Kiên quyết đấu tranh, bác bỏ các âm mưu, thủ đoạn, luận điệu sai trái phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, phủ nhận những thành quả cách mạng Việt Nam
TCCS - Một trong những âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, phản động nhằm chống phá nước ta là tìm mọi cách phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng, mưu toan phủ nhận, bác bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, hòng xóa bỏ thành quả cách mạng, phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng và nhân dân ta, hướng lái Việt Nam phát triển đi theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa.
Những luận điệu phi khoa học, vô căn cứ
Thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động ráo riết đẩy mạnh việc công kích, xuyên tạc vai trò lãnh đạo của Đảng ta trên nhiều phương tiện truyền thông, nhất là trên internet, các mạng xã hội, như xuyên tạc rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã hết vai trò lịch sử, không còn đủ khả năng để lãnh đạo đất nước trong bối cảnh thế giới có nhiều bất ổn, làm cho đất nước lâm vào tình trạng yếu thế, lạc hậu trước xu hướng bùng nổ thông tin và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư diễn ra mạnh mẽ, kết cấu xã hội ở Việt Nam đã có sự chuyển biến theo hướng đa dạng, nhiều tầng nấc, xu hướng dân chủ hóa ngày càng được coi trọng (!).
Để tuyên truyền cho luận điệu thâm độc trên, các thế lực thù địch, phản động đưa ra nhiều lý lẽ mang tính chất tấn công, chống phá sau:
Một là, xảo biện rằng nền tảng, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam theo các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã lỗi thời, không còn phù hợp trong thế kỷ XXI; rằng con đường đi lên chủ nghĩa xã hội do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, dẫn dắt là sai lầm, do vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam không còn đảm đương được trách nhiệm lãnh đạo, dẫn dắt dân tộc Việt Nam, nhất là trong bối cảnh mới hiện nay (!?).
Hai là, xuyên tạc, phủ nhận lịch sử và thành quả đấu tranh cách mạng vẻ vang của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Các thế lực thù địch, phản động quy chụp rằng Đảng có nhiều sai lầm trong quá khứ, và dù quá khứ có làm được một số việc thì bây giờ chuyển sang thời kỳ mới, Đảng “đã hết vai trò lịch sử, không còn đủ khả năng để lãnh đạo khiến đất nước ngày càng yếu thế và lạc hậu so với các nước trên thế giới” (!?). Các thế lực thù địch, phản động viện dẫn phiến diện và xuyên tạc thực tiễn lịch sử để ra sức chứng minh chế độ một đảng lãnh đạo là “sai lầm”, rằng nếu không có Đảng Cộng sản Việt Nam trên chính trường thì dân tộc ta không phải tiến hành cuộc chiến tranh lâu dài và đau thương như thế và rằng, nếu Đảng Cộng sản Việt Nam không “tiếm quyền” thì Việt Nam đã đứng trong hàng ngũ các nước phát triển từ lâu.
Ba là, rêu rao rằng Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng suy thoái, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng tham nhũng, tham ô, lãng phí; Đảng Cộng sản Việt Nam không thể đấu tranh phòng, chống tham nhũng, suy thoái thành công (!).
Bốn là, cho rằng Đảng Cộng sản Việt Nam hơn ai hết và trước hết nên thẳng thắn sám hối những sai lầm của mình; tình trạng khủng hoảng và đói nghèo ở Việt Nam hoàn toàn là hệ quả của chính sách cai trị độc tài dựa theo chủ nghĩa Mác - Lê-nin mà Đảng Cộng sản Việt Nam áp đặt trên đất nước Việt Nam, chiếm quyền của dân, vi phạm dân chủ, nhân quyền, độc đoán, đảng trị, thực hiện sự chuyên chính của một đảng, sự quan liêu của giới thượng lưu. Đảng không nên giữ vai trò lãnh đạo, không nên và không thể lãnh đạo tuyệt đối (!).
Năm là, lập luận hàm hồ rằng tình hình, điều kiện, bối cảnh mới ngày nay đã khác và có nhiều thay đổi về bản chất với vai trò của khoa học - công nghệ, đội ngũ trí thức ngày càng tăng, nhiệm vụ trọng tâm hiện nay là phát triển kinh tế thì giai cấp công nhân Việt Nam với đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam đã không còn đủ khả năng lãnh đạo đất nước trong thời gian tới. Từ đó, các thế lực thù địch, phản động đòi hỏi một cách phi lý rằng Đảng tự nguyện rời bỏ vai trò lãnh đạo vì Đảng “chỉ giỏi lãnh đạo trong chiến tranh”, còn trong xây dựng kinh tế thì nên trao quyền cho lực lượng chính trị khác (!).
Những luận điệu trên bộc lộ dã tâm, mưu đồ đen tối của các thế lực thù địch, phản động là xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đòi Đảng ta phải thoái lui, hòng thực hiện “đa nguyên, đa đảng”, từ bỏ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội để đưa Việt Nam theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản; từ đó, gây tâm lý hoài nghi, dao động, giảm sút niềm tin trong nhân dân, đặc biệt là niềm tin vào vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đây là những quan điểm, luận điệu hết sức phản động, sai lầm, phi khoa học, không có cơ sở cả về lý luận và thực tiễn, chứa đựng nhiều mâu thuẫn trong phân tích, đánh giá, nhiều nhận xét chủ quan, vô căn cứ và mang tính áp đặt, phải bị bác bỏ, bởi những luận cứ sau:
Thứ nhất, xuất phát từ luận điểm khách quan, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò lãnh đạo của chính đảng vô sản trong tiến trình cách mạng ở các quốc gia.
C. Mác và Ph. Ăng-ghen trong học thuyết cách mạng và khoa học của mình đã chỉ ra rằng, giai cấp công nhân là giai cấp hiện đại, cách mạng nhất, tiên tiến nhất trong xã hội, nhưng giai cấp công nhân chỉ có thể thực hiện được sứ mệnh lịch sử của mình khi thành lập ra được chính đảng đảm đương vai trò lãnh đạo, dẫn dắt giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân tiến hành cách mạng thoát khỏi ách áp bức, bóc lột, xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xây dựng chế độ cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội. Giai cấp công nhân phải giành lấy quyền lực nhà nước và thực hiện vai trò lãnh đạo đối với xã hội. V.I. Lê-nin từ thực tiễn cách mạng nước Nga đã khẳng định, chỉ có Đảng Cộng sản mới có thể lãnh đạo được giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh kiên quyết nhất chống mọi lực lượng của chủ nghĩa tư bản và chỉ có Đảng Cộng sản - đội tiên phong của giai cấp công nhân mới lãnh đạo được đất nước. V.I. Lê-nin cũng nhấn mạnh rằng, Đảng Cộng sản phải giữ vai trò duy nhất lãnh đạo nhà nước, xã hội, là người định hướng sự phát triển trên tất cả lĩnh vực đời sống xã hội. Đảng Cộng sản phải giữ vai trò lãnh đạo là nguyên tắc, là yêu cầu tất yếu. Thấm nhuần những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định rằng, cách mạng giải phóng dân tộc, cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam muốn thắng lợi, trước hết phải có Đảng Cộng sản lãnh đạo. “Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”(1).
Thứ hai, bản chất, mục tiêu, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam là vì lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân và dân tộc Việt Nam, Đảng không có lợi ích nào khác.
Các quốc gia trên thế giới đều có đảng cầm quyền lãnh đạo và nắm giữ nhà nước để tổ chức và quản lý đất nước, triển khai chủ trương, đường lối chính trị của đảng cầm quyền, thực hiện lợi ích của giai cấp thống trị. Để đánh giá vai trò, khả năng lãnh đạo đất nước của một chính đảng cầm quyền, cần phải xem xét bản chất, mục tiêu, đường lối lãnh đạo của đảng cầm quyền. Đảng Cộng sản Việt Nam là tổ chức ưu tú nhất của giai cấp công nhân, của nhân dân và dân tộc Việt Nam. Mục tiêu, lý tưởng, lợi ích của Đảng luôn thống nhất với mục tiêu, lý tưởng, lợi ích của giai cấp công nhân, toàn thể dân tộc Việt Nam. Đảng một lòng, một dạ phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, phụng sự dân tộc. Mục đích hoạt động, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam được thể hiện rõ: “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”(2), là “ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”; xây dựng một xã hội Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, đưa đất nước Việt Nam ngày càng phồn vinh, thịnh vượng, xã hội ổn định, phát triển, đời sống nhân dân thường xuyên được cải thiện,... Với bản chất, mục tiêu, đường lối như vậy thì chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam mới là chính đảng duy nhất lãnh đạo đất nước và nhân dân Việt Nam tiến tới cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc(3).
Thứ ba, trong bối cảnh mới hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam là chính đảng duy nhất hội tụ đầy đủ phẩm chất, năng lực, tiêu chí để lãnh đạo đất nước, dân tộc Việt Nam phát triển.
Trước tình hình mới hiện nay, bên cạnh những cơ hội còn tồn tại nhiều thách thức ảnh hưởng tới sự phát triển của Việt Nam, đòi hỏi chính đảng lãnh đạo quốc gia phải đoàn kết, tập hợp được quần chúng nhân dân, có tính tiên phong cách mạng; có sức mạnh và kỷ luật tập thể; toàn tâm, toàn ý vì lợi ích chung của nhân dân, dân tộc;... Ở Việt Nam hiện nay chỉ có duy nhất Đảng Cộng sản Việt Nam có được những điều kiện và nhân tố nêu trên, bởi:
Chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam mới có đủ phẩm chất chính trị và năng lực, xứng đáng là người lãnh đạo đất nước trong bối cảnh mới. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong giác ngộ, có tổ chức chặt chẽ nhất, hình thành nên sức mạnh, phẩm chất nổi trội và nhờ đó lãnh đạo, dẫn dắt đất nước ta vượt qua khó khăn, thử thách trên con đường phát triển, do: 1- Sức mạnh của sự đoàn kết, thống nhất vững chắc cả về tư tưởng và hành động, bảo đảm sự tập trung trong lãnh đạo của Đảng. Sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng dựa trên cơ sở mục tiêu, lý tưởng của Đảng, lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc, phát huy dân chủ, tôn trọng ý kiến về sự thống nhất, tổ chức và phương thức hành động tạo nên sức mạnh lớn lao, vượt qua nhiều khó khăn, thử thách; 2- Tinh thần triệt để cách mạng, sức chiến đấu mạnh mẽ, được tôi luyện và ý thức kỷ luật cao, được tổ chức và hoạt động chặt chẽ, nghiêm ngặt theo tư tưởng, nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; 3- Sự sẵn sàng hy sinh, chấp nhận khó khăn, gian khổ, khả năng vươn lên không ngừng của Đảng vì lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, của dân tộc...
Những phẩm chất, năng lực này được hình thành từ các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, như các nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tự phê bình và phê bình... Các nguyên tắc cơ bản đó đã phát huy cao nhất dân chủ trong Đảng với trí tuệ tập thể để có được những quyết định, đường lối đúng đắn, đồng thời bảo đảm sự tập trung, thống nhất cao trong thực hiện các quyết định, đường lối của Đảng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi tiến hành thì chỉ như một người”(4). Các nguyên tắc này cũng đòi hỏi cá nhân phục tùng tổ chức, thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, toàn Đảng phục tùng Trung ương, tất cả đảng viên phải chấp hành nghị quyết của đảng; đòi hỏi cán bộ, đảng viên phải tự giác, thường xuyên tu dưỡng, học tập, rèn luyện về mọi mặt, thấy được khuyết điểm để khắc phục, sữa chữa, để xứng đáng là người đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.
Chỉ có duy nhất Đảng Cộng sản Việt Nam mới gắn bó mật thiết với nhân dân, tập hợp được đông đảo quần chúng nhân dân tin và đi theo Đảng. Vai trò lãnh đạo của Đảng chính là trách nhiệm, nhiệm vụ cao cả mà nhân dân Việt Nam tin tưởng giao phó cho Đảng Cộng sản Việt Nam. Sức mạnh của Đảng bắt nguồn từ mối liên hệ mật thiết với nhân dân, từ sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân đối với Đảng. Mục tiêu lãnh đạo của Đảng là để nhân dân thực sự là người chủ đất nước, để toàn bộ quyền lực đều ở nơi dân. Đảng luôn có trách nhiệm với dân và tăng cường mối quan hệ chặt chẽ với dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Đảng được nhân dân tin yêu, giúp đỡ và thừa nhận là đội tiên phong lãnh đạo của mình. Nhân dân thấy rằng lợi ích căn bản của mình gắn liền với sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo; mục đích, lý tưởng của Đảng chính là nguyện vọng của nhân dân, của dân tộc.
Thứ tư, Đảng Cộng sản Việt Nam thường xuyên cầu thị, luôn tự xây dựng, chỉnh đốn, nâng tầm trí tuệ, nâng cao năng lực và sức chiến đấu, luôn nghiêm khắc và có trách nhiệm với vai trò, sứ mệnh lãnh đạo của mình.
Đảng Cộng sản Việt Nam không ngừng đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo, cầm quyền nhằm làm cho Đảng mạnh lên, có đường lối đúng đắn, giúp Đảng hoàn thành sứ mệnh, nhiệm vụ đặt ra, đưa Việt Nam vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, giành thắng lợi trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thực tiễn đất nước và thế giới không ngừng vận động, biến đổi, nhiều vấn đề mới, yếu tố mới xuất hiện, đòi hỏi phải được giải quyết. Đảng ta luôn tìm tòi, học hỏi, tổng kết thực tiễn để đề ra đường lối, quyết sách đúng đắn, phù hợp. Đảng luôn quan tâm đến đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực cầm quyền, phù hợp với các yêu cầu, nhiệm vụ trong các giai đoạn cách mạng, nhất là trách nhiệm, nhiệm vụ mới nảy sinh từ thực tiễn hiện nay để Đảng luôn giữ được bản chất cách mạng, khoa học, vì lợi ích của nhân dân.
Đảng Cộng sản Việt Nam xác định chất lượng, năng lực của đội ngũ đảng viên có tính chất quyết định đối với chất lượng, năng lực cầm quyền của Đảng, do vậy, Đảng chú trọng kết nạp những người ưu tú vào Đảng và luôn luôn làm trong sạch Đảng, loại bỏ những phần tử biến chất, xét lại, cơ hội chủ nghĩa ra khỏi Đảng... Đảng luôn siết chặt kỷ luật đảng để chống suy thoái, tiêu cực và tham nhũng đối với một bộ phận cán bộ, đảng viên, làm cho Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh. Đảng ta ý thức rõ rằng, một đảng duy nhất cầm quyền, bên cạnh mặt thuận lợi là cơ bản, cũng chứa đựng không ít nguy cơ, mà một trong số đó là sự quan liêu, xa rời quần chúng, chủ quan... Để tránh nguy cơ đó, Đảng hết sức kiên định mục tiêu đã lựa chọn, thường xuyên tự đổi mới, nâng cao bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo và sức mạnh về mọi mặt, giữ vững phẩm chất đạo đức cách mạng, phong cách công tác gần gũi với nhân dân...
Những luận cứ từ thực tiễn
Thực tế lịch sử ở Việt Nam và trên thế giới đã chứng minh tính tất yếu khách quan về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong các giai đoạn của tiến trình cách mạng. Không có một tổ chức chính trị nào có thể thay thế được vai trò này của Đảng Cộng sản Việt Nam. Mọi luận điệu, mưu toan hạ thấp hoặc xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với cách mạng Việt Nam đều đi ngược với điều kiện thực tế của nước ta. Sự cần thiết phải có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam không phải tự nhiên mà là tất yếu của lịch sử.
Trong thời kỳ giải phóng dân tộc ở Việt Nam trước đây, ngoài phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo và dẫn dắt, đã có những phong trào cứu nước, giải phóng dân tộc của một số hội, đoàn thể, đảng phái khác, như Duy Tân Hội, Việt Nam Quang phục Hội, Việt Nam Quốc dân đảng... Tuy nhiên, những tổ chức, đảng phái này do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó nguyên nhân chủ yếu là do đường lối, mục tiêu của các tổ chức, đảng phái đó không phù hợp với xu thế phát triển của dân tộc, thời đại, không quy tụ, tập hợp được quần chúng nhân dân... nên không thể lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc ở Việt Nam và dần tan rã, thất bại. Bài học rút ra từ thất bại của các phong trào yêu nước ở Việt Nam trước đây cũng chứng minh tầm quan trọng và vai trò của việc có một chính đảng, tổ chức yêu nước đảm đương sứ mệnh dẫn dắt dân tộc Việt Nam đấu tranh cách mạng, giải phóng dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời giải quyết được cuộc khủng hoảng về đường lối giải phóng dân tộc, là ý nguyện và là sự lựa chọn của nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đất nước ta đã giành được những thắng lợi, những thành tựu to lớn, vẻ vang, có ý nghĩa lịch sử. Đó là cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 lịch sử, lật đổ ách áp bức, bóc lột của thực dân, phong kiến, lập ra Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), là thắng lợi của hai cuộc kháng chiến thần thánh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, làm nên những chiến thắng vang dội và bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.
Trong thời kỳ cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng và phát triển đất nước, với đường lối đúng đắn, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước, đưa nước ta từ một nước nghèo nàn, lạc hậu, bị tàn phá bởi chiến tranh trở thành nước đang phát triển năng động; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ngày càng được cải thiện; uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao.
Bối cảnh mới hiện nay với nhiều thách thức, khó khăn càng khẳng định vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam, an ninh được giữ vững, chính trị ổn định, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội; quy tụ, tập hợp được các giai cấp, tầng lớp; tập trung, huy động được các nguồn lực cho phát triển đất nước; thúc đẩy các hoạt động sản xuất, kinh doanh, thu hút các nguồn lực từ bên ngoài, nâng cao đời sống của nhân dân.
Bài học từ sự sụp đổ của Liên Xô và chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu vào những năm cuối thế kỷ XX cho thấy, một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn tới sự sụp đổ chế độ chính trị ở các nước này là đã từ bỏ, buông lỏng, phủ nhận vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản, để cho các lực lượng thù địch, phản động lợi dụng, vô hiệu hóa, cướp chính quyền, đẩy đất nước vào con đường khác khi có những biến cố về chính trị. Thực tiễn biến động ở nhiều quốc gia trên thế giới hiện nay cũng đã chỉ rõ, không phải cứ nhiều đảng, cứ đa nguyên, đa đảng thì đất nước mới phát triển, ổn định. Nhiều nước thực hiện chế độ đa đảng, nhưng vẫn là các nước nghèo trên thế giới, thậm chí thường xuyên xảy ra xung đột, bất ổn. Cũng có những nước chỉ một đảng lãnh đạo, nhưng vẫn là nước phát triển mọi mặt và có vị thế trên thế giới.
Qua hơn 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện trên tất cả lĩnh vực. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã khẳng định: “Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” (5) .
Những minh chứng nổi bật qua các con số thành tựu thực tiễn trong hơn ba thập niên qua ở Việt Nam cho thấy công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử: Kinh tế vĩ mô ổn định, tốc độ tăng trưởng khá cao (giai đoạn 2016 - 2020, tăng trưởng bình quân khoảng 6%/năm); chất lượng tăng trưởng được cải thiện, quy mô và tiềm lực nền kinh tế được nâng lên (năm 2010 đạt 115,93 tỷ USD, năm 2015 đạt 193,24 tỷ USD, năm 2019 đạt 261,92 tỷ USD, năm 2020 đạt 343 tỷ USD). Bình quân thu nhập đầu người tăng nhanh (năm 1945 là 35 USD, năm 1975 là 80 USD, năm 1985 là 159 USD, năm 1990 là 182 USD, năm 2020 là 3.561 USD). Chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu (GCI) của Việt Nam tăng nhanh, xếp thứ 67/141 nền kinh tế thế giới (năm 2019)(6).
Tiến trình hội nhập quốc tế ở nước ta phát triển sâu rộng, trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức, đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được giữ vững và tăng cường; quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đạt thành tựu nổi bật. Hiện nay, Việt Nam có quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với 33 nước đối tác quan trọng. Việt Nam chủ động và tiếp cận hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Việt Nam tham gia hiệu quả vào các định chế khu vực và toàn cầu, nhất là các FTA thế hệ mới và đóng góp tích cực ở hầu hết tổ chức, diễn đàn quốc tế quan trọng, đảm nhiệm thành công nhiều trọng trách, đã ghi nhận dấu ấn về sự chủ động, tích cực trong vai trò Chủ tịch ASEAN năm 2020 và Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021...
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn, nhất là tổng kết 30 năm đổi mới, đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tham khảo kinh nghiệm quốc tế, các hội nghị Trung ương khóa XI, Đại hội XII và các hội nghị Trung ương khóa XII tiếp tục cụ thể hóa, bổ sung, làm sáng rõ hơn những nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã được trình bày trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011).
Đảng Cộng sản Việt Nam đã có những nhận thức sâu sắc, đầy đủ hơn về đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên cơ sở đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, thực hiện ba đột phá chiến lược, phát triển nhanh, bền vững, nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế; về hoàn thiện thể chế phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hiện đại, hội nhập quốc tế. Đảng đã bổ sung nhận thức về mối quan hệ giữa phát triển văn hóa và xây dựng con người; về đúc kết, phát huy hệ giá trị văn hóa, sức mạnh và giá trị của con người Việt Nam; về nâng cao mọi mặt đời sống của nhân dân, thực hiện hiệu quả tiến bộ, công bằng xã hội trong từng chính sách, từng bước phát triển. Nhận thức về bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội được hoàn thiện trên cơ sở phát triển Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Phương hướng thực hiện đường lối đối ngoại, hội nhập quốc tế tiếp tục được bổ sung, phát triển gắn với yêu cầu giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc; xử lý hiệu quả hợp tác và đấu tranh, đối tác và đối tượng. Phương hướng xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường, mở rộng Mặt trận Dân tộc thống nhất được bổ sung những nhận thức mới về tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, đề cao trách nhiệm, nghĩa vụ công dân; thực hiện vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội. Về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, Đảng nhấn mạnh yêu cầu kiểm soát quyền lực nhà nước; xây dựng tổ chức bộ máy tinh gọn, tăng cường phân cấp, phân quyền, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Phương hướng xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh được bổ sung nhận thức mới về xây dựng Đảng toàn diện: chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; về xây dựng Đảng gắn với chỉnh đốn Đảng, đấu tranh chống suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược có phẩm chất, năng lực và uy tín ngang tầm nhiệm vụ.
Trong cuốn sách “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng làm rõ nhận thức của Đảng ta về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chỉ ra và khẳng định thuộc tính quan trọng, đặc trưng cơ bản làm nên sự khác biệt của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam với những nền kinh tế thị trường khác. Đó là nền kinh tế “gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội”(7). Nói một cách khác, điều này thể hiện sự quan tâm đặc biệt đến chính sách xã hội, chính sách liên quan đến con người và việc phát triển hài hòa giữa kinh tế và xã hội. Chúng ta không coi nhẹ tiến bộ và công bằng xã hội chỉ vì mục tiêu tăng trưởng kinh tế mà thay vào đó, chúng ta đặt ra mục tiêu tạo điều kiện cho con người hưởng lợi từ mọi thành tựu của quá trình phát triển và bảo đảm cải thiện cuộc sống của con người diễn ra đồng thời với tiến trình xây dựng và phát triển kinh tế.
Từ những nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định một lần nữa quyết tâm chính trị của toàn Đảng, toàn dân: “Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”(8). Đó chính là tư tưởng và định hướng chỉ đạo xuyên suốt quá trình xây dựng và phát triển đất nước trong giai đoạn tới. Trước mắt với tư tưởng chỉ đạo hiện tại đối với nhiệm vụ và giải pháp thực hiện Nghị quyết của Đại hội XIII của Đảng. Để thành công trong việc thực hiện định hướng chung đó, Đảng xác định 4 nhiệm vụ quan trọng như 4 trụ cột chính sách, bao gồm: phát triển kinh tế là trung tâm; xây dựng Đảng là yếu tố then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng và an ninh là trọng yếu và thường xuyên.
Có thể thấy rõ, những luận điệu thâm độc, đen tối của các thế lực thù địch, phản động nêu trên về vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam đều không có cơ sở cả về lý luận và thực tiễn. Về lý luận, những luận điệu này dựa trên những phân tích không khoa học, không logic, không hệ thống và không toàn diện. Về thực tiễn, những luận điệu này hết sức phiến diện, quy chụp, phi thực tế. Những luận điệu sai lầm, thiếu cơ sở lý luận và thực tiễn này không thể lật ngược một thực tế hiển hiện và có cơ sở lý luận về vai trò, sứ mệnh, trọng trách to lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam, chính đảng duy nhất lãnh đạo, dẫn dắt nhân dân Việt Nam giành nhiều thắng lợi lịch sử trong công cuộc đấu tranh, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc vào giữa thế kỷ XXI./.
---------------------------
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t. 2, tr. 289
(2), (3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 65, 187
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 17
(5) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 25
(6) “Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quý iv và năm 2020”, Trang thông tin điện tử Tổng cục Thống kê, ngày 27-12-2020, https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2020/12/baocao-tinh-hinh-kinh-te-xa-hoi-quy-iv-va-nam-2020/