thành nền kinh tế hàng hóa; với hai đặc trưng của cơ chế quản lý mới là “Tính kế hoạch là đặc trưng số một của cơ chế quản lý kinh tế… Sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hóa - tiền tệ là đặc trưng thứ hai của cơ chế mới về quản lý kinh tế”(5). Đại hội VI của Đảng khẳng định: “Thực chất của cơ chế mới về quản lý kinh tế là cơ chế kế hoạch hóa theo phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ(6). Như vậy, đến Đại hội VI, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thừa nhận nền sản xuất hàng hóa, tức là thừa nhận cơ chế thị trường, nhưng chưa coi nền kinh tế Việt Nam là kinh tế thị trường. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6  khóa VI nêu rõ: năm 1986 bắt đầu công cuộc đổi mới…, Việt Nam đã phát triển từ một nền kinh tế kế hoạch hóa sang một nền kinh tế định hướng thị trường.

Năm 1991, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh tiếp tục bổ sung lý luận về kinh tế hàng hóa: Một là, đưa ra chủ trương “Phát triển một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa”(7)Hai là, “Xóa bỏ triệt để cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp, hình thành cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác. Xây dựng và phát triển đồng bộ các thị trường hàng tiêu dùng, vật tư, dịch vụ, tiền vốn; sức lao động…; thực hiện giao lưu kinh tế thông suốt cả nước và với thị trường thế giới”(8).

Từ nhận thức về kinh tế thị trường sau 15 năm tiến hành công cuộc đổi mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001) đã chính thức xác định nền kinh tế Việt Nam là “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”; đồng thời, chỉ ra nội hàm của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: “nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa(9). Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân.

Như vậy, quá trình nhận thức, chuyển đổi tư duy của Đảng Cộng sản Việt Nam từ nền kinh tế chỉ huy với cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một quá trình dài, bởi kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình chưa có tiền lệ trên thế giới. Đây là mô hình chúng ta vừa làm, vừa học hỏi, rút kinh nghiệm để hoàn chỉnh thành mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Mặc dù quá trình hoàn thiện vẫn đang tiếp diễn, nhưng có thể khẳng định, Việt Nam lựa chọn phát triển kinh tế thị trường trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là hoàn toàn đúng đắn. Chẳng hạn như, quy luật giá trị trong nền kinh tế thị trường góp phần điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa (ngành, nghề, lĩnh vực nào làm ăn hiệu quả, lợi nhuận lớn thì sẽ thu hút nhiều người tham gia; trong khi đó, ngành, nghề, lĩnh vực kém hiệu quả sẽ có hiện tượng thu hẹp hoặc rút khỏi của người sản xuất. Hiện tượng này làm cho các yếu tố sản xuất, như vốn, nhân lực, đất đai, khoa học - công nghệ... được phân bố lại, làm cho nguồn lực trong xã hội được sử dụng hiệu quả hơn. Bên cạnh đó, hàng hóa còn được điều tiết từ nơi có giá cả thấp đến nơi có giá cả cao hơn, từ nơi cung lớn hơn cầu đến nơi cung nhỏ hơn cầu, góp phần điều tiết luồng hàng hóa trên thị trường). Hoặc dưới tác động của quy luật cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường, chủ thể sản xuất hàng hóa phải đổi mới kỹ thuật công nghệ để nâng cao năng suất lao động, giảm giá trị cá biệt, hạ giá thành sản phẩm nhằm đạt được điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa. Với sự tác động này, “người sản xuất vừa chạy theo tư lợi lại vừa đồng thời thực hiện một nhiệm vụ không nằm trong dự kiến đó là đáp ứng lợi ích chung của xã hội”(10). Kinh tế thị trường cũng là mô hình kinh tế thúc đẩy tính năng động, sáng tạo của chủ thể sản xuất, kinh doanh (để có được nhiều lợi nhuận, buộc chủ thể sản xuất, kinh doanh luôn phải năng động, nhạy bén trong việc nắm bắt tâm lý, thị hiếu người tiêu dùng trên thị trường, am hiểu nghệ thuật kinh doanh, dự báo được quan hệ cung - cầu, không ngừng đổi mới sáng tạo để chiếm lĩnh ưu thế trong sản xuất, kinh doanh...).

Bên cạnh lợi ích to lớn mà kinh tế thị trường đem lại, cần nhận thức rằng, kinh tế thị trường cũng chứa đựng khuyết tật mà bản thân nó không thể khắc phục được: phân hóa xã hội thành hai cực, tiềm ẩn khả năng xảy ra khủng hoảng kinh tế, hủy hoại môi trường sinh thái (do trong nền kinh tế thị trường, chủ thể sản xuất, kinh doanh thường có xu hướng chạy theo lợi nhuận đơn thuần, ít quan tâm hoặc thậm chí là “trốn tránh” trách nhiệm bảo vệ môi trường sinh thái)… Khuyết tật đó đòi hỏi sự hiện diện của Nhà nước với vai trò kiến tạo, tạo lập thể chế. Đây chính là lý do để khẳng định tại sao phải định hướng xã hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vai trò của Nhà nước được xác định rõ trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa XII (Nghị quyết số 11-NQ/TW), ngày 3-6-2017, “Về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”: “Định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các công cụ, chính sách và các nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển”. Định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện trong từng chính sách, từng kế hoạch và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Chính sách, kế hoạch, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đất nước hướng tới thực hiện được mục tiêu, nhiệm vụ của từng giai đoạn trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; phù hợp với cơ chế thị trường và bảo đảm tính hiện đại. Tính hiện đại được thể hiện ở sự kế thừa có chọn lọc những thành tựu phát triển kinh tế thị trường của nhân loại; các yếu tố của thị trường, các loại thị trường đồng bộ và vận hành thông suốt, gắn với các nền kinh tế thế giới.

Sản xuất và lắp ráp ô tô tại Công ty cổ phần Tập đoàn Trường Hải (THACO) _Ảnh: TTXVN

Vấn đề thứ hai, có thể thấy rằng qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, chủ trương xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã thu được thành công hết sức to lớn, không thể phủ nhận:

Về quy mô của nền kinh tế: “Mức tăng trưởng trung bình khoảng 7% mỗi năm. Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008. Quy mô GDP theo giá hiện hành năm 2023 đạt khoảng 10,22 triệu tỷ đồng, tương đương 430 tỷ USD. GDP bình quân đầu người năm 2023 theo giá hiện hành đạt khoảng 101,9 triệu đồng/người, tương đương 4.284 USD, tăng 160 USD so với năm 2022”(11). “Tổng sản phẩm quốc nội của Việt Nam hiện nay gồm khoảng 27% từ kinh tế nhà nước, 4% từ kinh tế tập thể, 30% từ kinh tế hộ, 10% từ kinh tế tư nhân trong nước và 20% từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài”(12).

Về hoạt động xuất, nhập khẩu: “Kim ngạch xuất khẩu không ngừng được tăng lên, đóng góp một phần quan trọng vào sự tăng trưởng GDP. Nếu năm 1986, tổng kim ngạch xuất khẩu mới đạt 789 triệu USD, thì năm 2006 xuất khẩu đã đạt trên 39 tỷ USD và kể từ sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), kim ngạch xuất khẩu không ngừng tăng lên, năm 2023 đạt 355,5 tỷ USD. Về cơ cấu, mặt hàng xuất khẩu ngày càng phong phú, đa dạng, có nhiều nhóm hàng “chủ lực” đạt kim ngạch lớn. Nhiều mặt hàng xuất khẩu có khối lượng lớn, kim ngạch đứng thứ hạng cao trên thế giới. Nếu năm 1986 chúng ta chưa có mặt hàng nào xuất khẩu nào đạt giá trị trên 200 triệu USD thì hiện nay đã có nhiều mặt hàng vượt kim ngạch 1 tỷ USD, 5 tỷ USD”(13). Đến nay, nước ta đã có quan hệ thương mại với 224 đối tác; đã, đang đàm phán, ký kết và thực thi 17 FTA. Việt Nam trở thành một trong những nước đi đầu khu vực trong việc hình thành các khuôn khổ hợp tác kinh tế đa phương”(14).

Về công tác an sinh xã hội: An sinh xã hội đạt nhiều kết quả quan trọng, nhất là trong giáo dục, y tế, hỗ trợ đối tượng gặp hoàn cảnh khó khăn. “Nhiều dịch bệnh vốn phổ biến trước đây đã được khống chế thành công. Người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi và người cao tuổi được cấp bảo hiểm y tế miễn phí. Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em và tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh giảm gần ba lần. Đến tháng 4-2022, cả nước có 5.706/8.227 xã đạt chuẩn nông thôn mới, trong đó 663 xã đạt chuẩn nâng cao và 71 xã đạt chuẩn kiểu mẫu”(15).

Những thành tựu đạt được khi xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa khẳng định Việt Nam lựa chọn kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, xu thế vận động của nền kinh tế thế giới, đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế đất nước, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

***

Thực tiễn đổi mới ở nước ta đã chứng minh đầy sức thuyết phục về việc vận  dụng mô hình kinh tế thị trường làm phương tiện xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế trong đó thiết chế, công cụ và nguyên tắc vận hành kinh tế thị trường được tạo lập và sử dụng để giải phóng triệt để sức sản xuất, từng bước cải thiện đời sống của nhân dân, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Để đẩy mạnh sự phát triển và hoàn thiện mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong thời gian tới, việc tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho toàn Đảng, toàn dân về đặc trưng, bản chất, mục tiêu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là điều hết sức quan trọng. Bên cạnh đó, cần kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng, phản bác các luận điệu sai trái của các thế lực thù địch, phản động đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ, phát huy những thành quả đã đạt được trong quá trình xây dựng, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam./.

---------------

(1) Giáo trình Kinh tế học chính trị Mác -Lê-nin, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, tr. 114 - 115
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, t. I, tr. 128
(3) Lê Thị Quế: Từ tư duy đến thực tiễn 15 năm “lột xác” của nền kinh tế Việt Nam (1986 - 2001), Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, số 354 (11-2007), tr. 60
(4), (5) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1987, tr. 62, 63
(6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VISđd, tr. 65
(7), (8) Văn kiện Đảng: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, t. 51, tr. 137, 138
(9) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 86
(10) Giáo trình Lịch sử các học thuyết kinh tế, Nxb. Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội, 2009, tr. 73
(11) Mai Chi: GDP bình quân đầu người Việt Nam vượt 100 triệu đồng, https://dantri.com.vn/kinh-doanh/gdp-binh-quan-dau-nguoi-viet-nam-vuot-100-trieu-dong-20231229093332819.htm, ngày 29-12-2023
(12) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr. 31
(13) Ban Tài chính quốc tế và Chính sách hội nhập, Viện Chiến lược và Chính sách tài chính: Những kết quả đạt được sau 30 năm đổi mới về hội nhập kinh tế quốc tế, Cổng Thông tin điện tử Bộ Tài chính, ngày 30-5-2023, https://mof.gov.vn/webcenter/portal/btcvn/pages_r/l/tin-bo-tai-chinh?dDocName=MOFUCM098068
(14) Nguyễn Thùy: Những dấu ấn của thương mại Việt Nam sau hơn 35 năm đổi mới, ngày 19-12-2022, https://www.tuyengiao.vn/nhung-dau-an-cua-thuong-mai-viet-nam-sau-hon-35-nam-doi-moi-146918
(15) Nguyễn Trọng Nghĩa: Thành tựu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam qua hơn 35 năm đổi mới, Tạp chí Cộng sản, số 1008 (2-2023), tr. 3


Phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc - mục tiêu, quyết tâm của toàn Đảng và ý nguyện, khát vọng của người dân Việt Nam

TS LÊ THỊ CHIÊN
Phó Chánh Văn phòng Ban Chỉ đạo 35 Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
13:53, ngày 24-04-2025

TCCS - Thời gian gần đây, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đưa ra các luận điệu xuyên tạc, chống phá chủ trương của Đảng ta về việc đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Cần nhận diện rõ các luận điệu sai trái, thù địch đó; đồng thời, làm rõ nội dung liên quan, nhằm nâng cao nhận thức, củng cố niềm tin cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, góp phần hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Nhận diện các luận điệu sai trái, thù địch xuyên tạc, chống phá chủ trương của Đảng về kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Ngày 13-8-2024, phát biểu tại cuộc họp thường trực Tiểu ban Văn kiện Đại hội XIV của Đảng, đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm chỉ rõ, Đại hội XIV của Đảng diễn ra trong bối cảnh thế giới có nhiều thay đổi mang tính thời đại; thời cơ, thuận lợi đi liền với nguy cơ, thách thức. Với thế và lực đã tích lũy được sau gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, với sự đồng lòng, chung sức của toàn Đảng, toàn dân, với thời cơ, thuận lợi mới, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, Việt Nam hội tụ đủ điều kiện cần thiết để chuẩn bị bước vào một giai đoạn phát triển mới. Do đó, “cần thống nhất nhận thức về khởi điểm lịch sử mới, kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, từ đó có những đổi mới mạnh mẽ hơn nữa về hình thức và nội dung các văn kiện(1). Đây là chủ trương định hướng cho việc xây dựng các văn kiện Đại hội XIV của Đảng, nhất là việc đổi mới nội dung, hình thức các văn kiện cho phù hợp với yêu cầu của thời kỳ mới.

Đặc biệt, ngày 20-9-2024, trong bài phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương 10 khóa XIII, đề cập về công tác chuẩn bị nội dung dự thảo các văn kiện, đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định sự thống nhất của Trung ương khi đánh giá về thế và lực của đất nước sau 40 năm đổi mới: “Với thế và lực đã tích lũy được sau 40 năm đổi mới, với sự đồng lòng, chung sức của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, với những thời cơ, thuận lợi mới, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, chúng ta đã hội tụ đủ những điều kiện cần thiết và Văn kiện Đại hội XIV phải đề ra được định hướng chiến lược, nhiệm vụ, giải pháp quan trọng để giải phóng toàn bộ sức sản xuất, phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, lấy nguồn lực nội sinh, nguồn lực con người là nền tảng, khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo là đột phá để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của Dân tộc Việt Nam”(2).

Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc thời điểm khởi đầu là Đại hội XIV của Đảng. Từ chủ trương đúng đắn, thể hiện quyết tâm cao của Đảng ta, các thế lực thù địch, phản động tỏ thái độ hằn học, liên tục đưa ra luận điệu chống phá, hòng xuyên tạc chủ trương của Đảng ta. Có thể nhận diện luận điệu chống phá của các thế lực phản động, thù địch ở các vấn đề chủ yếu sau:

Một là, trên nhiều diễn đàn mạng xã hội hay trên các trang báo điện tử của các trung tâm truyền thông nước ngoài sử dụng tiếng Việt, các thế lực thù địch rêu rao rằng “kỷ nguyên vươn mình dân tộc Việt Nam là mù mờ, mị dân, hoang tưởng, không có căn cứ trong thực tiễn nên không thể thực hiện được”, “hô hào khẩu hiệu”....

Hai là, chúng quy chụp rằng, quan điểm về kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam mang tính chủ quan. Thậm chí, có phần tử cơ hội chính trị còn mỉa mai việc cơ quan, bộ, ngành đẩy mạnh tuyên truyền, tổ chức hội nghị, hội thảo để khẳng định, lan tỏa những vấn đề lý luận, thực tiễn về kỷ nguyên vươn mình của dân tộc là “đánh chống khua chiêng”, “tát nước theo mưa”!

Những nhận thức nêu trên là phiến diện, sai lầm gây xáo trộn về tư tưởng, niềm tin, ý chí trong một số cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đây là thủ đoạn hết sức nguy hiểm của các thể lực thù địch trong bối cảnh năm 2025 là năm cuối cùng của nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng, khi cả dân tộc bước vào giai đoạn “tăng tốc về đích”, cần tập trung mọi nguồn lực, phát huy động lực để hoàn thành mục tiêu đề ra. Các quan điểm, luận điệu sai trái, thù địch có thể tác động đến nhận thức, tư tưởng, ý chí, niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân nên rất cần có luận cứ đấu tranh xác đáng, thuyết phục.

Thống nhất ý chí trong toàn Đảng, toàn dân về kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Kỷ nguyên là một khái niệm mang tính phân kỳ lịch sử, dựa trên sự kiện, dấu mốc có tính bước ngoặt. Đây là một thời kỳ phát triển mới, tạo ra thay đổi căn bản, toàn diện. Kỷ nguyên mới của dân tộc là thời kỳ phát triển mới trong tiến trình lịch sử mà ở đó, mục tiêu, nhiệm vụ đã được thực hiện, đã hoàn thành, sẽ tạo ra bước ngoặt cho tiến trình phát triển để dân tộc bước vào một thời kỳ phát triển mới. Với hàm nghĩa này, từ thế kỷ XX đến nay, có thể nhận định Việt Nam đã có hai sự kiện mang tính bước ngoặt: kỷ nguyên độc lập dân tộc được đánh dấu bằng thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945; kỷ nguyên đổi mới đất nước được ghi dấu bằng quyết sách quan trọng về đổi mới đất nước ở Đại hội VI của Đảng (năm 1986), mở ra một giai đoạn phát triển mới cho đất nước; trong đó, kỷ nguyên độc lập mở ra thời kỳ độc lập cho dân tộc, chấm dứt hơn 80 năm đô hộ của thực dân Pháp và hàng nghìn năm phong kiến; kỷ nguyên đổi mới tạo nền tảng quan trọng để chuyển sang thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, mang lại thay đổi về chất, mang tính bước ngoặt cho đất nước ta.

Thành phố Hồ Chí Minh hội nhập và phát triển _Nguồn: nhiepanhdoisong.vn

Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc gắn với việc Việt Nam chuẩn bị bước vào một giai đoạn phát triển mới, nâng tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế của nước ta lên một tầm cao mới.

Một là, điều kiện khách quan để định vị mục tiêu đưa đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Hiện nay, thế giới đang trong thời kỳ thay đổi có tính thời đại. Từ nay đến năm 2030 là giai đoạn quan trọng nhất để định hình trật tự thế giới mới. Đây là giai đoạn quan trọng nhất để Việt Nam xác lập vị thế của mình và hoàn thành mục tiêu chiến lược 100 năm. Sự biến chuyển có tính thời đại này là cơ hội to lớn đối với Việt Nam.

Mặc dù thế giới vẫn xảy ra các cuộc xung đột, tranh chấp căng thẳng, kéo dài, nhưng về cơ bản, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, là nguyện vọng đồng thời là mục đích hướng đến của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Cạnh tranh giữa các nước, nhất là các nước lớn tuy quyết liệt, nhưng đều tránh xu hướng đối đầu, xung đột trực diện, mong muốn duy trì hòa bình để ổn định và phát triển. Trong khi đó, những vấn đề an ninh truyền thống, an ninh phi truyền thống vẫn tiếp tục diễn ra mà không một quốc gia nào có thể tự mình giải quyết được, đòi hỏi có sự liên kết, hợp tác chặt chẽ để cùng giải quyết nhằm bảo đảm lợi ích chung của cộng đồng quốc tế và lợi ích riêng của quốc gia, dân tộc. Mặc dù các cường quốc tiếp tục đóng vai trò chính trong việc thiết lập các mối quan hệ quốc tế, nhưng các quốc gia vừa và nhỏ, trong đó có Việt Nam cũng có nhiều cơ hội hơn để tham gia vào các diễn đàn khu vực, quốc tế và tham gia vào giải quyết vấn đề toàn cầu. Đó là thời cơ để Việt Nam khẳng định và chứng tỏ tiềm lực, vị thế của mình.

Xu hướng liên kết quốc tế, nhất là liên kết về kinh tế tiếp tục được thúc đẩy, hình thành các chu trình sản xuất, cung ứng toàn cầu, mở ra cơ hội để Việt Nam tham gia vào các chuỗi sản xuất, chuỗi cung ứng đó. Trên cơ sở của việc nâng cấp các mối quan hệ đối tác chiến lược, đối tác chiến lược toàn diện, Việt Nam sẽ có thêm nhiều cơ hội mở rộng thị trường, gia tăng vốn đầu tư, đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ để phục vụ mục tiêu phát triển bền vững. Hơn nữa, việc thực hiện hiệu quả các hiệp định thương mại đã ký và tiếp tục đàm phán gia nhập hiệp định thương mại mới, sáng kiến về chuỗi giá trị, chuỗi cung ứng trong thời gian tới sẽ tạo khuôn khổ cho hợp tác kinh tế, giúp giảm thiểu tác động từ các rủi ro bất định trên thế giới. Điều này giúp cho Việt Nam có một môi trường tốt để tiếp tục gia tăng các mối quan hệ hợp tác với các nước, nhất là hợp tác trên lĩnh vực kinh tế.

Đặc biệt, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với tốc độ phát triển nhanh chóng dựa trên nền tảng của trí tuệ nhân tạo (AI), Internet vạn vật (IoT), cơ sở dữ liệu lớn (Big Data), điện toán đám mây (Cloud computing)… sẽ tạo động lực và sức bật cho nghiên cứu, ứng dụng công nghệ mới vào phát triển sản xuất cũng như hiện đại hóa xã hội. Thực tiễn cho thấy, sau gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, nhờ tận dụng lợi thế của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, lực lượng sản xuất của Việt Nam đã có bước phát triển vượt bậc cả trên phương diện chủ thể của lực lượng sản xuất - người lao động và điều kiện, tiền đề phát triển lực lượng sản xuất - tư liệu sản xuất. “Lực lượng lao động ước đạt 53,2 triệu người vào năm 2025, với cơ cấu chuyển dịch tích cực; tỷ lệ lao động nông nghiệp giảm mạnh, còn 25,8%; chất lượng nguồn nhân lực không ngừng nâng cao với 70% lao động qua đào tạo. Nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong các lĩnh vực then chốt, như công nghiệp bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, công nghệ thông tin được tập trung phát triển, bước đầu hình thành đội ngũ lao động với tư duy số và kỹ năng số ngày càng được nâng cao”(3). Ngoài ra, tư liệu sản xuất vô hình (dữ liệu số) ngày càng chiếm vị trí, vai trò quan trọng trong nền kinh tế số. Điều này chính là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, hiện đại hóa phương thức sản xuất, là cơ sở để Việt Nam chuyển mạnh sang sản xuất theo chiều sâu, tăng năng suất lao động, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế. Do đó, lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay, ngoài lực lượng lao động thủ công, còn có đội ngũ lao động có trình độ khoa học - công nghệ hiện đại, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ thông tin, góp phần làm thay đổi toàn bộ cấu trúc sức sản xuất của lực lượng sản xuất trong bối cảnh mới. Đặc biệt, hiện nay trí tuệ nhân tạo đang dẫn đầu trong quá trình chuyển đổi số và ngày càng gia tăng qua từng năm. Do đó, sự kết nối giữa con người với trí tuệ nhân tạo là đặc điểm nổi trội của lực lượng sản xuất trong bối cảnh mà cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã tạo ra cơ hội cho Việt Nam xác lập một phương thức sản xuất tiên tiến, hiện đại - phương thức sản xuất số.

Như vậy, bên cạnh thách thức, tình hình thế giới, khu vực, đặc biệt là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang mang lại thời cơ to lớn để Việt Nam gia tăng thế và lực, phát huy lợi thế sẵn có để thúc đẩy đà tăng trưởng, tạo môi trường chính trị ổn định, tạo tiền đề vật chất quan trọng để bước vào một giai đoạn phát triển bứt phá trong những năm tiếp theo.

Hai là, những nhân tố chủ quan để định vị mục tiêu đưa đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Sau gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự đồng lòng, đồng thuận và nỗ lực của nhân dân, Việt Nam đã khai thác được mọi tiềm năng, khơi thông được các nguồn lực, tích lũy được thế và lực cho sự phát triển bứt phá trong giai đoạn tiếp theo. Những thành tựu to lớn đó được thể hiện trên tất cả phương diện:

Về kinh tế, quy mô nền kinh tế năm 2023 tăng gấp 96 lần so với năm 1986. Việt Nam ở trong nhóm 40 nước có nền kinh tế lớn nhất thế giới và 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại và thu hút đầu tư nước ngoài. Nhờ đó, từ một nước nghèo nàn, lạc hậu, bị khủng hoảng về mọi mặt sau chiến tranh, Việt Nam vươn lên trở thành một nước đang phát triển, có thu nhập trung bình, hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu, nền văn minh nhân loại, đảm nhiệm nhiều trọng trách quốc tế, phát huy vai trò tích cực tại nhiều tổ chức, diễn đàn đa phương quan trọng. Cũng nhờ đó, đời sống của nhân dân ngày càng được nâng cao, tiềm lực quốc phòng - an ninh được củng cố.

Về chính trị, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định được vai trò to lớn cũng như uy tín của mình trong việc lãnh đạo trực tiếp, toàn diện mọi mặt của đời sống xã hội. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị mang lại kết quả to lớn, đặc biệt là công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí đã góp phần xây dựng Đảng và hệ thống chính trị ngày càng trong sạch, vững mạnh. Ngoài ra, công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch có những dấu ấn nổi bật, được triển khai đồng bộ, toàn diện từ Trung ương đến cơ sở, tạo sức lan tỏa rộng khắp trong toàn xã hội, góp phần bảo vệ vững chắc Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Về xã hội, cùng với việc đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, các lĩnh vực của đời sống xã hội tiếp tục được coi trọng, tạo điều kiện cho con người Việt Nam phát triển toàn diện, quyền con người ngày càng được bảo đảm. Đặc biệt, trong thời điểm khó khăn, cấp bách, như thiên tai, dịch bệnh, sức mạnh dân tộc với tinh thần đoàn kết, chia sẻ, tự lực, tự cường lại được phát huy tối đa, tạo thành nội lực to lớn giúp Việt Nam vượt qua khó khăn, thách thức; đồng thời, thể hiện ngày càng đậm nét tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng.

Về quốc phòng, an ninh và đối ngoại, mặc dù cục diện thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, nhiều quốc gia vừa và nhỏ phải gia tăng sự phụ thuộc vào các cường quốc trên thế giới, nhưng Việt Nam vẫn kiên trì và giữ vững phương châm: Độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên hàng đầu. Từ một nước chủ yếu có mối quan hệ với các nước láng giềng và các nước trong khuôn khổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa trước kia, đến nay Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 194 nước; đồng thời, xây dựng các mối quan hệ đối tác, hợp tác chiến lược, đối tác chiến lược toàn diện với tất cả cường quốc trên thế giới và khu vực.

Với thời cơ mà bối cảnh quốc tế, khu vực mang lại cùng kết quả to lớn, có ý nghĩa lịch sử đã tích lũy được qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, hoàn toàn có cơ sở để khẳng định Việt Nam đã và đang hội tụ điều kiện, tiền đề để chuẩn bị bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Quan điểm về kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam là kết quả của quá trình đánh giá thấu đáo kết quả mà Việt Nam đã đạt được qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới; đồng thời, lường đoán, dự báo bối cảnh tình hình mới với thời cơ thuận lợi từ xu hướng hòa bình, hợp tác cũng như sự phát triển nhanh chóng của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang đem lại cho dân tộc Việt Nam. Đây là sự hội tụ giữa “ý Đảng” và “lòng dân”, giữa mục tiêu, quyết tâm của toàn Đảng và ý nguyện, khát vọng của cả trăm triệu người dân Việt Nam. Với kết quả đã đạt được cùng thời cơ mà cục diện thế giới, khu vực mang lại, đã đến lúc nhân dân Việt Nam có quyền và có thể nêu cao khát vọng cao đẹp về một Việt Nam hùng cường, phồn thịnh và hạnh phúc như đã từng khát vọng về một kỷ nguyên độc lập hay kỷ nguyên đổi mới trước đó. Đó là một khát vọng chính đáng, tạo động lực tinh thần to lớn, cổ vũ, khích lệ toàn dân tộc vượt qua khó khăn, thách thức để đạt được mục tiêu cao đẹp phía trước. Điều này đã được Tổng Bí thư Tô Lâm nhiều lần chỉ rõ khi nhắc đến kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Đó là: “Kỷ nguyên vươn mình hàm ý tạo sự chuyển động mạnh mẽ, dứt khoát, quyết liệt, tích cực, nỗ lực, nội lực, tự tin để vượt qua thách thức, vượt qua chính mình, thực hiện khát vọng, vươn tới mục tiêu, đạt được nhiều thành tựu vĩ đại”, hay “Kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, đó là kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu. Mọi người dân đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, được hỗ trợ phát triển, làm giàu; đóng góp ngày càng nhiều cho hòa bình, ổn định, phát triển của thế giới, hạnh phúc của nhân loại và văn minh toàn cầu”(4).

Sau gần 40 năm đổi mới, Việt Nam đã khai thác được mọi tiềm năng, khơi thông được các nguồn lực, tích lũy được thế và lực cho sự phát triển bứt phá trong giai đoạn tiếp theo (Trong ảnh: Bốc, xếp hàng hóa xuất khẩu tại Cảng quốc tế Đà Nẵng) _Nguồn: nhiepanhdoisong.vn

Từ nhận định đó, thời điểm bắt đầu của kỷ nguyên vươn mình của dân tộc là từ khi bắt đầu nhiệm kỳ Đại hội XIV của Đảng với mục tiêu xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh; mọi người dân đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, được hỗ trợ phát triển, làm giàu chính đáng; đóng góp ngày càng nhiều cho hòa bình, ổn định, phát triển của thế giới, hạnh phúc của nhân loại và văn minh toàn cầu. Mục tiêu cụ thể là đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao(5). Đây là mục tiêu rất rõ ràng, vừa trên cơ sở nhận định, đánh giá khách quan về kết quả mà Việt Nam đã đạt được trong gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới; đồng thời, cũng là sự kết tinh ý chí, khát vọng, niềm tin của cả dân tộc Việt Nam về một giai đoạn phát triển bứt phá của đất nước trong những năm tiếp theo.

Mặc dù Việt Nam đã hội đủ các yếu tố để chuẩn bị bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, nhưng bên cạnh thời cơ, thuận lợi cũng có nhiều khó khăn, thách thức đan xen. Một trong những khó khăn, thách thức phải kể đến là nguồn lực ở trong nước và nước ngoài chưa được khơi thông và phát huy tối đa. Sự không vững vàng về lập trường tư tưởng, dao động về niềm tin và ý chí của một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhân dân phần nào ảnh hưởng đến việc Việt Nam chuẩn bị điều kiện để tiến vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc; chưa kể đến sự chống phá ngày càng tinh vi, quyết liệt của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị. Do đó, một mặt, cần đẩy mạnh tuyên truyền, lan tỏa cho cán bộ, đảng viên, nhân dân về kỷ nguyên vươn mình của dân tộc; mặt khác, cần kiên trì, kiên quyết đấu tranh chống các luận điệu xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị. Điều này góp phần tạo ra sự thống nhất về nhận thức, đồng thuận về tư tưởng, tập trung về hành động để phát huy tối đa sức mạnh vật chất, tinh thần của cả dân tộc; đưa đất nước vững bước tiến vào kỷ nguyên vươn mình.

Có thể khẳng định, quan niệm về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam thể hiện sự đúng đắn trong đường lối của Đảng và tầm nhìn, tư duy chiến lược của người đứng đầu Đảng ta, là sự hội tụ giữa “ý Đảng” và “lòng dân”; giữa định hướng mang tầm chiến lược của Đảng với niềm tin, ý chí, khát vọng của cả dân tộc về một Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc trong tương lai. Đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam chính là cách thức để tạo ra sự đồng thuận, đồng sức, đồng lòng, vượt qua khó khăn, thách thức, đưa đất nước vững bước tiến vào một giai đoạn phát triển bứt phá ở phía trước./…

-------------

(1) GS, TS Tô Lâm: “Xây dựng Văn kiện Đại hội là công việc rất hệ trọng, nhằm tổng kết, đánh giá kết quả, thành tựu đạt được trong nhiệm kỳ khóa XIII và 40 năm đổi mới; hoạch định, xác định rõ tầm nhìn, bước đi, đưa đất nước ta phát triển nhanh, bền vững”, Tạp chí Cộng sản, số 1.044 (tháng 8-2024), tr. 11
(2) Phát biểu bế mạc Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII”, Tạp chí Cộng sản, số 1.046 (tháng 9-2024), tr. 13
(3) GS, TS Tô Lâm: “Chuyển đổi số - Động lực quan trọng phát triển lực lượng sản xuất, hoàn thiện quan hệ sản xuất đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới”, Tạp chí Cộng sản, số 1.045 (tháng 9-2024), tr. 5
(4) GS, TS Tô Lâm: “Một số nhận thức cơ bản về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”, Tạp chí Cộng sản, số 1.050 (tháng 11-2024), tr. 3
(5) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 36