Không thể xuyên tạc, phủ nhận thành tựu của Việt Nam trong việc bảo đảm và thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
TCCS - Tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là quan điểm xuyên suốt, nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Cá nhân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào; không ai có quyền xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quốc gia, dân tộc, lợi ích cộng đồng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Thế nhưng, thời gian qua, các báo cáo nhân quyền, tôn giáo của một số nước phương Tây thường xuyên có nội dung xuyên tạc, vu cáo “chính quyền Việt Nam giới hạn tự do tôn giáo”. Đây là sự bịa đặt, vu cáo trắng trợn hòng phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam. Vì vậy, việc làm rõ những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động về thành tựu của Việt Nam trong bảo đảm và thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, các thế lực thù địch, phản động không từ bỏ bất cứ thủ đoạn thâm hiểm nào nhằm chống phá cách mạng Việt Nam. Một trong những thủ đoạn thâm hiểm đó là lợi dụng vấn đề tôn giáo để chống phá, coi đây là “mũi đột phá” hướng đến xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Trong những năm gần đây, Ủy ban Tự do tôn giáo quốc tế Mỹ (USCIRF) - cơ quan tham vấn được thành lập theo Luật về Tự do tôn giáo quốc tế năm 1998, vẫn định kỳ đưa ra báo cáo nhận xét, đánh giá, phê phán về tình hình nhân quyền và tự do tôn giáo của một số quốc gia, trong đó có Việt Nam. Theo USCIRF, việc “cải thiện nhân quyền” ở một số nước không đi theo quỹ đạo của Mỹ nên “cần được quan tâm đặc biệt”. Từ năm 2012 đến nay, USCIRF liên tục đề nghị đưa Việt Nam vào danh sách “các nước cần quan tâm đặc biệt, viết tắt là CPC” bất chấp thành tựu về bảo đảm các quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng của Việt Nam đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận. Tháng 5-2023, USCIRF tiếp tục khuyến nghị Bộ Ngoại giao Mỹ đưa Việt Nam vào “danh sách CPC”, khi cho rằng Việt Nam đã “tăng cường kiểm soát và đàn áp”, “đàn áp tôn giáo một cách nghiêm trọng”, “sách nhiễu, bức hại”, “ép buộc”, “tước đoạt tài sản”...
Sự tiếp cận, đánh giá thiếu thiện chí, thiếu khách quan của một số cá nhân trong Bộ Ngoại giao Mỹ và các đối tượng thù địch, phản động trong USCIRF đã vi phạm Khoản 7, Điều 2 Hiến chương Liên hợp quốc: “Tổ chức Liên hợp quốc không có quyền can thiệp vào công việc thực chất thuộc thẩm quyền nội bộ của bất kỳ quốc gia nào”. Theo đó, đòi hỏi không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác cũng là nghĩa vụ đặt ra cho tất cả thành viên cộng đồng quốc tế(1).
Những luận điệu xuyên tạc, vu cáo trắng trợn trên không những không phản ánh đúng sự ghi nhận và bảo đảm của luật pháp Việt Nam về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; không phản ánh đúng bản chất tình hình thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam, mà còn cố tình phớt lờ thành tựu của Việt Nam trong tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Âm mưu sâu xa, mục đích chính trị đen tối của các thế lực thù địch, phản động là tiến hành tổng thể biện pháp nhằm tạo dựng nhiều điểm nóng về tín ngưỡng, tôn giáo để gây ra bất ổn về chính trị, văn hóa, xã hội ở các địa phương trong cả nước. Cùng với đó, lợi dụng “ngòi nổ” tín ngưỡng, tôn giáo để kích động mâu thuẫn giữa các tôn giáo với nhau, giữa người theo đạo và người không theo đạo, giữa các tôn giáo với chính quyền các cấp; từ đó, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tiến tới can thiệp vào công việc nội bộ, chống phá Đảng và Nhà nước Việt Nam, gây tổn hại đến công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
Thực tế cho thấy, thành tựu của Việt Nam trong việc bảo đảm và thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được dựa trên các cơ sở khoa học sau:
Thứ nhất, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam luôn được tôn trọng và bảo vệ, thể hiện rõ trong các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam từ ngày thành lập nước đến nay, phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế.
Trong luật pháp và thông lệ quốc tế, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo thuộc nhóm quyền dân sự, chính trị và là một trong những quyền cơ bản của con người, được ghi nhận trong luật pháp, thông lệ quốc tế cũng như trong pháp luật nhiều nước trên thế giới. Khoản 3, Điều 1, Hiến chương Liên hợp quốc năm 1945 nhấn mạnh: “Thực hiện sự hợp tác quốc tế trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế về kinh tế, xã hội, văn hóa và nhân đạo và khuyến khích phát triển sự tôn trọng các quyền của con người và các tự do cơ bản cho tất cả mọi người không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hoặc tôn giáo”. Tuyên ngôn thế giới về quyền con người được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua năm 1948 - một văn kiện quan trọng trong lịch sử hình thành quy định về quyền con người, được soạn thảo bởi các đại diện có nền tảng pháp lý và văn hóa khác nhau từ các khu vực trên thế giới, được coi như một tiêu chuẩn chung cho tất cả quốc gia, dân tộc và mọi người, lần đầu tiên đặt ra các quyền cơ bản của con người phải được bảo vệ trên toàn cầu, trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948 không chỉ áp dụng với các quốc gia thành viên Liên hợp quốc, mà còn áp dụng với các vùng lãnh thổ thuộc quyền tài phán của các quốc gia này. Điều 18 Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948 nêu rõ: “Ai cũng có quyền tự do tư tưởng, tự do lương tâm và tự do tôn giáo; quyền này bao gồm cả quyền tự do thay đổi tôn giáo hay tín ngưỡng và quyền tự do biểu thị tôn giáo hay tín ngưỡng qua sự giảng dạy, hành đạo, thờ phụng và nghi lễ, hoặc riêng mình hoặc với người khác, tại nơi công cộng hay tại nhà riêng”. Khoản 1 và Khoản 2, Điều 18 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua năm 1966 mà Việt Nam đã phê chuẩn năm 1982, nêu rõ: “Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng và tôn giáo. Quyền này bao gồm tự do có hoặc theo một tôn giáo hoặc tín ngưỡng do mình lựa chọn, và tự do bày tỏ tín ngưỡng hoặc tôn giáo một mình hoặc trong cộng đồng với những người khác, công khai hoặc kín đáo, dưới các hình thức như thờ cúng, cầu nguyện, thực hành và truyền giảng. Không ai bị ép buộc làm những điều tổn hại đến quyền tự do lựa chọn hoặc tin theo tôn giáo hoặc tín ngưỡng của họ”.
Nhìn tổng quát, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo đã được các văn bản quốc tế quy định ở các nội dung, như tuyên bố sự tồn tại của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; mọi người được thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo một cách công khai một mình hay trong cộng đồng; nghiêm cấm sự phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo.
Chiểu theo pháp luật và thông lệ quốc tế về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, các văn bản quy phạm pháp luật mà Việt Nam đã phù hợp với quy định của pháp luật và thông lệ quốc tế về quyền tự do, tín ngưỡng tôn giáo. Cụ thể, về phương diện Hiến pháp, Điều 10 Hiến pháp năm 1946 nhấn mạnh: “Công dân Việt Nam có quyền: tự do ngôn luận; tự do xuất bản; tự do tổ chức và hội họp; tự do tín ngưỡng; tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài”; Điều 26 Hiến pháp năm 1959 quy định: “Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hòa có các quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào”. Điều 68 Hiến pháp năm 1980 ghi rõ: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Không ai được lợi dụng tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước”. Điều 70 của Hiến pháp năm 1992 khẳng định: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật”. Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung các quy định về quyền con người, trong đó khẳng định rõ hơn việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, được ghi tại Điều 16: “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội” và tại Khoản 1, 2, Điều 24 khẳng định: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo”. Đây là cơ sở pháp lý cao nhất của Việt Nam trong việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Đồng thời, là cơ sở để Nhà nước Việt Nam ban hành các văn bản pháp luật trong việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trên thực tế.
Các văn bản quy phạm pháp luật dưới Hiến pháp cũng thể hiện sự nhất quán trong việc tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Đơn cử như, Điều 1 Sắc lệnh số 234/SL, ngày 14-6-1955, về vấn đề tôn giáo, do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành, khẳng định: “Chính phủ bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và tự do thờ cúng của nhân dân. Không ai được xâm phạm đến quyền tự do ấy. Mọi người Việt Nam đều có quyền tự do theo một tôn giáo hoặc không theo một tôn giáo nào”; Điều 15 Sắc lệnh số 234/SL nêu rõ: “Việc tự do tín ngưỡng, tự do thờ cúng là một quyền lợi của nhân dân. Chính quyền dân chủ cộng hòa luôn luôn tôn trọng quyền lợi ấy và giúp đỡ nhân dân thực hiện”. Điều 1 Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo, được Quốc hội thông qua ngày 18-6-2004, nêu rõ: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Nhà nước bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Không ai được xâm phạm quyền tự do ấy”. Đây là văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất điều chỉnh trực tiếp lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo kể từ sau Sắc lệnh số 234/SL. Để cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013, ngày 18-11-2016, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo được thông qua tại kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa XIV với 9 chương, 8 mục và 68 điều quy định rõ về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo; tổ chức tôn giáo; quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo, áp dụng đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc bảo đảm và thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Thậm chí, những người đang bị tạm mất quyền công dân cũng có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tại Khoản 5, Điều 6, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 chỉ rõ: “Người bị tạm giữ, người bị tạm giam theo quy định của pháp luật về thi hành tạm giữ, tạm giam; người đang chấp hành hình phạt tù; người đang chấp hành biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc có quyền sử dụng kinh sách, bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo”.
Có thể thấy, hệ thống chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam thể hiện sự liên tục, nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam, phù hợp với các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên, đồng thời đáp ứng nguyện vọng của người theo tín ngưỡng, tôn giáo.
Thứ hai, hệ thống văn bản, quy định về tín ngưỡng, tôn giáo tại Việt Nam ngày càng hoàn thiện hơn, dân chủ hơn, tôn trọng, tạo điều kiện tốt nhất cho các chức sắc, nhà tu hành, tín đồ các tôn giáo và tổ chức tôn giáo hợp pháp phát triển một cách lành mạnh, công bằng, bình đẳng trước pháp luật.
Ngày 3-9-1945, chủ trì phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời bàn về sáu vấn đề cấp bách, trong đó có vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Thực dân và phong kiến thi hành chính sách chia rẽ đồng bào giáo và đồng bào lương, để dễ thống trị. Tôi đề nghị Chính phủ ta tuyên bố: TÍN NGƯỠNG TỰ DO và lương giáo đoàn kết”(2). Tiếp đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký hai sắc lệnh về tín ngưỡng, tôn giáo, bao gồm Sắc lệnh số 35/SL, ngày 20-9-1945, quy định “Đền chùa, lăng tẩm, nhà thờ, tất cả các nơi có tính cách tôn giáo, bất cứ tôn giáo nào, nhân dân đều phải tôn trọng không được xâm phạm” và Sắc lệnh số 65/SL, ngày 23-11-1945, ấn định nhiệm vụ cho Đông phương Bác Cổ học viện nhiệm vụ bảo tồn tất cả cổ tịch trong toàn cõi Việt Nam.
Tiếp nối Sắc lệnh số 35/SL và Sắc lệnh số 65/SL, đến nay, Đảng, Nhà nước Việt Nam đã ban hành hơn 30 văn bản về tín ngưỡng, tôn giáo nhằm đáp ứng nhu cầu về đời sống tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Để khẳng định quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân Việt Nam ở tính pháp lý cao nhất, kể từ khi Quốc hội được thành lập đến nay, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân đã được khẳng định tại 5 bản Hiến pháp, bao gồm Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 2013. Nhiều văn bản quan trọng khác đã được ban hành (3). Đặc biệt, tại kỳ họp thứ hai, khóa XIV, ngày 18-11-2016, Quốc hội đã ban hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo (có hiệu lực từ năm 2018). Đây là sự cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 về các điều, khoản quy định về tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam. Với 9 chương, 8 mục và 68 điều quy định rõ về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; hoạt động của tín ngưỡng, tôn giáo; tổ chức tôn giáo; quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo, áp dụng đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc bảo đảm và thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Luật Tín ngưỡng, tôn giáo quy định cụ thể trách nhiệm, thẩm quyền của Chính phủ, bộ, ngành, Ủy ban nhân dân, cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo các cấp trong hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo; vai trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể trong việc tập hợp đồng bào theo tín ngưỡng, tôn giáo và đồng bào không theo tín ngưỡng, tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bên cạnh đó, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo cũng quy định về nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân trong thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo...
Từ những vấn đề trên, có thể khẳng định hệ thống văn bản, quy định về tín ngưỡng, tôn giáo tại Việt Nam ngày càng hoàn thiện hơn, dân chủ hơn, đáp ứng nhu cầu đời sống tín ngưỡng, tôn giáo của mọi công dân Việt Nam; đồng thời, thể hiện chủ trương, chính sách nhất quán của Đảng, Nhà nước Việt Nam về tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tạo điều kiện tốt nhất cho các chức sắc, nhà tu hành, tín đồ các tôn giáo và tổ chức tôn giáo hợp pháp phát triển một cách lành mạnh, công bằng và bình đẳng trước pháp luật.
Thứ ba, để bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và ước nguyện sống “tốt đời, đẹp đạo” của mỗi tín đồ tôn giáo, pháp luật Việt Nam thể hiện tính nghiêm trị hành vi lợi dụng tôn giáo, xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người khác.
Ở bất cứ quốc gia nào trên thế giới, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo đều được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật, không thể có sự tự do vô chính phủ, tự do vô nguyên tắc(4). Điều này thể hiện rõ trong Khoản 3, Điều 18 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị của Liên hợp quốc năm 1966. Điều này cho thấy, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là vấn đề gắn với thể chế chính trị - xã hội và điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội ở từng quốc gia, dân tộc cụ thể, không thể tồn tại một khái niệm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo chung chung, trừu tượng. Cũng không thể đem giá trị, quan niệm về tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở một quốc gia, dân tộc này để áp dụng, đo lường hoặc đánh giá mức độ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở một quốc gia, dân tộc khác. Trên phương diện đối ngoại giữa các quốc gia, dân tộc, không thể đem tiêu chuẩn về tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở quốc gia, dân tộc này để áp đặt lên một quốc gia, dân tộc khác và buộc họ tuân theo.
Theo đó, Khoản 3, Điều 24, Hiến pháp năm 2013 ghi rõ: “Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật”. Cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016, quy định tại Khoản 1, Điều 3: “Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người; bảo đảm để các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật”; Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 cũng quy định rõ tại Điều 5 về các hành vi bị nghiêm cấm đối với tín ngưỡng, tôn giáo, như phân biệt đối xử, kỳ thị vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo; ép buộc, mua chuộc hoặc cản trở người khác theo hoặc không theo tín ngưỡng, tôn giáo...
Việc xác định tội xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người khác được quy định tại Điều 164 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017): 1- Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác ngăn cản hoặc ép buộc người khác thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 1 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 1 năm; 2- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 1 năm đến 3 năm: có tổ chức; lợi dụng chức vụ, quyền hạn; phạm tội 2 lần trở lên; dẫn đến biểu tình; gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; 3- Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 năm đến 5 năm.
Thứ tư, những năm gần đây, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam được bảo đảm trên thực tế là minh chứng sinh động về sự tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam.
Trong đời sống thực tế của xã hội Việt Nam hiện nay thể hiện rõ sự đa dạng, hòa hợp và bình đẳng tôn giáo, được pháp luật bảo vệ, tôn trọng; mọi người hoàn toàn tự do lựa chọn theo hoặc không theo một tín ngưỡng, tôn giáo nào; không có tôn giáo nào giữ vị trí độc tôn, mà đều tồn tại đan xen với nhau; các chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ các tôn giáo tích cực tham gia các phong trào xã hội, từ thiện xóa đói, giảm nghèo, đóng góp thiết thực vào sự phát triển chung của đất nước.
Theo số liệu được công bố của Ban Tôn giáo Chính phủ cho thấy, bên cạnh việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo, trong những năm qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân trên thực tế, đó là:
Tổ chức tôn giáo được tạo điều kiện hoạt động theo hiến chương, điều lệ và quy định của pháp luật Việt Nam nhằm bảo đảm và tạo điều kiện để các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo được diễn ra bình thường với quy mô lớn, thu hút đông đảo tín đồ tham dự. Hiện nay, cả nước đã có 3.700 điểm nhóm được chấp thuận đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung, hơn 6.500 người được phong phẩm, suy cử làm chức sắc; 16.783 người được bổ nhiệm, bầu cử, suy cử làm chức việc; 62 cơ sở đào tạo tôn giáo tại 36 tỉnh, thành phố; 15 tờ báo và tạp chí của các tổ chức tôn giáo đang hoạt động, đồng thời phần lớn tổ chức tôn giáo đều có trang web riêng để phục vụ việc sinh hoạt đạo, truyền bá tôn giáo. Chức sắc, chức việc, nhà tu hành tôn giáo có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, được ứng cử vào Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp như mọi công dân khác theo quy định của pháp luật. Quốc hội khóa XV có năm đại biểu là chức sắc, nhà tu hành tôn giáo. Theo số liệu thống kê của các tỉnh, thành phố, hiện nay có trên 10 nghìn chức sắc, nhà tu hành, tín đồ các tôn giáo là đại biểu hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026(5).
Tổ chức, cá nhân theo tôn giáo được tạo điều kiện tham gia hoạt động quốc tế. Tính từ năm 2011 đến nay, có khoảng gần 2.000 lượt cá nhân theo tôn giáo xuất cảnh tham gia khóa đào tạo ở nước ngoài, tham dự hội nghị, hội thảo quốc tế liên quan đến tôn giáo; gần 500 đoàn khách nước ngoài với hơn 3.000 lượt người vào Việt Nam để trao đổi, giao lưu, hướng dẫn đạo tại cơ sở tôn giáo ở Việt Nam, tham dự các sự kiện tôn giáo do các tổ chức tôn giáo Việt Nam tổ chức, trong đó có nhiều hoạt động tôn giáo quốc tế lớn được tổ chức trọng thể, thành công ở Việt Nam và được dư luận quốc tế đánh giá cao, như Hội nghị Liên hội đồng Giám mục Á Châu (năm 2012), Đại lễ Phật đản Liên hợp quốc Vesak (ba lần: năm 2008, 2014, 2019 và dự kiến tổ chức vào năm 2025); Tổng hội Dòng Đa minh thế giới được tổ chức tại huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai (năm 2019)... Các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam còn tích cực tham gia các hội nghị, diễn đàn tôn giáo khu vực và quốc tế, như Đối thoại liên tín ngưỡng Á - Âu (ASEM), Đối thoại liên tín ngưỡng khu vực châu Á - Thái Bình Dương...
Các tổ chức, cá nhân theo tôn giáo được khuyến khích, tạo điều kiện tham gia các hoạt động an sinh xã hội. Hiện nay, cả nước có khoảng 300 trường mầm non, 2.000 lớp học tình thương, 12 cơ sở dạy nghề, trên 500 cơ sở khám, chữa bệnh từ thiện của các tổ chức tôn giáo, được thành lập dưới nhiều hình thức khác nhau; gần 800 cơ sở bảo trợ xã hội của các tổ chức Phật giáo, Công giáo, Cao đài,... đang nuôi dưỡng trên 12 nghìn trẻ em mồ côi, tàn tật, người già cô đơn, bệnh nhân tâm thần, HIV/AIDS(6). Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã gặp mặt, biểu dương các tổ chức tôn giáo có đóng góp trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (năm 2016, 2019, 2022). Tại các buổi gặp mặt, các tôn giáo bày tỏ sự nhất trí đồng thuận với Đảng, Nhà nước và mong muốn được đóng góp công sức trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững độc lập, chủ quyền lãnh thổ.
Mặt khác, nhiều sự kiện tôn giáo nổi bật đã được ghi nhận. Đơn cử như, đối với Phật giáo, năm đầu tiên của nhiệm kỳ IX (2022 - 2027), Hội đồng Trị sự cũng như Giáo hội Phật giáo Việt Nam các tỉnh, thành phố tích cực triển khai các công việc của năm cũng như kế hoạch hoạt động của cả nhiệm kỳ. Đối với hoạt động quốc tế, đoàn Giáo hội Phật giáo Việt Nam tham dự Hội nghị thượng đỉnh Phật giáo toàn cầu vào cuối tháng 4-2023 tại Ấn Độ do Bộ Văn hóa Ấn Độ phối hợp với Liên đoàn Phật giáo quốc tế tổ chức. Ngoài ra, Giáo hội Phật giáo Việt Nam còn cử nhiều đoàn ra nước ngoài tham dự hội nghị, hội thảo...
Đối với Công giáo, bên cạnh các hoạt động thường kỳ, như Hội nghị thường niên của Hội đồng Giám mục Việt Nam, một sự kiện nổi bật trong đời sống Công giáo ở Việt Nam những năm gần đây, cụ thể năm 2023 là việc nâng cấp quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Tòa thánh Va-ti-căng, với việc ký kết “Thỏa thuận về Quy chế hoạt động của Đại diện thường trú Tòa thánh và Văn phòng Đại diện thường trú của Tòa thánh tại Việt Nam”.
Đối với đạo Tin Lành, tháng 3-2023, đạo Tin Lành Việt Nam đã tổ chức Chương trình truyền giảng với chủ đề “Xuân yêu thương” tại Thành phố Hồ Chí Minh. Chương trình do các Hội Thánh Tin Lành tại Thành phố Hồ Chí Minh phối hợp với mục sư Ph. Gra-ham (Franklin Graham) tổ chức, cùng hơn 2.000 tình nguyện viên. Sự kiện đáng chú ý của đạo Tin Lành là một số Hội thánh Tin Lành có những hoạt động để tiến tới được công nhận là pháp nhân.
Đối với các tôn giáo nội sinh, các tôn giáo nội sinh hoạt động bình thường theo đúng chương trình hành đạo đã đăng ký với chính quyền. Đáng chú ý, năm 2023 là năm chuẩn bị các công việc cho đại lễ kỷ niệm lớn của một số tôn giáo nội sinh, như 100 năm ngày thành lập Minh lý đạo - Tam Tông miếu (năm 2024), các Hội thánh của đạo Cao Đài cũng sẽ kỷ niệm 100 năm ngày khai đạo (năm 2026) hay 90 năm của Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam (năm 2024),... đồng thời, các tôn giáo nội sinh vẫn thực hiện các nghi lễ theo đúng lịch lễ nghi của đạo trong một năm. Các hoạt động tôn giáo ổn định, chấp hành tốt quy định của pháp luật của Nhà nước(7).
Như vậy, pháp luật Việt Nam về quyền tự do, tín ngưỡng tôn giáo không chỉ phù hợp với pháp luật và thông lệ quốc tế, mà còn đáp ứng nguyện vọng của cá nhân tham gia đời sống tín ngưỡng, tôn giáo với ước nguyện sống “tốt đời, đẹp đạo”. Do đó, những hoạt động lén lút, lợi dụng tôn giáo, trái với văn hóa truyền thống Việt Nam, nhuốm màu mê tín dị đoan, có dấu hiệu trục lợi, vi phạm pháp luật, đi ngược lại đạo đức xã hội... phải bị lên án, xử lý nghiêm. Có thể khẳng định dứt khoát rằng, ở Việt Nam hoàn toàn không có chuyện “chính quyền Việt Nam giới hạn tự do tôn giáo”, “đàn áp tôn giáo” như các thế lực thù địch, phản động thường rêu rao. Những luận điệu xuyên tạc, vu cáo đó chỉ là chiêu trò mà các thế lực thù địch, phản động lợi dụng, sử dụng nhằm phục vụ âm mưu chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam hiện nay. Chính vì vậy, cũng như các nước khác, Việt Nam không chấp nhận việc lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để phá hoại hòa bình, độc lập, thống nhất đất nước hay kích động bạo lực, chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, tôn giáo, gây rối trật tự công cộng, xâm hại đến tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự và tài sản của người khác, cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân... Chính sách đó luôn được Nhà nước Việt Nam khẳng định và thực hiện nhất quán.
Những luận cứ trên là cơ sở pháp lý và thực tiễn phong phú, sinh động về những thành tựu bảo đảm và thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam, là điều không ai có thể xuyên tạc, phủ nhận được. Trong thư của Giáo hoàng Phan-xi-cô gửi công đoàn Công giáo Việt Nam nhân dịp công nhận Thỏa thuận về Quy chế cho Đại diện thường trú của Tòa thánh Va-ti-căng vào ngày 8-9-2023, đã viết: “Dựa trên sự tin tưởng lẫn nhau được xây dựng từng bước trong nhiều năm qua, và được củng cố bằng các chuyến thăm thường niên của phái đoàn Tòa thánh cũng như các cuộc họp của nhóm làm việc chung giữa Việt Nam và Tòa thánh, cả hai bên đã có thể cùng nhau tiến tới và sẽ còn tiến nữa, nhờ nhìn nhận những điểm tương đồng và tôn trọng những khác biệt. Hơn thế nữa, hai bên đã có thể đồng hành, lắng nghe nhau và hiểu nhau. Dù mỗi bên có sự khác biệt về lịch sử và kinh nghiệm sống, điều đó không thể ngăn cản cùng nhau đi tìm con đường tốt nhất để phục vụ thiện ích của dân tộc Việt Nam và Hội Thánh”(8). Vì vậy, có thể khẳng định dứt khoát rằng, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam không những phù hợp với các quy định của pháp luật và thông lệ quốc tế về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, mà còn đáp ứng tâm tư, tình cảm và nguyện vọng chính đáng của các chức sắc, chức việc tôn giáo và đồng bào theo đạo, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo. Các luận điệu của các thế lực thù địch, phản động về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam không chỉ là sự thiếu thiện chí, cố tình xuyên tạc, vu cáo trắng trợn, phủ nhận thành tựu của Việt Nam trong việc bảo đảm và thực hiện quyền con người, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, mà còn đi ngược với pháp luật và thông lệ quốc tế, phải bị lên án mạnh mẽ và bác bỏ./.
--------------------
(1) Xem: “International Religious Freedom Act of 1998” (Tạm dịch: Đạo luật Tự do tôn giáo quốc tế năm 1998), Congress.gov, https://www.congress.gov/bill/105th-congress/house-bill/2431#:~:text=International%20Religious%20Freedom%20Act%20of%201998%20%2D%20Declares%20it%20to%20be,and%20development%20assistance%20to%20governments
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 4, tr. 8
(3) Đơn cử như: Sắc lệnh số 22/SL, ngày 18-2-1946, của Chủ tịch nước, ấn định những ngày Tết, kỷ niệm lịch sử và lễ tôn giáo; Sắc lệnh số 49/SL, ngày 18-6-1949, của Chủ tịch nước, quy định về thuế đất và hoa màu cho các tôn giáo; Nghị định số 315/TTg, ngày 4-10-1953, “Về chính sách đối với tôn giáo”; Sắc lệnh số 234/SL, ngày 14-6-1955, của Chủ tịch nước, “Về vấn đề tôn giáo”; Nghị quyết số 297-CP, ngày 11-11-1977, của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ), “Về một số chính sách đối với tôn giáo” đã kế thừa Sắc lệnh số 234/SL, ngày 14-6-1955; Nghị quyết số 24- NQ/TW, ngày 16-10-1990, của Bộ Chính trị khóa VI, “Về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới”, được cụ thể hóa bằng Nghị định số 69/HĐBT, ngày 21-3-1991, của Hội đồng Bộ trưởng, “Về các hoạt động tôn giáo”; Nghị quyết số 25/NQ, ngày 12-3-2003, của Hội nghị Trung ương 7 khóa IX, “Về công tác tôn giáo”; Nghị định số 26/1999/NĐ-CP, ngày 19-4-1999, của Chính phủ, “Về các hoạt động tôn giáo”; Thông tư số 01/1999/TT-TGCP, ngày 16-6-1999, hướng dẫn thực hiện một số điều trong Nghị định số 26/NĐ, ngày 19-4-1999, của Chính phủ, “Về các hoạt động tôn giáo”; Thông tư số 03/1999/TT-TGCP, ngày 16-6-1999, của Ban Tôn giáo Chính phủ, “Về sinh hoạt tôn giáo của người nước ngoài đang cư trú hợp pháp tại Việt Nam”; Chỉ thị số 37/CT, ngày 2-7-1998, của Bộ Chính trị, “Về công tác tôn giáo trong tình hình mới”; Nghị định số 22/2005/NĐ-CP, ngày 1-3-2005, của Chính phủ, hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo; Nghị định số 92/2012/NĐ/CP, ngày 8-11-2012, của Chính phủ, quy định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo
(4) Xem: Conference Report: “Selective Service Act of 1948” (Tạm dịch: Đạo luật nghĩa vụ chọn lọc năm 1948), House of Representatives, No. 2438, ngày 19-6-1948, https://tile.loc.gov/storage-services/service/ll/llmlp/act-1948/act-1948.pdf
(5) Ban Tôn giáo Chính phủ: Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, 2022, tr. 88 - 97
(6) Ban Tôn giáo Chính phủ: Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, 2022, tr. 88 - 92
(7), (8) Xem: Chu Văn Tuấn: “Đời sống tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam năm 2023, những sự kiện tiêu biểu và khuyến nghị chính sách”, Nghiên cứu Tôn giáo, số 1 (239), 2024, tr. 38 - 56
Trí tuệ nhân tạo và những nguy cơ, thách thức đối với công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay (28/08/2024)
Kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng trên không gian mạng (19/08/2024)
Trí tuệ nhân tạo và những nguy cơ, thách thức đối với công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay
TCCS - Sự ra đời của phần mềm Chat GPT đã tạo nên cơn sốt trên toàn cầu và cả ở Việt Nam. Điều này khẳng định xu thế của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư là không thể đảo ngược, đang có tác động cả tích cực và tiêu cực đến mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - chính trị thế giới. Đây cũng là thách thức lớn đối với Việt Nam trước nguy cơ các thế lực thù địch, phản động sử dụng thành tựu này để chống phá, kích động, xuyên tạc con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, ảnh hưởng lớn đến công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay.
Trí tuệ nhân tạo và những tác động không mong muốn đối với đời sống xã hội
Sự bùng nổ của Chat GPT làm nhiều người bắt đầu chú ý tới trí tuệ nhân tạo (AI), mặc dù các công cụ dò tìm đường, công cụ dịch thuật, công cụ chỉnh sửa ảnh tự động… đã được ứng dụng AI từ rất lâu. Tuy nhiên, người ta mới chỉ nhìn thấy phần nổi của tảng băng chìm và chưa nhận thức rõ những thách thức của AI đối với đời sống xã hội. Thực tế, AI hoàn toàn có thể ảnh hưởng đến mọi lĩnh vực từ chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh… của quốc gia, thậm chí là toàn nhân loại.
Mỹ là quốc gia có nền công nghệ phát triển hàng đầu thế giới, nơi sở hữu nhiều công ty công nghệ hùng mạnh về AI đã bắt đầu quan tâm đến tác động từ sự phát triển của AI. Tháng 8-2023, Tổng thống Mỹ Joe Biden đã có buổi làm việc với bảy công ty công nghệ hàng đầu của Mỹ là Amazon, Anthropic, Google, Inflection, Meta, Microsoft và OpenAI tại Nhà Trắng. Cuộc gặp này diễn ra sau những lo ngại về việc các công ty đang chạy đua với nhau bằng các phiên bản AI có thể tự sáng tạo văn bản, ảnh, nhạc và video mà không cần một hình mẫu con người cụ thể. Sự bùng nổ của các phiên bản AI này dẫn đến nguy cơ lan truyền những thông tin sai lệch và những cảnh báo nghiêm trọng về các rủi ro khi AI trở nên tinh vi và giống con người hơn. Tháng 10-2023, Chính phủ Mỹ đã ban hành sắc lệnh nhằm giảm thiểu rủi ro mà công nghệ AI có thể gây ra, thiết lập các tiêu chuẩn mới về an toàn và bảo mật, bảo vệ quyền riêng tư của người dùng, thúc đẩy đổi mới và cạnh tranh trong lĩnh vực AI. Không chỉ trong lĩnh vực an ninh con người, Mỹ đang lo ngại về các nguy cơ của AI trong lĩnh vực quốc phòng. Đơn cử như, nếu một quả tên lửa hay máy bay không người lái (UAV hoặc Drone) được điều khiển bởi AI tham gia các hoạt động chiến tranh, quân sự hoặc có thể là khủng bố thì khó có thể lường hết hậu quả. Theo Diễn đàn Quốc phòng Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, tháng 11-2023, Bộ Ngoại giao Mỹ đã công bố Tuyên bố chính trị về việc sử dụng có trách nhiệm trí tuệ nhân tạo và công nghệ tự hành trong quân sự nhằm thiết lập các quy tắc sử dụng. Từ tháng 1-2024 đến nay, đã có 51 quốc gia tán thành tuyên bố trên, đồng thuận cùng tham gia xây dựng các quy tắc, hướng dẫn để bảo đảm việc sử dụng AI và các hệ thống vũ khí tự hành, cũng như các ứng dụng quân sự sử dụng AI khác.
Việt Nam cũng đang phải đối mặt với những nguy cơ trực tiếp đến từ sự bùng nổ của AI, đặc biệt là làn sóng tội phạm sử dụng công nghệ AI. Phổ biến nhất có thể kể đến Deepfake đang được các đối tượng lừa đảo sử dụng khá phổ biến. Các sản phẩm âm thanh, hình ảnh, video, clip… giả mạo do Deepfake tạo ra thường nhằm giả mạo các cơ quan chức năng hoặc người thân của mục tiêu để thực hiện việc lừa đảo. Các thông tin về số căn cước công dân, số tài khoản ngân hàng, số điện thoại, địa chỉ, các mối quan hệ trên trang mạng xã hội… dễ bị lộ lọt là kẽ hở lớn để các đối tượng lừa đảo nhắm tới. Thông qua sức mạnh của AI đến từ khả năng thu thập, xử lý dữ liệu khổng lồ và phân tích các mẫu phức tạp, các đối tượng xấu có nhiều chiêu trò để thuyết phục nạn nhân tin vào nội dung lừa đảo, qua đó chiếm đoạt tài sản hoặc thực hiện các mục đích xấu khác. Theo thống kê của Cục An toàn thông tin, Bộ Thông tin và truyền thông, trong 11 tháng đầu năm 2023, đã có 15.900 phản ánh về trường hợp lừa đảo do người dùng internet Việt Nam gửi đến qua các hệ thống cảnh báo, trong đó hơn 91% cảnh báo này liên quan đến giả mạo, lừa đảo trong lĩnh vực ngân hàng - tài chính. Theo báo cáo của Liên minh chống lừa đảo toàn cầu (GASA) và dự án xã hội Chống lừa đảo (Việt Nam), năm 2023, trung bình mỗi người Việt tham gia khảo sát phải đối mặt với 0,8 vụ lừa đảo; trong đó, có 71% số người được gọi gặp phải lừa đảo trên hai nền tảng lớn là Facebook và Gmail, các nền tảng khác như Telegram (28%), Google (13%) và TikTok (13%)(1).
Nguy cơ, thách thức từ trí tuệ nhân tạo đến công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong giai đoạn hiện nay
Rõ ràng không thể phủ nhận lợi ích mà AI mang đến cho cuộc sống và sự phát triển của các quốc gia, nhưng những nguy cơ, thách thức mà nó mang lại rất cần được nghiên cứu, dự báo và chủ động phòng ngừa. Trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay, AI mặc dù chưa ảnh hưởng sâu rộng và gây ra những thách thức trực diện, song cần nghiên cứu, dự báo và có những biện pháp chủ động ứng phó với sự phát triển của các công cụ này, với một số nguy cơ, thách thức chính sau:
Một là, nguy cơ thế hệ trẻ lệ thuộc vào AI. Giới trẻ hiện nay trưởng thành cùng sự phát triển của AI, họ tiếp nhận AI theo cách tự nhiên, không bị “sốc văn hóa” như các nhóm đối tượng khác, đặc biệt là nhóm trung niên và người cao tuổi. Do vậy, giới trẻ là đối tượng sử dụng chính của AI, đồng thời họ cũng đối mặt nhiều nhất với các nguy cơ đến từ AI, khi họ ngày càng lệ thuộc vào AI trong việc tiếp nhận thông tin, nhất là các thông tin về lịch sử, chính trị, nền tảng tư tưởng của Đảng.
Với sự phát triển của các công cụ như Chat GPT, Bing chat, AI TensorFlow, Amazon Machine Learning…, giới trẻ có thể tìm hiểu, giải đáp những khúc mắc; thực hiện các bài luận, bài nghiên cứu; hỗ trợ đưa ra các ý tưởng sáng tạo. Nếu những thông tin mà các công cụ trên tổng hợp được dựa trên những nền tảng, kho dữ liệu đáng tin cậy thì kết quả được cung cấp có giá trị tham khảo tốt, song kết quả sẽ bị sai lệch nếu AI dựa trên các nền tảng thiếu tin cậy, thậm chí là những trang mạng phản động, chống phá. Đơn cử như, khi một sinh viên đặt câu hỏi về một vị lãnh tụ cho nền tảng Chat GPT, sẽ nhận được thông tin về thân thế, cuộc đời, sự nghiệp của vị lãnh tụ đó. Tuy nhiên, bên cạnh những thông tin chính thống, chính xác, vẫn còn có những thông tin gây nhiễu, hiểu sai, chưa đúng...
Các đối tượng xấu cố tình gài những câu hỏi không đầy đủ, không hợp lý để Chat GPT cho ra phần trả lời sai lệch, âm mưu tấn công vào nền tảng tư tưởng của Đảng, như: “Không thể tồn tại nền kinh tế thị trường mà lại định hướng xã hội chủ nghĩa phải không?”; “Khi nào chủ nghĩa xã hội về đích?”; “Lúc nào thì làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu?”… Đáng chú ý, nếu khi đặt câu hỏi mà Chat GPT đưa ra câu trả lời hợp lý thì các đối tượng sẽ tìm mọi cách thêm thắt chữ nghĩa, sửa câu hỏi, sửa cách hỏi để hòng tìm ra câu trả lời thiếu hoặc sai, lấy cớ để xuyên tạc. Như vậy, việc lệ thuộc vào AI sẽ rất nguy hại nếu thanh niên, sinh viên, thế hệ trẻ không kiểm chứng các thông tin mà mình tiếp nhận được, đặc biệt là những thông tin về những vấn đề cốt lõi thuộc nền tảng tư tưởng của Đảng ta.
Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF) cũng đã cảnh báo về nguy cơ giới trẻ bị phụ thuộc thông tin và bị thao túng thông tin bởi AI. Trong một báo cáo khảo sát được dẫn chứng, chỉ 2% số trẻ em và thanh thiếu niên tại Anh có đủ khả năng để phân biệt giữa một bài báo thật và bài báo giả(2). Bà Henrietta Fore - Giám đốc Điều hành UNICEF - kêu gọi trong Báo cáo 30 năm Công ước Liên hợp quốc về Quyền trẻ em (năm 2019): “Chúng ta cần nỗ lực hơn nữa để chuẩn bị cho các công dân trẻ tuổi am hiểu về công nghệ này khả năng chống lại sự thao túng và gìn giữ niềm tin đối với các nguồn kiến thức đáng tin cậy và có thể xác minh”(3). Rõ ràng, đây là nguy cơ đáng lo ngại đối với giới trẻ Việt Nam và cần có những giải pháp hữu hiệu để ứng phó với sự lệ thuộc này ở hiện nay và trong tương lai.
Hai là, tác động của AI đối với tư tưởng và hành vi của người dân trong xã hội. Các thuật toán được các nền tảng mạng xã hội, các công ty công nghệ lớn sử dụng thường hướng đến cá nhân hóa nội dung. AI được sử dụng để tạo nên các “buồng vọng âm - echo chamber”. Đây là hình ảnh ẩn dụ ám chỉ một môi trường mà ở đó, người dùng chỉ được tiếp xúc với những thông tin, quan điểm đồng thuận với ý kiến của họ. Những quan điểm khác, sai biệt sẽ bị AI thanh lọc để tránh ảnh hưởng đến người dùng, do đó, các công ty công nghệ lớn sử dụng thuật toán này để tránh người dùng tiếp xúc với những thông tin mà họ không ưa thích, dẫn đến từ bỏ sử dụng dịch vụ. Tuy nhiên, đây lại là thách thức lớn đối với công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trên không gian mạng. Khi các thế lực thù địch, phản động thực hiện hoạt động chống phá, họ sử dụng đa nền tảng mạng xã hội với nhiều thông tin sai trái về nhiều lĩnh vực. Người dùng chỉ cần chú ý đến một tin giả, dành thời gian đọc nhiều hơn so với các loại thông tin khác, ngay lập tức AI sẽ nhận định loại thông tin đó cần được ưu tiên và sẽ đề xuất nhiều nội dung tương tự. “Buồng vọng âm” khiến các định kiến và quan điểm sai lệch được củng cố mạnh mẽ hơn. Người dùng sẽ trở nên tự tin hơn về tính đúng đắn của các quan điểm đó, mặc dù thông tin này có thể không chính xác, đi ngược lại đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước. Đồng thời, các thuật toán AI không chỉ phản ánh lựa chọn ưa thích của người dùng, mà còn có thể bị thao túng bởi các cá nhân hoặc tổ chức có ý đồ xấu. Họ có thể lợi dụng các thuật toán của các trang mạng xã hội đang sử dụng AI để lan truyền thông tin sai lệch, khuếch đại các quan điểm cực đoan và kích động xung đột xã hội.
Ba là, nguy cơ về phát tán, lan truyền thông tin sai lệch, thông tin không chính thống, chưa được xác thực. Gần đây, không ít người dùng các nền tảng mạng xã hội và các trang báo điện tử đã đăng tải nội dung thông tin sai lệch với việc ứng dụng được tạo ra từ AI. Thực tế này cho thấy, AI mà trực tiếp là công cụ Deepfake với những phiên bản ngày càng cao cấp sẽ dấy nên nguy cơ lớn đối với trật tự, an toàn xã hội, an ninh không gian mạng nếu mục tiêu bị giả mạo là các chính trị gia, những người có uy tín trong xã hội. Với sự bùng nổ công nghệ, AI hoàn toàn dễ dàng bị các thế lực thù địch, phản động lợi dụng để tạo ra những sản phẩm văn hóa, sản phẩm tinh thần sai trái, phản động, từ đó tạo hiệu ứng xấu, độc trong dư luận xã hội. Các công nghệ như Deepfake và các hệ thống tạo nội dung tự động có thể tạo ra các video, hình ảnh và bài viết giả mạo, làm ảnh hưởng đến nhận thức của người dân về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nguy cơ này đặt ra thách thức không nhỏ cho lực lượng chức năng trong quản lý, phòng ngừa, ngăn chặn.
Bốn là, nguy cơ mất kiểm soát từ chính phủ đối với AI. Nguy cơ mất kiểm soát đối với AI đã được nhiều quốc gia đề cập đến. Tháng 10-2023, tại Hội nghị cấp cao đầu tiên về an toàn AI được tổ chức tại Bletchley Park, Thủ tướng Anh Rishi Sunak đã bày tỏ lo ngại “nhân loại có thể mất hoàn toàn quyền kiểm soát AI”(4) nếu công nghệ này không được giám sát thích hợp, ngay cả khi nó tạo ra những cơ hội mới. Những lo ngại này hoàn toàn có cơ sở bởi: Trước hết, AI có khả năng tự học và cải tiến, khiến việc kiểm soát ngày càng trở nên khó khăn hơn. Các hệ thống AI có thể phát triển khả năng mới mà con người không dự đoán trước được, dẫn đến tình trạng vượt quá tầm kiểm soát. Thứ hai, AI có thể bị lạm dụng bởi các tổ chức và cá nhân có ý đồ xấu, từ việc tấn công mạng, lan truyền thông tin sai lệch đến việc sử dụng trong các hoạt động quân sự và gián điệp. Khi AI trở nên mạnh mẽ hơn, việc ngăn chặn các hành động này trở nên phức tạp và yêu cầu sự hợp tác quốc tế chặt chẽ, điều này không phải lúc nào cũng dễ dàng thực hiện được. Thứ ba, sự phát triển nhanh chóng của AI đang vượt qua khả năng lập pháp của nhiều chính phủ. Luật pháp và quy định thường chậm và không theo kịp tốc độ tiến bộ công nghệ. Điều này tạo ra lỗ hổng pháp lý mà các công ty và cá nhân có thể lợi dụng để phát triển và triển khai công nghệ AI mà không bị kiểm soát chặt chẽ.
Đối với Việt Nam, nguy cơ trên thực sự hiện hữu khi chúng ta chưa có văn bản quy phạm pháp luật cụ thể nào về AI. Thêm vào đó, việc kiểm soát các công ty công nghệ, đặc biệt là các công ty nước ngoài là rất khó khăn. Việc sửa đổi luật khó theo kịp sự phát triển của công nghệ. Nguy cơ này càng cao hơn khi mà các công ty công nghệ lớn có nguồn lực và sự linh hoạt để phát triển AI mạnh mẽ hơn Nhà nước, điều này không chỉ đúng với một nước đang phát triển như Việt Nam mà ngay cả những nước phát triển cũng phải đối mặt. Theo đó, có thể dẫn đến tình trạng chính phủ phải phụ thuộc vào các công ty công nghệ để triển khai và quản lý AI, làm giảm khả năng tự chủ và kiểm soát. Từ đó có thể đặt ra mối lo ngại về sự suy yếu quyền lực nhà nước trong việc điều tiết và kiểm soát AI.
Năm là, nguy cơ về tư cách pháp nhân của AI. Đây là vấn đề được tranh luận từ rất lâu. AI có tư cách pháp nhân hay không? Nhiều quan điểm cho rằng cần trao tư cách pháp nhân, quyền công dân, quyền tự do… cho AI. Năm 2017, Chính phủ Arab Saudi đã trao quyền công dân cho robot Sophia do David Hanson Jr (một nhà chế tạo robot người Mỹ, đồng thời là người sáng lập và Giám đốc điều hành (CEO) của Hanson Robotics) tạo ra. Sự kiện này tạo tiền lệ và lý do cho hàng loạt quan điểm, ý kiến về cấp quyền công dân cho robot có trí tuệ nhân tạo.
Tuy nhiên, trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, cần nhận thức rõ rằng, AI hay bất cứ sản phẩm công nghệ nào khác đều do con người lập trình, là sản phẩm có nguồn gốc từ quá trình lao động của con người, do đó phục vụ cho mục đích nào đó của chủ thể tạo ra. Cần ý thức rằng, mỗi sản phẩm AI đều mang ý kiến chủ quan và sự sắp đặt của chủ thể tạo ra nó và chủ thể đó phải chịu trách nhiệm pháp lý do những hành vi vi phạm pháp luật mà AI thực hiện.
Một số khuyến nghị góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trước những nguy cơ, thách thức từ trí tuệ nhân tạo
Từ những nguy cơ đến từ sự bùng nổ của AI đối với công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, cần lưu ý một số nội dung sau:
Một là, tăng cường hợp tác quốc tế về AI. Việt Nam cần chủ động và tích cực tham gia các diễn đàn quốc tế về AI, đồng thời phát huy vai trò và vị thế quốc gia trong việc thúc đẩy sử dụng AI một cách có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Điều này không chỉ giúp Việt Nam nắm bắt các xu hướng công nghệ mới nhất và học hỏi kinh nghiệm, mà còn đóng góp vào việc xây dựng các quy chuẩn quốc tế về AI. Bằng cách tham gia sâu rộng và tích cực, Việt Nam có thể chia sẻ những kinh nghiệm, đồng thời học hỏi từ các quốc gia tiên tiến khác. Điều này tạo cơ hội để Việt Nam khẳng định vị thế trong cộng đồng quốc tế, thúc đẩy hợp tác và đối thoại nhằm bảo đảm rằng AI được phát triển và sử dụng một cách an toàn, minh bạch và hiệu quả. Hướng tới các quy chuẩn quốc tế về AI cũng giúp Việt Nam bảo đảm công nghệ này mang lại lợi ích toàn diện cho xã hội, thúc đẩy sự phát triển bền vững và giảm thiểu rủi ro tiềm ẩn. Việc này không chỉ là một nhiệm vụ chiến lược, mà còn là cơ hội để Việt Nam tạo dấu ấn trong lĩnh vực công nghệ toàn cầu.
Hai là, bảo đảm sự phát triển và ứng dụng AI một cách có trách nhiệm, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, theo đó cần xây dựng các thiết chế mạnh mẽ và tăng cường quản lý nhà nước đối với các công ty công nghệ, đặc biệt là các công ty nước ngoài. Cần ban hành luật về AI và kịp thời sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật hiện hành, quy định rõ ràng về trách nhiệm, chế tài và nghĩa vụ của các công ty công nghệ. Các chính sách và pháp luật này nhằm kiểm soát chặt chẽ việc phát triển và ứng dụng AI, bảo đảm rằng các thuật toán được sử dụng để khuyến khích thông tin tích cực, đúng đắn và phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Các công ty công nghệ cần rà soát quy trình của mình để tránh tạo ra kẽ hở để các thế lực thù địch, phản động có thể lợi dụng hòng phát tán thông tin sai lệch. Việc này không chỉ giúp bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, mà còn góp phần vào sự ổn định và phát triển bền vững của đất nước.
Ba là, cần tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục và nâng cao nhận thức về AI. Việc phổ biến kiến thức về AI sẽ giúp người dùng hiểu rõ hơn về công nghệ này, từ đó họ có thể tránh các “buồng vọng âm” và thông tin sai lệch. Các chương trình giáo dục, công tác tuyên truyền cần tập trung vào việc giải thích cách thức hoạt động của các thuật toán AI, những nguy cơ tiềm ẩn của việc tiếp xúc với thông tin được cá nhân hóa quá mức và cách nhận diện thông tin giả mạo liên quan đến chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Ngoài ra, cần khuyến khích người dùng tiếp cận với các nguồn thông tin đa dạng và đáng tin cậy, đồng thời phát triển kỹ năng tư duy phản biện để họ có thể đánh giá thông tin một cách chính xác. Bằng cách này, người dùng sẽ được trang bị đầy đủ kiến thức để bảo vệ bản thân. Việc tuyên truyền, giáo dục nên được tích hợp vào chương trình giáo dục từ sớm, giúp thế hệ trẻ nhận thức được tầm quan trọng của việc sử dụng AI một cách có trách nhiệm và an toàn.
Bốn là, khuyến khích sự tham gia của các doanh nghiệp, công ty và các startup khởi nghiệp về AI. Làm tốt giải pháp này có thể tăng cường sự tự chủ, tránh sự lệ thuộc, mất kiểm soát đối với các công ty công nghệ nước ngoài. Qua đó, gián tiếp tăng cường sức mạnh trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đặc biệt là trên không gian mạng. Chính phủ có thể cung cấp các ưu đãi về thuế, tài chính và hỗ trợ kỹ thuật; đầu tư vào hạ tầng công nghệ, mạng lưới internet tốc độ cao, các cơ sở dữ liệu lớn và hệ thống máy tính mạnh mẽ, để hỗ trợ việc nghiên cứu và triển khai AI cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các startup, nhằm thúc đẩy sáng tạo và ứng dụng AI trong đa dạng các lĩnh vực. Điều này không chỉ giúp tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp phát triển, mà còn khuyến khích họ tự chủ trong việc nghiên cứu và áp dụng công nghệ AI. Bằng cách này, các doanh nghiệp có thể đóng góp vào việc xây dựng một hệ sinh thái AI đa dạng, hướng tới phát triển bền vững, đồng thời bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng bằng cách kiểm soát và thúc đẩy việc sử dụng AI một cách có trách nhiệm, an toàn.
Năm là, cần xây dựng các cơ chế giám sát và kiểm tra chặt chẽ đối với các công ty công nghệ, các tổ chức, cá nhân sử dụng sản phẩm AI. Bảo đảm rằng các công nghệ này không gây ảnh hưởng tiêu cực đến nền tảng tư tưởng của Đảng và xã hội. Đồng thời, cần thiết kế các cơ chế kiểm tra để bảo đảm tính minh bạch và trách nhiệm trong quản lý dữ liệu và thông tin. Việc này giúp ngăn chặn việc lạm dụng dữ liệu và thông tin để lan truyền các thông tin sai lệch, gây hoang mang dư luận, ảnh hưởng tới nền tảng tư tưởng của Đảng./.
------------------------
(1) Minh Sơn: “Người Việt thiệt hại trung bình gần 18 triệu đồng vì lừa đảo trực tuyến năm 2023”, TTXVN/Vietnam+, ngày 6-1-2024, https://www.vietnamplus.vn/nguoi-viet-thiet-hai-trung-binh-gan-18-trieu-dong-vi-lua-dao-truc-tuyen-nam-2023-post919557.vnp
(2), (3) “8 lý do tôi lo lắng và hy vọng vào thế hệ tương lai”, Bức thư gửi tới trẻ em thế giới của Bà Henrietta Fore, Giám đốc Điều hành UNICEF nhân dịp kỷ niệm 30 năm Công ước Liên hợp quốc về Quyền Trẻ em, UNICEFf, 2019, https://www.unicef.org/vietnam/vi/nh%E1%BB%AFng-c%C3%A2u-chuy%E1%BB%87n/8-l%C3% BD-do-t%C3%B4i-lo-l%E1%BA%AFng-v%C3%A0-hy-v%E1%BB%8Dng-v%C3%A0o-th%E1%BA%BF-h%E1%BB%87-t%C6%B0%C6%A1ng-lai
(4) Lan Phương: “Anh tổ chức Hội nghị Cấp cao đầu tiên trên thế giới về AI”, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 1-11-2023, https://dangcongsan.vn/the-gioi/tin-tuc/anh-to-chuc-hoi-nghi-thuong-dinh-toan-cau-ve-tri-tue-nhan-tao-650898.html
Không thể xuyên tạc, phủ nhận thành tựu của Việt Nam trong việc bảo đảm và thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo (17/09/2024)
Kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng trên không gian mạng (19/08/2024)
Kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng trên không gian mạng
TCCS - Với sự phát triển của các hình thức truyền thông mới, không gian mạng ngày càng trở thành môi trường quan trọng cung cấp thông tin, qua đó tác động sâu sắc đối với nhận thức, tình cảm, tư tưởng... của người dân. Đồng thời, các vấn nạn như tin giả, tin xấu, tin xuyên tạc... cũng tác động không nhỏ đối với nhận thức xã hội, gây ra nhiều khó khăn, thách thức với các chính đảng cầm quyền trên thế giới. Với cách tiếp cận toàn diện, khoa học, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã xây dựng được hệ thống giải pháp thống nhất, hiệu quả đối với công tác đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng trên không gian mạng.
Quan điểm của Đảng Cộng sản Trung Quốc về đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng trên không gian mạng
Không gian mạng ngày càng trở thành phương tiện tiếp cận thông tin chủ yếu của người dân Trung Quốc, đặc biệt là thế hệ trẻ. Các luồng thông tin về mọi mặt của đời sống xã hội trên không gian mạng đã và đang tác động trực tiếp đến nhận thức, hành động, định hướng giá trị, quan điểm sống và cả tư tưởng chính trị của người dân Trung Quốc. Những khía cạnh mới của xã hội dẫn đến phát sinh nhiều dòng ý thức khác nhau. Trên không gian mạng tồn tại và phát triển không ít quan điểm đi ngược với tư tưởng chính thống của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Trong đó, những luồng tư tưởng phản động, thông tin xấu độc nảy sinh cả từ bên trong và bên ngoài. Đảng Cộng sản Trung Quốc nhận định có hai trào lưu chủ yếu mưu toan chống phá Đảng trên không gian mạng:
Thứ nhất, trào lưu tư tưởng gây tác hại trực tiếp, hòng làm xói mòn vị thế của chủ nghĩa Mác - Lê-nin với tư cách là một trụ cột đầu tiên, quan trọng nhất trong hệ tư tưởng của Đảng Cộng sản Trung Quốc bao gồm 6 thành tố (Chủ nghĩa Mác - Lê-nin; Tư tưởng Mao Trạch Đông; Lý luận Đặng Tiểu Bình; Tư tưởng “Ba đại diện” của Giang Trạch Dân; Tư tưởng “Phát triển khoa học” và “xã hội hài hòa” của Hồ Cẩm Đào; và Tư tưởng Tập Cận Bình về xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc trong thời đại mới, gọi tắt là “Tư tưởng Tập Cận Bình”). Các trào lưu tư tưởng này luôn tìm cơ hội gây ảnh hưởng, ra sức thách thức vai trò chủ đạo của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, công kích, phủ định tính tất yếu về sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, thể chế chính trị và con đường phát triển chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc.
Thứ hai, thông tin bịa đặt, xuyên tạc của các thế lực phản động luôn tìm cách trực tiếp tấn công vào các sự kiện chính trị, các quyết sách chính trị, vấn đề cán bộ lãnh đạo (nhiều nhất là các vụ án, vụ việc liên quan đến cán bộ cấp cao), phương thức cầm quyền của Đảng Cộng sản Trung Quốc, phủ nhận vị thế của các đảng phái chính trị dân chủ, xuyên tạc rằng các đảng phái chính trị dân chủ chỉ có vị thế “hình thức” (cho rằng 8 đảng phái chính trị dân chủ thực chất chỉ tồn tại hình thức, không được tham chính sâu rộng). Đối tượng mà các thế lực thù địch tiếp cận là hơn một tỷ người sử dụng internet thường xuyên, qua báo chí ngoài lề (chủ yếu là các báo chí chống phá các thế lực thù địch lập ra từ ngoài lãnh thổ Trung Quốc). Chúng chủ yếu nhắm vào những người dân thường, lực lượng có trình độ thấp, non kém về lập trường và thế hệ trẻ đang trong giai đoạn định hình tư tưởng. Ngoài ra, không ít cư dân mạng vì hoàn cảnh cá nhân, vì tham vọng chính trị hay vì là nạn nhân của các bất công xã hội, đã tự nguyện trở thành “tù nhân” của các dòng tư tưởng tiêu cực và độc hại, một số “tiên phong” tiếp nhận các luồng tư tưởng trên và dùng nó để chống phá tư tưởng, tổ chức của Đảng Cộng sản Trung Quốc (1).
Như vậy, không gian mạng đã và đang trở thành “bộ nguồn” và “bộ khuếch đại” lây lan dư luận tiêu cực, thông tin không chính xác, thúc đẩy truyền bá những tư tưởng sai trái, gia tăng thách thức đối với Đảng Cộng sản Trung Quốc trong việc định hướng dư luận và truyền bá tư tưởng chính thống. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình từng nhấn mạnh: “Internet giống như con dao hai lưỡi. Một bức ảnh hay, một đoạn video được cập nhật có thể tạo thành một vụ nổ lan truyền trên toàn bộ các phương tiện truyền thông trong vài giờ, có tác động rất lớn đến lĩnh vực dư luận xã hội. Internet có thể được sử dụng cho những việc ích nước, lợi dân. Song, nếu không sử dụng đúng thì có thể gây ra những tác hại khó lường. Vì vậy, Đảng Cộng sản Trung Quốc cần có lập trường rõ ràng, kiên định đường lối chính trị, định hướng dư luận, định hướng giá trị đúng đắn trên không gian mạng(2).
Từ bối cảnh trên, kể từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XVIII (năm 2012) đến nay, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã xây dựng và hoàn thiện lý luận, phương án tổ chức toàn diện về quản lý không gian mạng, nhất là quản lý công tác tư tưởng, dư luận trên mạng không gian mạng. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình đã nhiều lần trực tiếp đề cập đến vấn đề này thông qua các bài phát biểu và bài viết, được thể hiện ở các nội dung chủ yếu như sau:
Một là, cần tăng cường sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đối với công tác an ninh mạng và tin học hóa để bảo đảm sự nghiệp an ninh mạng và quá trình đẩy mạnh tin học hóa, công nghệ hóa luôn đi đúng hướng(3). Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, hệ thống chính trị Trung Quốc, nhất là các cơ quan chịu trách nhiệm trực tiếp, phải kiên quyết thực hành quản lý không gian mạng theo luật, điều hành theo luật, lướt web theo luật. Cần tăng cường quản trị không gian mạng theo pháp luật, tăng cường xây dựng nội dung trực tuyến, tăng cường công khai trực tuyến tích cực, chủ động đi trước để dẫn dắt tư tưởng, không để tình trạng “chạy theo đấu tranh với các thế lực thù địch”, không để tình trạng “thông tin tốt luôn đi sau thông tin xấu của các thế lực thù địch”(4).
Hai là, vì không gian mạng là “ngôi nhà tinh thần” của hàng trăm triệu người hằng ngày, thậm chí hàng tỷ người dùng thường xuyên, cho nên không gian mạng cũng chính là biến số lớn nhất mà Trung Quốc phải đối mặt, một thách thức mà giai đoạn trước không phải đối mặt. Trên “chiến trường” không gian mạng, việc có thể trụ vững và thắng trận hay không có liên quan trực tiếp đến an ninh chính trị của đất nước. Phải coi không gian mạng là một mặt trận chính trong công tác tư tưởng của Đảng Cộng sản Trung Quốc; là nơi phải được cải biến trở thành một môi trường thực sự trong sạch; là nơi tích cực giải thích con đường phát triển của Trung Quốc, tuyên truyền những điều tốt đẹp; là nơi thảo luận về các đặc trưng, bản sắc của Trung Quốc; là nơi toàn dân hiến kế cho sự phát triển quốc gia(5). Từ đó, Trung Quốc tăng cường sự lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với công tác tuyên truyền, tư tưởng; đồng thời, tuân thủ rõ ràng sự quản lý của Đảng đối với công tác tuyên truyền, tư tưởng, lấy công tác dư luận xã hội trên không gian mạng làm nhiệm vụ hàng đầu của công tác tuyên truyền và tư tưởng(6).
Ba là, cần chủ động xây dựng hàng rào an ninh mạng quốc gia. Bởi, an ninh mạng tác động tổng thể và sâu rộng đến an ninh chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quân sự và các lĩnh vực khác, không có an ninh mạng thì không có an ninh quốc gia, không có ổn định kinh tế - xã hội, khó bảo vệ lợi ích cho đông đảo quần chúng nhân dân. Vì vậy, an ninh mạng được duy trì thông qua sự phối hợp phát triển và bảo mật, nâng cao hệ thống bảo vệ an ninh, đẩy nhanh quá trình nội địa hóa công nghệ thông tin, loại bỏ sự lệ thuộc công nghệ bên ngoài, tăng cường an ninh chuỗi cung ứng, tăng cường bảo vệ thông tin cá nhân và dữ liệu quan trọng, nghiêm khắc trấn áp tội phạm trên không gian mạng, tăng cường xây dựng ngành an ninh mạng, nhân lực và kỷ luật, kiên quyết xây dựng rào cản mới cho an ninh mạng quốc gia, bảo vệ hiệu quả an ninh mạng quốc gia và lợi ích của quốc gia - dân tộc(7).
Bốn là, thực hiện sự thống nhất, cộng hưởng trên không gian mạng và môi trường xã hội thực tế, điều mà Đảng Cộng sản Trung Quốc gọi là xây dựng “vòng tròn đồng tâm trên mạng và trên thực tế”. Để xây dựng “vòng tròn đồng tâm” cần tập hợp sự đồng thuận xã hội, củng cố nền tảng tư tưởng cho sự thống nhất của toàn Đảng và nhân dân cả nước. Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng thẳng thắn chỉ ra rằng, sự phát triển của internet là một bước tiến lớn về công nghệ, nhưng cũng là một thách thức lớn trong khâu quản lý. Vì vậy, mỗi cấp ủy và đội ngũ cán bộ lãnh đạo các cấp phải có trách nhiệm nâng cao năng lực và trình độ quản trị trên không gian mạng.
Phương thức đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng trên không gian mạng của Đảng Cộng sản Trung Quốc
Trước hết, theo quan điểm của Đảng Cộng sản Trung Quốc, để chiến thắng trong cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng trên không gian mạng, phải nâng cao khả năng quản lý toàn diện, hình thành cơ cấu quản trị đồng bộ, có sự tham gia của nhiều bên, như Đảng, chính quyền, doanh nghiệp và người dùng. Sự tham gia đó được thực hiện trên nhiều phương diện, như kinh tế, pháp lý và công nghệ,...
Từ năm 2011, Chính phủ Trung Quốc thành lập Cục quản lý mạng, chịu sự lãnh đạo toàn diện của Ủy ban Trung ương về các vấn đề không gian mạng, một cơ quan trực thuộc Trung ương Đảng. Đến năm 2014, Chính phủ Trung Quốc đã cơ cấu lại Cục Quản lý mạng thành Văn phòng Thông tin internet quốc gia. Văn phòng là một cơ quan hành chính chịu trách nhiệm quản lý nội dung thông tin internet quốc gia; đồng thời giám sát, quản lý việc thực thi pháp luật các vấn đề về internet. Đối với sự lãnh đạo của Đảng, tháng 3-2018, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã thống nhất đổi Tiểu Tổ chỉ đạo an ninh mạng và tin học Trung ương thành Ủy ban chỉ đạo an ninh mạng và tin học Trung ương nhằm tăng cường sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Cho đến nay, Ủy ban chỉ đạo được hình thành tương ứng với các cấp trung ương, tỉnh, phó tỉnh và huyện. Đảng Cộng sản Trung Quốc yêu cầu cán bộ lãnh đạo các cấp, nhất là cán bộ cấp cao phải chủ động thích ứng với yêu cầu tin học hóa, tăng cường tư duy và hiểu biết sâu rộng về internet, không ngừng nâng cao năng lực nắm bắt quy luật vận hành internet, chủ động định hướng dư luận trên mạng, kiểm soát sự phát triển của tin học hóa, bảo đảm an ninh mạng(8).
Để tiếp tục hoàn thiện thể chế lãnh đạo toàn diện công tác tư tưởng trên không gian mạng, năm 2019, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc quyết định ban hành “Quy định về công tác tuyên truyền của Đảng Cộng sản Trung Quốc”. Trong đó, đưa quản lý internet là một trong những nội dung quản lý tuyên truyền của Đảng nhằm thực hiện nhiệm vụ chung “một giương cao”, “hai củng cố” và “ba xây dựng”(9).
Về xây dựng các thể chế luật pháp, ban đầu Chính phủ Trung Quốc chỉ ban hành Quy định bảo vệ an ninh hệ thống thông tin máy tính, trong đó trách nhiệm bảo vệ an ninh trên không gian mạng là của Bộ Công an. Đến năm 1996, Trung Quốc mở rộng việc quản lý, kiểm soát không gian mạng khi ban hành Quy định tạm thời về quản lý kết nối quốc tế của mạng thông tin máy tính. Một trong những nội dung của quy định là các nhà cung cấp dịch vụ internet phải được cấp phép và lưu lượng truy cập internet phải đi qua 4 nhà cung cấp internet chính của Trung Quốc là ChinaNet, GBNet, CERNET hoặc CSTNET. Ngay từ năm 2000, Chính phủ Trung Quốc đã ban hành Quy định số 292, theo đó các trang web có trụ sở tại Trung Quốc không thể liên kết với các trang web tin tức nước ngoài hoặc phân phối tin tức từ các phương tiện truyền thông nước ngoài nếu không có sự cho phép của cơ quan nhà nước. Quy định này nêu rõ, các nhà cung cấp nội dung chịu trách nhiệm bảo đảm tính hợp pháp của bất kỳ thông tin nào được phổ biến thông qua các dịch vụ của họ. Năm 2017, sự phát triển bùng nổ của công nghệ thông tin đã tác động đến nền tảng tư tưởng, cấu trúc xã hội, cách thức quản trị quốc gia... Quốc hội Trung Quốc đã ban hành Luật An ninh mạng. Đây là luật đầu tiên điều chỉnh một cách toàn diện vấn đề quản lý an ninh mạng. Trong đó, Điều 12 quy định cá nhân, tổ chức sử dụng không gian mạng phải tuân theo Hiến pháp và pháp luật, giữ gìn trật tự công cộng, tôn trọng đạo đức xã hội; không được gây nguy hiểm cho an ninh mạng, không được sử dụng không gian mạng để tham gia vào các hoạt động gây nguy hiểm cho an ninh, danh dự và lợi ích quốc gia; không được kích động lật đổ chủ quyền, lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa, kích động ly khai, phá vỡ đoàn kết dân tộc, cổ xúy chủ nghĩa khủng bố hoặc chủ nghĩa cực đoan, cổ xúy hận thù dân tộc và phân biệt đối xử dân tộc, truyền bá thông tin bạo lực, khiêu dâm, tạo hoặc phổ biến thông tin sai lệch nhằm phá hoại nền kinh tế - xã hội hoặc thông tin xâm phạm uy tín, quyền riêng tư, quyền sở hữu trí tuệ hoặc các quyền và lợi ích hợp pháp khác của người khác. Đến năm 2021, Quốc hội Trung Quốc tiếp tục ban hành “Luật Bảo mật dữ liệu”, “Luật Bảo vệ thông tin cá nhân”,... để điều chỉnh hoạt động xử lý dữ liệu mạng và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trên không gian mạng(10).
Văn phòng Thông tin internet quốc gia và các bộ, ngành trực thuộc Chính phủ Trung Quốc đã lần lượt ban hành các quy định và biện pháp nhằm cụ thể hóa Luật An ninh mạng(11). Đặc biệt, “Quy định về quản lý sinh thái nội dung thông tin mạng” (năm 2019) do Văn phòng Thông tin internet quốc gia ban hành, xác định lấy việc trau dồi và thực hành các giá trị cốt lõi xã hội chủ nghĩa và xây dựng hệ sinh thái không gian mạng tốt làm mục tiêu cơ bản, lấy nội dung thông tin làm đối tượng quản trị chính và thúc đẩy hơn nữa việc cải tiến, hoàn thiện hệ thống quản trị mạng toàn diện. Gần đây nhất, tháng 10 năm 2023, Thủ tướng Lý Cường ký ban hành “Quy định về bảo vệ người chưa thành niên trên internet” để tạo ra một môi trường trực tuyến có lợi cho sức khỏe thể chất và tinh thần của người thành niên và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên(12).
Thứ hai, để xác định rõ đối tượng, khu vực trên không gian mạng thường gây tác động tiêu cực tới các vấn đề về tư tưởng, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã xác định nhiệm vụ cụ thể trong giải quyết và đối phó đối với từng khu vực trên mặt trận tư tưởng. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình chỉ rõ: Lĩnh vực tư tưởng và dư luận nói chung có ba khu vực: đỏ, đen và xám. Trong số đó, vùng màu đỏ là nơi người sử dụng mạng ủng hộ và tuân thủ chủ trương, chính sách của Đảng Cộng sản và Nhà nước Trung Quốc. Đây là vùng nhất định phải duy trì, bảo vệ và lan tỏa. Vùng màu đen chủ yếu là thông tin, dư luận tiêu cực nên phải kiên quyết kiểm soát nó, thực hiện bao vây, cô lập sự lan tỏa của nó và dần dần thúc đẩy nó thay đổi sang các màu sáng hơn. Tại vùng màu xám, cần chủ động tích cực đấu tranh mạnh mẽ để đẩy nhanh quá trình chuyển đổi thành vùng màu đỏ và ngăn không cho nó thoái hóa thành vùng màu đen(13). Với hai vùng có màu tiêu cực, cần tích cực thu hút người sử dụng mạng bằng những chính sách và phương pháp mới, như thông qua thiết lập các kênh liên lạc thường xuyên, tăng cường tương tác trực tuyến và trực tiếp, từng bước tuyên truyền, nâng cao nhận thức chính trị để người sử dụng trong từng khu vực tự hình thành quan điểm tích cực, góp phần thanh lọc không gian mạng.
Từ việc xác định “vùng tư tưởng” trên, Đảng Cộng sản Trung Quốc chỉ đạo đội ngũ cán bộ, đảng viên chịu trách nhiệm công tác giám sát trên không gian mạng, bỏ thói quen phán xét chỉ bằng kinh nghiệm và trực giác trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Cán bộ phải thu thập được thông tin từ quá trình lao động, sản xuất và vận hành đời sống của người dân trên mọi lĩnh vực. Từ đó, nắm bắt kịp thời dư luận, tình hình sự việc một cách toàn diện, hướng tới việc đưa ra các quyết định, dự đoán khoa học và chính xác hơn về các diễn biến trên không gian mạng.
Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng quyết liệt lãnh đạo, chỉ đạo các ngành quản lý công tác tư tưởng và tuyên truyền các cấp phải tích cực nghiên cứu, xây dựng hệ thống giám sát tư tưởng, dư luận xã hội trên không gian mạng, để công tác giám sát tư tưởng và dư luận xã hội trên không gian mạng được bao quát toàn diện; đặc biệt, tăng cường thu thập ý kiến quần chúng dựa trên các phương tiện truyền thông xã hội mới, phổ biến, như nền tảng Weibo, Wechat; xây dựng một hệ thống kiểm soát và phòng, chống các quan điểm sai trái, thù địch một cách toàn diện; sử dụng các biện pháp kỹ thuật nhằm nâng cao khả năng phát hiện, theo dõi, ngăn chặn, xóa kịp thời nhất các thông tin cổ xúy tư tưởng sai trái; khuyến khích người sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội phản ánh thông tin sai trái, thù địch bằng các hình thức khen thưởng; thực hiện cơ chế giám sát hiệu quả các trang web, blog, diễn đàn và tài khoản công cộng; tăng cường chỉ đạo việc biên soạn các bài báo lý luận, chuyên khảo lý luận, văn học, điện ảnh, truyền hình mang tính tích cực để “đẩy có chủ đích” vào các nền tảng mạng xã hội và các kênh truyền thông thu hút nhiều người dùng.
Thứ ba, chủ động đưa tiếng nói của Đảng và Nhà nước Trung Quốc lên không gian mạng nhằm mục tiêu đề cao vai trò công tác định hướng tư tưởng, công tác tuyên truyền, giáo dục lý tưởng, niềm tin, tích cực tu dưỡng và thực hành các giá trị cốt lõi của chủ nghĩa xã hội. Nổi bật là, Đảng Cộng sản Trung Quốc tổ chức các hoạt động giáo dục, học tập sâu rộng, như Hội nghị phát động sâu rộng việc giáo dục lịch sử Đảng (năm 2021) đã tạo ra bầu không khí sôi nổi trong việc nghiên cứu lịch sử Đảng và lịch sử dân tộc, tôn vinh các anh hùng và liệt sĩ, tổng kết kinh nghiệm lịch sử, nêu bật những thành tựu của Đảng Cộng sản Trung Quốc(14)... nhằm góp phần dọn sạch hiện tượng “ô nhiễm tư tưởng” trên không gian mạng. Ngoài ra, trong công tác thông tin đối ngoại, các phương tiện truyền thông xã hội tập trung vào việc thúc đẩy xây dựng năng lực truyền thông quốc tế, nâng cao sức mạnh mềm về văn hóa, khoa học - công nghệ, giáo dục... của Trung Quốc với thế giới.
Một số gợi mở từ phương thức đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng trên không gian mạng của Trung Quốc
Trung Quốc đã xây dựng một nền tảng lý luận và quan điểm về bảo vệ nền tảng tư tưởng trên không gian mạng. Nền tảng lý luận đó được Đảng Cộng sản Trung Quốc đánh giá là một phần quan trọng trong Tư tưởng Tập Cận Bình về chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc trong thời đại mới. Coi đó như một bản tóm tắt lý thuyết về kinh nghiệm thực tiễn của Đảng trong quản lý internet, quản lý không gian mạng và hướng dẫn hành động cho sự phát triển của internet(15). Trung Quốc không chỉ đề cao vai trò của không gian mạng đối với phát triển kinh tế - xã hội, mà còn trực tiếp tác động đến công tác tư tưởng của Đảng Cộng sản Trung Quốc, đến nền tảng tư tưởng của toàn xã hội và ảnh hưởng đến an ninh quốc gia.
Từ kinh nghiệm của Trung Quốc có thể gợi mở một số điều đáng suy ngẫm: tiếp tục nghiên cứu, bổ sung làm rõ, đặc biệt là những nghiên cứu mang tính định lượng về tác động của không gian mạng đối với người sử dụng trên các vấn đề tư tưởng, lối sống; dự báo những thay đổi và tác động của không gian mạng đối với nhận thức của xã hội cũng như tác động tới nền tảng tư tưởng của Đảng; nâng cấp tổng thể mô hình tổ chức, công nghệ, trách nhiệm của cơ quan quản lý internet quốc gia một cách tập trung, thống nhất, tránh sự chồng chéo chức năng nhiệm vụ; phát động chiến dịch toàn dân sử dụng internet lành mạnh, có sàng lọc kỹ về thông tin, thực sự khoa học; thúc đẩy nhận thức một cách tổng thể về tính nguy hại thực sự nếu không kiểm soát tốt mạng xã hội, không sử dụng khôn ngoan mạng xã hội. Từ đó, phát triển và hình thành một hệ thống quan điểm chiến lược về quản trị không gian mạng trong kỷ nguyên chuyển đổi số... Cần tiếp tục nghiên cứu, xây dựng, hoàn thiện liên tục hệ thống pháp luật về không gian mạng, bảo đảm sự tương thích với pháp luật về an ninh mạng. Đặc biệt, cần xác định rõ đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng là công việc hằng ngày, lâu dài, không chỉ là một chiến dịch rầm rộ ngày một ngày hai; không chỉ là công việc của riêng các nhà nghiên cứu và các cơ quan chức năng, mà cần sự tiếp sức, hỗ trợ về cơ chế một cách đầy đủ của Đảng và sự vào cuộc chủ động bằng lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội của toàn dân./.
--------------------------
(1) 网络意识形态负面营销的危害及应对, (Tạm dịch: Tác hại và các biện pháp đối phó với tiếp thị tiêu cực của hệ tư tưởng internet), Tân Hoa xã, ngày 11-8-2016, http://www.xinhuanet.com/politics/2016-08/11/c_129222606.htm
(2) 中国网络媒体10年发展成就综述, (Tạm dịch: Tóm tắt thành tựu phát triển 10 năm của phương tiện truyền thông trực tuyến của Trung Quốc), Tạp chí Cầu thị, ngày 18-7-2023, http://www.qstheory.cn/qshyjx/2023-07/18/c_1129755026.htm
(3) “十个坚持”指明网信工作方向, (Tạm dịch: “Mười kiên trì” chỉ ra phương hướng hoạt động của thông tin mạng”, ngày 21-7-2023, http://politics.people.com.cn/n1/2023/0721/c1001-40040850.html
(4) “坚决打赢网络意识形态斗争”——学习习近平总书记相关重要论述, (Tạm dịch: “Kiên quyết giành chiến thắng trong cuộc đấu tranh tư tưởng trên internet”: Nghiên cứu các bài phát biểu quan trọng của Tổng Bí thư Tập Cận Bình), ngày 10-6-2022, http://fgw.pds.gov.cn/contents/22290/497167.html
(5) 牢牢掌握网络意识形态工作主动权, (Tạm dịch: Nắm chắc thế chủ động trong công tác mạng lưới tư tưởng), Tạp chí Cầu Thị, ngày 12-2-2019, http://www.qstheory.cn/dukan/hqwg/2019-02/12/c_1124100664.htm
(6) “坚决打赢网络意识形态斗争”——学习习近平总书记相关重要论述, (Tạm dịch: “Kiên quyết chiến thắng cuộc đấu tranh tư tưởng trên internet” - Nghiên cứu các bài phát biểu quan trọng của Tổng Bí thư Tập Cận Bình), ngày 10-6-2022, http://fgw.pds.gov.cn/contents/22290/497167.html
(7) “十个坚持”指明网信工作方向, (Tạm dịch: “Mười kiên trì” chỉ ra phương hướng hoạt động của thông tin mạng), ngày 21-7-2023, https://www.cac.gov.cn/2023-07/21/c_1691590708022835.htm
(8) 坚持网信事业正确政治方向——五论贯彻习近平总书记全国网信工作会议重要讲话, (Tạm dịch: Tuân thủ định hướng chính trị đúng đắn của ngành thông tin internet - Năm cuộc thảo luận về việc thực hiện Bài phát biểu quan trọng của Tổng Bí thư Tập Cận Bình tại Hội nghị Công tác Thông tin Internet quốc gia), ngày 25-4-2018, https://www.gov.cn/xinwen/2018-04/25/content_5285840.htm
(9) Phương châm đó bao gồm: giương cao ngọn cờ vĩ đại chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc; củng cố lập trường chỉ đạo của chủ nghĩa Mác trên lĩnh vực tư tưởng, củng cố nền tảng tư tưởng chung cho sự đoàn kết và đấu tranh của toàn đảng và nhân dân cả nước, xây dựng hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa gắn kết và lãnh đạo vững chắc, xây dựng nền văn minh tinh thần xã hội chủ nghĩa có sức sống và sức sáng tạo mạnh mẽ, xây dựng sức mạnh mềm văn hóa Trung Quốc có sức hấp dẫn và ảnh hưởng mạnh mẽ.
(10) 牢牢掌握网络意识形态工作主导权, (Tạm dịch: Nắm chắc ưu thế của công tác tư tưởng mạng), ngày 23-12-2022, http://dangjian.people.com.cn/n1/2022/1223/c117092-32592275.html
(11) Như: Quy định quản lý dịch vụ thông tin, tin tức trên internet (năm 2017); Quy định về thủ tục thi hành án hành chính về quản lý nội dung thông tin trên internet (năm 2017); Các biện pháp đánh giá an ninh mạng (năm 2019); Các biện pháp đánh giá bảo mật dịch vụ điện toán đám mây
(12) 司法部、国家网信办有关负责人就 “未成年 人网络保护条例” 答记者问, (Tạm dịch: Bộ Tư pháp và Cục Quản lý không gian mạng Trung Quốc đã trả lời câu hỏi của phóng viên về “Quy định bảo vệ người thành niên trên internet”), ngày 24-10-2023, https://www.moj.gov.cn/pub/sfbgw/zcjd/202310/t20231024_488321.html
(13) 新时代网络意识形态斗争的根本遵循, (Tạm dịch: Các nguyên tắc cơ bản của cuộc đấu tranh tư tưởng Internet trong kỷ nguyên mới), ngày 6-3-2021, http://www.china.com.cn/opinion2020/2021-03/06/content_77279526.shtml
(14) 中国共产党反对历史虚无主义的实践与经验, (Tạm dịch: Thực tiễn và kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Trung Quốc chống lại chủ nghĩa hư vô lịch sử), ngày 6-8-2022, http://www.rmlt.com.cn/2022/0806/653475.shtml
(15)“习近平总书记关于网络强国的重要思想概论”出版发行, (Tạm dịch: Lời giới thiệu của Tổng Bí thư Tập Cận Bình về những tư tưởng quan trọng của một quốc gia mạng lưới hùng mạnh), ngày 12-7-2023, http://ztjy.people.cn/n1/2023/0712/c457340-40033542.html
Không thể xuyên tạc, phủ nhận thành tựu của Việt Nam trong việc bảo đảm và thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo (17/09/2024)
Trí tuệ nhân tạo và những nguy cơ, thách thức đối với công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay (28/08/2024)
Chủ tịch Hồ Chí Minh bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin và đấu tranh với những tư tưởng phản mác-xít
TCCS - Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ tiếp thu, truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào Việt Nam, vận dụng sáng tạo học thuyết này vào thực tiễn cách mạng nước ta, mà còn tích cực đấu tranh chống những tư tưởng phản mác-xít để bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Tinh thần đó của Người đã tiếp tục cổ vũ, khích lệ chúng ta trong công cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong bối cảnh hiện nay.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt nền móng vững chắc cho việc xây dựng, phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin và đấu tranh với những tư tưởng phản mác-xít
Có thể khẳng định, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh chính thức đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào năm 1920 khi Người đọc bản “Sơ thảo Luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa” của V.I. Lê-nin. Luận cương của V.I. Lê-nin đã bàn đến dân tộc, thuộc địa, cách mạng giải phóng dân tộc - những vấn đề có liên quan trực tiếp đến cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ; trong đó, có một luận điểm rất quan trọng nói về con đường phát triển của các nước thuộc địa, phụ thuộc như Việt Nam: “Với sự giúp đỡ của giai cấp vô sản các nước tiên tiến, các nước lạc hậu có thể tiến tới chế độ Xô-viết, và qua những giai đoạn phát triển nhất định, tiến tới chủ nghĩa cộng sản, không phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”(1).
Có thể nói, luận điểm này của V.I. Lê-nin đã giải tỏa những trăn trở bấy lâu của Nguyễn Ái Quốc về con đường phát triển của cách mạng Việt Nam. Khi nói về điều này, Nguyễn Ái Quốc đã viết: “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!””(2). Như vậy, hoàn toàn có cơ sở để khẳng định, chính “Sơ thảo Luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa” của V.I. Lê-nin đã tạo ra bước ngoặt căn bản về chất trong sự phát triển nhận thức, tư tưởng và lập trường cách mạng của Nguyễn Ái Quốc: từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác - Lê-nin, từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp, từ người yêu nước trở thành người cộng sản. Qua đó, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy con đường cách mạng chân chính cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc - con đường cách mạng vô sản. Từ đây, Nguyễn Ái Quốc đã đi theo V.I. Lê-nin, đi theo Quốc tế III và Người khẳng định một cách chắc chắn rằng: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”(3).
Từ việc đi theo chủ nghĩa Lê-nin, Nguyễn Ái Quốc còn tích cực truyền bá chủ nghĩa ấy vào Việt Nam, đầu tiên là thông qua tờ báo Thanh niên (ra đời năm 1925). Người không chỉ mở lớp đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ cốt cán, mà còn trực tiếp truyền thụ những nội dung về chủ nghĩa Mác - Lê-nin; bởi vì, theo Người, “Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”(4). Hơn ai hết, Nguyễn Ái Quốc là người rất hiểu giá trị của chủ nghĩa Mác - Lê-nin với cách mạng Việt Nam nên Người luôn kiên định, vững vàng trong việc bảo vệ, phát triển học thuyết ấy: “Chủ nghĩa Lênin đối với chúng ta, những người cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những là cái “cẩm nang” thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản”(5).
Những đánh giá của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh về vai trò của chủ nghĩa Mác - Lê-nin với cách mạng Việt Nam không mang tính chủ quan, mà hoàn toàn khách quan, bởi xuất phát từ thực tiễn phát triển cách mạng Việt Nam. Chủ nghĩa Mác - Lê-nin với tính cách là lý luận khoa học, cách mạng, vũ khí sắc bén của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế khi được truyền bá vào Việt Nam đã chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối cách mạng; đồng thời, tạo ra bước phát triển về nhận thức, tư tưởng và quan trọng hơn, đã tạo ra một đội ngũ cán bộ cách mạng được trang bị lý luận tiên tiến. Do đó, trong quá trình lãnh đạo cách mạng sau này, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn kiên định, vững vàng với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, coi đó là nền tảng tư tưởng của Đảng ta, là “kim chỉ nam” cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ kiên định, vững vàng với thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, mà còn vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết này vào thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Trong “Sơ thảo Luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa”, V.I. Lê-nin cho rằng, các nước thuộc địa thường là nước nghèo nàn, lạc hậu, đang bị các nước tư bản nô dịch, thống trị. Do đó, giai cấp vô sản ở chính quốc phải ủng hộ tích cực nhất phong trào giải phóng của các dân tộc thuộc địa. Bằng việc nghiên cứu rất kỹ lưỡng tình hình các nước thuộc địa, trong đó có Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã phát triển hơn nữa quan điểm của V.I. Lê-nin về vấn đề này, khi khẳng định cách mạng ở các nước thuộc địa có thể tiến hành trước ở các nước chính quốc, và đến lượt mình sẽ có thể giúp đỡ cách mạng ở các nước chính quốc tiến lên. Đây là sự sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc khi vận dụng quan điểm của V.I. Lê-nin về vai trò của cách mạng ở các nước thuộc địa so với cách mạng ở chính quốc. Nhận định về điều này, Thủ tướng Chính phủ Phạm Văn Đồng đã khẳng định: “Luận điểm của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh mới mẻ đến kỳ lạ,... nó nằm trong dòng sáng tạo cách mạng của những con người mà cống hiến lý luận và sự nghiệp đấu tranh vạch đường cho thời đại”(6). Ngoài ra, tư tưởng về khả năng đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa của V.I. Lê-nin (bỏ qua gián tiếp) đã được Nguyễn Ái Quốc phát triển thành tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và ngày nay, tư tưởng ấy vẫn là “kim chỉ nam” cho cách mạng nước ta.
Khi xác định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, mặc dù ở thời điểm chủ nghĩa xã hội đang hiển hiện ở Liên Xô và các nước Đông Âu, nhưng theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, không thể áp dụng một cách máy móc vào thực tiễn Việt Nam; bởi lẽ: “Ta không thể giống Liên Xô, vì Liên Xô có phong tục tập quán khác, có lịch sử địa lý khác”(7). Với tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng cần học tập kinh nghiệm của các nước một cách sáng tạo và vận dụng linh hoạt cho phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Người chỉ rõ: “Phải học tập kinh nghiệm các nước anh em và áp dụng những kinh nghiệm ấy một cách sáng tạo. Chúng ta phải nâng cao sự tu dưỡng về chủ nghĩa Mác - Lênin để dùng lập trường, quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác - Lênin mà tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của nước ta”(8).
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quán triệt rất sâu sắc lời chỉ dạy của Ph. Ăng-ghen khi vận dụng chủ nghĩa Mác vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Theo Ph. Ăng-ghen, học thuyết của Mác là lý luận của sự phát triển, chứ không phải là một giáo điều mà người ta phải học thuộc lòng và lắp lại một cách máy móc. Tư tưởng về con đường phát triển của cách mạng Việt Nam là quá độ từ một nước thuộc địa nửa phong kiến, có trình độ phát triển nghèo nàn, lạc hậu đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội bằng cách bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa; hay độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội chính là những dẫn chứng thuyết phục cho sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, làm cho học thuyết ấy được nảy nở, phát triển trên cơ sở vận dụng phù hợp với điều kiện của một nước phương Đông như Việt Nam.
Là người quán triệt sâu sắc phương pháp luận duy vật biện chứng, Chủ tịch Hồ Chí Minh phê phán rất nghiêm khắc cả hai khuynh hướng sai lầm khi vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào thực tiễn. Đó là “chủ nghĩa giáo điều” và “chủ nghĩa xét lại”. Người chỉ rõ: “Không chú trọng đến đặc điểm của dân tộc mình trong khi học tập kinh nghiệm của các nước anh em, là sai lầm nghiêm trọng, là phạm chủ nghĩa giáo điều. Nhưng nếu quá nhấn mạnh đặc điểm dân tộc để phủ nhận giá trị phổ biến của những kinh nghiệm lớn, cơ bản của các nước anh em, thì sẽ mắc sai lầm nghiêm trọng của chủ nghĩa xét lại”(9). Vì thế, khi vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào thực tiễn, Người luôn yêu cầu vừa coi trọng việc học tập, nghiên cứu lý luận, vừa gắn lý luận với thực tiễn và phải khắc phục bệnh giáo điều, đề phòng chủ nghĩa xét lại.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng với những tư tưởng phi mác-xít để bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lê-nin
Không chỉ thấm nhuần, kiên định vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, mà Chủ tịch Hồ Chí Minh còn kiên quyết đấu tranh với những tư tưởng phi mác-xít để bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người am hiểu hơn ai hết giá trị của những quan điểm về dân tộc và thuộc địa mà V.I. Lê-nin đã đưa ra, nên khi đi theo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Người cũng đi theo Quốc tế III. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thấy sự phức tạp, nguy hiểm của những tư tưởng cơ hội, xét lại, dân túy xuất hiện ở Nga những năm sau Cách mạng Tháng Mười, nên Người đã luôn nêu cao tinh thần “tiến công mạnh mẽ những kẻ chống lại Lê-nin và Quốc tế thứ ba”. Là thành viên của Quốc tế Cộng sản, Chủ tịch Hồ Chí Minh “không chỉ tranh luận trong chi bộ”, mà còn đi đến các chi bộ khác để đặt câu hỏi: “Nếu các đồng chí không lên án chủ nghĩa thực dân, nếu các đồng chí không đoàn kết với các dân tộc thuộc địa, thì các đồng chí làm thứ cách mạng gì?”(10).
Một trong những tư tưởng phi mác-xít mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đấu tranh một cách trực diện, kiên quyết chính là tư tưởng của những phần tử tờ-rốt-xkít. Với nhiều năm kinh nghiệm hoạt động quốc tế và sự nhạy bén về chính trị, ngay từ sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận rõ bản chất và mưu đồ của các phần tử tờ-rốt-xkít; bởi, bọn họ luôn có tư tưởng phá hoại phong trào cách mạng ở nhiều nước, như Liên Xô, Nhật Bản, Trung Quốc, Tây Ban Nha... và cài cắm các phần tử chống phá vào trong nội bộ tổ chức Quốc tế Cộng sản. Ngày 23-6-1939, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết tác phẩm “Về chủ nghĩa Tờ-rốt-xkít” đăng trên báo Notre Voix để vạch trần bản chất của các phần tử tờ-rốt-xkít. Người viết: “Bọn tờ-rốt-xkít không chỉ là kẻ thù của chủ nghĩa cộng sản, mà còn là kẻ thù của nền dân chủ và tiến bộ. Đó là bọn phản bội và mật thám tồi tệ nhất”(11). Người còn chỉ rõ thêm: “Trong tất cả các nước, bọn tờ-rốt-xkít đều dùng những tên gọi hoa mỹ để che giấu những công việc kẻ cướp bẩn thỉu của chúng”(12). Như vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đấu tranh một cách trực diện với những phần tử tờ-rốt-xkít bằng những ngôn ngữ rất gay gắt. Điều đó cho thấy tinh thần đấu tranh không khoan nhượng của người cộng sản kiên trung với những tư tưởng phi mác-xít.
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh với chủ nghĩa Tờ-rốt-xkít trên thế giới, mà còn kiên quyết đấu tranh với những tư tưởng tờ-rốt-xkít ở Việt Nam. Trong giai đoạn 1936 - 1939, trước tình trạng những phần tử tờ-rốt-xkít công khai phá hoại đường lối của Đảng Cộng sản Đông Dương, lôi kéo, lừa bịp nhân dân bằng những lời lẽ hoa mỹ; từ nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc đề nghị các đồng chí trong Đảng cảnh giác đối với những phần tử này: “Đối với bọn tờrốtxkít, không thể có thoả hiệp nào, một nhượng bộ nào. Phải dùng mọi cách để lột mặt nạ chúng làm tay sai cho chủ nghĩa phát xít, phải tiêu diệt chúng về chính trị”(13). Như vậy, nhóm tờ-rốt-xkít không chỉ phá hoại nền hòa bình, dân chủ trên thế giới, mà còn là tay sai cho chủ nghĩa phát xít. Điều này đi ngược lại với lý tưởng của chủ nghĩa cộng sản mà chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã gây dựng, nên Chủ tịch Hồ Chí Minh kiên quyết cho rằng không thể có một sự “thỏa hiệp” hay “nhượng bộ” nào!
Ngoài ra, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng luôn cảnh giác và đấu tranh không khoan nhượng với khuynh hướng cơ hội chủ nghĩa để bảo vệ thành quả cách mạng cũng như bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Tại Hội nghị đại biểu các Đảng Cộng sản và công nhân các nước xã hội chủ nghĩa (tháng 11-1957), Người nhắc lại tinh thần của Bản Tuyên bố của Hội nghị: “Chúng ta cần phải tăng cường giáo dục theo tinh thần chủ nghĩa Mác - Lênin và đấu tranh chống những khuynh hướng cơ hội chủ nghĩa như chủ nghĩa dân tộc tư sản, chủ nghĩa sôvanh, chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa xét lại, đặc biệt là chủ nghĩa xét lại”(14). Đây chính là lời cảnh tỉnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh với những người cộng sản, nhằm giữ vững lập trường của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và nêu cao tinh thần cảnh giác trước sự chống phá của những khuynh hướng tư tưởng phi mác-xít lúc bấy giờ.
Sau này, khi nói về nguyên nhân thắng lợi của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đảng ta luôn luôn đứng vững trên lập trường giai cấp vô sản, tuyệt đối trung thành với lợi ích của giai cấp và của nhân dân, biết vận dụng lý luận Mác - Lênin vào tình hình thực tế của nước ta và đề ra đường lối, chính sách đúng đắn. Đảng ta không ngừng đấu tranh chống những khuynh hướng cải lương của giai cấp tư sản và những khuynh hướng manh động của tầng lớp tiểu tư sản trong phong trào dân tộc; chống luận điệu “tả” của bọn tơrốtxkít trong phong trào công nhân; chống những khuynh hướng hữu và “tả” trong Đảng khi quy định và chấp hành chiến lược và sách lược cách mạng của Đảng ở mỗi thời kỳ”(15). Có thể thấy rõ, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra hai yếu tố cơ bản mang lại những thắng lợi của cách mạng Việt Nam: Đó là luôn vững vàng với lập trường giai cấp vô sản, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào thực tiễn cách mạng; đồng thời, đấu tranh không khoan nhượng với những khuynh hướng tư tưởng phi mác-xít, như khuynh hướng cải lương của giai cấp tư sản, khuynh hướng manh động của tầng lớp tiểu tư sản và các khuynh hướng cơ hội, xét lại khác... Đây là nhận định vừa mang tính lý luận, vừa mang tính tổng kết thực tiễn, xuất phát từ thực tiễn lãnh đạo cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, giúp sự nghiệp cách mạng nước ta vượt qua muôn vàn khó khăn, thách thức để đạt được những thành quả to lớn ở thế kỷ XX.
Có thể khẳng định, việc kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin cũng như kiên quyết đấu tranh chống những khuynh hướng tư tưởng phi mác-xít không chỉ nằm trong quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh, mà còn được Người thực hành một cách nghiêm túc, thường xuyên trong thực tiễn lãnh đạo cách mạng. Do đó, ở Người, lý luận và thực tiễn, “tri” và “hành” có sự thống nhất với nhau rất đặc sắc.
Hiện nay, một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong công tác xây dựng Đảng là bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Đây được coi là nhiệm vụ cơ bản, xuyên suốt, sống còn, liên quan trực tiếp đến sự tồn vong của Đảng, của chế độ ta. Việc Chủ tịch Hồ Chí Minh kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, đồng thời kiên quyết đấu tranh với những tư tưởng phản mác-xít có ý nghĩa phương pháp luận rất quan trọng đối với cán bộ, đảng viên và nhân dân ta trong thực hiện Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 22-10-2018, của Bộ Chính trị khóa XII, về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”. Điều đó nhắc nhở mỗi chúng ta phải thực hiện tốt cả hai nhiệm vụ: Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng để tiếp tục tuyên truyền, lan tỏa những nội dung, giá trị của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; đồng thời, kiên quyết, kiên trì đấu tranh phản bác hiệu quả các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị ở trong nước và nước ngoài. “Bảo vệ” và “đấu tranh” có mối quan hệ biện chứng với nhau, có sự tác động qua lại nhau; bởi lẽ, muốn bảo vệ tốt phải đấu tranh hiệu quả và ngược lại, đấu tranh hiệu quả góp phần bảo vệ tốt hơn, vững chắc hơn.
Trong những năm qua, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục có những diễn biến phức tạp, khó lường với sự leo thang của các cuộc xung đột vũ trang, quân sự trên quy mô lớn. Ở trong nước, bên cạnh những thành tựu to lớn, tốc độ tăng trưởng kinh tế - xã hội còn chậm, chưa vững chắc; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ còn nhiều diễn biến phức tạp... Điều này đòi hỏi chúng ta tiếp tục kiên định, vững vàng trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng bổ sung, phát triển sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam; đồng thời, thường xuyên đấu tranh, ngăn chặn âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động, kiên quyết đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Điều này cũng phù hợp với phương châm kết hợp hài hòa giữa “xây” và “chống” mà Đảng ta đã xác định rõ trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng giai đoạn hiện nay.
Là người cộng sản kiên trung, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quán triệt rất sâu sắc di huấn của V.I. Lê-nin: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống”(16). Sự kiên định, vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin và sự kiên quyết, kiên trì đấu tranh với những tư tưởng phản mác-xít của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ cho chúng ta một phương pháp luận quan trọng, mà còn tiếp tục cổ vũ, động viên, khích lệ chúng ta trong cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong giai đoạn hiện nay./.
-----------------------
(1) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 41, tr. 295
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 12, tr. 562
(3), (4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 2, tr. 289
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 563
(6) Phạm Văn Đồng: Hồ Chí Minh - chân dung một con người, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội, 1996, tr. 26
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 391
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 92
(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 97 - 98
(10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 585
(11), (15) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 154
(13) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 167
(14) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 189 - 190
(15) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 416
(16) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t. 4, tr. 232
Không thể xuyên tạc, phủ nhận thành tựu của Việt Nam trong việc bảo đảm và thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo (17/09/2024)
Trí tuệ nhân tạo và những nguy cơ, thách thức đối với công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay (28/08/2024)
Đẩy mạnh đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa trong quân đội nhân dân Việt Nam qua tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
TCCS - Tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” đi sâu vào một số vấn đề lý luận và thực tiễn rất cơ bản, quan trọng, nội dung rất rộng lớn, phong phú và thể hiện ở tầm cao trí tuệ với nhiều cách tiếp cận khác nhau, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu rất công phu, nghiêm túc, tổng kết thực tiễn một cách sâu sắc, khoa học. Vì vậy, việc quán triệt và thực hiện quan điểm này có ý nghĩa rất quan trọng, là nền tảng nhận thức tư tưởng và kim chỉ nam để chỉ đạo, định hướng cho các hoạt động nâng cao hiệu quả đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa trong tình hình mới.
Tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” bao gồm 29 bài viết, bài phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Nội dung xuyên suốt của tác phẩm là sự phân tích biện chứng, lý giải thấu đáo những câu hỏi lớn về chủ nghĩa xã hội và con đường lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, thể hiện rõ và làm sâu sắc thêm bản chất, giá trị cốt lõi của chủ nghĩa xã hội trên các bình diện chính trị, kinh tế, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại,… giúp cho người đọc hiểu, vững tin vào xã hội xã hội chủ nghĩa bền vững và tốt đẹp mà nhân loại và nhân dân ta đang hướng tới. Theo Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: “Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hòa với lợi ích chính đáng của con người, khác hẳn về chất so với xã hội cạnh tranh để chiếm đoạt lợi ích riêng giữa các cá nhân và phe nhóm, do đó cần và có điều kiện để xây dựng sự đồng thuận xã hội thay vì đối lập, đối kháng xã hội. Trong chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân là mối quan hệ giữa các chủ thể thống nhất về mục tiêu và lợi ích; mọi đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật và hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân là mục tiêu phấn đấu”(1). Tác phẩm là tài liệu quý, một công trình có tầm khái quát lý luận cao, tổng kết thực tiễn sâu sắc, thể hiện sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, có giá trị lý luận và thực tiễn trong xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Kế thừa những tinh hoa văn hóa dân tộc và thời đại, quán triệt và vận dụng đúng đắn quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh phải hết sức coi trọng lĩnh vực tư tưởng, văn hóa. Trong đó, căn cốt là thấm nhuần, kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định đường lối đổi mới; mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Tổng Bí thư khẳng định: “Văn hóa là hồn cốt của Dân tộc, nói lên bản sắc của Dân tộc… Văn hóa còn thì Dân tộc còn,…”(2), phát triển văn hóa là một đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, sức mạnh nội sinh, động lực quan trọng để phát triển đất nước; phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội là một định hướng cơ bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa. Tổng Bí thư nhấn mạnh: “Chúng ta coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; xác định phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, “Con người giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển; phát triển văn hóa, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới”(3). Để thực hiện mục tiêu con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn, cần phải phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, cùng nhiều chủ trương, giải pháp đồng bộ, toàn diện của cả hệ thống chính trị.
Để chống phá cách mạng Việt Nam, các thế lực thù địch tiến hành tổng hợp các phương thức, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, trong đó chúng đặc biệt đẩy mạnh hoạt động “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, thể hiện qua các thủ đoạn và nội dung chủ yếu, như: Thứ nhất, bôi nhọ, xuyên tạc, công kích chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng. Thứ hai, đả kích bản sắc văn hóa dân tộc, đặc biệt là truyền thống văn hóa, văn nghệ cách mạng, lối sống xã hội chủ nghĩa - những giá trị tinh thần của chế độ xã hội chủ nghĩa; truyền bá văn hóa, lối sống tư sản phương Tây vào nước ta - lối sống thực dụng, vụ lợi cá nhân, sùng bái đồng tiền, dâm ô, trụy lạc phi nhân tính... Chúng tìm mọi phương thức để các sản phẩm văn hóa độc hại xâm nhập vào nước ta. Chúng sử dụng các sản phẩm văn hóa đồi trụy, phản động để đầu độc quần chúng nói chung, đặc biệt là thế hệ thanh niên ở nước ta nói riêng, làm lệch lạc giá trị thẩm mỹ, thị hiếu nghệ thuật, giá trị đạo đức của xã hội theo chiều hướng xấu; hòng biến thế hệ trẻ thành công cụ và lực lượng xã hội chủ yếu của “diễn biến hòa bình”; kích thích sự phục hồi, âm mưu phát triển lối sống mê tín dị đoan, tôn thờ chủ nghĩa hữu thần; tìm hiểu, móc nối, mua chuộc, lôi kéo, kích động trí thức, văn nghệ sĩ có tư tưởng bất mãn, thù địch, cơ hội, hữu khuynh cực đoan, sa đọa về phẩm chất đạo đức,... vào con đường sai trái, chống lại Đảng, Nhà nước và nhân dân; tìm cách thao túng, lũng đoạn, chi phối các cơ quan, tổ chức văn hóa, văn nghệ, làm cho văn hóa, văn nghệ đi chệch định hướng xã hội chủ nghĩa. Thứ ba, chúng lợi dụng những người bất mãn trong nội bộ Đảng, bộ máy nhà nước, tìm cách lôi kéo, hướng lái làm chuyển hóa từ bên trong; gây tâm lý hoài nghi dẫn tới phủ định chủ nghĩa xã hội. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch sử dụng “vấn đề nhân quyền” để can thiệp vào công việc nội bộ của chúng ta, đặt điều kiện hòng “ép ta” thỏa hiệp, nhượng bộ về chính trị, thay đổi đường lối của ta, đi theo quỹ đạo của chúng, núp dưới chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” để tạo dư luận, kích động thế giới cô lập Việt Nam, gieo rắc sự nghi ngờ trong các công dân Việt Nam đối với Nhà nước, khơi dậy sự phản kháng của những kẻ bất mãn, những phần tử cơ hội, thoái hóa, biến chất. Các thế lực thù địch còn vu khống, xuyên tạc chính sách của Nhà nước ta về tôn giáo, dân tộc… Thứ tư, chúng kích động lối sống sùng ngoại, thực dụng, cá nhân vị kỷ, ham muốn làm giàu, ham muốn quyền lực cực đoan...; chạy theo lợi ích vật chất, lạm dụng địa vị, quyền lực đang đảm nhiệm để mưu cầu lợi ích cá nhân; đặt giá trị vật chất ở vị trí cao trong thang giá trị cuộc sống; âm mưu làm trầm trọng hơn tệ tham nhũng, lãng phí, nạn quan liêu, cửa quyền, sách nhiễu nhân dân, kèn cựa, địa phương chủ nghĩa, bè phái, mất đoàn kết. Đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến suy thoái về đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ giữ chức vụ, quyền hạn cao ở một số cơ quan, đơn vị, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Cuộc đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa là một nội dung cơ bản của đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc, đấu tranh giữa hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa và hệ tư tưởng tư sản. Cuộc đấu tranh này diễn ra rất phức tạp, gay go và quyết liệt. Thành bại của cuộc đấu tranh này liên quan đến sự tồn vong của Đảng, của chế độ ta, không thể xem nhẹ. Do đó, nếu chúng ta chủ quan, mất cảnh giác hoặc nhận thức không đầy đủ về những tác động phá hoại của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, thì các thế lực thù địch, phản động càng có nhiều cơ hội để tiến hành âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” nhằm chống Đảng, Nhà nước ta. Tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” chỉ rõ: “những thiếu sót, khuyết điểm trong phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng văn hóa vừa qua cũng là những rào cản lớn đối với phát triển văn hóa. Sự tác động của quá trình toàn cầu hóa, cạnh tranh quốc tế và cuộc đấu tranh trên lĩnh vực văn hóa, tư tưởng cũng sẽ diễn ra quyết liệt, phức tạp hơn”(4). Kiên quyết đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa là một nhiệm vụ hàng đầu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và của cả hệ thống chính trị; là công việc tự giác, thường xuyên của các cấp ủy, tổ chức đảng…, trong đó Quân đội nhân dân Việt Nam là một trong những lực lượng nòng cốt, đi đầu.
Nhận thức sâu sắc tính chất nguy hiểm và phức tạp của nhiệm vụ đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, những năm qua, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, cấp ủy, chỉ huy các cấp trong toàn quân đã quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm túc đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 22-10-2018, của Bộ Chính trị, về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới” và các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Trung ương, nghị quyết các kỳ đại hội Đảng về công tác tư tưởng, lý luận của Đảng. Chủ động làm tốt công tác nghiên cứu chiến lược, nắm bắt, đánh giá, dự báo đúng tình hình, đặc biệt là những vấn đề về âm mưu, phương thức, thủ đoạn hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước nhiều chủ trương, giải pháp có ý nghĩa chiến lược trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng trong quân đội.
Công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức các lực lượng bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa trong quân đội đã được Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, đơn vị quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai toàn diện, đồng bộ các giải pháp, cả về tổ chức, lực lượng, nội dung, hình thức, phương tiện tiến hành; chú trọng phát huy tốt vai trò của các tổ chức, các lực lượng, vai trò của các cơ quan báo chí quân đội tham gia đấu tranh, nhất là đề cao vai trò, trách nhiệm của các cấp ủy đảng, bí thư, chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy, cơ quan chính trị, ban chỉ đạo 35, lực lượng nòng cốt, chuyên sâu các cấp và các tổ chức quần chúng trong đơn vị; nhiều website, blog, trang, nhóm, tài khoản của các tổ chức, cá nhân đã tích cực, chủ động viết tin, bài phục vụ tích cực cho công tác thông tin, tuyên truyền, đấu tranh phê phán các quan điểm sai trái, thù địch với các bài viết sắc sảo, tính chiến đấu cao, có cơ sở lý luận và thực tiễn thuyết phục, được dư luận đồng tình, ủng hộ. Cấp ủy, chỉ huy các cấp đã xây dựng, ban hành đề án, kiện toàn, thành lập mới ban chỉ đạo 35 ở các cơ quan, đơn vị; đầu tư trang thiết bị, các giải pháp kỹ thuật, công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo; thường xuyên tổ chức tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ phục vụ nhiệm vụ đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về tư tưởng, văn hóa, đặc biệt là trên không gian mạng. Nhờ đó, công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức các lực lượng đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong quân đội đạt được mục đích, yêu cầu đề ra, nền tảng tư tưởng của Đảng trong quân đội được giữ vững và tăng cường; cán bộ, chiến sĩ luôn kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, nhận thức đúng đắn về nhiệm vụ của cách mạng, quân đội trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.
Trong thời gian tới, dự báo tình hình thế giới và khu vực tiếp tục còn có những diễn biến phức tạp, khó lường; các thách thức an ninh phi truyền thống gia tăng; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt… Đất nước ta gần 40 năm đổi mới tiếp tục phát triển nhanh, đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, nhưng cũng đang đứng trước những khó khăn, thách thức. Các thế lực thù địch tăng cường đẩy mạnh chiến lược “Diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ và “phi chính trị hóa” quân đội… Xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, đáp ứng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, “giữ nước từ khi nước chưa nguy” đang đặt ra yêu cầu ngày càng cao…
Quán triệt và thực hiện quan điểm chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thông qua tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, để đẩy mạnh đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa trong quân đội, cần quán triệt và tổ chức thực hiện tốt một số nội dung, biện pháp cơ bản sau:
Một là, đẩy mạnh đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa trong quân đội và luôn coi đó là nhiệm vụ chính trị quan trọng hàng đầu, là công việc tự giác, thường xuyên của cấp ủy, tổ chức đảng, người chỉ huy, của từng cán bộ, chiến sĩ, trước hết là người đứng đầu.
Quan điểm trên đã được khẳng định trong Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 22-10-2018, của Bộ Chính trị, về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”: “Bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác có hiệu quả các quan điểm sai trái, thù địch là một nội dung cơ bản, hệ trọng mang tính sống còn của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trong đó lực lượng tuyên giáo các cấp là nòng cốt; là công việc tự giác, thường xuyên của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và đoàn thể chính trị - xã hội các cấp; của từng địa phương, cơ quan, đơn vị, của từng cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu”.
Quán triệt và thực hiện quan điểm trên, “Cấp ủy đảng và chính quyền các cấp phải nhận thức sâu sắc và quán triệt đầy đủ các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng về văn hóa”(5); các cấp ủy đảng, chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy và cơ quan chính trị các cấp cần nhận thức đúng vị trí, ý nghĩa, tầm quan trọng, xác định rõ vai trò, trách nhiệm, thường xuyên quan tâm đến công tác đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa trong quân đội; quán triệt sâu sắc các nghị quyết, chỉ thị, kết luận, hướng dẫn của Trung ương, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam về đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa trong quân đội thời kỳ mới. Đồng thời, thường xuyên nắm bắt, đánh giá đúng thực trạng tình hình đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa ở cơ quan, đơn vị mình; chỉ rõ ưu điểm và khuyết điểm, nguyên nhân của ưu điểm và khuyết điểm để kịp thời có những chủ trương, biện pháp lãnh đạo cụ thể, sát đúng, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong quân đội.
Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, các cấp ủy đảng, chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy và cơ quan chính trị các cấp cần chủ động xây dựng kế hoạch, nội dung đấu tranh trọng tâm, sát với sự lãnh đạo, chỉ đạo của trên; dự báo kịp thời với sự phát triển của tình hình; tích cực đấu tranh, chủ động phòng ngừa từ sớm, từ xa, nhiều tầng, nhiều lớp, không để bị động, bất ngờ trước mọi tình huống. Đặc biệt, cơ quan chính trị các cấp cần thực hiện tốt chức năng tham mưu, hướng dẫn, chỉ đạo; phát huy vai trò các tổ chức quần chúng, hội đồng quân nhân, chủ động phối hợp với cấp ủy, chính quyền, cơ quan, ban, ngành, đoàn thể ở Trung ương và địa phương để thực hiện có hiệu quả công tác đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa của Đảng trong quân đội.
Các cấp ủy đảng, chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy và cơ quan chính trị các cấp cần coi trọng việc tổng kết thực tiễn trong nghiên cứu tư tưởng, lý luận, nhất là thực tiễn công tác, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa trong quân đội những năm vừa qua. Qua đó, kế thừa và phát huy những kinh nghiệm đấu tranh đã tích lũy được, vận dụng và phát triển sáng tạo vào điều kiện lịch sử mới. Cần đề phòng và khắc phục sự bảo thủ, kinh nghiệm chủ nghĩa, giáo điều, thoát ly thực tế hoặc “khoán trắng” cho các cơ quan, lực lượng chức năng trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa của Đảng trong quân đội.
Trong tình hình hiện nay, cần tăng cường hiệu lực lãnh đạo của Đảng đối với quân đội trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa. Từ Quân ủy Trung ương đến các chi bộ đều có trọng trách lãnh đạo tiến hành công tác đảng, công tác chính trị nhằm giữ vững sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội và xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị; làm cho cán bộ, chiến sĩ có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định lý tưởng, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, nhất trí và tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, với đường lối đổi mới, đường lối quân sự, quốc phòng của Đảng trong giai đoạn mới của cách mạng; sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
Hai là, thường xuyên nghiên cứu, quán triệt sâu sắc và nắm vững quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nghị quyết, chỉ thị, đề án của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam về nhiệm vụ đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa trong tình hình mới.
Theo đó, các cấp ủy, chỉ huy, chính ủy, chính trị viên và cơ quan chính trị các cấp cần thường xuyên nghiên cứu, quán triệt sâu sắc và nắm vững các nghị quyết, chỉ thị, kết luận, quy định, hướng dẫn của Đảng, của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam và hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về nhiệm vụ đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa. Trên cơ sở đó, chủ động xây dựng các chương trình, kế hoạch và phương pháp đấu tranh phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, đơn vị.
Các cấp ủy, chỉ huy, chính ủy, chính trị viên và cơ quan chính trị các cấp phải xác định rõ việc nghiên cứu, quán triệt sâu sắc và nắm vững quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nghị quyết, chỉ thị, đề án của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam về đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa là một nhiệm vụ chính trị quan trọng và thường xuyên trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện nhiệm vụ ở mỗi cơ quan, đơn vị. Hằng năm, các cơ quan, đơn vị phải xây dựng kế hoạch nghiên cứu, quán triệt, bồi dưỡng, học tập bắt buộc đối với mọi quân nhân, trước hết là bí thư cấp ủy, người chỉ huy, chính ủy, chính trị viên gắn với việc cung cấp thông tin, cập nhật những quan điểm, luận điểm chỉ đạo mới của Đảng, của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về nhiệm vụ đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa phù hợp từng đối tượng, từng đơn vị.
Ba là, phải kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”.
Đây chính là quan điểm được xác định trong Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 22-10-2018, của Bộ Chính trị, về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới” và Đề án “Quân đội phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa trong tình hình mới”, đó là: “Gắn kết chặt chẽ giữa “xây” và “chống”, “xây” là cơ bản, “chống” phải quyết liệt, hiệu quả”. Trong tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” đã xác định: “chú trọng xây dựng văn hóa ứng xử lành mạnh trong xã hội, phát huy những giá trị tích cực về thuần phong, mỹ tục của gia đình và xã hội; nêu cao tinh thần tương thân, tương ái, đoàn kết; trọng tình nghĩa, trọng công lý và đạo lý xã hội...”, “Xây dựng các quy tắc ứng xử văn minh trong các cơ quan công quyền, trong cộng đồng, nhất là trong không gian mạng, trong giới văn nghệ sĩ, v.v..”, “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh chống tham ô, tham nhũng, tiêu cực, chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, nguồn gốc của mọi sự tham nhũng, tiêu cực, hư hỏng ngay trong các ngành văn hóa, các cơ quan làm công tác văn hóa. Chú trọng thực hiện quy định nêu gương của cán bộ, đảng viên”(6).
Thực hiện quan điểm trên, các cấp ủy, tổ chức đảng, chỉ huy các cấp xác định rõ việc đẩy mạnh đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa trong quân đội phải được tiến hành kiên trì, thường xuyên, liên tục ở tất cả các cấp; trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, cả trong lúc học tập, huấn luyện, công tác, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu cũng như trong sinh hoạt hằng ngày; khắc phục triệt để tình trạng “giao khoán” cho cơ quan chuyên trách hoặc hạ thấp, xem nhẹ hoạt động này.
Để “xây” tốt phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, chiến sĩ về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng; về các chỉ thị, nghị quyết, kết luận, hướng dẫn của Đảng, của cấp ủy các cấp và các cơ quan chức năng có liên quan đến nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng; hiểu biết đầy đủ về âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang, nhất là phương thức và hoạt động chống phá mới của các thế lực thù địch, phản động trong tình hình mới. Trong “chống”, phải tổ chức đấu tranh quyết liệt, hiệu quả, kiên trì, kiên quyết, không thỏa hiệp, hữu khuynh với những nhận thức lệch lạc, thái độ bàng quan, thờ ơ trước các thông tin, quan điểm sai trái, thù địch tràn lan trên internet, mạng xã hội; những hành vi và thói quen xấu của cán bộ, chiến sĩ khi sử dụng mạng xã hội, như lạm dụng thời gian, bình luận những thông tin không chính thống, chạy theo tâm lý “đám đông”, “phao tin giật gân” trên các trang mạng xã hội làm ảnh hưởng đến phẩm chất, nhân cách của cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang; tăng cường giáo dục nâng cao nhận thức chính trị, trách nhiệm, tinh thần chủ động đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa cho cán bộ, chiến sĩ, công nhân, viên chức quốc phòng ở cơ quan, đơn vị.
Bốn là, kết hợp đổi mới nội dung, hình thức và phương pháp đấu tranh phản bác các điểm sai trái, thù địch với xây dựng đời sống văn hóa ở đơn vị trong tình hình mới.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ: “Trong quá trình đa dạng hóa các hoạt động văn hóa, Nhà nước cần chú trọng đầu tư vào dòng chủ lưu của văn hóa cách mạng để làm nòng cốt và dẫn dắt, truyền cảm hứng chủ đạo trong việc bồi dưỡng tư tưởng, tâm hồn, tình cảm trong sáng, lành mạnh, góp phần xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội”(7). Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 22-10-2018, của Bộ Chính trị, về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới” khẳng định: “Đổi mới nội dung, phương pháp, đa dạng hóa hình thức, coi trọng hiệu quả, trên tinh thần chủ động, cảnh giác, thường xuyên, kiên trì, kiên quyết, đồng thời có trọng tâm, trọng điểm”.
Thực hiện quan điểm trên, đối với lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, cấp ủy, chỉ huy, chính ủy, chính trị viên, cơ quan chính trị các cấp cần tiếp tục nâng cao chất lượng xây dựng môi trường văn hóa ở đơn vị cơ sở theo các mục tiêu, tiêu chuẩn đã đề ra, làm chuyển biến căn bản đời sống văn hóa, tinh thần của bộ đội. Xây dựng môi trường văn hóa phong phú, lành mạnh, là nơi nuôi dưỡng, hình thành những tập thể quân nhân phấn đấu, rèn luyện, phát huy phẩm chất tốt đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”; tiếp tục cụ thể hóa mô hình, tiêu chí “Đơn vị văn hóa” ở các loại hình đơn vị. Đồng thời, đẩy mạnh triển khai thực hiện 3 chương trình trọng điểm: văn hóa, văn học - nghệ thuật, báo chí quân đội, tạo ra nhiều tác phẩm có giá trị về tư tưởng và nghệ thuật phục vụ bộ đội và nhân dân. Các cấp cần chú ý kiện toàn, củng cố các thiết chế văn hóa, đủ sức chuyển tải các giá trị văn hóa, nghệ thuật đến cơ sở.
Đổi mới, đa dạng hóa các hình thức và phương pháp đấu tranh phản bác trên cơ sở giữ vững nguyên tắc: Chủ động tiến công và kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng, có luận cứ khoa học với các quan điểm phản động, phản khoa học, các hoạt động phá hoại tư tưởng của các thế lực thù địch. Chủ động đấu tranh trực diện với các quan điểm sai trái bằng nhiều con đường, phương thức khác nhau. Phải tiến hành đấu tranh chống các quan điểm sai trái ở từng cơ quan, đơn vị, trong mỗi tổ chức và cá nhân, coi đó là phương pháp tự bảo vệ mình, thông qua đó hình thành một mặt trận thống nhất trong toàn quân tham gia đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái, vô hiệu hóa mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch, giữ vững nền tảng tư tưởng của Đảng trong quân đội.
Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, về quyết tâm chấn hưng và xây dựng thành công một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nhất là thông tin tích cực trên mạng lưới báo chí, đài phát thanh, truyền hình, internet... Trong đó, các cơ quan báo chí quân đội tiếp tục có những hình thức tuyên truyền mới phù hợp, sát với trình độ nhận thức của từng đối tượng cụ thể; bám sát các sự kiện chính trị, vấn đề dư luận quan tâm, thường xuyên nắm chắc âm mưu, thủ đoạn hoạt động chống phá mới của các thế lực thù địch để viết bài đấu tranh, định hướng dư luận; tăng cường xây dựng các chuyên trang, chuyên mục, chương trình, thời lượng đăng tải các tin, bài đấu tranh phản bác, vạch trần tính chất phản động, phản khoa học của những quan điểm, luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch nhằm chống phá chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Phát huy vai trò của các hình thức giáo dục chính trị tại đơn vị, tuyên truyền miệng và qua đội ngũ báo cáo viên ở các cấp để phê phán các quan điểm sai trái về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, cung cấp và định hướng thông tin đúng đắn cho mỗi cán bộ, đảng viên, chiến sĩ. Đặc biệt, cần có những biện pháp quản lý chặt chẽ mạng internet, tăng cường theo dõi, kịp thời phát hiện, xử lý hiệu quả các trang mạng có nội dung phản động nhằm ngăn chặn nguồn tuyên truyền, phát tán những tư tưởng, quan điểm sai trái, thù địch; kết hợp với tăng cường mở mới, đa dạng các trang mạng, báo chí có nội dung đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong quân đội, trong đó có nội dung về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; không để lộ, lọt thông tin theo quy định của Nhà nước và quân đội, qua đó từng bước làm chủ thế trận tiến công trên mạng internet.
Trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực và trong nước hiện nay, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh: “Và điều hết sức quan trọng là phải luôn kiên định và vững vàng trên nền tảng tư tưởng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin - học thuyết khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân và quần chúng lao động...”, “Chúng ta cần tiếp thu, bổ sung một cách có chọn lọc trên tinh thần phê phán và sáng tạo những thành tựu mới nhất về tư tưởng và khoa học để chủ nghĩa, học thuyết của chúng ta luôn luôn tươi mới, luôn luôn được tiếp thêm sinh lực mới, mang hơi thở của thời đại, không rơi vào xơ cứng, trì trệ, lạc hậu so với cuộc sống”(8). Quán triệt và thực hiện tư tưởng trên, các học viện, nhà trường quân đội cần tăng cường nghiên cứu, quán triệt sâu sắc và vận dụng sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam vào hoạt động giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ các cấp và nghiên cứu khoa học. Từng cấp căn cứ vào tình hình cụ thể mà quy định nội dung, hình thức, phương pháp nghiên cứu, quán triệt, học tập và vận dụng cho phù hợp với từng đối tượng người học cụ thể. Chú trọng làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn các quan điểm, đường lối của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; thảo luận dân chủ, trao đổi cởi mở, tự do tư tưởng giúp người học nâng cao nhận thức để tự mình có thể giải đáp những vướng mắc mà thực tiễn cuộc sống đặt ra đúng với quan điểm, đường lối của Đảng. Qua đó, góp phần làm cho người học hiểu và tin vào tính khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhận thức được tính tất yếu khách quan về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; hiểu và tin vào đường lối, chủ trương của Đảng, vào tương lai, tiền đồ tốt đẹp của dân tộc, vào thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước, triển vọng của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và trên thế giới.
Tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng thể hiện tư tưởng xuyên suốt, nhất quán, kiên định và sự phát triển sáng tạo, hoàn thiện tư duy lý luận, nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn, có giá trị lý luận và thực tiễn trong định hướng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc trong bối cảnh mới. Trong những năm tới, cuộc đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa trong quân đội tiếp tục diễn ra hết sức nóng bỏng, gay gắt, phức tạp và ngày càng quyết liệt... Vì vậy, trách nhiệm của các cấp ủy, người chỉ huy cơ quan, đơn vị trong quân đội trên trận tuyến này cũng sẽ ngày càng nặng nề, phức tạp hơn. Song, với bản chất, truyền thống tốt đẹp “nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”; với bản lĩnh chính trị đã được trau dồi, hun đúc vững vàng qua gần 80 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, quân đội nhất định sẽ làm tròn trọng trách của mình, xứng đáng là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu tuyệt đối trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân, góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới./.
----------------------------------
(1) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr. 28
(2), (3), (4), (5), (6), (7), (8) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 157, 27 - 28, 169, 172, 175 - 176, 173, 37 - 38