Đấu tranh phản bác luận điệu lợi dụng vấn đề “quyền của người bản địa” kích động “ly khai, tự trị” dân tộc
TCCS - Thời gian qua, các thế lực thù địch triệt để lợi dụng vấn đề “quyền của người bản địa”(1) bằng nhiều luận điệu để tuyên truyền kích động đồng bào các dân tộc thiểu số ở Việt Nam đòi quyền “tự trị”, hướng đến “ly khai” (?!). Những luận điệu tinh vi và nguy hiểm này cần được nhận diện rõ nhằm kiên quyết đấu tranh phản bác, góp phần bảo vệ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, bảo vệ sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.
Nhận diện âm mưu, thủ đoạn đánh tráo khái niệm “quyền dân tộc tự quyết” và “quyền của người bản địa”
Khái niệm “quyền dân tộc tự quyết” và “quyền của người bản địa” tuy có quan hệ nhưng rất khác nhau về nội hàm, đặc biệt là ý nghĩa chính trị. Trên bình diện quốc tế, “quyền dân tộc tự quyết” là việc một quốc gia - dân tộc có quyền tự chủ đối với vận mệnh của dân tộc mình, quyền quyết định về thể chế chính trị và con đường phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội...
Trong khi đó, “quyền của người bản địa” là quyền của các dân tộc thiểu số (DTTS) hoặc nhóm sắc tộc, chủ yếu là những quyền về văn hóa - xã hội của một bộ phận dân cư trong lòng một quốc gia - dân tộc có chủ quyền. Khái niệm quyền của người DTTS được chính thức ghi nhận tại Điều 27 của Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR 1966): “Ở những quốc gia tồn tại các nhóm thiểu số về sắc tộc, tôn giáo hoặc ngôn ngữ, những người thuộc các nhóm thiểu số đó sẽ không bị từ chối quyền, trong cộng đồng với các thành viên khác trong nhóm của họ, được hưởng nền văn hóa của họ, tuyên xưng và thực hành tôn giáo của họ, hoặc sử dụng ngôn ngữ riêng của họ”(2). Như vậy, khi nói đến “quyền của người bản địa” thì chủ yếu là những quyền thuộc nhóm quyền kinh tế, văn hóa - xã hội.
Pháp luật quốc tế không công nhận một DTTS ở một quốc gia được ly khai, thành lập một quốc gia độc lập với quốc gia được quốc tế công nhận mà họ là công dân trong quốc gia đó. Tuyên bố về trao trả độc lập cho các nước và các dân tộc thuộc địa, được thông qua theo Nghị quyết số 1514 (XV), ngày 1-4-1960, của Đại Hội đồng Liên hợp quốc khẳng định: Bất kỳ cố gắng nào nhằm gây phá vỡ toàn bộ hay một phần sự thống nhất quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ của một đất nước là trái với các mục tiêu và nguyên tắc của Hiến chương Liên hợp quốc. Tại Điều 46, Tuyên ngôn về quyền của các dân tộc bản địa (năm 2007) cũng ghi rõ: Không một điểm nào trong Tuyên ngôn này được giải thích để hàm ý cho bất kỳ nhà nước, dân tộc, nhóm người hay người nào có quyền tham gia vào bất kỳ hoạt động nào hoặc thực hiện bất kỳ hành vi nào trái với Hiến chương Liên hợp quốc hoặc được giải thích để ủy quyền hay khuyến khích bất kỳ hành vi nào làm chia cắt hay suy yếu toàn bộ hay một phần sự thống nhất về lãnh thổ hay đoàn kết về chính trị của các nhà nước độc lập và có chủ quyền.
Như vậy, “quyền tự quyết” của dân tộc, sắc tộc nào đó trong một quốc gia - dân tộc có chủ quyền không được phép vượt ra ngoài khuôn khổ “quyền dân tộc tự quyết”, không được xâm phạm quyền của cả quốc gia - dân tộc. Những đòi hỏi về “quyền tự quyết” được cho là dựa trên Tuyên ngôn về quyền của các dân tộc bản địa là cách hiểu sai lệch, trái với Hiến chương Liên hợp quốc và pháp luật quốc tế về quyền con người.
Thuật ngữ “dân tộc bản địa” xuất hiện cùng với quá trình tìm kiếm thị trường, truyền bá tôn giáo và xâm lược thuộc địa từ khoảng thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX của các nước tư bản châu Âu đối với các quốc gia ở châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ La-tinh. Theo đó, những người đã sinh sống lâu đời trên vùng đất bị xâm chiếm - họ coi mình là “người bản địa”. Trong lịch sử hình thành các quốc gia - dân tộc, nhất là sau mỗi cuộc chiến tranh xâm lược, quá trình di dân từ “chính quốc” đến thuộc địa đã hình thành những quốc gia - dân tộc mới. Ngay từ khi mới hình thành, ở các quốc gia này vẫn luôn tồn tại hai nhóm xã hội: Nhóm người di cư và nhóm người bản xứ. Những nhóm xã hội này thường vẫn muốn duy trì phong tục, tập quán, ngôn ngữ, lối sống riêng của mình. Ở những quốc gia này, khái niệm “người bản địa” vẫn tồn tại và có ý nghĩa nhất định. Tuy nhiên, cho đến nay, vẫn chưa có một khái niệm “người bản địa” được mọi người thống nhất và thừa nhận. Vì vậy, hiện nay, nhiều chủ thể (quốc gia, tộc người, nhóm xã hội) buộc phải thừa nhận “người bản địa” là một khái niệm “mở”, theo nghĩa: Một nhóm xã hội, một dân tộc nào đó có thể tự nhận hoặc phủ nhận mình là “người bản địa” nếu quan niệm đó phù hợp với lợi ích của họ. Mặt khác, một nhà nước, một chính phủ hoàn toàn có quyền thừa nhận hoặc phủ nhận một nhóm, một bộ phận dân cư, một dân tộc, sắc tộc nào đó là “người bản địa”, nếu điều ấy phù hợp với lợi ích của quốc gia - dân tộc họ.
Ở Việt Nam, thuật ngữ “dân tộc bản địa” gắn liền với thời kỳ nước ta bị đô hộ, xâm lược. Thời kỳ Pháp thuộc, tên nước Việt Nam bị xóa trên bản đồ thế giới, bị chia cắt thành ba kỳ trong xứ Đông Dương thuộc Pháp; thuật ngữ “người bản xứ” (hoặc “người bản địa”) được dùng để chỉ tất cả các cộng đồng dân tộc Việt Nam. Khi ấy, tất cả người dân nước ta không phân biệt dân tộc, tôn giáo đều bị gọi tên An-nam-mít (Annammit). Như vậy là, khái niệm “người bản địa” chỉ mới xuất hiện ở Việt Nam từ khi nước ta trở thành thuộc địa của chủ nghĩa thực dân và nó chỉ tồn tại với chế độ đó(3). Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, người dân Việt Nam làm chủ đất nước của mình, không còn là “dân bản địa” hay “người bản xứ” nữa. “Ngày nay, khi đất nước độc lập, thống nhất, Nhà nước Việt Nam là của dân, do dân, vì dân với chính sách đại đoàn kết dân tộc, thì khái niệm “người bản địa” và “quyền của người bản địa” đã lùi về quá khứ. Thay vào đó là “quyền công dân” - quyền của tất cả mọi người Việt Nam”(4). Năm 1946, Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Điều 6) khẳng định: Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa. Đây là sự thật lịch sử không ai có thể bác bỏ!
Để “chứng minh bằng thực tiễn” cái gọi là “quyền tự trị của người bản địa” nhằm kích động “ly khai”, đòi “tự trị” dân tộc, các đối tượng còn cho rằng trong lịch sử Việt Nam, chính quyền đương đại đã từng thừa nhận “quyền” này và cho thành lập các “khu tự trị”, như “Hoàng triều cương thổ” hay Khu Tự trị Việt Bắc.
Trước hết, phải nhận thức rằng, không thể đặt ra so sánh giữa cái gọi là “Hoàng triều cương thổ” và Khu tự trị Việt Bắc, bởi bối cảnh ra đời, ý nghĩa và “sứ mạng” lịch sử, chính trị, xã hội của những thể chế, đơn vị hành chính này khác nhau. Tuy nhiên, có điểm chung là các thể chế đó chỉ hiện diện ở giai đoạn nhất định và quan trọng hơn, mặc dù có “cơ chế tự trị” nhưng chính quyền trung ương lúc bấy giờ luôn có các quy định để kiểm soát, quản lý chặt chẽ. Sau khi thực dân Pháp thất bại tại Việt Nam, ngày 10-8-1954, quy chế “Hoàng triều cương thổ” bị xóa bỏ. Do đó, “Hoàng triều cương thổ là chính sách “một quốc gia trong lòng một quốc gia” - một âm mưu chính trị thâm độc mới của chủ nghĩa thực dân Pháp tại Tây Nguyên, nhằm chia rẽ, gây tị hiềm lâu dài giữa dân tộc Kinh với các DTTS khác, ngăn cản đồng bào các dân tộc Việt Nam chung tay xây dựng đất nước, ngăn chặn việc người Kinh lên Tây Nguyên sinh cơ lập nghiệp. Chính sách trên đã gặp phải sự chống đối quyết liệt của nhân dân Việt Nam bởi nó đi ngược lại ý nguyện thống nhất của toàn dân tộc”(5).
Đối với Khu tự trị Việt Bắc, ngày 1-7-1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 268-SL thành lập Khu tự trị Việt Bắc. Điều 1 Sắc lệnh nêu rõ: “Để tăng cường đoàn kết giữa các dân tộc và tạo điều kiện cho các dân tộc ở Việt Bắc tiến bộ mau chóng về mọi mặt, nay lập Khu tự trị Việt Bắc”(6). Tiếp đó, ngày 10-8-1956, Bác Hồ gửi thư căn dặn đồng bào Khu tự trị Việt Bắc và một lần nữa khẳng định: “Mục đích lập Khu tự trị là để làm cho các dân tộc anh em toàn khu cùng nhau tự quản lý công việc của mình, phát huy khả năng của mình, tiến bộ mau chóng về mọi mặt: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội...”(7). Trong Quy định thành lập, Khu tự trị Việt Bắc được thực hiện một số quyền tự trị về chính trị, quân sự, kinh tế, tài chính, văn hóa, xã hội. Tuy nhiên, những đặc quyền này luôn có sự ràng buộc bởi các quy định mang tính nguyên tắc, như: “Khu tự trị Việt Bắc là một bộ phận của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Chính quyền Khu tự trị là một cấp chính quyền địa phương, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Chính phủ trung ương. Chính quyền và nhân dân Khu tự trị đều tuân theo đường lối, chính sách và pháp luật chung của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mà quản lý những việc trong Khu tự trị” (Điều 3). Về quyền tự trị chính trị: “Chính quyền Khu tự trị được quyền quy định những luật lệ riêng”, nhưng phải “Dựa trên luật pháp chung của Nhà nước và căn cứ vào tình hình đặc biệt ở địa phương”, đồng thời “Những luật lệ riêng này sau khi được Chính phủ Trung ương chuẩn y mới thi hành” (Điều 8). Hay về quân sự: “Chính quyền Khu tự trị được tổ chức bộ đội địa phương, dân quân và công an Khu tự trị, để bảo vệ an toàn của Khu tự trị và giữ gìn trật tự trong Khu”; tuy nhiên, “Bộ đội địa phương và dân quân trong Khu tự trị là những bộ phận trong quân đội nhân dân Việt Nam, thuộc quyền chỉ huy tối cao của Bộ Quốc phòng Tổng Tư lệnh. Công an Khu tự trị là một bộ phận trong tổ chức công an toàn quốc thuộc quyền chỉ đạo chung của Bộ Công an” (Điều 9). Sau giải phóng miền Nam, đất nước thống nhất, ngày 27-12-1975, Khu tự trị Việt Bắc giải thể (cùng với Khu tự trị Tây Bắc); đồng thời, những quy định trong Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1959 về cấp khu tự trị cũng được bãi bỏ theo Quyết định của Quốc hội khóa V, tại Kỳ họp thứ 2.
Như vậy, lịch sử đã chứng minh, ở Việt Nam, xu hướng chủ đạo, hợp quy luật là hòa hợp, thống nhất dân tộc; đoàn kết, tương trợ nhau giữa các dân tộc là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Sự hình thành, tồn tại, thống nhất và phát triển của quốc gia gắn liền với sự tồn tại và phát triển trong sự đa dạng và phong phú của các dân tộc. Và thực tế lịch sử này một lần nữa khẳng định: Không thể có nhân quyền cao hơn chủ quyền quốc gia! “Quyền tự quyết” của dân tộc, sắc tộc nào đó trong một quốc gia - dân tộc có chủ quyền không được phép vượt ra ngoài khuôn khổ “quyền dân tộc tự quyết”!
Đấu tranh làm thất bại âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng khẳng định quan điểm nhất quán về vấn đề dân tộc: “Bảo đảm các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển...”(8) và để thực hiện hiệu quả chính sách dân tộc, Đảng ta xác định: “Huy động, phân bổ, sử dụng, quản lý hiệu quả các nguồn lực để đầu tư phát triển, tạo chuyển biến căn bản về kinh tế, văn hóa, xã hội ở vùng có đông đồng bào DTTS. Có cơ chế thúc đẩy tính tích cực, ý chí tự lực, tự cường của đồng bào các DTTS phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện giảm nghèo đa chiều, bền vững. Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, người có uy tín tiêu biểu trong vùng DTTS. Nghiêm trị mọi âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc”(9).
Với quan điểm đó, việc thực hiện chính sách dân tộc đã đạt được thành tựu nổi bật, đem lại những hiệu quả tích cực về đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các DTTS ở nước ta. Từ năm 2003 đến năm 2020, Nhà nước đã tập trung bố trí đầu tư, hỗ trợ kinh phí nhằm phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi, với tổng kinh phí theo các giai đoạn ngày càng tăng (gấp 4 lần: từ 250.000 tỷ đồng, năm 2003 lên 998.000 tỷ đồng, năm 2020), ưu tiên lĩnh vực kinh tế và đầu tư xây dựng cơ bản. Theo đó, đến nay, 100% số huyện có đường đến trung tâm huyện; 98,4% số xã có đường ô tô đến trung tâm xã; 100% số xã và 97,2% số thôn, bản có điện lưới quốc gia; 93,9% số hộ gia đình được sử dụng điện; 100% số xã có trường tiểu học và trung học cơ sở; 99,7% số xã có trường mầm non; 99,3% số xã có trạm y tế; 65,8% số xã và 76,7% số thôn có nhà văn hóa/nhà sinh hoạt cộng đồng(10). Báo cáo Kết quả thực hiện công tác dân tộc năm 2023 cũng cho thấy, tỷ lệ hộ nghèo DTTS còn khoảng 17,82% (giảm 3,2%), đạt chỉ tiêu Quốc hội, Chính phủ giao(11).
Bên cạnh đó, đồng bào các DTTS thực hiện quyền dân chủ trong việc tham gia hệ thống chính quyền các cấp từ Trung ương đến cơ sở ngày càng tăng. Đến hết năm 2019, có 605.582 đảng viên là người DTTS, chiếm 11,98% tổng số đảng viên cả nước. Kết quả bầu nhân sự cấp ủy tại 67 đảng bộ trực thuộc Trung ương nhiệm kỳ 2020 - 2025, có 389 người DTTS là cấp ủy viên (đạt 11,68%, cao hơn nhiệm kỳ trước 0,72%). Tại Đại hội XIII của Đảng, có 13 Ủy viên Trung ương là người DTTS(12). Số lượng đại biểu Quốc hội là người DTTS trong 4 nhiệm kỳ Quốc hội vừa qua đều tăng, Quốc hội khóa XV (2021 - 2026) có 89 đại biểu là người DTTS (chiếm 17,83%, cao hơn tỷ lệ người DTTS trên tổng số dân là 14,35%). Cả nước hiện có 68.781 biên chế là người DTTS (chiếm 11,68% tổng biên chế toàn quốc); công chức, viên chức người DTTS được ưu tiên trong quy hoạch, tuyển dụng, sử dụng và bổ nhiệm vào hệ thống cơ quan nhà nước(13).
Những thành tựu này là minh chứng sống động cho tính đúng đắn, hiệu quả về quan điểm, chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước ta và không ai có thể phủ nhận. Chính vì vậy, thời gian qua, mặc dù đời sống của đồng bào các DTTS vẫn còn khó khăn, nhưng đại đa số đồng bào các DTTS luôn đoàn kết một lòng, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, phát huy truyền thống yêu nước, tích cực tham gia các phong trào cách mạng, bảo vệ an ninh, trật tự. Thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân và thế trận lòng dân được củng cố, tăng cường, góp phần ổn định, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS.
Để đấu tranh với âm mưu, hoạt động lợi dụng vấn đề dân tộc cũng như phản bác luận điệu lợi dụng vấn đề “quyền của người bản địa” để kích động “ly khai”, “tự trị”, thời gian tới, cần chú trọng một số nhiệm vụ trọng tâm sau:
Một là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo và nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng về công tác dân tộc, nhất là ở vùng đồng bào DTTS trong tình hình mới. Xác định công tác dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài, cấp bách; là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của hệ thống chính trị.
Hai là, đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước đến mọi cán bộ, đảng viên và người dân, đặc biệt là đồng bào DTTS. Quá trình tuyên truyền, giáo dục cần lồng ghép nội dung phản bác các luận điệu lợi dụng, xuyên tạc vấn đề “quyền của người bản địa” giúp đồng bào hiểu rõ bản chất. Chú trọng kiện toàn, củng cố hệ thống chính trị cơ sở; làm tốt công tác quy hoạch, đào tạo, sử dụng, bố trí hợp lý cơ cấu cán bộ DTTS vào các chức danh chủ chốt; phát huy vai trò người có uy tín trong đồng bào DTTS; phân công cán bộ có hiểu biết về phong tục, tập quán, tiếng nói, chữ viết của đồng bào về công tác ở vùng DTTS.
Ba là, phát huy mọi nguồn lực, khai thác tiềm năng, lợi thế để phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS một cách bền vững. Tập trung giải quyết hiệu quả những vấn đề bức thiết về đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào. Rà soát, sửa đổi, bổ sung chính sách; nâng cao hiệu quả các chương trình, dự án; tăng cường hợp tác quốc tế, đa dạng hóa và xã hội hóa nguồn lực để đầu tư phát triển vùng đồng bào DTTS; thúc đẩy đào tạo nghề, tạo việc làm, có chính sách ưu đãi đối với các dự án phát triển sản xuất, kinh doanh của đồng bào DTTS.
Bốn là, quan tâm xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân gắn với thế trận lòng dân vững chắc ở vùng đồng bào DTTS; chủ động nắm chắc tình hình, giải quyết mâu thuẫn ngay từ cơ sở, không để xảy ra các “điểm nóng” về an ninh, trật tự, đặc biệt ở các địa bàn trọng điểm, khu vực biên giới.
Năm là, tích cực đấu tranh ngoại giao trên lĩnh vực dân chủ, nhân quyền, nhất là các vấn đề liên quan đến dân tộc, tôn giáo. Chủ động truyền thông để dư luận quốc tế hiểu rõ các thành tựu bảo đảm quyền con người của Việt Nam. Tiếp tục thúc đẩy cải cách tư pháp, củng cố thể chế, chính sách, pháp luật về quyền con người phù hợp với các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên./.
-------------------
(1) Vấn đề được nêu trong Nghị quyết số 61/295 về “Tuyên ngôn về quyền của các dân tộc bản địa” của Đại Hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 13-9-2007 (Nghị quyết 61/295)
(2) Các văn kiện quốc tế cơ bản về quyền con người, Hà Nội, 2003
(3), (4) Xem: Bắc Hà: Bối cảnh lịch sử “Quyền của người bản địa” không tồn tại ở Việt Nam, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 28-10-2008, https://tapchicongsan.org.vn/en_US/hoat-ong-cua-lanh-ao-ang-nha-nuoc/-/2018/3649/boi-canh-lich-su-%E2%80%9Cquyen-cua-nguoi-ban-dia%E2%80%9D-khong-ton-tai-o-viet-nam.aspx
(5) Xem: Ngô Minh Hiệp: Về “Hoàng triều cương thổ” (Domaine de la Couronne) ở Tây Nguyên, https://xhnv.duytan.edu.vn/activities-4gow4/ve-hoang-trieu-cuong-tho-domaine-de-la-couron-9ba3u
(6) Sắc lệnh số 268-SL, ngày 1-7-1956, của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, về thành lập Khu tự trị Việt Bắc, https://moj.gov.vn/vbpq/lists/vn%20bn%20php%20lut/view_detail.aspx?itemid=1063
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Thư gửi đồng bào khu tự trị Việt Bắc ngày 10-8-1956, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 8, tr. 230
(8), (9) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t .I, tr. 170 - 171
(10) Xem: Kết luận số 65-KL/TW ngày 30-10-2019 về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác dân tộc trong tình hình mới, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/he-thong-van-ban/van-ban-cua-dang/ket-luan-so-65-kltw-ngay-30102019-cua-bo-chinh-tri-ve-tiep-tuc-thuc-hien-nghi-quyet-so-24-nqtw-cua-ban-chap-hanh-trung-uong-5802
(11) Ủy ban Dân tộc: Hội nghị toàn quốc Tổng kết công tác dân tộc năm 2023 và triển khai nhiệm vụ năm 2024, Cổng thông tin Ủy ban Dân tộc, ngày 2-1-2024, http://www.cema.gov.vn/tin-tuc/tin-hoat-dong/hoat-dong-cua-uy-ban/hoi-nghi-toan-quoc-tong-ket-cong-tac-dan-toc-nam-2023-va-trien-khai-nhiem-vu-nam-2024.htm
(12) Xem http://www.hanoimoi.com.vn/tin-tuc/Chinh-tri/982524/27-bi-thu-tinh-thanh-uy-khong-phai-nguoi-dia-phuong
(13) Truyền hình Việt Nam online, Việt Nam: Những thành tựu trên hành trình bình đẳng dân tộc, bài đăng ngày 1-9-2022
Nhận diện và đấu tranh với một số học thuyết phi mác-xít kiểu mới hòng phê phán, phủ nhận chủ nghĩa Mác (kỳ 2 và hết) (22/12/2024)
Nhận diện và đấu tranh với một số học thuyết phi mác-xít kiểu mới hòng phê phán, phủ nhận chủ nghĩa Mác (kỳ 1) (16/12/2024)
Nhận diện và đấu tranh với một số học thuyết phi mác-xít kiểu mới hòng phê phán, phủ nhận chủ nghĩa Mác (kỳ 2 và hết)
Lý thuyết xã hội dân sự của phương Tây
Thuật ngữ “Xã hội dân sự” hay “Xã hội công dân” (civil society) xuất hiện từ thế kỷ XVI gắn liền với những tiền đề ra đời của chủ nghĩa tư bản. Vào thế kỷ XVII, XVIII, giai cấp tư sản châu Âu giương cao khẩu hiệu tự do, dân chủ, nhân quyền để tập hợp lực lượng, trong đó có sử dụng các tổ chức xã hội dân sự, tiến hành cuộc cách mạng lật đổ chế độ quân chủ chuyên chế, giải phóng cá nhân, khẳng định quyền con người với tư cách là công dân. Các cuộc cách mạng tư sản ở châu Âu đã cho ra đời xã hội công dân, nhà nước pháp quyền tư sản thay thế cho xã hội thần dân và nhà nước thần quyền phong kiến. Thế nhưng, sau khi nắm chính quyền, giai cấp tư sản nhanh chóng phản bội lại chính các lý tưởng về tự do, dân chủ, bình đẳng, bác ái để thiết lập nên các chế độ chuyên chế, thực hiện chính sách nô dịch, bóc lột trong nước và chính sách xâm lược, áp bức dân tộc đối với các quốc gia khác. Ngay từ sớm, từ trong lòng xã hội tư bản, nơi ra đời và là môi sinh của xã hội dân sự, thì khái niệm này đã ít nhiều bị giai cấp tư sản cầm quyền làm biến dạng so với nguyên nghĩa ban đầu của nó, không còn là một bộ phận vì sự tiến bộ của xã hội với đầy đủ ý nghĩa, mà nhiều dạng thức xã hội dân sự bị lợi dụng thành công cụ chính trị đắc lực để điều hòa các mâu thuẫn xã hội trong xã hội tư bản. Đáng chú ý là, sự ra đời của học thuyết Mác đã vấp phải sự chống trả quyết liệt, với sự xuất hiện của nhiều trào lưu tư tưởng phi mác-xít về xã hội dân sự, như các học thuyết tân cánh tả, tân tự do, chủ nghĩa cải lương, cơ hội, xét lại, siêu hình..., hình thành lý thuyết (học thuyết) về xã hội dân sự (civil society theory) tư sản, trong đó sự chống phá tập trung vào:
Một là, tuyệt đối hóa sự độc lập của xã hội dân sự với nhà nước.
Mục đích của sự tách biệt này là muốn chặt đứt mọi mối liên hệ giữa xã hội dân sự với xã hội chính trị, để biện hộ cho lý thuyết về một xã hội dân sự không chỉ nằm ngoài xã hội chính trị, mà còn độc lập hoàn toàn, không chịu bất kỳ sự ràng buộc hay mối liên hệ nào với các đảng phái, nhà nước; hơn thế, nó còn là lực lượng đối trọng, đối lập với nhà nước. Luận điệu này đã cố tình phủ định mối quan hệ biện chứng và phong phú giữa nhà nước và xã hội dân sự, cũng là cách khiến nhiều người lầm tưởng vào một mô hình xã hội dân sự hiện thân của tự do, dân chủ tuyệt đối, cũng là giá trị về tự do của xã hội tư bản. Lý thuyết này tự vạch ra ranh giới giữa nhà nước với xã hội dân sự, giữa “công” và “tư”, giữa “chính trị” và “phi chính trị”, trong đó xã hội dân sự được đề cao tuyệt đối hóa, một xã hội đa nguyên về tổ chức, đa nguyên về ý thức hệ và nhà nước hiện nay phải giảm bớt can thiệp vào đời sống xã hội, xã hội phải tự túc, tự quản. Nó cổ xúy cho thứ “xã hội dân sự” chống nhà nước, đối trọng với chính quyền, hòng làm xói mòn quyền lực nhà nước, có thể đẩy xã hội đến tình trạng hỗn loạn, vô chính phủ.
Sự thật là, trong các hình thái kinh tế - xã hội còn sự phân chia giai cấp và đấu tranh giai cấp, thì tất yếu các định chế xã hội, trong đó có xã hội dân sự, luôn mang bản chất giai cấp và giữ mối liên hệ với nhà nước. Trong tác phẩm “Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hê-ghen”, C. Mác phê phán Hê-ghen về tư tưởng siêu hình khi cho rằng mối quan hệ giữa xã hội công dân và nhà nước là “...được sản sinh ra từ ý niệm hiện thực”(1), chỉ “là vẻ bề ngoài thuần túy”(2); cũng như quan niệm về sự độc lập, tách rời và xung đột của xã hội công dân đối với nhà nước. “Hê-ghen xuất phát từ tiền đề là sự tách rời của xã hội công dân với nhà nước chính trị (trong trạng thái hiện đại)... Ông đem tính phổ biến tồn tại tự nó và cho nó của nhà nước, đối lập với những lợi ích đặc thù và những nhu cầu đặc thù của xã hội công dân. Tóm lại, bất cứ ở đâu ông cũng mô tả sự xung đột giữa xã hội công dân và nhà nước”(3).
Theo C. Mác, xã hội công dân và nhà nước có mối quan hệ biện chứng với nhau, xã hội công dân là cơ sở nền tảng và quyết định nhà nước, trong khi nhà nước là đại diện cho lợi ích của xã hội công dân. C. Mác khẳng định, xã hội công dân là tiền đề của nhà nước: “Trên thực tế, gia đình và xã hội công dân là những tiền đề của nhà nước...”(4); hơn thế, “gia đình và xã hội công dân tự chúng cấu thành nhà nước”(5). Sự mâu thuẫn giữa xã hội công dân và nhà nước nếu có, thì đó là sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập trong mối quan hệ biện chứng chặt chẽ.
Bên cạnh đó, C. Mác cũng thừa nhận tính độc lập tương đối giữa nhà nước và xã hội công dân, đó là tính độc lập giữa một bên là lĩnh vực chính trị và bên kia là quan hệ kinh tế. Mặt khác, xã hội công dân có nền tảng là các hoạt động xã hội; các can dự đều nhằm phục vụ cho các hoạt động xã hội, không thuần túy hoạt động chính trị hoặc không hoạt động chính trị nhằm mục đích giành chính quyền. “Không có mục đích giành chính quyền” là đặc trưng cơ bản để phân biệt giữa tổ chức xã hội công dân với các đảng chính trị. Khi các tổ chức xã hội công dân trong quá trình hoạt động có mục đích cạnh tranh với quyền lực của nhà nước thì đồng nghĩa nó đã chuyển hóa thành các đảng chính trị và thuộc khu vực xã hội chính trị, tức không còn được coi là tổ chức xã hội công dân. Khi xã hội công dân thuần túy tham gia chính trị, thì theo C. Mác, xã hội công dân sẽ “tự xóa bỏ bản thân”: “...xã hội công dân sẽ tự xóa bỏ bản thân, nếu như mọi người đều trở thành những nhà lập pháp...”(6) và “sự tham gia của xã hội công dân vào nhà nước chính trị thông qua các đại biểu, chính là biểu hiện của sự tách rời của chúng và của sự thống nhất chỉ có tính chất nhị nguyên của chúng”(7).
Như vậy, luận điểm đúng đắn theo quan điểm mác-xít về một xã hội công dân đã phủ định luận điệu phi nhà nước của lý thuyết xã hội dân sự của phương Tây, cố tình vạch ra ranh giới bất khả xâm phạm vô lý giữa xã hội dân sự với nhà nước; đồng thời, cũng lật tẩy cái cách mà hiện nay, nhiều tổ chức xã hội dân sự phương Tây (hoặc thúc đẩy, o bế các tổ chức xã hội dân sự trá hình trong mỗi nước) tự cho phép mình can dự vào đời sống chính trị tại nhiều quốc gia với âm mưu thúc đẩy bạo loạn, lật đổ để giành chính quyền, tham gia trực tiếp vào đời sống chính trị, vi phạm đặc trưng cơ bản của xã hội dân sự, như C. Mác khẳng định: “...xã hội công dân là xã hội phi chính trị”(8).
Hai là, mặc nhiên biến xã hội dân sự vốn là bộ phận phức hợp của đời sống xã hội dung chứa nhiều quan hệ xã hội, nhiều giai cấp, tầng lớp và nhiều định chế xã hội khác nhau thành một tập hợp người đồng dạng, đồng quan điểm, bình đẳng và phi giai cấp.
Việc “lập lờ đánh lận con đen” và khuếch trương về một xã hội dân sự tư sản như một khối người đồng dạng, thống nhất, được cấu thành bởi những yếu tố đồng nhất, phi giai cấp, phi xung đột lợi ích là một cách cố tình đơn giản hóa về xã hội dân sự, qua đó hòng nhân rộng mô hình xã hội dân sự giả hiệu, mà ở đó các tổ chức “xã hội dân sự hiền hòa” và các thành viên của nó rất dễ dàng trở thành các công cụ chính trị.
C. Mác chỉ rõ, xã hội công dân là xã hội được phân chia thành các giai cấp, “đẳng cấp”, tầng lớp khác nhau. C. Mác viết: “Giống như xã hội công dân tách khỏi xã hội chính trị, bản thân xã hội công dân cũng phân chia nội bộ nó thành đẳng cấp và địa vị xã hội, mặc dù đẳng cấp và địa vị xã hội này có những quan hệ nhất định với nhau”(9). Bản thân xã hội công dân chứa đựng trong nó nhiều mâu thuẫn, trước hết, đó là mâu thuẫn giữa các giai cấp, tầng lớp hay các đẳng cấp khác nhau trong xã hội; là môi trường của các cuộc đấu tranh giai cấp trên mọi phương diện từ chính trị, kinh tế, đến tư tưởng, văn hóa... Về bản chất, xã hội công dân là khu vực dung chứa nhiều tổ chức, cá nhân đa lợi ích, đa thành phần xã hội, với những mối quan hệ và liên kết mềm tự nguyện, tự quản, tính thống nhất, đồng thuận không cao. “Xã hội công dân là xã hội... chỉ nhất thời tập hợp lại để hoàn thành một hành động đơn nhất và tạm thời, rồi sau đó không có thêm một mối liên hệ nào với nhau nữa”(10). Trong nội bộ mỗi tổ chức xã hội công dân luôn xảy ra xung đột và đấu tranh lợi ích, là khu vực không thuần nhất và thiếu tính nhất quán, bởi “cạnh tranh là biểu hiện đầy đủ nhất của cuộc chiến tranh của mọi người chống mọi người đang hoành hành trong xã hội công dân hiện đại”(11); cơ cấu tổ chức và các thành viên hợp nhất hay ly tan bất cứ khi nào, vì “mối liên hệ duy nhất thống nhất họ lại là sự cần thiết tự nhiên, là nhu cầu và lợi ích riêng, là việc duy trì sở hữu của mình và cá nhân vị kỷ của mình”(12). Do tính chất đa dạng, phức tạp và lỏng lẻo này mà các lực lượng, phe phái, đảng phái chính trị luôn tìm cách chi phối, vận động, chia tách, lôi kéo lực lượng xã hội dân sự đi theo mục tiêu chính trị của mình trong cuộc đấu tranh giành quyền lực và các nước phương Tây cũng triệt để lợi dụng đặc điểm trên để mua chuộc, lợi dụng, tạo dựng “ngọn cờ” để chống phá các nước khác về ý thức hệ, thể chế chính trị.
Đặc biệt, do mang tính đa dạng về lợi ích, thành phần, nên xã hội dân sự kiểu phương Tây cũng mang tính đa dạng, đa nguyên về tư tưởng. Đặc trưng này phản ánh tính chất phức tạp về tư tưởng, văn hóa trong đời sống xã hội dân sự. Do đó, sự hình thành của xã hội dân sự còn chứa đựng nguy cơ xuất hiện, hình thành hoặc du nhập những khuynh hướng tư tưởng chính trị khác với tư tưởng chính trị đang giữ vai trò chủ đạo của đảng cầm quyền, dẫn tới nguy cơ đa nguyên về tư tưởng, là tiền đề dẫn đến đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập.
Mặt khác, luận điểm cho rằng xã hội dân sự là một tập hợp người đồng dạng, đồng quan điểm, bình đẳng và phi giai cấp cũng nhằm che giấu những mâu thuẫn thuộc về bản chất trong xã hội tư bản. Đây chính là mâu thuẫn cơ bản của xã hội dân sự tư sản mà nó không thể tự giải quyết được và căn cứ vào đó, C. Mác dự báo xã hội dân sự tư sản sẽ không thể tiếp tục tồn tại và tất yếu bị thay thế bằng một xã hội công dân khác.
Ba là, truyền bá, áp đặt xã hội dân sự theo mô hình dân chủ tư sản phương Tây.
Hiện nay, trong chế độ tư bản chủ nghĩa hiện đại, mô hình nhà nước pháp quyền tư sản - kinh tế thị trường tư bản - xã hội dân sự được coi là “ba trụ cột” phát triển, trong đó khu vực xã hội dân sự tiếp tục có vai trò nhất định trong việc bảo đảm các vấn đề xã hội và là lực lượng điều hòa, phối hợp, liên kết để giữ sự cân bằng tương đối của một xã hội tư bản còn đầy rẫy những mâu thuẫn không thể khắc phục. Tuy nhiên, mô hình xã hội dân sự tư sản thường được thổi phồng lên như là một biểu tượng cho sự trao quyền tự do cho người dân, bảo đảm phúc lợi bao trùm, khắc phục khuyết tật của nhà nước và thị trường...
Thực tế, trong chủ nghĩa tư bản, xã hội dân sự là nơi mà các cá nhân theo đuổi những lợi ích của mình dựa trên nền tảng của chế độ sở hữu tư nhân. C. Mác khẳng định: “...con người của xã hội thị dân, tức là con người độc lập chỉ liên hệ với người khác thông qua cái nút là lợi ích tư nhân...”(13). Mô hình xã hội dân sự đó không vì lợi ích của số đông quảng đại người lao động. Hơn nữa, nó bị giai cấp tư sản lợi dụng như một công cụ để thực hiện chính sách dân túy nhằm điều hòa, bình ổn tâm lý, tâm trạng xã hội và củng cố địa vị chính trị. Không quá khi C. Mác cho rằng, nhà nước tư bản được xây dựng chính trên sự nô dịch xã hội dân sự tư sản: “Bởi vì tình trạng phân tán này, tình trạng bỉ ổi này, ách nô lệ của xã hội công dân này là cái cơ sở tự nhiên trên đó nhà nước hiện đại được xây dựng”(14). Hơn nữa, nhà nước tư bản cũng không coi trọng xã hội dân sự như các diễn ngôn chính trị, mà nó có phần xem thường và đối xử với xã hội dân sự như một thứ đẳng cấp thấp bên dưới: “Nhà nước chính trị đối xử với xã hội công dân một cách cũng duy linh như thiên giới đối xử với hạ giới”(15). Như vậy, mô hình xã hội dân sự tư bản không phải là một hình mẫu tối ưu trong lịch sử phát triển của nhân loại. Xã hội dân sự là một hiện tượng lịch sử và nó sẽ không còn tồn tại một khi giai cấp vô sản lật đổ giai cấp tư sản.
Mặt khác, sự hình thành của xã hội dân sự luôn phụ thuộc và mang tính đặc thù của mỗi chế độ chính trị, trình độ phát triển về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa của mỗi quốc gia; không thể có một mẫu số chung cho tất thảy. Bản thân C. Mác khi nghiên cứu về xã hội công dân cũng khẳng định: “Nhà nước chính trị... chỉ có thể dung nhận sự tồn tại của xã hội công dân dưới một hình thức phù hợp với quy mô của nhà nước chính trị”(16). Bởi vậy, mọi sự áp dụng rập khuôn, máy móc tự thân hay áp đặt khiên cưỡng, theo một mô hình xã hội dân sự chung nhất, đều là phản khoa học.
Tính ưu việt trong quản lý xã hội và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, cùng những đặc điểm văn hóa, xã hội, lịch sử... đặc thù của nước ta là những cơ sở để chúng ta không có bất cứ lý do nào áp dụng mô hình xã hội dân sự kiểu dân chủ tư sản vào Việt Nam; đồng thời, Đảng, Nhà nước ta tạo mọi điều kiện để khu vực các tổ chức hội ngày càng phát triển tích cực, bảo đảm tính tự chủ, tự quản, có đóng góp to lớn vào sự phát triển của đất nước, thể hiện mạnh mẽ việc thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng mở rộng và thực chất ở nước ta. Ở Việt Nam, hoạt động của các tổ chức xã hội không coi việc thực hiện các mục tiêu xã hội là tự thân, duy nhất, mà còn cần kết hợp hài hòa và hướng đến mục tiêu củng cố, tăng cường niềm tin và sự ủng hộ của mỗi người dân, các tổ chức xã hội đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Nhà nước và các tổ chức xã hội đều nằm dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, quy tụ chung quanh Đảng, nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, cùng hướng tới mục tiêu chung xây dựng đất nước hòa bình, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa Mác mới và thuyết hội tụ
Chủ nghĩa Mác mới (neo-Marxism) là các lý thuyết xã hội, trào lưu tư tưởng hình thành trên cơ sở thừa nhận một phần hoặc phê phán, phủ nhận một số luận điểm quan trọng của chủ nghĩa Mác, đồng thời tách nhánh, sửa đổi hoặc hợp nhất với lý thuyết khác, như chủ nghĩa hiện sinh hay phân tâm học, lô-gíc học, hiện tượng học, lý luận nhận thức tiên nghiệm..., theo các cách thức, phương pháp khác nhau, áp dụng vào nhiều lĩnh vực tư tưởng và đời sống xã hội, như kinh tế, chính trị, triết học, văn hóa, con người, xã hội học, tôn giáo, nữ quyền... Các trường phái tư tưởng của chủ nghĩa Mác mới nổi bật, như: Chủ nghĩa quyết định luận kinh tế (Economic determinism), Chủ nghĩa Mác Hegel (Hegelian Marxism), Lý thuyết phê phán (Critical theory), Xã hội học kinh tế Mác mới (Neo-Marxian economic sociology), Chủ nghĩa Mác định hướng lịch sử (Historically oriented Marxism)...
Trong khi đó, thuyết hội tụ (convergence thesis) xuất hiện từ đầu thế kỷ XX, với một số đại biểu nổi bật, như P. A. Sorokin, J. K. Galbraith, J. Tinbergen..., là thuyết xã hội học tư sản cho rằng hai chế độ tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa đang phát triển theo những con đường ngày càng xích lại gần và cuối cùng sẽ hòa nhập vào nhau, hình thành nên một xã hội mới, trong đó kết hợp những đặc điểm tích cực của cả chế độ tư bản chủ nghĩa và chế độ xã hội chủ nghĩa (?!).
Nhiều học thuyết, trào lưu tư tưởng Mác mới nhân danh “cách tân” chủ nghĩa Mác, nhưng thực chất là sự cắt xén hay chiết ghép khiên cưỡng, vô nguyên tắc, làm cho chủ nghĩa Mác biến dạng, hình thành nhiều biến dị khác nhau, trong đó không ít sai lệch bản chất ban đầu của chủ nghĩa Mác chính thống. Cùng với thuyết hội tụ, những phân mảnh của các học thuyết, trào lưu tư tưởng Mác mới thể hiện đủ các sắc màu của chủ nghĩa cải lương, cơ hội, xét lại kiểu mới... đều hòng phủ nhận những nguyên lý căn bản của chủ nghĩa Mác.
Một là, phủ nhận tính tất yếu của cách mạng vô sản và khả năng thay thế chủ nghĩa tư bản bằng chủ nghĩa xã hội thông qua cách mạng bạo lực; cho rằng, chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội có thể dung hợp, gặp và hòa vào nhau để hình thành một xã hội mới (?!).
Dưới tác động của tự do hóa thương mại trên quy mô toàn cầu, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư..., nền sản xuất tư bản chủ nghĩa tạo ra một lực lượng sản xuất đồ sộ, ngày càng mở rộng, mang tính chất quốc tế hóa và có những bước nhảy vọt so với phương thức sản xuất truyền thống, với tính chất xã hội hóa ngày càng cao, từ đó mâu thuẫn ngày càng sâu sắc hơn với quan hệ sản xuất chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. “Xu thế xã hội hóa sản xuất không còn khả năng chịu đựng trong cái vỏ bọc chật hẹp của sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa”(17). Những xung đột xã hội biểu hiện của mâu thuẫn đối kháng cũng đã không thể khắc phục dù trong điều kiện chủ nghĩa tư bản phát triển cao, mà ngày càng trở nên gay gắt, khiến cho quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa phải biến đổi, từng bước tạo ra trạng thái của nền sản xuất mà C. Mác gọi là hình thức quá độ từ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa sang phương thức sản xuất tập thể và hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa tất yếu thay thế bằng hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, như một quá trình lịch sử - tự nhiên không thể đảo ngược.
Như vậy, chủ nghĩa xã hội, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, là xã hội “thoát thai” từ xã hội trước đó; triển vọng của chủ nghĩa xã hội không chỉ do chủ nghĩa xã hội hiện thực quy định, mà còn do chính quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản đã dọn đường và chuẩn bị những tiền đề kinh tế - xã hội trong lòng của nó. “Nhưng chủ nghĩa xã hội không thể được thực hiện mà không có cách mạng. Chủ nghĩa xã hội cần đến hành vi chính trị này bởi lẽ nó cần tiêu diệt và phá hủy cái cũ”(18).
Thực tiễn đã chứng minh, ngoài những điều kiện khách quan, muốn xóa bỏ hay bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa để chuyển sang chế độ xã hội chủ nghĩa tất yếu phải được thực hiện bằng một cuộc cách mạng xã hội, cụ thể là cách mạng vô sản, do chính đảng của giai cấp vô sản lãnh đạo. C. Mác từng luận chứng tường minh cho luận đề về sự không điều hòa được các mâu thuẫn giai cấp trong các xã hội có giai cấp đối kháng và việc giải quyết mâu thuẫn đó bằng cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, do giai cấp vô sản lãnh đạo. Cuộc cách mạng vô sản là hình thái cao của đấu tranh giai cấp tạo ra nền chuyên chính của giai cấp vô sản. Trong tiến trình cách mạng, “...giai cấp vô sản thiết lập sự thống trị của mình bằng cách dùng bạo lực lật đổ giai cấp tư sản”(19). Quan điểm này bác bỏ những ảo tưởng của những thứ chủ nghĩa cơ hội, giáo điều, vô chính phủ, tiểu tư sản đương thời, cũng như không ít tư tưởng Mác mới sau này, muốn sửa chữa thiếu sót của chủ nghĩa tư bản, nhưng lại dẫn chiếu đến đấu tranh bằng các biện pháp hòa bình trong khuôn khổ hạn hẹp của chế độ tư bản chủ nghĩa hay bác bỏ đấu tranh giai cấp và phổ biến tư tưởng điều hòa giai cấp, thậm chí muốn làm điều hết sức phi lý là hòa tan chủ nghĩa tư bản vào chủ nghĩa xã hội, như quan điểm của thuyết hội tụ.
Cách mạng vô sản là cuộc cách mạng triệt để và sâu sắc nhất trong lịch sử xã hội. Mục tiêu của nó là thủ tiêu chế độ tư hữu, đập tan bộ máy nhà nước tư sản, quét sạch chế độ tư bản chủ nghĩa. Đây là cuộc đấu tranh mang tính sống còn của hai hình thái kinh tế - xã hội phủ định lẫn nhau: hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa và hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Trong sự đấu tranh đó có sự kế thừa phê phán, không phủ định sạch trơn, nhưng tuyệt đối không có sự hòa lẫn. Chủ nghĩa xã hội tiếp thu những thành tựu của văn minh nhân loại, được thử nghiệm thời gian dài và thịnh hành, phát triển trong chủ nghĩa tư bản, nhưng không phải là của riêng chủ nghĩa tư bản, như nhà nước pháp quyền, kinh tế thị trường... Hai hình thái vẫn diễn ra sự tồn tại song song, nhưng nó chỉ là “cái tạm thời” trong thời kỳ quá độ, dù có thể kéo dài, dù trong hoàn cảnh, thời điểm nào đó, cái mục nát của hình thái cũ lẩn khuất bên trong cái bề ngoài tưởng như rất đồ sộ, vững chắc, nhưng tuyệt nhiên không có sự tồn tại vĩnh viễn của chủ nghĩa tư bản, lại càng không có sự gặp gỡ ở đích cuối giữa hai hình thái này... Là hai nấc thang của tiến bộ xã hội, trong tiến trình phát triển của nhân loại, sự tồn tại của hình thái kinh tế - xã hội này chính là sự phủ định của hình thái kinh tế - xã hội kia và theo quy luật lịch sử - tự nhiên, nhân loại sẽ đi đến đích cuối là hình thái kinh tế - xã hội cao nhất: cộng sản chủ nghĩa. Điều đó bác bỏ hoàn toàn tư tưởng của nhiều nhà tư tưởng Mác mới khi cho rằng chủ nghĩa tư bản không suy tàn, mà còn đang phát triển lên những giai đoạn sau (“chủ nghĩa tư bản giai đoạn sau”) cao hơn, mạnh mẽ hơn, không có cơ sở để nói về sự diệt vong của nó hay sự thay thế nó bằng một hình thức cao hơn (?!). Nó cũng bác bỏ luận thuyết của thuyết hội tụ về sự “chung sống hòa bình” để chọn lọc những đặc tính tốt nhất của mỗi hình thái kinh tế - xã hội(20), để gặp nhau ở cùng một điểm đích của một xã hội tối ưu... Đây đều là các luận thuyết hết sức nguy hiểm, ru ngủ tinh thần, triệt tiêu động lực và ý chí đấu tranh, gây nên những ngộ nhận mơ hồ về con đường, mục tiêu, dẫn đến sai lệch về phương pháp đấu tranh tư tưởng, cũng như đấu tranh trong thực tiễn phong trào cách mạng.
Mặt khác, quần chúng nhân dân tham gia cách mạng hoàn toàn có quyền sử dụng bạo lực cách mạng để trấn áp bạo lực phản cách mạng. Theo C. Mác, “bạo lực còn là bà đỡ cho mọi xã hội cũ đang thai nghén một xã hội mới; bạo lực là công cụ mà sự vận động xã hội dùng để tự mở đường cho mình và đập tan những hình thức chính trị đã hóa đá và chết cứng”(21). Tuy nhiên, bạo lực chỉ là phương tiện, công cụ, chứ không phải là mục đích của cách mạng; là điều kiện chứ không phải nguyên nhân sản sinh ra xã hội mới. Do đó, quan điểm mác-xít không phủ nhận phương pháp hòa bình của cách mạng xã hội, song phương pháp hòa bình không là sự loại trừ bạo lực cách mạng, không phải sự điều hòa, thỏa hiệp, hữu khuynh vô nguyên tắc hay chỉ sử dụng chế độ dân chủ tư sản để đấu tranh nghị trường... như nhiều nhà tư tưởng của học thuyết Mác mới quan niệm; ngược lại, khả năng tiến lên chủ nghĩa xã hội bằng phương pháp hòa bình chỉ được thực hiện khi có bạo lực cách mạng làm điều kiện. Quan điểm mác-xít cũng bác bỏ quan niệm phiến diện về bạo lực cách mạng chỉ là sức mạnh quân sự, đấu tranh vũ trang; mà nó còn là sức mạnh tổng hợp của nhiều nhân tố, phương pháp đấu tranh chính trị, kinh tế, xã hội..., trong đó đặc biệt coi trọng lực lượng chính trị của đông đảo nhân dân.
Trong tiến trình cách mạng vô sản, việc giai cấp vô sản giành được chính quyền và thiết lập chuyên chính vô sản chỉ là bước đầu và còn cần một quá trình cải biến cách mạng hết sức sâu sắc, lâu dài. Với những nước đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, cách mạng xã hội chủ nghĩa càng thể hiện rõ tinh thần của cách mạng không ngừng, nhất là nỗ lực tập trung xây dựng lực lượng sản xuất mới phát triển, tạo dựng nền tảng cơ sở vật chất vững mạnh cho chế độ xã hội chủ nghĩa, cùng với quan hệ sản xuất tiến bộ và phù hợp.
Hai là, đòi hỏi sửa đổi lý luận về nhà nước của chủ nghĩa Mác.
Một số tư tưởng Mác mới phủ định vai trò quyết định của kinh tế đối với chính trị, của cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng; cho rằng, vai trò quyết định trong sự phát triển xã hội là sự chuyên chế của quyền lực chính trị gắn với tuyệt đối hóa vai trò của nhà nước, đề cao những giá trị của riêng nhà nước về văn hóa chính trị, thành quả lập pháp..., từ đó đi đến lập luận sai lầm rằng, nhà nước tư sản có khả năng tự sửa, điều chỉnh khuyết tật của chính nó, của xã hội và với nền tảng dân chủ hóa cao, có thể hấp thụ những giá trị tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội ngay trong lòng nhà nước tư sản. Do đó, không nhất thiết phải phá hủy, đập tan nhà nước tư sản để thay thế bằng nhà nước khác (?!).
Lý luận mác-xít chỉ rõ bản chất giai cấp của nhà nước tư sản, một mặt nó là hình thức tổ chức của giai cấp tư sản để bảo vệ lợi ích của chính nó; mặt khác, là hình thức bạo lực có tổ chức của giai cấp tư sản trấn áp giai cấp vô sản và các tầng lớp lao động. Mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và vô sản trong nhà nước tư sản ngày càng gay gắt, không thể điều hòa được, tất yếu dẫn đến cách mạng vô sản đập tan nhà nước của giai cấp tư sản, thiết lập nên nhà nước vô sản - là nhà nước kiểu mới, bản chất là chính quyền của nhân dân, quyền lực của nhân dân. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước cuối cùng trong lịch sử nhân loại. Sau khi hoàn thành sứ mệnh của mình, xóa bỏ sự phân chia xã hội thành giai cấp, nhà nước tự tiêu vong, chế độ nhà nước thay thế bằng chế độ tự quản cộng sản chủ nghĩa.
Ba là, không thống nhất về lý luận đấu tranh giai cấp và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Một số trào lưu tư tưởng Mác mới quân bình hóa các giai cấp về chính trị, kinh tế, xã hội, xóa nhòa mâu thuẫn giai cấp; cho rằng xã hội tư bản có khả năng điều hòa các lợi ích đối kháng, là xã hội “siêu giai cấp”, phúc lợi chung cho tất thảy mọi người. Nó thúc đẩy “ý thức sai lầm” về niềm tin, sự chấp nhận của giai cấp bị áp bức đối với sự thống trị và các giá trị của giai cấp tư sản(22). Nó cổ xúy cho “bá quyền văn hóa”, là quá trình giai cấp tư sản đồng hóa về văn hóa, ý thức đối với giai cấp công nhân, khiến họ tuân chịu về mặt ý thức hệ, chấp nhận một cách tự nguyện sự thống trị của giai cấp tư sản, dẫn đến sự chi phối của hệ tư tưởng tư sản đối với giai cấp công nhân(23)...
Lý luận mác-xít chỉ rõ, giữa giai cấp tư sản và vô sản có sự đối lập về lợi ích và mâu thuẫn đó không thể giải quyết được trong chế độ kinh tế tư bản chủ nghĩa, nên tất yếu dẫn đến đấu tranh giai cấp, nhằm lật đổ nền thống trị của giai cấp tư sản. Nguyên nhân sâu xa dẫn tới đấu tranh giai cấp, theo C. Mác là mâu thuẫn giữa trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất đã lỗi thời. Thông qua đấu tranh giai cấp sẽ xóa bỏ, làm cho quan hệ sản xuất cũ, lạc hậu mất đi, quan hệ sản xuất mới hình thành phù hợp với lực lượng sản xuất, tạo điều kiện cho sản xuất phát triển. Đấu tranh giai cấp là một quá trình phức tạp trong sự vận động của lịch sử - xã hội, một xu thế tất yếu, khách quan của xã hội có giai cấp. Quá trình này không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người. Ngay cả khi giai cấp vô sản đã giành được chính quyền, thì cuộc đấu tranh giai cấp cũng chưa phải đã kết thúc, mà vẫn tiếp diễn ở các hình thức khác nhau, khi những giai cấp bóc lột, tàn dư của xã hội cũ, các lực lượng phản động... vẫn còn, tuyệt đối không được do dự, lơ là, chủ quan, thỏa hiệp, điều hòa hay bình quân hóa giai cấp. Chỉ có đấu tranh giai cấp mới xây dựng được xã hội mới, xã hội cộng sản chủ nghĩa. C. Mác vạch rõ, đối với giai cấp vô sản thì không phải là bình quân hóa các giai cấp, mà là thủ tiêu các giai cấp (khi đi đến chế độ cộng sản - cách mạng vô sản sẽ thủ tiêu sự thống trị của mọi giai cấp bằng cách thủ tiêu ngay chính các giai cấp và do đó thủ tiêu ngay chính nhà nước).
Một trong những cống hiến vĩ đại nhất của chủ nghĩa Mác - Lê-nin là phát hiện và làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân - giai cấp tiên tiến nhất, triệt để cách mạng nhất, là lực lượng duy nhất có khả năng lãnh đạo các tầng lớp nhân dân lao động bị áp bức, bóc lột tiến hành cách mạng vô sản, thực hành cuộc cải biến cách mạng, xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xây dựng thành công xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa, tiến tới xã hội cộng sản chủ nghĩa(24). C. Mác và Ph. Ăng-ghen dựa trên cơ sở địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp công nhân để luận chứng cho sứ mệnh lịch sử của giai cấp đó, chứ không phải xuất phát từ ý muốn chủ quan của bất kỳ cá nhân hay lực lượng xã hội nào. Giai cấp công nhân chính là lực lượng sản xuất mới trong xã hội tư bản, là sản phẩm của nền đại công nghiệp, mà ở đó, “giai cấp tư sản không những đã rèn những vũ khí sẽ giết mình; nó còn tạo ra những người sử dụng vũ khí ấy chống lại nó, đó là những công nhân hiện đại, những người vô sản”(25); cũng là lực lượng sản xuất tiên tiến đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa. Trong tất cả giai cấp đối lập với giai cấp tư sản, chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng và gánh vác được sứ mệnh lịch sử giải phóng toàn nhân loại cần lao, mà không phải là bất kỳ giai cấp hay tầng lớp nào khác. Chính vì bị đẩy xuống đáy tận cùng của các nấc thang xã hội trong nền đại công nghiệp, giai cấp công nhân trở thành nơi hội tụ của nguyện vọng được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột mà tất cả người lao động có thể gửi gắm, ủy thác. Quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử, giai cấp công nhân phải có sự lãnh đạo của chính đảng của mình - đảng cộng sản - là tổ chức của những người ưu tú từ phong trào cách mạng, nơi hội tụ mọi ước nguyện của sự giải phóng và giá trị tốt đẹp(26), mang bản chất giai cấp công nhân sâu sắc...
Như vậy, trước những biến đổi hết sức to lớn của thời đại ngày nay, với nhiều biến chuyển, thay đổi sâu sắc, song lý luận về đấu tranh giai cấp và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân của chủ nghĩa Mác - Lê-nin vẫn giữ nguyên giá trị, là vũ khí lý luận sắc bén trong cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân hiện đại và các đảng cộng sản trong bối cảnh hiện nay.
Sự phát triển của thực tiễn cách mạng đòi hỏi phải bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin cho phù hợp với điều kiện mới, để kịp thời kiến giải khoa học những vấn đề mới đặt ra. Cùng với sự phát triển của các khoa học chuyên ngành, liên ngành, bản thân chủ nghĩa Mác - Lê-nin cũng được nghiên cứu, vận dụng sáng tạo để có sự phát triển mới. Tuy nhiên, dù phát triển ở dạng thức nào, thì những nguyên lý căn bản nhất của chủ nghĩa Mác - Lê-nin vẫn phải được lấy làm xuất phát điểm. Mọi sự xa rời những nguyên lý này, dù với bất kỳ lý do gì, chắc chắn cũng sẽ khiến những lý luận mới bị lệch lạc, mất định hướng, xa vào chủ nghĩa xét lại, cơ hội... kiểu mới. Các học giả nhân danh “chủ nghĩa Mác mới” hay thuyết hội tụ, xét đến cùng, đều nhằm phủ nhận vai trò của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, ở các hình thức, mức độ khác nhau. Đây là những điều cần nhận diện, tuyệt đối không được mơ hồ, mất cảnh giác trước các trào lưu tư tưởng phi mác-xít kiểu mới hiện nay.
C. Mác, Ph. Ăng-ghen luôn coi lý luận của mình là một hệ thống mở và mang tính sáng tạo, không khép kín, ngưng đọng. Học thuyết đó luôn có nhu cầu được vận dụng sáng tạo và tiếp tục bổ sung, phát triển, phù hợp với tinh thần biện chứng, tính khoa học, cách mạng, tính mở và sáng tạo của chủ nghĩa Mác. Với tinh thần đó, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn kiên định và vững vàng trên nền tảng tư tưởng, lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lý luận về đường lối đổi mới, đồng thời cũng sẵn sàng “tiếp thu, bổ sung một cách có chọn lọc trên tinh thần phê phán và sáng tạo những thành tựu mới nhất về tư tưởng và khoa học để chủ nghĩa, học thuyết của chúng ta luôn tươi mới, luôn luôn được tiếp thêm sinh lực mới, mang hơi thở của thời đại, không rơi vào xơ cứng, trì trệ, lạc hậu so với cuộc sống”(27), như cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng căn dặn.
Đồng thời, để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, chúng ta cũng kiên quyết, vững vàng đấu tranh không khoan nhượng với các quan điểm, luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch, trong đó đặc biệt coi trọng việc nhận diện và đấu tranh chống các chủ nghĩa, học thuyết, trào lưu tư tưởng phi mác-xít, bằng cơ sở lý luận, thực tiễn sắc bén, thuyết phục, với tinh thần kiên định, kiên quyết, kiên trì, tuyệt đối không thỏa hiệp, chủ quan, lơ là mất cảnh giác hay dao động, rơi vào hoạt đầu, nước đôi, nhị nguyên luận..., đúng như V.I. Lê-nin chỉ ra: “Vấn đề đặt ra chỉ là như thế này: hệ tư tưởng tư sản hoặc hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Không có hệ tư tưởng trung gian... Vì vậy, mọi sự coi nhẹ hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa... đều có nghĩa là tăng cường hệ tư tưởng tư sản”(28).
“Các thế lực thù địch chưa bao giờ từ bỏ âm mưu lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, chúng tập trung phá hoại tư tưởng, tấn công trực diện vào nền tảng tư tưởng của Đảng, phản kích, phủ định nhằm xóa bỏ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, coi đây là “khâu đột phá”, “mặt trận quyết định””(29). Tổng Bí thư Tô Lâm cũng luôn nhắc nhở, “bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch là cuộc đấu tranh giai cấp trên mặt trận tư tưởng - lý luận chính trị... Đây là cuộc đấu tranh lâu dài, quyết liệt, liên tục, không ngừng nghỉ và không khoan nhượng; mọi biểu hiện lơ là mất cảnh giác, thỏa hiệp, non kém về chính trị, buông lỏng trận địa đấu tranh tư tưởng - lý luận đều có thể dẫn tới những hậu quả khôn lường”(30). Do đó, cần “kiên định, bảo vệ đi đôi với bổ sung, phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng; vận dụng, bổ sung và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và lý luận về đường lối đổi mới; xây dựng, hoàn thiện hệ thống lý luận cơ bản về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong giai đoạn cách mạng mới”(31)... Đó đều là những công việc thường trực và hệ trọng trong công tác tư tưởng, lý luận của Đảng ta./.
----------------------------
(1), (2), (3), (4), (5), (6), (7) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, t. 1, tr. 315, 318, 419, 313, 314, 493, 493
(8), (9), (10) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Sđd, t. 1, tr. 481, 431, 481
(11) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1995, t. 2, tr. 421
(12) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Sđd, t. 1, tr. 552
(13), (14), (15), (16) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Sđd, t. 2, tr. 172, 605, 537, 493
(17) Nguyễn Viết Thảo: “Chủ nghĩa tư bản toàn cầu trong tiến trình phát triển của nhân loại: Sự ra đời, đặc điểm và những bản chất mâu thuẫn cố hữu”, Tạp chí Cộng sản, số 1.021 (tháng 9-2023), tr. 101
(18), (19) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Sđd, t. 1, tr. 616, 612
(20) Thuyết này cho rằng, trong 4 nguyên tắc của chủ nghĩa tư bản, sẽ giữ lại 3 nguyên tắc: chế độ tư hữu, kích thích kinh tế và động cơ lợi nhuận, cơ chế thị trường; bỏ nguyên tắc nhà nước không can thiệp. Với chủ nghĩa xã hội, sẽ giữ 3 nguyên tắc: Trình độ bình đẳng cao, kiểm tra công nhân đối với sản xuất, kế hoạch hóa kinh tế; bỏ nguyên tắc sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất.
(21) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, t. 20, tr. 259
Đấu tranh phản bác luận điệu lợi dụng vấn đề “quyền của người bản địa” kích động “ly khai, tự trị” dân tộc (03/01/2025)
Nhận diện và đấu tranh với một số học thuyết phi mác-xít kiểu mới hòng phê phán, phủ nhận chủ nghĩa Mác (kỳ 1) (16/12/2024)
Nhận diện và đấu tranh với một số học thuyết phi mác-xít kiểu mới hòng phê phán, phủ nhận chủ nghĩa Mác (kỳ 1)
TCCS - Là học thuyết mở, không biệt phái, giáo điều, chủ nghĩa Mác - Lê-nin được những người mác-xít chân chính không ngừng tiếp thêm sinh lực mới và bảo vệ sự trong sáng nhờ thâu thái trên tinh thần phê phán và sáng tạo những thành tựu về tư tưởng và khoa học của thời đại, đồng thời tuyệt đối không mơ hồ, mất cảnh giác trước những trào lưu tư tưởng phi mác-xít kiểu mới, âm mưu gây phân rã, đa nguyên tư tưởng, làm suy giảm vai trò chủ đạo của nền tảng tư tưởng, cũng như sự lãnh đạo và địa vị cầm quyền của Đảng.
Chủ nghĩa, học thuyết, trào lưu tư tưởng phi mác-xít kiểu mới là những tư tưởng chính trị phê phán, phủ nhận chủ nghĩa Mác bằng nhiều hình thức khác nhau, hoặc trực tiếp bài bác công khai; hoặc “khoác áo mác-xít” để tinh vi chống phá; hoặc thừa nhận một phần, nhưng đòi tách nhánh, sửa đổi, chiết ghép vô nguyên tắc, hỗn tạp với nhiều học thuyết khác, làm biến dạng, sai lệch bản chất của chủ nghĩa Mác chính thống... Đây là những chủ nghĩa, học thuyết, trào lưu tư tưởng mới ra đời hoặc là biến thể mới của những hình thức chống phá truyền thống trước đây, với đủ sắc thái của chủ nghĩa cải lương, cơ hội, xét lại..., cùng những luận điệu chống phá mới ngày càng tinh vi, khó nhận biết.
Với tư cách là một học thuyết khoa học, cách mạng của thời đại, chủ nghĩa Mác “hoàn bị và chặt chẽ”(1), có sức sống mãnh liệt, tự mang trong mình tính phản biện mạnh mẽ đối với các khuynh hướng tư tưởng bảo thủ, lạc hậu, phản động. “Học thuyết của Mác... không thỏa hiệp với bất cứ một sự mê tín nào, một thế lực phản động nào, một hành vi nào bảo vệ sự áp bức của tư sản”(2). Đặc biệt, với học thuyết của C. Mác, lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, các quy luật phát triển của xã hội loài người được phát hiện. Trong đó, C. Mác đã chỉ ra quy luật cách mạng xã hội nói chung và cách mạng vô sản nói riêng, sự sụp đổ tất yếu của chủ nghĩa tư bản và thắng lợi tất yếu của cách mạng vô sản, cùng sự ra đời của chủ nghĩa xã hội. C. Mác cũng luận chứng toàn diện về sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản trong việc lật đổ chủ nghĩa tư bản và xây dựng xã hội mới cộng sản chủ nghĩa, qua đó giúp giai cấp công nhân và chính đảng của mình củng cố niềm tin, sự kiên định lý tưởng cộng sản, đồng thời cũng vũ trang cho họ nền tảng tư tưởng và lý luận cách mạng, khoa học để đấu tranh thắng lợi với tư tưởng tư sản và các loại tư tưởng thù địch, phản động khác dưới nhiều hình thức.
Là người trực tiếp lãnh đạo cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, V.I. Lê-nin vận dụng sáng tạo học thuyết Mác để giải quyết những vấn đề của cách mạng trong thời đại đế quốc chủ nghĩa và bắt đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực; đồng thời là tấm gương mẫu mực về bảo vệ chủ nghĩa Mác trước sự xuyên tạc của các thế lực thù địch. Để bảo vệ tính cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác, V.I. Lê-nin đấu tranh không khoan nhượng chống các trào lưu phi mác-xít trong nội bộ nước Nga và quốc tế, từ chủ nghĩa dân túy tự do phản động phủ nhận vai trò lịch sử của giai cấp công nhân, phái “những người mác-xít hợp pháp” muốn “khuôn” chủ nghĩa Mác hợp với quyền lợi của giai cấp tư sản, đến chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa cơ hội quốc tế âm mưu phủ nhận chủ nghĩa Mác trên quy mô toàn cầu... Tại Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương trình Đại hội VIII Đảng Cộng sản Nga (năm 1919), trước những ý kiến nhân danh lòng yêu nước để đả kích “bước lùi” trong việc ký Hòa ước Brest-Litovsk (năm 1918), V.I. Lê-nin đã trực tiếp nhắc tên và kịch liệt phê phán những “tư tưởng phi mác-xít” hết sức nguy hiểm: “Người nào lên án bước lùi đó tưởng là theo quan điểm cách mạng thì thực sự đã có một quan điểm căn bản sai lầm và phi mác-xít”(3). Việc vạch trần những quan điểm phi mác-xít ngụy trang dưới vỏ bọc “quan điểm cách mạng” đó có vai trò quan trọng trong giữ vững trận địa tư tưởng để bảo vệ Đảng Cộng sản Nga và nhà nước xã hội chủ nghĩa non trẻ đầu tiên trên thế giới mới ra đời khi đó... V.I. Lê-nin đã không chỉ bảo vệ thành công chủ nghĩa Mác, mà còn phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác lên một tầm cao mới.
V.I. Lê-nin cũng chỉ rõ: “...lịch sử tư tưởng chính là lịch sử của quá trình thay thế của tư tưởng, do đó là lịch sử đấu tranh tư tưởng”(4), đồng thời cảnh báo rằng: “Trong toàn thế giới văn minh, học thuyết của Mác đã gây ra sự cừu địch mạnh nhất và lòng căm thù trong toàn thế giới khoa học tư sản...”(5). Do đó, tư tưởng lý luận của chủ nghĩa xã hội ngay từ khi ra đời tất yếu đã phải đương đầu với sự phê phán, xuyên tạc, bài bác, phủ nhận dưới nhiều hình thức khác nhau, với mọi màu sắc của các lực lượng, các trào lưu tư tưởng phi mác-xít. Đấu tranh chống các chủ nghĩa, học thuyết, trào lưu tư tưởng phi mác-xít là cuộc đấu tranh trường kỳ, phức tạp, mang tính sống còn của các đảng cộng sản, những nhà tư tưởng mác-xít và những người cách mạng để bảo vệ bản chất khoa học, cách mạng triệt để, nhân văn cao cả và những giá trị đương đại của chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, các khuynh hướng, trào lưu tư tưởng phi mác-xít vẫn còn xuất hiện và tồn tại. Khi xây dựng học thuyết về các hình thái kinh tế - xã hội, C. Mác và Ph. Ăng-ghen sớm cảnh báo thời kỳ chuyển biến từ hình thái tư bản chủ nghĩa lên hình thái cộng sản chủ nghĩa chưa thể là một xã hội phát triển trên cơ sở của chính nó, mà là một trạng thái xã hội về mọi phương diện, trong đó có các yếu tố của kiến trúc thượng tầng, còn mang dấu vết của xã hội cũ. Đến đầu thế kỷ XX, V.I. Lê-nin luận chứng sinh động và cụ thể phạm trù thời kỳ quá độ có nghĩa là trong chế độ hiện tồn vẫn có “những thành phần”, “những bộ phận”, “những mảnh” của cả chủ nghĩa tư bản lẫn chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng khẳng định, “một chế độ này biến đổi thành một chế độ khác là cả một cuộc đấu tranh gay go, kịch liệt và lâu dài giữa cái xấu và cái tốt, giữa cái cũ và cái mới, giữa cái thoái bộ và cái tiến bộ, giữa cái đang suy tàn và cái đang phát triển...”(6).
Ở nước ta hiện nay, bên cạnh những nhân tố quyết định sự hình thành và bảo đảm con đường phát triển xã hội chủ nghĩa, vẫn còn hiện hữu không ít nhân tố, trong đó có nhân tố trong lĩnh vực tư tưởng - văn hóa, chưa thực sự là của chủ nghĩa xã hội. Sự song hành tồn tại đó dẫn đến các yếu tố chủ nghĩa xã hội và phi chủ nghĩa xã hội luôn đấu tranh, phủ định lẫn nhau; và theo quy luật phát triển, những nhân tố phi chủ nghĩa xã hội sẽ ngày càng bị thu hẹp bởi các yếu tố chủ nghĩa xã hội mang tính trội trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, “kết quả là cái mới, cái đang tiến bộ nhất định thắng”(7). Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa các tư tưởng phi mác-xít sẽ tự biến mất, ngược lại nó vẫn hiện hữu, nảy nở, thậm chí trỗi dậy nếu xem nhẹ cuộc đấu tranh tư tưởng, không củng cố nền tảng tư tưởng mác-xít, trong bối cảnh quá trình mở cửa, hội nhập quốc tế diễn ra mạnh mẽ, những khó khăn của phong trào xã hội chủ nghĩa còn nhiều và chủ nghĩa tư bản trên thế giới hiện nay có ưu thế tạm thời... Đặc biệt, sự phát tán có chủ đích, ngày càng tinh vi những chủ nghĩa, học thuyết phi mác-xít của các thế lực thù địch khiến cho cuộc đấu tranh trên địa hạt tư tưởng, lý luận càng thêm cam go, phức tạp, quyết liệt và lâu dài. Nếu chủ quan, không nhận diện kịp thời bản chất và có giải pháp đấu tranh, ngăn chặn hiệu quả, các luồng tư tưởng đó có khả năng gây tác hại khôn lường, gây chia rẽ về tư tưởng, phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng ta, mà tiêu biểu là chủ nghĩa tân tự do, lý thuyết xã hội dân sự, chủ nghĩa Mác mới và thuyết hội tụ...
Chủ nghĩa tân tự do
Từ giữa những năm 70 của thế kỷ XX, học thuyết John Maynard Keynes(8) với chính sách toàn dụng việc làm và ổn định tiền tệ, nhà nước phúc lợi và việc tích cực can thiệp vào kinh tế mất tín nhiệm vì cuộc khủng hoảng dầu mỏ, việc bãi bỏ chế độ kim bản vị của đồng đô la và tình trạng vừa tăng trưởng thấp, vừa lạm phát cao ở các nước tư bản. Trong bối cảnh đó, chủ nghĩa tân tự do (Neo-liberalism) của Friedrich August von Hayek(9), một sự phục sinh của chủ nghĩa tự do cổ điển (tự do cũ)(10), đã đưa ra các chính sách để cứu vãn chủ nghĩa tư bản.
Chủ nghĩa tân tự do là một trong những trào lưu tư tưởng của kinh tế học tư sản hiện đại. Đặc trưng của lý thuyết này là kết hợp các quan điểm và phương pháp luận của các trường phái tự do cũ, trường phái trọng thương mới, trường phái Keynes mới để đưa ra lý thuyết kinh tế của mình nhằm làm cơ sở cho việc điều tiết nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Có thể nói, nó là sự tân trang lại chủ nghĩa tự do cũ, mà đặc trưng của lý thuyết này là sự ủng hộ thị trường tự do, chế độ sở hữu tư nhân và phi điều tiết của nhà nước theo quan điểm “thị trường tối đa, nhà nước tối thiểu”.
Trong những năm 80 của thế kỷ XX, người ta chứng kiến sự nổi lên của hệ tư tưởng tự do mới ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển. Từ đó đến nay, chủ nghĩa tân tự do giữ vị trí quan trọng, thậm chí thống trị, trong các học thuyết kinh tế chính trị tư sản hiện đại, được nhiều nước phương Tây áp dụng; các nguyên tắc của nó cũng được các nhà kinh tế và hoạch định chính sách của nhiều tổ chức, định chế kinh tế quốc tế toàn cầu sử dụng và là một phần không thể thiếu trong điều khoản của các hiệp định thương mại tự do, với nhiều biến thể, tên gọi khác nhau, như: “Chủ nghĩa tự do mới” (lý thuyết về “Nền kinh tế thị trường xã hội”) ở Đức, “Chủ nghĩa bảo thủ mới” ở Mỹ, “Chủ nghĩa cá nhân mới” ở Anh, “Chủ nghĩa kinh tế” ở Áo... Thậm chí, chủ nghĩa tân tự do còn được chính giới và nhiều nhà tài phiệt tư bản rao giảng như “một tất yếu lịch sử, một trật tự kinh tế và xã hội duy nhất, một chân lý cuối cùng và vĩnh viễn của con người” (?!). Vậy, sự thật đằng sau những rao giảng về chủ nghĩa tân tự do đó là gì?
Một là, chủ nghĩa tân tự do tán dương về “nền kinh tế tự do lý tưởng”, khẳng định “chủ nghĩa tư bản là nấc thang phát triển cao nhất của xã hội loài người”, đồng thời nó cũng không quên cuộc chiến quyết liệt chống chủ nghĩa cộng sản.
Ở một góc độ nhất định, có thể thấy, chủ nghĩa tân tự do có một số yếu tố hợp lý, có thể vận dụng trong hoạt động kinh tế, tài chính và thương mại, nhất là thúc đẩy tự do kinh tế, tự do thương mại, tôn trọng các quy luật của kinh tế thị trường..., đóng góp nhất định vào thành tựu phát triển kinh tế của nhân loại, dù rằng cái giá phải trả đằng sau của nó so với kết quả đạt được là rất đắt. Cũng chính bởi những thành tựu kinh tế từng đạt được và tư tưởng tự do kinh tế dường như không có giới hạn, nên chủ nghĩa tân tự do có sức lôi cuốn nhất định, rất dễ lừa mị tư tưởng, tạo nên không ít ngộ nhận, lầm tưởng. Song, về bản chất, chủ nghĩa tân tự do là học thuyết có nhiều điểm hạn chế, tiêu cực, thậm chí cực đoan, khi bản chất vị lợi nhuận tàn nhẫn của số ít nhà tư sản sẵn sàng chà đạp lên máu, nước mắt của người lao động; sự tàn khốc, lạnh lùng của kim tiền lấn át đi tính nhân văn, nhân bản vì quảng đại con người. Hơn nữa, nó nảy nòi và cắm rễ sâu trên mảnh đất của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa nên luôn muốn níu giữ, bảo vệ bằng mọi giá, đồng thời che đậy đến cùng những khuyết tật, mặt tối của chế độ tư bản chủ nghĩa. Từ đầu thế kỷ XX đến nay, trên nền của cùng một phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, thế giới đã qua ba biến thể: Chủ nghĩa tự do cổ điển, chủ nghĩa Keynes và chủ nghĩa tự do mới. Sự giống nhau của cả ba hình thái đó là đều coi chủ nghĩa tư bản là “xã hội toàn mỹ”, “đỉnh cao nhất của lịch sử nhân loại”(?!).
Sự thật là, chủ nghĩa tân tự do không phải là một học thuyết hoàn bị hay là chìa khóa vạn năng để xây dựng nên một thị trường tự do của chủ nghĩa tư bản có thể giúp giải quyết mọi khó khăn, bất cập của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Thực tế cho thấy, chủ nghĩa tân tự do ngày càng lộ rõ “gót chân Asin” của mình, khi sự tự do thái quá của thị trường như ngựa bất kham, lại bị giật dây bởi tài phiệt tư bản, không có sự kiểm soát hợp lý của nhà nước, dẫn tới những thất bại với hệ lụy khôn lường. Những cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính có tính chu kỳ khởi phát từ các nước tư bản vẫn tiếp diễn, gây nên tổn hại nghiêm trọng cho nhân loại, nhất là trút hậu quả lên các nước đang phát triển, nước nghèo. Nhiều chính sách tân tự do được áp dụng từ những năm 80 của thế kỷ XX vẫn để lại di chứng, bất ổn kinh tế, chính trị, xã hội nặng nề cho đến ngày nay. Những sự “mời gọi” về sức hấp dẫn của tự do kinh tế không có giới hạn gắn với các giá trị phương Tây đã sụp đổ ở ngay chính quốc, là nhiều nước tư bản phát triển, nơi sinh ra và nuôi dưỡng chủ nghĩa tân tự do, lẫn một số nước đang phát triển bị cưỡng bức “nhập khẩu” học thuyết này.
Chủ nghĩa tân tự do khoác bộ cánh mới sặc sỡ lên chủ nghĩa tư bản, nhưng không thể làm thay đổi được bản chất bóc lột của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Các chính sách của chủ nghĩa tân tự do, như cắt giảm chi tiêu công, cắt giảm phúc lợi xã hội và tăng lãi suất để giảm lạm phát, duy trì cán cân tài chính; tư hữu hóa các doanh nghiệp nhà nước và tiện ích công; tự do hóa thương mại và tài chính; giảm điều tiết thị trường lao động... còn cực đoan hơn so với chủ nghĩa tự do cổ điển của Adam Smith và David Ricardo(11) phát triển trong thế kỷ XIX và đều nhằm mục đích tối đa hóa lợi nhuận, thu những nguồn lợi khổng lồ để gia tăng tích lũy tư bản.
Tuy nhiên, “thu nhập và sự giàu có chảy ngược lên trên, thay vì chảy xuống các tầng lớp phía dưới xã hội”(12). Chủ nghĩa tân tự do có thể đúng ở mặt nào đó, nhưng về căn bản, nó là một học thuyết có hại, không góp phần vào sự phát triển bền vững và rõ ràng, nó chỉ đúng với số ít các nhà tư sản đặc quyền, đặc lợi, không hề đúng với số đông các tầng lớp lao động, nhất là khi nó cổ xúy cho mô hình nhà nước ngày càng teo nhỏ gắn với việc cắt giảm tối đa phúc lợi xã hội. Sự bất bình đẳng trong thu nhập và tài sản giữa các giai tầng xã hội ngày càng bị khoét sâu. Hơn thế, bất bình đẳng còn trở thành một đặc tính bản chất của chủ nghĩa tân tự do, khi nó công khai chống chủ nghĩa bình đẳng (bình quân) do nhà nước phúc lợi đề ra và “cha đẻ” của học thuyết này, Friedrich August von Hayek, thậm chí còn biện bạch cho điều này khi từng công khai tuyên bố, “bất bình đẳng là một giá trị tích cực cần thiết cho các xã hội phương Tây”(13), càng khẳng định thêm bản chất của chủ nghĩa tân tự do: Lấy bất bình đẳng làm động lực, lấy cạnh tranh khốc liệt làm quy luật sinh tồn, lấy lợi nhuận làm đích cuối.
Như vậy, ngày nay, chủ nghĩa tư bản tuy có những điều chỉnh nhất định về hình thức sở hữu, tổ chức - quản lý và phân phối để thích nghi ở mức độ nào đó với điều kiện mới, nhưng sự thống trị của chủ nghĩa tư bản tư nhân vẫn tồn tại nguyên vẹn, bản chất bóc lột của nó vẫn không hề thay đổi. Suốt hơn 400 năm tồn tại của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, “sản xuất giá trị thặng dư hay lợi nhuận là quy luật tuyệt đối của phương thức sản xuất này”(14), chủ nghĩa tư bản ra đời “thấm đầy máu và bùn nhơ trong mỗi lỗ chân lông của nó”(15). Nhìn sâu vào bên trong, chủ nghĩa tư bản hiện đại ngày nay vẫn giữ nguyên nhiều đặc tính của thứ chủ nghĩa tư bản kền kền nguyên thủy, hoang dã và tàn bạo, thậm chí còn suy đồi và tàn nhẫn hơn dưới sự thúc đẩy của chủ nghĩa tân tự do và những tham vọng bá quyền ngày càng lớn và manh động của nhiều chính phủ phương Tây. Và, với đầy rẫy khuyết tật, mâu thuẫn và mặt tối đó, thì rõ ràng, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và chế độ tư bản chủ nghĩa không thể “toàn mỹ” và là tương lai của loài người; chủ nghĩa tân tự do lại càng không phải là một tất yếu lịch sử, một trật tự kinh tế và xã hội duy nhất, một chân lý cuối cùng và vĩnh viễn của nhân loại, như rao giảng của nhiều chính trị gia và nhà tài phiệt tư bản.
Sau nhiều năm chiếm thế thượng phong, chủ nghĩa tân tự do đang gặp nhiều thất bại. Những cuộc khủng hoảng, suy thoái kinh tế, bất ổn chính trị, xung đột vũ trang nghiêm trọng, ô nhiễm môi trường, phân hóa giàu - nghèo, phân cực xã hội... ở nhiều nước tư bản và trên quy mô toàn cầu càng phơi bày rõ những mâu thuẫn và hạn chế của một triết luận kinh tế chính trị phản ánh bản chất của chủ nghĩa tư bản, một triết luận vì lợi ích của số ít chống số đông. Rõ ràng, chủ nghĩa tự do mới cố gắng làm mới chủ nghĩa tư bản già cỗi, mong đem đến một sức sống mới bằng các liệu pháp tự do hóa được tân chế, song nó vẫn không thể và không bao giờ có thể khắc phục được mâu thuẫn nội tại mang tính bản chất bên trong của chủ nghĩa tư bản, cũng như càng làm trầm kha thêm mâu thuẫn giữa các nước tư bản với nhau, giữa các nước tư bản và các nước đang phát triển, giữa tư bản và lao động ở quy mô toàn cầu. “Niềm tin của chủ nghĩa tân tự do vào các thị trường không bị ràng buộc như là con đường chắc chắn nhất dẫn đến thịnh vượng của xã hội hiện đang mất uy tín và hấp hối... Thực tế là, bất chấp tên gọi của nó, thời đại của chủ nghĩa tân tự do còn lâu mới tự do”(16).
Cùng với việc xảo biện chủ nghĩa tư bản là “nấc thang cuối cùng của nhân loại”, chủ nghĩa tân tự do cũng chĩa mũi nhọn chống phá quyết liệt chủ nghĩa cộng sản. Bởi, cái mà chủ nghĩa tân tự do tập trung đấu tranh quyết liệt nhất vẫn là những gì mang tính chất tập thể và công hữu, những gì có màu sắc chính sách xã hội xã hội chủ nghĩa. Khi chủ nghĩa xã hội hiện thực sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu, các nhà tân tự do tự đắc cho rằng đó là “sự cáo chung của lịch sử”, rằng đã xóa bỏ trở ngại cuối cùng ngăn chia toàn bộ thế giới khỏi mục tiêu dân chủ, tự do và kinh tế thị trường (?!). Sự chống phá của những người cổ xúy chủ nghĩa tân tự do là hết sức dễ hiểu, bởi nền móng tồn tại của chủ nghĩa tân tự do là sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, là sự bảo đảm thống trị của giai cấp tư sản, sự bền vững của chế độ bóc lột tư bản chủ nghĩa; trong khi chủ nghĩa cộng sản được xây dựng dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, cùng sự bảo đảm lợi ích và bảo vệ quyền lợi chính đáng của toàn thể nhân dân lao động... - những yếu tố và sự phát triển trực tiếp đe dọa và phủ định sự tồn tại của chủ nghĩa tân tự do và chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tân tự do chống phá chủ nghĩa cộng sản từ những vấn đề mang tính nền tảng, đi từ các yếu tố kinh tế để tác động đến chính trị, dùng con bài “sức mạnh tự do”, “kinh tế thị trường tự do”... để làm chuyển hóa chế độ chính trị. Hơn nữa, chủ nghĩa tân tự do có nhiều biến thể, trong đó có những dạng thức về danh nghĩa dung hợp thêm yếu tố xã hội để phần nào giảm bớt tính cực đoan, cân bằng hơn giữa yếu tố tự do và công bằng, giữa vai trò của thị trường và vai trò của nhà nước... rất dễ gây lầm tưởng, dù rằng đó chỉ là sự cải tổ những yếu tố bề ngoài, còn bản chất của nó đương nhiên không bao giờ thay đổi.
Suy cho cùng, chủ nghĩa tân tự do luôn là một hình thái tư bản chủ nghĩa, và rõ ràng, nó không phải là một học thuyết ưu việt đại diện cho một phương thức sản xuất tiến bộ nhất của nhân loại; ngược lại, chính nó đã và đang dọn đường, mở ra những điều kiện, tiền đề cho sự ra đời của phương thức sản xuất mới, hình thái kinh tế - xã hội phát triển ở trình độ cao hơn: Chủ nghĩa cộng sản.
Hai là, chủ nghĩa tân tự do cổ xúy tư nhân hóa nền kinh tế, hạ thấp vai trò của nhà nước, đồng thời thúc đẩy chủ nghĩa cá nhân.
Có thể nói, tư nhân hóa là một “pháp bảo”, được chủ nghĩa tân tự do bảo vệ bằng mọi giá, vì tư hữu tư bản chủ nghĩa chính là cơ sở sinh tồn của nó; sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa bị xóa bỏ thì chủ nghĩa tư bản tiêu vong và tự khắc chủ nghĩa tân tự do cũng không còn bất kỳ cơ sở nào để tồn tại. Nó lo sợ việc nhà nước can thiệp vào kinh tế, hệ lụy không tránh khỏi là khu vực tư nhân, cái lõi của chủ nghĩa tư bản, sẽ bị lề hóa, thậm chí bị loại bỏ. Đó cũng chính là nguyên nhân sâu xa chủ nghĩa tân tự do cổ xúy tư nhân hóa nền kinh tế, cổ xúy cho sự “tồn tại vĩnh hằng” của chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa và chủ nghĩa tư bản, đồng thời xuất khẩu tư tưởng này theo dòng chảy của đầu tư tư bản khắp thế giới.
Tuy nhiên, quá trình phát triển của xã hội loài người là một quá trình lịch sử - tự nhiên, nghĩa là các hình thái kinh tế - xã hội không tồn tại vĩnh viễn, mà luôn thay thế lẫn nhau, xã hội trước tạo tiền đề vật chất cho xã hội sau phủ định nó, cho đến khi nhân loại đi đến chủ nghĩa cộng sản. Do đó, việc xóa bỏ quan hệ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa là một tất yếu khách quan, do chính những mâu thuẫn trong lòng của chế độ tư bản chủ nghĩa. Theo quy luật phủ định của phủ định, chính nền sản xuất tư bản chủ nghĩa đẻ ra sự phủ định bản thân nó, phủ định chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, như một tất yếu để tạo nên chế độ công hữu. “Theo ý nghĩa đó, những người cộng sản có thể tóm tắt lý luận của mình thành một luận điểm duy nhất này là: xóa bỏ chế độ tư hữu”(17). Tuy nhiên, đây là một quá trình lâu dài, phải dựa trên cơ sở tôn trọng các quy luật khách quan và không phải xóa bỏ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa là xóa bỏ chế độ sở hữu nói chung, mà chỉ là xóa bỏ chế độ sở hữu tư sản nô dịch lao động của người khác.
Việc chủ nghĩa tân tự do cổ xúy tư nhân hóa tất cả những gì tư nhân có thể làm được trong một thị trường tự do ở quy mô toàn cầu giữ vị trí thống lĩnh, đồng thời xem nhẹ vai trò của nhà nước cũng là nhằm tích tụ tư bản ngày càng lớn, tập trung tài sản vào một số ít nhà tư sản kếch sù. Hay nói đúng hơn, đó là cuộc tấn công của tầng lớp thượng lưu toàn cầu chống nhân dân lao động ở mỗi nước tư bản và trên toàn thế giới; đồng thời, nó cũng không thuần túy là một luận thuyết kinh tế, mà có mục đích chính trị rất rõ ràng, nhất là để bảo vệ chủ nghĩa tư bản. Có điều, suốt nửa thế kỷ qua, những diễn ngôn chính trị của các nhà cầm quyền tư bản về việc tư nhân hóa tạo cơ chế tự điều chỉnh để mọi người đều giàu có, xã hội thịnh vượng, mà không cần bất kỳ sự can thiệp nào của nhà nước ngày càng xa vời. Thậm chí khác xa trên thực tế, khi bản thân nhiều chính phủ của các nước tư bản phát triển đã nhiều lần tiến hành quốc hữu hóa doanh nghiệp dưới các hình thức và cấp độ khác nhau, từ áp đặt quyền kiểm soát đặc biệt, cứu trợ tài chính, nắm cổ phần chi phối đến việc thành lập doanh nghiệp nhà nước dựa trên mua lại các doanh nghiệp tư nhân để kiểm soát một lĩnh vực nào đó...
Thực tế, chủ nghĩa tự do mới cũng không phủ nhận hoàn toàn vai trò của nhà nước; nó chỉ muốn một nhà nước tối thiểu hay nói đúng hơn cần nhà nước với quy mô do nó định đoạt, hành động theo nó yêu cầu. Nó hô hào nhà nước tối thiểu nhưng lại là tối đa trong phục vụ sở hữu tư nhân, phục vụ những tập đoàn tư bản bá quyền. Nó hô hào tránh xa chủ nghĩa nhà nước (statism) và hướng tới trật tự sở hữu tư nhân (private property order), nhưng nhà nước tư bản sẵn sàng can thiệp thô bạo vào nền kinh tế, lợi ích của đa số người dân và trật tự xã hội khi cần bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản, nhất là tầng lớp chóp bu. Nhà nước ở các quốc gia tư bản còn ngày một lớn hơn, không hề “tối thiểu” như họ tuyên bố, thậm chí còn hình thành mô hình siêu nhà nước qua liên kết các cường quốc tư bản lại với nhau, thành dạng thức liên nhà nước, để can thiệp, tác động, điều khiển nền kinh tế, chính trị thế giới... Chủ nghĩa tân tự do gắn liền với chủ nghĩa bá quyền, bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền xuyên quốc gia.
Sau nhà nước, đối với vấn đề cá nhân, chủ nghĩa tân tự do cũng thúc đẩy chủ nghĩa cá nhân tư sản, nhấn mạnh đặt cá nhân lên trên xã hội. Nó cổ xúy cho thứ chủ nghĩa cá nhân cực đoan và quyền tự do bóc lột không giới hạn được hình thành và tồn tại trong xã hội tư bản. Nó không thừa nhận cá nhân trong mối quan hệ tùy thuộc, hợp tác, hội nhập với tổng thể xã hội. Đối với chủ nghĩa tự do đương đại, cá nhân là trục xuyên suốt xã hội và lịch sử, có thể áp đặt cho tập thể cái cá thể trung tâm của mình vì lợi ích riêng(18), trỗi dậy sự vị kỷ hẹp hòi, tư lợi để vinh thân phì gia, giữa người và người không còn mối liên hệ nào ngoài quan hệ mua bán, đổi chác..., là con đường ngắn nhất làm cho đạo lý xã hội ngày càng suy đồi. Quan điểm của chủ nghĩa tân tự do sẽ dẫn đến những kết cục nguy hiểm bởi giành ưu quyền cho cá nhân thì lợi ích của tập thể sẽ bị lấn át, thậm chí phế bỏ...
Chủ nghĩa Mác tôn trọng tự do và lợi ích cá nhân đúng đắn, nhưng sự phát triển của mỗi cá nhân không tách rời với xã hội trong tổng thể, không tách rời với tự nhiên. “... Cần ra sức làm cho lợi ích riêng của con người cá biệt phù hợp với lợi ích của toàn thể loài người”(19). Cơ sở nảy sinh, tồn tại và phát triển của chủ nghĩa cá nhân chính là chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Do đó, muốn xóa bỏ chủ nghĩa cá nhân, cần phải loại bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, đồng thời phải tiến hành xây dựng chế độ xã hội mới - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng cảnh báo, chủ nghĩa cá nhân chính là “giặc nội xâm” vô cùng nguy hiểm, trực tiếp đe dọa sự tồn vong của Đảng, của chế độ. Đấu tranh loại bỏ chủ nghĩa cá nhân là yêu cầu tất yếu để xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa; là công việc phải tiến hành thường xuyên để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Người nhấn mạnh: “Không có chế độ nào tôn trọng con người, chú ý xem xét những lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thỏa mãn bằng chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa”(20).
Chủ nghĩa tân tự do được coi là đại diện cho một thứ chủ nghĩa tư bản mới, là bộ mặt tân thời của chủ nghĩa tư bản hiện đại, nên nó vẫn tiếp tục được cổ xúy, tán dương, thậm chí được các nước tư bản tìm mọi cách “xuất khẩu” sang các quốc gia khác, mà đằng sau đó là những mưu tính chính trị được che đậy tinh vi bằng con bài của những học thuyết kinh tế. Các nhà kinh tế tự do o ép các nước đang phát triển cải tổ triệt để mọi khu vực của nền kinh tế. Các diễn ngôn, tư tưởng và sáng kiến hướng đến mục tiêu kinh tế được sử dụng như một công cụ nhằm đạt được mục đích chính trị, nhất là chuyển hóa các nước theo con đường tư bản chủ nghĩa và ràng buộc về chính trị.
Khu vực Mỹ La-tinh là “một phòng thí nghiệm” điển hình của chủ nghĩa tân tự do từ cuối những năm 80 của thế kỷ XX. Khi áp dụng vào khu vực Mỹ La-tinh, chủ nghĩa tân tự do đã thất bại. Chủ trương “nhà nước nhỏ, thị trường lớn” làm suy yếu các chính phủ ở đây, đồng thời diễn ra quá trình xâm chiếm của các công ty đa quốc gia, tư bản nước ngoài đối với các khu vực kinh tế trọng yếu, ngành công nghiệp chủ chốt, như dầu khí... của nhiều nước khu vực Mỹ La-tinh, dưới sự tiếp tay của một bộ phận quân đội, tư sản mại bản, đại điền chủ trong nước, cùng ràng buộc của các hiệp định thương mại tự do. Từ một khu vực phát triển, ngày nay, Mỹ La-tinh giảm sút sự thịnh vượng rất nhiều, trong khi xung đột xã hội, bất ổn gia tăng, tiếp tục lệ thuộc vào các nước tư bản phương Tây. Nhân dân nhiều nước khu vực Mỹ La-tinh đã nổi dậy chống quá trình tư hữu hóa và phi điều tiết nền kinh tế dưới tác động của chủ nghĩa tân tự do, trỗi dậy tinh thần tự tôn dân tộc, quay trở lại quốc hữu hóa nhiều ngành kinh tế quan trọng...
Trên phạm vi thế giới, chủ nghĩa tư bản tiếp tục cuộc thập tự chinh toàn cầu hóa dưới lá bài chủ nghĩa tân tự do để khuyến khích các nước mở toang biên giới cho tư bản được tự do tràn vào mọi nơi nhằm tối đa hóa lợi nhuận ở quy mô và mức độ cao hơn nhiều so với thời kỳ của chủ nghĩa tự do cổ điển, với sự hỗ trợ của các tập đoàn xuyên quốc gia, các định chế tài chính toàn cầu hùng hậu, tạo sức ép và sợi dây ràng buộc, lệ thuộc lớn về kinh tế, chính trị lên các quốc gia kém phát triển hơn, thúc đẩy tư nhân hóa các nền kinh tế nó đi qua, chuyển quyền lực cùng các nguồn lực sang các nhà tư sản trong nước và nước ngoài. Các thiết chế tài chính quốc tế nghiễm nhiên đòi giữ vai trò giám sát, thậm chí can thiệp vào nền kinh tế của các nước đang phát triển, nhất là các nước vay nợ... Nó gia tăng sự vay nợ trên bình diện toàn cầu, trong đó không ít trường hợp tạo ra gánh nặng nợ nần, đè nặng lên vai các nước đang phát triển. Chủ nghĩa tân tự do cũng là một tác nhân góp phần gây nên những cuộc khủng hoảng tài chính chu kỳ, nhất là khi dòng vốn tự do mất kiểm soát bị di chuyển ồ ạt, gây tổn thương lớn tới các quốc gia đang phát triển do khả năng chống chịu với các cú sốc toàn cầu còn yếu. Có thể nói, trong thời đại chủ nghĩa tư bản toàn cầu hóa, chủ nghĩa tự do mới đưa sự bất bình đẳng và bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản vươn ra ở quy mô toàn cầu, sự bóc lột giá trị thặng dư mang “tính quốc tế” và ngày càng tinh vi hơn...
Việc thấu rõ bản chất của chủ nghĩa tân tự do để chúng ta tuyệt đối không mơ hồ, mất cảnh giác, không để rơi vào bẫy “tự do kinh tế” theo mô hình tư bản chủ nghĩa; đồng thời kiên định phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; tạo mọi điều kiện để phát triển kinh tế tư nhân như là một động lực quan trọng, song tuyệt đối phải giữ vững vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, trên cơ sở nâng cao hiệu quả hoạt động của thành phần kinh tế này, khuyến khích nhưng phải có chọn lọc phát triển kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới một cách chủ động, chắc chắn, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc; nắm vững và xử lý tốt mối quan hệ lớn giữa tuân theo các quy luật kinh tế thị trường với bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế, không ngừng vun bồi nội lực quốc gia, nhuần nhuyễn trong kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại, phát huy cao nhất tinh thần “tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc”...
Việc thấu rõ bản chất của chủ nghĩa tân tự do cũng để chúng ta nhận diện và đấu tranh hiệu quả với học thuyết này, cùng niềm tin khoa học vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam, về thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội.
(Còn nữa)
--------------------
(1), (2) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2005, t. 23, tr. 50
(3) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2006, t. 38, tr. 158 - 159
(4) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 25, tr. 131
(5) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 23, tr. 49
(6), (7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 11, tr. 238
(8) Trường phái kinh tế Keynes do John Maynard Keynes (1883 - 1946), nhà kinh tế nổi tiếng người Anh sáng lập, tập trung vào giải quyết vấn đề lớn là tăng trưởng và việc làm trên cơ sở phát huy vai trò điều tiết nền kinh tế của nhà nước
(9) Friedrich August von Hayek (1899 - 1992) là nhà kinh tế người Anh gốc Áo, là một trong những người sáng lập chủ nghĩa tân tự do, nghiên cứu các cuộc khủng hoảng và bảo vệ thuyết trọng tiền, chống học thuyết Keynes, cũng là một trong những nhà kinh tế chống chủ nghĩa xã hội quyết liệt.
(10) Những tư tưởng về tự do kinh tế xuất hiện rất sớm trong lịch sử, được thể hiện trong tác phẩm của các nhà kinh tế học tư sản cổ điển và chủ nghĩa tự do kinh tế thực sự xuất hiện và trở thành tư tưởng thống trị trong các lý thuyết tư sản trước những năm 30 của thế kỷ XX. Chủ trương tự do kinh tế là các lý thuyết tư sản coi nền kinh tế tư bản chủ nghĩa là hệ thống hoạt động tự động, do các quy luật kinh tế khách quan tự phát điều tiết. Tư tưởng cơ bản của nó là tự do kinh doanh, tự do tham gia thị trường, chống lại sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế.
(11) Adam Smith (1723 - 1790) là nhà kinh tế học người Scotland và David Ricardo (1772 - 1823) là nhà kinh tế học người Anh, là các đại diện tiêu biểu cho kinh tế chính trị tư sản cổ điển.
(12) Joseph E. Stiglitz: “The End of Neoliberalism and the Rebirth of History” (Tạm dịch: Sự cáo chung của chủ nghĩa tân tự do và sự tái sinh của lịch sử), Project Syndicate, 4-11-2019
(13) Nguyễn Văn Thanh: Nhận diện chủ nghĩa tự do mới, Nxb. Chính trị quốc gia, 2005, tr. 29
(14) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, t. 23, tr. 872
(15) Đỗ Thế Tùng: “Nhận thức và ứng xử đúng quy luật với vấn đề bóc lột trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 22-10-2019. https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/kinh-te/-/2018/814223/nhan-thuc-va-ung-xu-dung-quy-luat-voi-van-de-boc-lot-trong-qua-trinh-phat-trien-nen-kinh-te-thi-truong-dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia-o-viet-nam.aspx
(16) Joseph E. Stiglitz: “The End of Neoliberalism and the Rebirth of History” (Tạm dịch: Sự cáo chung của chủ nghĩa tân tự do và sự tái sinh của lịch sử), Sđd
(17) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1995, t. 4, tr. 616
(18) Nguyễn Văn Thanh: Nhận diện chủ nghĩa tự do mới, Sđd, tr. 33
(19) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Sđd, t. 2, tr. 200
(20) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 610
Đấu tranh phản bác luận điệu lợi dụng vấn đề “quyền của người bản địa” kích động “ly khai, tự trị” dân tộc (03/01/2025)
Nhận diện và đấu tranh với một số học thuyết phi mác-xít kiểu mới hòng phê phán, phủ nhận chủ nghĩa Mác (kỳ 2 và hết) (22/12/2024)
Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng dưới góc độ chống chủ nghĩa cá nhân nhìn từ cuộc đấu tranh trong chính bản thân mỗi cán bộ, đảng viên
TCCS - Cá nhân tự giải quyết hài hòa lợi ích cá nhân với lợi ích tổ chức, lợi ích xã hội sẽ góp phần thúc đẩy tổ chức và xã hội phát triển; cá nhân đặt lợi ích bản thân lên trên, lên trước lợi ích tập thể thì tất yếu tập thể/ tổ chức không thể phát triển mạnh mẽ, đúng hướng. Do vậy, từng cán bộ, đảng viên phải có ý thức về vai trò, trách nhiệm và thực hiện tốt nhiệm vụ đảng viên mới xây dựng được tổ chức đảng vững mạnh về tư tưởng. Từng tổ chức đảng vững mạnh về tư tưởng đồng nghĩa nền tảng tư tưởng của Đảng được bảo vệ vững chắc ngay từ bên trong.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa cá nhân và liên hệ với bối cảnh hiện nay
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa cá nhân chủ yếu được tập trung dưới góc nhìn đạo đức học, đạo đức cách mạng. Xuyên suốt, nổi bật trong tư tưởng ấy là tinh thần kiên quyết đấu tranh với chủ nghĩa cá nhân và các “căn bệnh” nảy sinh từ chủ nghĩa cá nhân để bảo vệ Đảng từ gốc, để xây dựng, chỉnh đốn Đảng ta thực sự trong sạch, vững mạnh.
Thấm nhuần truyền thống dân tộc Việt Nam, từ tư tưởng “lấy dân làm gốc”, từ trân trọng những giá trị tốt đẹp của văn hóa Việt Nam, đó là truyền thống nhân ái, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau, đề cao lợi ích cộng đồng,...; từ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về sự thống nhất giữa lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể, lợi ích xã hội; từ đức tính, phong cách sống và làm việc khiêm tốn, giản dị, không ưa xu nịnh, hết lòng vì nhân dân, tư tưởng Hồ Chí Minh về chống chủ nghĩa cá nhân đã dần hình thành.
Trong tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập trực diện đến vấn đề này. Người chỉ rõ, chủ nghĩa cá nhân là “việc gì cũng nghĩ đến lợi ích riêng của mình trước hết. Họ không lo “mình vì mọi người” mà chỉ muốn “mọi người vì mình”(1). Ngay từ tiêu đề, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh “nâng cao đạo đức cách mạng” đi liền với “quét sạch chủ nghĩa cá nhân”. Làm rõ mối liên hệ này, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra “Do cá nhân chủ nghĩa mà ngại gian khổ, khó khăn, sa vào tham ô, hủ hóa, lãng phí, xa hoa. Họ tham danh trục lợi, thích địa vị, quyền hành. Họ tự cao, tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán, chuyên quyền. Họ xa rời quần chúng, xa rời thực tế, mắc bệnh quan liêu, mệnh lệnh. Họ không có tinh thần cố gắng vươn lên, không chịu học tập để tiến bộ./ Cũng do cá nhân chủ nghĩa mà mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức, tính kỷ luật, kém tinh thần trách nhiệm, không chấp hành đúng đường lối, chính sách của Đảng và của Nhà nước, làm hại đến lợi ích của cách mạng, của nhân dân./ Tóm lại, do chủ nghĩa cá nhân mà phạm nhiều sai lầm”(2). Như vậy, theo Người, chủ nghĩa cá nhân là đi ngược lại phẩm chất tốt đẹp trong truyền thống dân tộc, trái với đạo đức xã hội xã hội chủ nghĩa, và tác hại của chủ nghĩa cá nhân đối với từng cá nhân, đối với tập thể, đối với toàn Đảng, đối với đất nước là rất to lớn.
Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và thực hiện sứ mệnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam, rồi trở thành Đảng cầm quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh càng đặc biệt quan tâm đến vấn đề chống chủ nghĩa cá nhân, coi đây là nội dung quan trọng trong xây dựng đội ngũ, xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh toàn diện; là vấn đề không chỉ liên quan đến cá nhân, mà còn liên quan đến uy tín của Đảng, thậm chí là sự sống còn của Đảng, của cách mạng Việt Nam. Trong số căn bệnh nảy sinh từ chủ nghĩa cá nhân đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra, có: Bệnh hiếu danh, tham danh, thích địa vị quyền hành; bệnh kéo bè, kéo cánh, thiếu công bằng trong đánh giá; bệnh tham lam... Người mắc bệnh này đều đặt lợi ích của mình lên trên lợi ích tập thể, dựa vào trách nhiệm được Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó để đạt mục đích cá nhân, sẵn sàng bỏ qua lợi ích đất nước, lợi ích nhân dân. Đây là nguồn cơn của tình trạng tham ô, tham nhũng, là căn nguyên dẫn đến lối sống trên tiền, xa hoa... Thực tế cho thấy, chủ nghĩa cá nhân luôn tồn tại, chỉ khác ở cách thức và ở các mức độ khác nhau. Các “căn bệnh” nảy sinh từ chủ nghĩa cá nhân có thể làm suy yếu tổ chức, do đó phải kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân để xây dựng tổ chức trong sạch. Khi từng đảng viên trong sạch, kiên định, bản lĩnh trước mọi cám dỗ, thì tổ chức vững mạnh, các thế lực thù địch không thể lợi dụng để xuyên tạc, chống phá. Khi đặt “cuộc chiến” với chủ nghĩa cá nhân ngang hàng với cuộc đấu tranh cách mạng của toàn dân tộc vì độc lập, tự do và cuộc đấu tranh với cái lạc hậu để phát triển, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho thấy tầm quan trọng, sức ảnh hưởng to lớn của cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân.
Đứng trước nhiệm vụ phải tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới, ngày 22-10-2018, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 35-NQ/TW, về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”. Từ tinh thần của Nghị quyết, có thể thấy bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng là bảo vệ Ðảng, là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn Đảng, toàn dân; kết hợp giữa “xây” và “chống”, giữa đấu tranh “trong” với “ngoài”; cần tiếp tục nâng cao nhận thức về nội dung cơ bản và giá trị to lớn của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó có đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi căn bệnh cá nhân chủ nghĩa; đặt ra yêu cầu cấp ủy các cấp lãnh đạo bằng việc ra kế hoạch thực hiện nhiệm vụ đấu tranh tư tưởng và lãnh đạo đấu tranh tư tưởng thông qua tổ chức đảng và đảng viên; đặt ra yêu cầu tổ chức đảng và đảng viên xây dựng nhận thức đúng đắn cho mình và cho quần chúng về nhiệm vụ đấu tranh tư tưởng, thường xuyên tiến hành tự phê bình và phê bình, phê phán các quan điểm sai trái, chấn chỉnh những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, cá nhân chủ nghĩa...
Trong bối cảnh mới hiện nay, rất cần thiết làm rõ cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng với một số nhận thức mới, đó là đấu tranh tự bảo vệ từ bên trong nội bộ Đảng, từ trong từng cán bộ, đảng viên, đặc biệt là đối với căn bệnh cá nhân chủ nghĩa.
Đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong bối cảnh mới cần được hiểu không chỉ là đấu tranh với bên ngoài, chống lại sự xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch, mà cần mở rộng theo hướng bảo vệ những giá trị tốt đẹp của Đảng, của chế độ, của xã hội xã hội chủ nghĩa. Đảng lãnh đạo đề ra đường lối, chủ trương phát triển kinh tế - xã hội, ban hành Điều lệ Đảng, Quy định về Những điều đảng viên không được làm,... và cán bộ, đảng viên có trách nhiệm thi hành Điều lệ Đảng, thực hiện nghiêm Quy định về Những điều đảng viên không được làm,... đó chính là tự bảo vệ bản thân, là bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ Đảng.
Điều 1, Điều lệ Đảng quy định: “Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân; chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước; có lao động, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; có đạo đức và lối sống lành mạnh; gắn bó mật thiết với nhân dân; phục tùng tổ chức, kỷ luật của Đảng, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng”. Như vậy, phẩm chất cần có, nhiệm vụ cần thực thi của một người đảng viên đã được gắn liền với khái niệm “đảng viên”, thể hiện rõ bản chất cách mạng của người đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Và mỗi cán bộ khi đứng trong hàng ngũ của Đảng đều phải tu dưỡng, rèn luyện, có trách nhiệm giữ vững phẩm chất này. Điều 2, Điều lệ Đảng cũng quy định rất cụ thể đối với đảng viên(3). Từng đảng viên có trách nhiệm thực hiện tốt nhiệm vụ đảng viên, khi đó sẽ không tạo ra cơ hội để các thế lực thù địch lợi dụng xuyên tạc, lôi kéo. Điều này cũng chính là làm cho Đảng mạnh lên từ gốc, là bảo vệ Đảng một cách chủ động, từ bên trong. Soi chiếu quy định đảng viên có nhiệm vụ giữ gìn “phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, có lối sống lành mạnh; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, cục bộ, quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác” (Điều 2, Điều lệ Đảng) với thực tiễn thời gian qua có thể thấy: chính vì không thực hiện tốt nhiệm vụ đảng viên mà một số cán bộ, đảng viên, trong đó có đảng viên là cán bộ lãnh đạo, quản lý, thậm chí giữ cương vị cao của Đảng, Nhà nước đã bị xử lý kỷ luật ở nhiều mức độ khác nhau.
Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng nhấn mạnh, “Tham nhũng thường diễn ra trong nội bộ, do người có chức, có quyền thực hiện. Phòng, chống tham nhũng là cuộc đấu tranh ngay trong chính bản thân mỗi con người, trong mỗi cơ quan, tổ chức, đơn vị, địa phương mình; liên quan đến lợi ích, chức vụ, danh vọng, uy tín của tổ chức, cá nhân”(4). Vì vậy, phải có thái độ “kiên quyết, không khoan nhượng và hành động thật quyết liệt”(5). Người đứng đầu phải chịu trách nhiệm về việc để xảy ra hành vi tham nhũng trong tổ chức, cơ quan, đơn vị, địa phương mình. Do đó, cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân cần được đặt ngang hàng, đồng thời với công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Biểu hiện mới của chủ nghĩa cá nhân - qua góc nhìn một số đại án
Cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực thời gian qua, về bản chất chính là cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân. Trong thời kỳ trước chúng ta đã chứng kiến biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, như một số cá nhân được tin tưởng giao trách nhiệm, nhưng lại ăn bớt, ăn gian, trộm cắp của công,... Trong bối cảnh mới hiện nay, biểu hiện ấy đã chuyển hóa sang hình thức biểu hiện mới, tinh vi hơn. Để đối phó với hành vi lợi dụng chức quyền và hạn chế hiện tượng phe nhóm, cục bộ địa phương, Đảng ta đã ban hành nhiều chủ trương, cơ chế, chính sách, như bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương ở những nơi đủ điều kiện(6), quy định cụ thể hơn quy trình, đối tượng, thời gian luân chuyển cán bộ(7), quy định tiêu chuẩn, điều kiện đối với một số vị trí, chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý,... thì biểu hiện hành vi cụ thể của chủ nghĩa cá nhân làm lãnh đạo, quản lý trong bối cảnh mới tinh vi hơn, không chỉ là tham ô, tham nhũng trực tiếp, độc đoán, chuyên quyền trực tiếp, mà ẩn hiện một cách khéo léo, bề ngoài vẫn lấy ý kiến tập thể, quyết định ban hành là tập thể, nhưng thực chất là ý chí của người đứng đầu ...
Tuy khó có thể nhận diện hết hình thức biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân trong đời sống xã hội..., nhưng công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực thời gian qua được đẩy mạnh đã cho thấy một số biểu hiện mới của chủ nghĩa cá nhân. Đó là là sự suy thoái về đạo đức cách mạng, căn bệnh lợi dụng chức vụ, quyền hạn, tham ô, tham nhũng, “bắt tay” với doanh nghiệp vì lợi ích cá nhân; đó là sự “khiêm nhường” bề ngoài, nhưng bản chất bên trong vẫn là độc đoán, chuyên quyền, vẫn đặt lợi ích cá nhân lên trên, lên trước lợi ích tập thể, lợi ích quốc gia. Lợi ích cá nhân trong thời kỳ mới không chỉ đơn thuần là lợi ích vật chất trước mắt, mà đó còn là lợi ích trong sự thăng tiến của bản thân, thậm chí còn là lợi ích nhóm trong sự thăng tiến của người thân, gia đình, dòng họ, đồng hương... Các biểu hiện này trong đội ngũ cán bộ, đảng viên đã và đang được nhận diện, được toàn Đảng đồng tâm khắc phục, cho dù phải trả giá bằng tổn thất không nhỏ về cán bộ. Theo Ban Nội chính Trung ương, tính từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII đến 2-2-2024, đã kỷ luật 105 cán bộ diện Trung ương quản lý, trong đó có 22 Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng do có vi phạm liên quan đến các vấn đề trên.
Đi sâu một số đại án trong thời gian qua ở nhiều tỉnh, thành phố cho thấy rõ chủ nghĩa cá nhân đã và đang xuất hiện với biểu hiện hành vi sai phạm mới. Năm 2017: Bí thư Thành ủy Đà Nẵng phải chịu trách nhiệm chính về vi phạm, khuyết điểm của Ban Thường vụ Thành ủy Đà Nẵng nhiệm kỳ 2015 - 2020; một Phó Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh bị khai trừ Đảng, bị khởi tố vì tội “Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát lãng phí”; năm 2020, có 3 Ủy viên Bộ Chính trị bị xử lý kỷ luật... Sai phạm được chỉ ra trong nhiều vụ án tập trung vào một số nhóm cơ bản: Vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ; vi phạm các quy định của Đảng, Nhà nước về công tác trên các mặt: tài chính, kinh tế, công tác cán bộ,..; trong lãnh đạo, quản lý có biểu hiện áp đặt, thiếu trách nhiệm, buông lỏng lãnh đạo, chỉ đạo, thiếu kiểm tra, giám sát, để xảy ra nhiều vi phạm, khuyết điểm gây hậu quả nghiêm trọng; vi phạm quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên trong rèn luyện, giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống...
Phân tích về nguyên nhân dẫn đến các vi phạm trên, có thể thấy:
Từ góc nhìn đạo đức: Chủ nghĩa cá nhân là nguồn căn dẫn đến sự chuyển hóa con người từ tốt sang xấu, “là mẹ đẻ ra tất cả mọi tính hư nết xấu”(8). Thường có hai trường hợp: 1- Khi nảy sinh tư tưởng vì lợi ích cá nhân, con người sẽ xuất hiện suy nghĩ tìm kiếm cách thức để thu vén lợi ích cho bản thân. Mưu mô, thủ đoạn bắt đầu xuất hiện cộng với thẩm quyền, chức trách được giao sẽ chi phối hành vi con người, biến người tốt thành người xấu. 2- Trường hợp thứ hai là đứng trước cám dỗ vật chất lớn, lại có thẩm quyền trong tay, khiến cán bộ dễ dàng xuôi chiều, bỏ qua quy định pháp luật, bỏ qua quy tắc đạo đức để hưởng lợi. Do đó, tự tu dưỡng rèn luyện đạo đức cách mạng, đạo đức người cán bộ, đảng viên là yêu cầu tất yếu đầu tiên. Con người không thường xuyên dưỡng ĐỨC làm gốc rễ thì dễ sa vào chủ nghĩa cá nhân.
Từ góc nhìn chính trị: Chủ nghĩa cá nhân che lấp, làm cá nhân đi ngược với các giá trị chung. Sự tác động của lợi ích cá nhân khiến cá nhân dễ bị tác động, dễ dẫn đến việc làm không có lợi cho tổ chức, cho Đảng, cho đất nước; có thể vì lợi ích bản thân mà gây mất đoàn kết trong tổ chức, gây chia rẽ trong quần chúng, thậm chí có thể đánh mất lý tưởng, phản bội đất nước. Điều này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh cảnh báo: “Đã không đồng đức thì không đồng tâm. Cho nên một người đầy chủ nghĩa cá nhân... thế nào mà đồng tâm đồng đức được với Đảng, với giai cấp công nhân”(9). Cá nhân hưởng thụ bất kỳ lợi ích không chính đáng nào cũng là đi ngược lại chủ trương, đường lối của Đảng, vi phạm quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã luận giải: “chủ nghĩa cá nhân đã đưa các đồng chí ấy đến chỗ “tự do hành động”, trái với tổ chức và kỷ luật của Đảng”(10). Mà đối với mỗi cán bộ, đảng viên, kiên định lý tưởng cách mạng, chấp hành quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước là nhiệm vụ tiên quyết, là yêu cầu, đòi hỏi đầu tiên. Công cuộc đổi mới của đất nước đã sắp bước sang năm thứ 40; thời kỳ xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật để theo kịp với sự phát triển kinh tế - xã hội cũng đã đi qua giai đoạn đầu với những “khoảng trống” từng bước được khắc phục. Nhưng trải qua thời kỳ này mới thấy tầm quan trọng của người cán bộ, đảng viên có bản lĩnh chính trị, kiên định trước mọi cám dỗ vật chất đem lại giá trị nhân văn vô cùng sâu sắc. Con người phải kiên định và KIÊN ĐỊNH CHÍNH TRỊ giúp con người đứng vững trong mọi hoàn cảnh, tình huống.
Từ góc nhìn kinh tế: Chủ nghĩa cá nhân là nguồn căn của tệ tham nhũng, của việc lợi dụng hạn chế, lỗ hổng trong chính sách. Lợi ích hấp dẫn con người chủ yếu xoay quanh lợi ích về kinh tế, vật chất. Dưới góc nhìn kinh tế, có thể khái quát hai dạng chủ yếu: 1- Chủ nghĩa cá nhân trực tiếp dẫn tới hành vi tham ô, tham nhũng, gây thiệt hại về vật chất. Chủ tịch Hồ Chí Minh thống kê: “Theo con số đã nắm được từ năm 1958 đến 1961 thì những vụ tham ô đã làm hao tổn của Nhà nước hàng triệu đồng”(11). Theo thống kê của Ban Nội chính Trung ương, về công tác điều tra, truy tố, xét xử, năm 2023, các cơ quan tiến hành tố tụng trên cả nước đã khởi tố hơn 4.500 vụ, hơn 9.370 bị can về các tội phạm về tham nhũng, kinh tế, chức vụ (tăng 46% về số vụ án so với năm 2022). Riêng án tham nhũng tăng gần 2 lần về số vụ và hơn 2 lần về số bị can. 2- Chủ nghĩa cá nhân gián tiếp tác động đến việc ban hành chính sách. Vì lợi ích cá nhân, chủ thể có trách nhiệm trong quá trình xây dựng, ban hành chính sách có thể chủ ý điều chỉnh chính sách cốt mang lại lợi ích cho bản thân, bất chấp việc điều chỉnh này không mang lại lợi ích cho tập thể, thậm chí gây thiệt hại về kinh tế cho đất nước.
Từ góc nhìn văn hóa - xã hội: Mỗi con người để chủ nghĩa cá nhân lấn át, chi phối không chỉ kéo tụt sự phát triển của cá nhân, mà còn gây tổn hại cho sự lành mạnh của môi trường văn hóa, là lực cản sự phát triển xã hội. Khi bị đồng tiền chi phối, con người có thể vô cảm trước nỗi đau của người khác. Vụ án chuyến bay giải cứu cho thấy sự thật đau lòng này. Vụ án liên quan đến việc quan chức và doanh nghiệp nhận và đưa hối lộ để được cấp phép thực hiện các chuyến bay đưa công dân Việt Nam từ nước ngoài về nước trong bối cảnh đại dịch COVID-19. Một số bị can bị truy tố tội “Nhận hối lộ”, “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ”... Từ góc nhìn văn hóa - xã hội, đây không chỉ là lợi dụng chức vụ, quyền hạn, mà ở chỗ các bị can đã bị lợi ích cá nhân làm “mờ mắt”, vô cảm, không đồng cảm, bất chấp khó khăn của người gặp hoạn nạn muốn được trở về đất nước trong đại dịch Covid-19. Qua vụ án, có thể thấy, từng cán bộ, đảng viên phải là người có tấm lòng nhân ái, vì cộng đồng; có đạo đức trong thực thi công vụ. Và chống tham nhũng, chống chủ nghĩa cá nhân phải đồng thời với XÂY DỰNG VĂN HÓA, ĐẠO ĐỨC.
Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội không có chỗ đứng cho chủ nghĩa cá nhân, ý thức và hành vi, hoạt động của con người đều vì tập thể, vì cộng đồng, do đó chủ nghĩa cá nhân là một trở ngại lớn cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội, “là một kẻ địch hung ác của chủ nghĩa xã hội”(12). Trước đây, toàn Đảng đã gắn “cuộc chiến” chống chủ nghĩa cá nhân với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội “thắng lợi của chủ nghĩa xã hội không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân”(13), “Muốn đánh thắng kẻ thù là chủ nghĩa đế quốc, muốn xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội, thì trước hết phải chiến thắng kẻ thù bên trong của mỗi chúng ta là chủ nghĩa cá nhân”(14). Rõ ràng, không chiến thắng được chủ nghĩa cá nhân tất yếu chủ nghĩa xã hội không thể thành công đúng nghĩa.
Do đó, trong bối cảnh hiện nay, cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng cam go nhất, gay gắt nhất, khó khăn nhất chính là cuộc tự đấu tranh trong nội bộ Đảng, cuộc đấu tranh trong chính bản thân mỗi cán bộ, đảng viên.
Cách thức, giải pháp đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, bảo vệ Đảng thời gian tới
Trong thời gian tới, để cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng đạt hiệu quả cao hơn, phải có giải pháp cụ thể trên cơ sở nhận thức mới về cuộc đấu tranh này, bao gồm nhận thức mới về hành vi, biểu hiện mới của chủ nghĩa cá nhân, chủ thể mới được coi là đối tượng đấu tranh, và nội dung, phương thức đấu tranh mới.
Một là, nhận diện chủ thể đấu tranh trong cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong bối cảnh hiện nay.
Đối với chủ thể đấu tranh là tổ chức đảng: phải khai thông nhận thức theo hướng hiểu rõ bản chất của chủ nghĩa cá nhân; nắm được hình thức biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân; nắm vững nguyên tắc đấu tranh với chủ nghĩa cá nhân; xử lý nghiêm khắc, nghiêm minh, công bằng, tạo sức răn đe, không tạo tiền lệ, không để ngoại lệ...
Đối với chủ thể đấu tranh là cán bộ, đảng viên: Xác định cuộc đấu tranh này là “cuộc chiến” lâu dài, thường xuyên, liên tục, không thể hình thức, không theo phong trào, không được nể nang; không có ngoại lệ, phải kiên trì, không nóng vội và phải gắn liền với các nhiệm vụ khác, như phải tăng cường giáo dục đạo đức cách mạng, đề cao ý thức tự giác, nâng cao trình độ hiểu biết, năng lực thực thi công vụ, bồi dưỡng chính trị, xây dựng văn hóa, đạo đức, xây dựng ý thức, trách nhiệm công dân, trách nhiệm tiên phong, gương mẫu của người đảng viên... tránh tình trạng cả hữu ý và vô tình, cả chủ động và bị lôi kéo, vì cám dỗ mà vi phạm quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Nền tảng cơ sở vững chắc là tiếp tục tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đề cao tinh thần chấp hành kỷ luật Đảng, chấp hành pháp luật của Nhà nước, đề cao đạo đức cách mạng chân chính của người cán bộ, đảng viên... Với “hành trang” này, đội ngũ cán bộ, đảng viên sẽ nhận thức rõ tác hại của chủ nghĩa cá nhân, tự thân rèn luyện để tự chống chủ nghĩa cá nhân nảy sinh trong bản thân mình, đoàn kết, nhất trí với tổ chức để xây dựng tổ chức trong sạch, vững mạnh toàn diện.
Hai là, xác định nội dung, phương thức đấu tranh mới.
Thứ nhất, tăng cường tuyên truyền, đẩy mạnh việc “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, trong từng thời kỳ; đối với từng tổ chức cần xây dựng các tiêu chí phù hợp, cần có chương trình hành động cụ thể để học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Thứ hai, tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, coi đây là giải pháp then chốt. Bảo đảm tổ chức đảng hoạt động theo đúng các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng(15). Các nguyên tắc đoàn kết thống nhất trong Đảng, tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình, yêu thương đồng chí, củng cố mối liên hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân là cơ sở quan trọng để chống chủ nghĩa cá nhân, chống các căn bệnh nảy sinh từ chủ nghĩa cá nhân. Bảo đảm các nguyên tắc này, từng cán bộ, đảng viên sẽ khó chệch hướng, cấp ủy sẽ khó mắc sai lầm. Nếu tự phê bình và phê bình dân chủ thì sẽ ngăn chặn được hiện tượng “Họ phê bình người khác mà không muốn người khác phê bình họ; không tự phê bình hoặc tự phê bình một cách không thật thà, nghiêm chỉnh... Họ không lắng nghe ý kiến của quần chúng”(16). Nếu yêu thương đồng chí, củng cố mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân thì sẽ tránh được “tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành... tự cao, tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán, chuyên quyền... xa rời quần chúng, xa rời thực tế, mắc bệnh quan liêu, mệnh lệnh”(17)... Nếu nghiêm túc thực hiện nhiệm vụ đảng viên, quyền và nghĩa vụ công dân thì tránh được “Lúc tính toán công việc, thì đặt lợi ích của cá nhân mình, của nhóm mình lên trên lợi ích chung... dễ đưa đến chỗ trái kỷ luật, trái lợi ích của dân tộc”(18)...
Ba là, kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân từ gốc. Nghị quyết số 04-NQ/TW, ngày 30-10-2016, của Hội nghị Trung ương 4 khóa XII, về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” đã chỉ rõ nguyên nhân tình trạng suy thoái của một bộ phận cán bộ, đảng viên là do bản thân cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện, sa vào chủ nghĩa cá nhân. Trong 9 biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống, biểu hiện cá nhân chủ nghĩa được đề cập là biểu hiện đầu tiên.
Trong tình hình mới hiện nay, muốn chống chủ nghĩa cá nhân hiệu quả phải bảo đảm: Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân trên cơ sở tôn trọng cá nhân, “Nếu những lợi ích cá nhân đó không trái với lợi ích của tập thể thì không phải là xấu”(19). Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân phải đồng thời với xây dựng và hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật trên các lĩnh vực. Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân phải đồng thời với đấu tranh trên các “mặt trận” khác, như đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, đấu tranh chống “xâm lăng” văn hóa, đồng thời với xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh trong xã hội (gia đình, nhà trường, nơi công tác) và tăng cường giáo dục đạo đức xã hội, đạo đức cách mạng,...
Bốn là, tăng cường kiểm tra, giám sát. Đây là một trong những nhiệm vụ thường xuyên, liên tục của cấp ủy, của ủy ban kiểm tra đảng ủy. Tuy nhiên, cần xây dựng chương trình kiểm tra, giám sát chuyên đề về nâng cao đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân. Bên cạnh đó, phát huy vai trò giám sát của quần chúng nhân dân để phát hiện từ sớm, từ xa biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân và dấu hiệu của các căn bệnh nảy sinh từ chủ nghĩa cá nhân./.
-------------------------
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 15, tr. 546 - 547
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 547
(3) Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 8 - 10 (“Đảng viên có nhiệm vụ:.../2. Không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ kiến thức, năng lực công tác, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, có lối sống lành mạnh; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, cục bộ, quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác. Chấp hành quy định của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm...)
(4), (5) Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu tại Hội nghị tổng kết 10 năm công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực giai đoạn 2012 - 2022, ngày 30-6-2022, https://thanhtra.gov.vn/xem-chi-tiet/-/asset_publisher/Content/hoi-nghi-toan-quoc-tong-ket-10-nam-cong-tac-phong-chong-tham-nhung?6504661
(6) Xem: Nghị quyết số 26-NQ/TW, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, ngày 19-5-2018, về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ | Tư liệu văn kiện Đảng (dangcongsan.vn)
(7) Xem: Quy định số 65-QĐ/TW của Bộ Chính trị, ngày 28-4-2022, về luân chuyển cán bộ, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/he-thong-van-ban/van-ban-cua-dang/quy-dinh-so-65-qdtw-ngay-2842022-cua-bo-chinh-tri-ve-luan-chuyen-can-bo-8494
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 13, tr. 90
(9), (10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 466, 606
Đấu tranh phản bác luận điệu lợi dụng vấn đề “quyền của người bản địa” kích động “ly khai, tự trị” dân tộc (03/01/2025)
Nhận diện và đấu tranh với một số học thuyết phi mác-xít kiểu mới hòng phê phán, phủ nhận chủ nghĩa Mác (kỳ 2 và hết) (22/12/2024)
Nhận diện và đấu tranh với một số học thuyết phi mác-xít kiểu mới hòng phê phán, phủ nhận chủ nghĩa Mác (kỳ 1) (16/12/2024)
Phê phán các quan điểm sai trái, xuyên tạc về định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
TCCS - Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, mô hình phát triển tổng quát của nền kinh tế Việt Nam, đang từng bước tạo tiền đề bền vững cho sự phồn vinh, hạnh phúc của nhân dân Việt Nam. Tuy nhiên, các thế lực thù địch, phản động vẫn tìm mọi cách để lan truyền các quan điểm sai trái, xuyên tạc về định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở nước ta dưới nhiều cấp độ khác nhau. Do vậy, yêu cầu cấp thiết đặt ra hiện nay là kiên quyết đấu tranh, phê phán, bác bỏ các quan điểm sai trái này.
Sự tinh vi, phức tạp của các quan điểm sai trái, xuyên tạc định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
Hiện nay, các luận điệu sai trái, xuyên tạc về định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam đang được các thế lực thù địch, phản động tích cực gieo rắc, truyền bá, len lỏi vào trong các bộ phận, giai tầng xã hội cũng như nhân dân dưới nhiều hình thức, biện pháp khác nhau, lúc công khai, khi ngấm ngầm, quyết liệt. Các luận điệu sai trái, thù địch có nhiều, nhưng có thể khái quát vào ba nhóm vấn đề chủ yếu sau đây:
Một là, nhóm quan điểm sai trái, xuyên tạc, phủ nhận tính hiện thực của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Các thế lực thù địch ráo riết lan truyền luận điệu rằng, sẽ không thể có được nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhiều lý lẽ xuyên tạc được các thế lực thù địch sử dụng để biện hộ cho cách lập luận của họ. Chúng xuyên tạc rằng, chủ nghĩa xã hội còn chưa rõ là thế nào, thì việc định hướng xã hội chủ nghĩa là không rõ ràng, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa lại càng tù mù hơn(?!); rằng, Việt Nam chưa có kinh tế thị trường đúng nghĩa trong khi lại định hướng đi tới một chế độ xã hội chưa rõ ràng nên đi từ cái “chưa có gì” đến cái “chưa biết gì” là không thể. Không dừng lại ở đó, các thế lực thù địch còn tiếp tục xuyên tạc rằng, chủ nghĩa xã hội đã sụp đổ từ cuối thập niên 80 của thế kỷ XX rồi, làm gì còn chủ nghĩa xã hội mà định hướng; nào là hệ tư tưởng chủ nghĩa xã hội đã đi vào dĩ vãng, cáo chung, làm sao cứ bám quá khứ để định hướng đi đến tương lai (?!)... Nhiều quan điểm sai trái, thù địch kiểu như trên đang diễn ra hằng ngày, hằng giờ, được cài cắm, len lỏi vào các diễn đàn trên mạng xã hội, các diễn đàn “hiến kế”, các diễn đàn “yêu nước”, vì “dân oan”... Đây là cách thức rất tinh vi, xảo quyệt mà các thế lực thù địch, phản động sử dụng hòng xuyên tạc, phủ nhận định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Hai là, nhóm quan điểm sai trái, xuyên tạc rằng, kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa là tự mâu thuẫn nhau, không thể tương dung trong nền kinh tế thị trường đúng nghĩa.
Để biện hộ cho quan điểm sai trái, tinh vi này, các thế lực thù địch, phản động tìm mọi luận cứ gán ghép xuyên tạc, hòng khiến người dân mơ hồ về định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Theo chúng, kinh tế thị trường là tự do, trong khi định hướng xã hội chủ nghĩa là chuyên chế; kinh tế thị trường là đa nguyên, trong khi chủ nghĩa xã hội là nhất nguyên; kinh tế thị trường là dân chủ, trong khi định hướng xã hội chủ nghĩa là độc đoán; kinh tế thị trường là sở hữu tư nhân, trong khi định hướng xã hội chủ nghĩa là sở hữu toàn dân; kinh tế thị trường là cạnh tranh bình đẳng, trong khi định hướng xã hội chủ nghĩa lại xác lập vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước... Do đó, tự bản thân kinh tế thị trường đã mâu thuẫn với định hướng xã hội chủ nghĩa, tự nội hàm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã mâu thuẫn nhau, nên sẽ không thể cùng tồn tại trong một mô hình kinh tế thị trường(?!).
Ba là, nhóm quan điểm xuyên tạc rằng, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là không có cơ sở lý thuyết khoa học, có chăng chỉ là sự gán ghép khiên cưỡng lý thuyết kinh tế thị trường với lý luận Mác - Lê-nin.
Đưa ra quan điểm sai trái, lập luận phủ định, bác bỏ chưa đủ, các thế lực thù địch, phản động còn viện dẫn đến các phương thức xuyên tạc, vòng vo, lập lờ để hòng đánh lạc hướng thành viên trong xã hội. Chúng xuyên tạc rằng, chỉ có sở hữu tư nhân, kinh tế tư nhân mới là động lực của kinh tế thị trường; đồng thời, viện dẫn các quan điểm lý thuyết của các nhà kinh tế học phương Tây rằng, muốn có kinh tế thị trường thì tư nhân phải là chủ đạo. Theo đó, các quan điểm sai trái bám vào luận điệu cho rằng, cơ sở lý luận của sự phát triển kinh tế thị trường phải dựa trên sở hữu tư nhân; trong khi đó, chủ nghĩa Mác - Lê-nin lại chủ trương công hữu là là sự gán ghép khiên cưỡng vào nền kinh tế(?!). Tinh vi hơn, các quan điểm xuyên tạc định hướng xã hội chủ nghĩa còn thường xuyên nhấn mạnh rằng, kinh tế thị trường phải dựa trên nền tảng xã hội dân sự, trong khi định hướng xã hội chủ nghĩa lại dựa trên hệ thống chính trị độc đảng; kinh tế thị trường phải dựa trên các lý thuyết kinh tế tự do, trong khi định hướng xã hội chủ nghĩa lại dựa trên chủ nghĩa Mác - Lê-nin ngoại lai(?!). Không dừng lại ở đó, các quan điểm sai trái, thù địch còn viện dẫn các biểu hiện đơn lẻ để quy kết cho bản chất của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Chúng quy chụp rằng, vì sự khiên cưỡng này nên hàng loạt vụ tham nhũng lớn xảy ra ở Việt Nam là do nền kinh tế thị trường ở Việt Nam không có cơ sở lý luận vững chắc... Có thể thấy, rất nhiều lập luận sai trái, xuyên tạc như vậy đang được đẩy mạnh truyền bá trong nhiều chương trình của hệ thống truyền thông của các thế lực thù địch, phản động.
Ba nhóm lập luận nêu trên là điển hình trong rất nhiều quan điểm xuyên tạc, phủ nhận nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta mà các thế lực thù địch, phản động ráo riết truyền bá dưới các màu sắc và cách thức tinh vi, xảo quyệt khác nhau. Âm mưu nguy hiểm của chúng là nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trên con đường phát triển của đất nước ta. Các quan điểm sai trái, thù địch, xuyên tạc thực chất là truyền bá đắc lực cho các thế lực mưu đồ giành quyền lực chính trị. Các thế lực này đang khát khao tìm cách len lỏi vào đời sống xã hội; từ đó, từng bước gây chia rẽ, mâu thuẫn, mơ hồ trong nội bộ cán bộ, đảng viên và nhân dân, tiến tới gây ảnh hưởng chính trị, làm rối loạn sự ổn định ở Việt Nam. Các thế lực thù địch, phản động nhận thức được rằng, nền tảng tư tưởng, lý luận của định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam là chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở nước ta chỉ có thể được thực hiện dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; do đó, tìm mọi cách xuyên tạc về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đồng nghĩa với việc gián tiếp bác bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đồng thời, khi xuyên tạc, làm méo mó nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, các thế lực thù địch, phản động muốn xuyên tạc, phủ nhận những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử mà đất nước ta đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhất là thành tựu của gần 40 năm đổi mới.
Ý đồ sâu xa của các quan điểm sai trái, xuyên tạc, thù địch nêu trên là không thừa nhận con đường phát triển đúng đắn, phù hợp của Việt Nam; cố tình bôi nhọ, tìm mọi cách chống phá, trên mọi mặt trận, bằng mọi thủ đoạn hòng xóa bỏ con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Các thế lực thù địch, phản động đang ra sức xuyên tạc, chống phá, hòng làm chệch hướng con đường phát triển của Việt Nam dưới nhiều màu sắc khác nhau. Chúng vận dụng, tận dụng nhiều hình thức, nhiều kênh, nhiều mặt trận thông tin để thực hiện âm mưu “mưa dầm, thấm lâu”, gây mơ hồ trong các giai tầng xã hội, hòng làm dao động tư tưởng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân; gây hoài nghi, chia rẽ nội bộ, làm cho một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân mất niềm tin vào nền tảng tư tưởng của Đảng, hòng từng bước làm tan rã định hướng xã hội chủ nghĩa trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam.
Nhận diện sự sai trái về mặt lý luận trong các quan điểm thù địch
Về mặt lý luận, lập luận về sự không tương dung, sự mâu thuẫn, không có cơ sở lý thuyết vững chắc... của các quan điểm sai trái nêu trên đều không hề thuyết phục, chẳng qua chỉ là lập luận xuyên tạc, sai trái hòng phân tán, đánh lạc hướng dư luận. Một mặt, lịch sử phát triển của nhân loại cho thấy, kinh tế thị trường là sản phẩm của văn minh nhân loại. Ở đâu có sự phân công lao động và có sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa con người với con người, thì ở đó có sự thúc đẩy dẫn tới xuất hiện của quan hệ hàng hóa, ở đó có quan hệ thị trường. Sự phát triển cứ như vậy diễn ra một cách khách quan vượt ra ngoài mọi ý chí chủ quan của con người. Về bản chất, kinh tế thị trường là giá trị phổ quát, không phải là giá trị riêng có của chủ nghĩa tư bản. Do đó, việc đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản, đồng nhất kinh tế thị trường với kinh tế tư nhân tư bản chủ nghĩa là hoàn toàn sai lầm; lấy sự hiểu biết không thấu đáo để lớn tiếng cho rằng, chỉ có trên nền tảng tư bản chủ nghĩa, chỉ có kinh tế tư nhân mới có kinh tế thị trường là quan điểm ấu trĩ!
Mặt khác, đến lượt nó, dù phát triển ở đâu, trong phạm vi quốc gia nào, ngoài những đặc trưng chung, những thành tố không thể thiếu là các yếu tố thị trường và các loại thị trường, thì kinh tế thị trường đều chịu sự quy định và phản ánh trình độ phát triển, điều kiện lịch sử, văn hóa, kinh tế, xã hội, chính trị, thể chế ở quốc gia đó. Không có một nền kinh tế thị trường trừu tượng, chung chung, phi lịch sử. Thực tế cho thấy, mô hình kinh tế thị trường kiểu Mỹ khác với kinh tế thị trường kiểu Đức, kinh tế thị trường kiểu Pháp khác với kinh tế thị trường kiểu Nhật Bản, kinh tế thị trường kiểu Anh khác với kinh tế thị trường kiểu Thụy Điển... Sở dĩ như vậy là vì, ngoài nền tảng chung là các yếu tố thị trường, các loại thị trường trong nền kinh tế thị trường hiện đại ngày nay đều có vai trò của nhà nước, không có nền kinh tế thị trường nào chỉ nguyên nghĩa, tồn tại duy nhất vai trò của thị trường. Bởi lẽ, bản thân cơ chế thị trường cũng có những “khuyết tật” mà không thể tự khắc phục được. Vai trò của nhà nước trong việc khắc phục khuyết tật của thị trường là tất yếu khách quan. Khi đã có sự tham gia của nhà nước một cách khách quan, tất yếu có đặc trưng khác nhau trong các nền kinh tế thị trường đó ngoài những đặc điểm chung. Không có một nền kinh tế thị trường tự do vô chính phủ, lửng lơ. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam cũng không nằm ngoài tính phổ biến đó. Vì vậy, các quan điểm sai trái, xuyên tạc, cố tình lập luận, dùng một tưởng tượng về nền kinh tế thị trường chung chung, trừu tượng, phi lịch sử để quy cho một mô hình kinh tế thị trường cụ thể, hiện hữu là phi lịch sử và phản khoa học.
Càng không đúng hơn khi xuyên tạc rằng, kinh tế thị trường là đa nguyên, định hướng xã hội chủ nghĩa là nhất nguyên; kinh tế thị trường là tự do, định hướng xã hội chủ nghĩa là chuyên chế, độc đoán... Đây là những cách lập luận mang tính thù địch, cố tình không phân biệt giữa thể chế kinh tế với thể chế chính trị, không phân biệt giữa chế độ xã hội với thể chế kinh tế thị trường, dùng biểu hiện bề ngoài và một vài khía cạnh của kinh tế thị trường để đánh đồng cho toàn bộ cấu trúc tổng thể của một mô hình kinh tế thị trường, cũng như không hiểu về bản chất tốt đẹp của xã hội xã hội chủ nghĩa. Về mặt lý luận, không ở đâu có cái gọi là “kinh tế thị trường nhất nguyên”, càng không có “kinh tế thị trường tự do trừu tượng”, cũng không có “kinh tế thị trường nào là độc đoán, chuyên chế”. Sự cố tình lập lờ, tráo lộn các phạm trù kinh tế với các phạm trù chính trị là lập luận sai trái, âm mưu nguy hiểm của các thế lực thù địch, phản động.
Hơn nữa, việc sử dụng một số biểu hiện có tính chất hạn chế nhất thời, để từ đó thổi phồng như là bản chất của nền kinh tế thị trường càng hoàn toàn không phải là một cách lập luận thuyết phục, chẳng hạn việc phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó kinh tế nhà nước có vai trò chủ đạo, là dung dưỡng cho tham nhũng, cho thất thoát lại một lần nữa cho thấy sự không trung thực, ý đồ xấu trong lập luận của các quan điểm sai trái nêu trên. Thực tế là, những biểu hiện nhất thời, những khiếm khuyết xảy ra không phải là bản chất xuyên suốt của một nền kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ theo các quy luật của nền kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Như thế, xét về bản chất, thực hiện đầy đủ những giá trị đó chính là giá trị chung mà mỗi người Việt Nam chân chính đều mong muốn. Đó cũng là thể hiện sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào thực tiễn phát triển của Việt Nam. Chủ nghĩa Mác - Lê-nin là chủ nghĩa vì tự do, chủ nghĩa hướng đến khát vọng tự do của con người, mưu cầu sự giải phóng cho nhân loại; song, các thế lực thù địch, phản động lại xuyên tạc việc phát triển kinh tế dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Tham nhũng, thất thoát, lãng phí không xuất phát từ bản chất kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; do đó, cố tình dùng hiện tượng đơn lẻ để quy chụp cho bản chất, dùng biểu hiện nhất thời, quy cho toàn bộ quá trình là cách lập luận hoàn toàn thiếu xác đáng. Tuy nhiên, việc cố tình lập lờ, đánh lận con đen dễ gây ngộ nhận, nhầm lẫn, nên các thế lực thù địch không ngần ngại sử dụng hòng xuyên tạc, phủ nhận mọi thành tựu mà đất nước ta đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Những thành tựu phát triển là chứng cứ khách quan thuyết phục bác bỏ mọi quan điểm sai trái, xuyên tạc định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
Chưa cần chỉ ra các cách thức chống phá, luận điệu sai trái, quy chụp vô nguyên tắc, gán ghép bừa bãi hiện tượng với bản chất, tính ngụy biện, lập lờ của các quan điểm nêu trên, bản thân những thành quả của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay là minh chứng, luận cứ khách quan, xác thực nhất nhằm phản bác không khoan nhượng các quan điểm sai trái, thù địch về định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở nước ta.
Thứ nhất, việc chuyển thành công từ nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hóa sang nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chính là luận cứ đanh thép nhất phản bác mọi luận điệu sai trái, xuyên tạc về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Từ một nền kinh tế đói nghèo, khủng hoảng, chịu thiệt hại nặng nề bởi chiến tranh do chủ nghĩa thực dân, đế quốc và tay sai bù nhìn gây ra, hiện nay trong nền kinh tế ở Việt Nam đã hiện diện đầy đủ yếu tố thị trường, các loại thị trường với biểu hiện phong phú, hiện thực sinh động và sự tham gia đa dạng các loại hình, các quan hệ kinh tế; số lượng hàng hóa, dịch vụ phong phú, đa dạng, đáp ứng và thỏa mãn nhu cầu của mọi người, từ đô thị đến nông thôn, từ đồng bằng đến miền núi, từ nơi phát triển đến vùng sâu, vùng xa; hàng hóa, dịch vụ lan tỏa vào mọi khu vực địa lý, mọi loại địa hình. Thực tế này là gì nếu không phải là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và do đó, định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam là đúng đắn, phù hợp. Đó là một thực tế về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam mà không một thế lực nào có thể bác bỏ được.
Thứ hai, chính những thành tựu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đã đem lại những kết quả vượt bậc về tăng trưởng kinh tế đi đôi thực hiện tiến bộ xã hội, giảm nghèo bền vững với tốc độ nhanh, hiệu quả, đang được các phương tiện thông tin đại chúng trên khắp thế giới ghi nhận và công bố khách quan, một lần nữa minh chứng cho tính hiện thực của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Những kết quả đó đã được thế giới công nhận. Đặc biệt, khi cả thế giới phải đương đầu với đại dịch COVID-19, thì tính ưu việt của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam lại càng được thể hiện rõ ràng, hiệu quả.
Bên cạnh những thành tựu về giảm nghèo, nhiều thành tựu khác về chỉ số phát triển con người, về mạng lưới an sinh xã hội, về tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người, về sự phát triển của giáo dục, y tế, các dịch vụ cơ bản khác trên tất cả lĩnh vực được thể hiện đậm nét trong các bảng thống kê của các tổ chức trên thế giới. Điều này cho thấy, những kết quả, thành tựu về chính trị, kinh tế, xã hội ở nước ta được thế giới tiến bộ thừa nhận và trở thành luận cứ sắc bén bóc trần âm mưu đen tối, thái độ hằn học của các thế lực thù địch, phản động.
Thứ ba, nền kinh tế thị trường Việt Nam ngày càng gắn bó với thị trường thế giới, khi hàng hóa của Việt Nam tham gia vào thị trường của hơn 200 quốc gia, vùng lãnh thổ trên khắp hành tinh; và theo chiều ngược lại, chừng đó những dòng hàng hóa, dịch vụ của các thị trường ấy tham gia vào nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Đó là gì, nếu không phải là do sự vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam? Những thành tựu có được chính là nhờ việc thực hiện kiên định định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta, nhân dân ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn. Chính chế độ xã hội chủ nghĩa đã đem lại sự ổn định, phồn vinh của đất nước ta, sự tin tưởng của cộng đồng doanh nghiệp và các chính đảng, nhà nước, tổ chức quốc tế ở khắp nơi trên thế giới đối với Việt Nam. Thực tế đó đã chứng minh tính đúng đắn của việc lựa chọn nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đồng thời, thực tế còn cho thấy, khi đất nước ta càng đạt được nhiều thành tựu, thì các thế lực thù địch, phản động càng điên cuồng chống phá, phủ nhận, hòng xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Thế nhưng, chính những thành tựu mà đất nước ta đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng là luận cứ đanh thép, thuyết phục nhất phản bác mọi âm mưu, thủ đoạn thâm độc của các thế lực thù địch, phản động; đồng thời, là cơ sở, động lực để thúc đẩy đất nước ta đạt được những thành tựu mới cao hơn, vững chắc hơn trong giai đoạn phát triển tiếp theo./.