Đồng chí Lê Đức Thọ - Nhà lãnh đạo tài năng của cách mạng Việt Nam, “kiến trúc sư” của ngành tổ chức xây dựng Đảng

Trương Thị Mai
Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương
15:42, ngày 06-10-2021

TCCS - Năm 2021 kỷ niệm 110 năm Ngày sinh của đồng chí Lê Đức Thọ (10-10-1911 - 10-10-2021). Đồng chí Lê Đức Thọ là một trong những học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người chiến sĩ cộng sản kiên trung thuộc lớp đảng viên đầu tiên, nhà lãnh đạo tiền bối tài năng trên các lĩnh vực chính trị, quân sự, ngoại giao và là “kiến trúc sư” của ngành tổ chức xây dựng Đảng. Cuộc đời 64 năm hoạt động cách mạng vẻ vang với những “công trạng to lớn vì Đảng, vì dân”(1) của đồng chí là tấm gương sáng ngời về lòng trung thành, tận tụy với Tổ quốc, với Đảng và nhân dân, tinh thần cách mạng dũng cảm, kiên cường, bất khuất, đức tính cần, kiệm, liêm, chính và tình thương yêu đồng chí sâu sắc.

Nhà lãnh đạo cách mạng tài năng, người đặt nền móng cho công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng

Sinh ra, lớn lên trong một gia đình nhà nho tại Mỹ Lộc, Nam Định - miền quê giàu truyền thống cách mạng và hiếu học, đồng chí Lê Đức Thọ, tên thật là Phan Đình Khải đã sớm giác ngộ cách mạng, tham gia phong trào học sinh yêu nước khi mới 15 tuổi, được kết nạp vào Đông Dương Cộng sản Đảng khi 18 tuổi, làm bí thư chi bộ học sinh và phụ trách công tác thanh niên học sinh. Người chiến sĩ cộng sản Lê Đức Thọ đã sớm trở thành một cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Đảng với những tài năng, phẩm chất nổi bật, có nhiều cống hiến to lớn đối với sự nghiệp cách mạng, là người đặt nền móng cho công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng và luôn gắn công tác xây dựng Đảng với việc thực hiện mục tiêu chiến lược của cách mạng trong từng thời kỳ lịch sử.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng các đồng chí Trường Chinh, Lê Đức Thọ, Võ Nguyên Giáp đọc báo tại ATK Thái Nguyên, năm 1947_Ảnh: Tư liệu TTXVN

Suốt những năm tháng dấn thân hoạt động kiên cường, sôi nổi, dù công khai hay bí mật, ngay cả khi ở trong lao tù, đồng chí luôn quan tâm gây dựng tổ chức cơ sở đảng, coi đây là hạt nhân chính trị ở cơ sở, gắn với nâng cao chất lượng đảng viên. Trong 6 năm (1930 - 1936) bị lưu đày khổ sai ở Côn Đảo, với vai trò là bí thư chi bộ, thường vụ chi ủy nhà tù, đồng chí đã góp phần biến nhà tù thành “trường học” để bồi dưỡng, đào tạo cán bộ, tôi luyện ý chí cách mạng, chuẩn bị lực lượng cho sự nghiệp cách mạng lâu dài của Đảng. Những năm 1936 - 1939, đồng chí là một trong những cán bộ lãnh đạo chủ chốt của phong trào cách mạng ở Nam Định, được giao phụ trách công tác báo chí công khai của đảng bộ, tích cực gây dựng một số cơ sở bí mật của Đảng, cùng tập thể cấp ủy Nam Định lãnh đạo phong trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ cho nhân dân. Trong 5 năm (1939 - 1944) bị giam cầm khắc nghiệt trong lao tù từ Hỏa Lò (Hà Nội) rồi Sơn La, Hòa Bình, đến cuối năm 1943, với vai trò bí thư chi bộ nhà tù Hòa Bình, đồng chí đã lãnh đạo thực hiện thành công chủ trương của Thường vụ Trung ương Đảng, tổ chức vượt ngục cho nhiều cán bộ đang bị giam cầm trong nhà tù đế quốc để tăng cường cán bộ cho phong trào cách mạng, củng cố các cấp ủy đảng(2). Khi ra tù, tháng 9-1944, đồng chí được giao phụ trách công tác tổ chức, huấn luyện cán bộ và công tác bảo đảm bí mật cho An toàn khu (ATK) của Trung ương; tháng 10-1944, đồng chí được chỉ định là Ủy viên Trung ương Đảng, trực tiếp phụ trách Xứ ủy Bắc Kỳ, góp phần chuẩn bị điều kiện để mùa thu lịch sử năm 1945, Đảng lãnh đạo toàn dân tiến hành Tổng khởi nghĩa Tháng Tám thành công, mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do của dân tộc. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, được phân công phụ trách công tác tổ chức của Đảng, đồng chí cùng với một số đồng chí lãnh đạo đã giúp Trung ương bố trí, phát triển tổ chức đảng, đoàn thể, xây dựng, củng cố chính quyền cách mạng, kịp thời chuẩn bị các điều kiện cho đất nước bước vào cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược.

Năm 1948, đồng chí tham gia Đoàn đại biểu của Đảng và Chính phủ vào miền Nam công tác, được phân công là Trưởng Ban Đảng vụ kiêm Trưởng Ban Dân vận Xứ ủy Nam Bộ; năm 1949, làm Phó Bí thư Xứ ủy Nam Bộ, đồng chí đã dành nhiều tâm huyết trong việc xây dựng hệ thống tổ chức đảng từ Xứ ủy, Trung ương Cục miền Nam đến chi bộ cơ sở, xây dựng các cơ quan chuyên môn của Đảng bộ Nam Bộ. Với quan điểm “Phải xây dựng, củng cố Đảng trong lực lượng vũ trang, trong công an, trong vùng bị địch tạm chiếm, phát triển Đảng phải luôn luôn đi đôi với củng cố Đảng, phải dìu dắt đảng viên mới trong công tác thực tế, phải mở lớp huấn luyện ngắn ngày cho họ. Phải luôn luôn chăm lo củng cố chi bộ, đề phòng bọn địch chui vào trong Đảng, phá hoại Đảng từ bên trong”(3), đồng chí cùng Ban Thường vụ Xứ ủy Nam Bộ rà soát đội ngũ cán bộ các khu ủy, tỉnh ủy, Đặc khu ủy Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định, nắm tình hình xây dựng, củng cố tổ chức đảng. Xác định cấp ủy đảng chính là “đầu não” của phong trào cách mạng, đồng chí đã đề xuất một số biện pháp khẩn cấp để chấn chỉnh, kiện toàn ngay lập tức một số cấp ủy đảng. 

Năm 1955, đồng chí tập kết ra Bắc, được bổ sung vào Bộ Chính trị phụ trách công tác sửa sai cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức, cuối năm 1956 được giao nhiệm vụ là Trưởng Ban Tổ chức Trung ương trong bối cảnh tổ chức đảng đang gặp rất nhiều khó khăn, nhất là cơ sở đảng ở nông thôn, nhiều cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp bị bắt tù, nghi oan... Thực hiện chủ trương kiên quyết sửa sai của Bộ Chính trị và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí đã chỉ đạo Ban Tổ chức Trung ương cử cán bộ của Trung ương về địa phương, cơ sở để xin lỗi nhân dân và minh oan cho cán bộ, đảng viên; qua đó, từng bước củng cố lại tổ chức cơ sở đảng, khôi phục được lòng tin của nhân dân đối với Đảng.

Đồng chí Lê Đức Thọ (người đeo kính ngồi đầu bàn mép phải) trò chuyện cùng các đại biểu Thành phố Hồ Chí Minh tham dự Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng_Nguồn: vnexpress.net

Năm 1963, Đảng phát động cuộc vận động xây dựng chi bộ và đảng bộ cơ sở “Bốn tốt”. Trên cương vị Trưởng Ban Tổ chức Trung ương, đồng chí đã có những đóng góp quan trọng từ việc tham gia xây dựng nội dung đến việc chỉ đạo tổ chức thực hiện cuộc vận động, góp phần vào việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng. Thay mặt Ban Bí thư, đồng chí đã ký Nghị quyết số 122-NQ/TW, ngày 6-7-1965, của Ban Bí thư, về “Tăng cường lãnh đạo, đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng chi bộ và đảng bộ cơ sở bốn tốt”. Đây là văn kiện đặt cơ sở lý luận, quan điểm chỉ đạo và các nội dung cơ bản cho việc đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng chi bộ, đảng bộ cơ sở “Bốn tốt”. Thông qua cuộc vận động, nhiều cấp ủy đảng đã khắc phục việc xem nhẹ công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng; từ đó, nhận thức sâu sắc hơn về vai trò của tổ chức cơ sở đảng, quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, toàn diện đối với mọi hoạt động ở cơ sở. Ðó là một kinh nghiệm quý, còn nguyên ý nghĩa chỉ đạo thực tiễn cho đến hôm nay.

“Kiến trúc sư” của ngành tổ chức xây dựng Đảng

Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, đồng chí Lê Đức Thọ đã dành trọn tâm sức, tài năng, trí tuệ cho công tác tổ chức xây dựng Đảng. Những đóng góp quan trọng của đồng chí đối với công tác tổ chức xây dựng Đảng có ý nghĩa to lớn, mang tính lý luận và thực tiễn sâu sắc. Dù trong lao tù ở Côn Đảo, Hòa Bình hay khi hoạt động ở ATK, khi lãnh đạo kháng chiến ở Nam Bộ hay khi tham gia Bộ Chính trị, đồng chí đều được Đảng và Bác Hồ tín nhiệm giao phụ trách công tác tổ chức của Đảng, đảm nhiệm nhiều vị trí quan trọng, như Phó Bí thư Xứ ủy Nam Bộ, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Cục miền Nam (1949 - 1954), Trưởng Ban Tổ chức Trung ương giai đoạn 1956 - 1973 và 1976 - 1982, Trưởng Tiểu ban nhân sự Đại hội VI của Đảng,... Bằng sự nhạy bén chính trị và kinh nghiệm thực tiễn phong phú, đồng chí đã có những đóng góp quan trọng trong việc hoạch định đường lối, chính sách về công tác tổ chức, cán bộ của Ðảng. Đánh giá về những đóng góp của đồng chí trong công tác tổ chức xây dựng Đảng, đồng chí Lê Khả Phiêu, nguyên Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng, nhấn mạnh: “Trong các kỳ đại hội 3, 4, 5, 6 của Đảng, đồng chí Lê Đức Thọ được phân công giữ cương vị Trưởng Ban Tổ chức Trung ương, đồng chí đã có công lớn trong việc tham gia soạn thảo xây dựng Điều lệ Đảng, xây dựng quan điểm tư tưởng cách mạng, đấu tranh kiên quyết chống các quan điểm sai trái, đặc biệt là công tác tổ chức - cán bộ. Có thể đánh giá đồng chí Sáu Thọ như một “kiến trúc sư” về lĩnh vực này”(4).

Từ Đại hội III đến Đại hội VI của Đảng, đồng chí Lê Đức Thọ đã trực tiếp chỉ đạo công tác nghiên cứu, biên soạn dự thảo văn kiện các Đại hội. Những quan điểm, chủ trương, giải pháp và kinh nghiệm của đồng chí trong công tác tổ chức, cán bộ thể hiện trong các văn kiện Đại hội Đảng vẫn còn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn. Đồng chí đã đề xuất việc nâng cao, kiện toàn tổ chức, cải tiến chế độ làm việc, phương pháp công tác đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ, tình hình mới: “Bảo đảm cho tổ chức Đảng có tính năng động cao, có cơ cấu tổ chức phù hợp, có kỷ luật nghiêm minh và có tác phong chỉ đạo sâu sát”(5); qua đó, tham mưu cho Trung ương về tư tưởng, đường lối chỉ đạo việc đổi mới tổ chức gắn với đổi mới cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế - xã hội, thể hiện rõ nét trong các văn kiện về xây dựng Đảng được thông qua tại Đại hội V và Đại hội VI của Đảng.

Đồng chí Lê Đức Thọ (hàng đầu, ngoài cùng bên trái) tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng_Nguồn: vnexpress.net

Trong công tác cán bộ, đồng chí cho rằng, cần tiến hành đổi mới việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, bố trí đúng và bảo đảm tính kế thừa trong việc xây dựng đội ngũ cốt cán... bảo đảm sự vững vàng của Đảng trong mọi tình thế. Điều quan trọng nhất khi chuẩn bị nhân sự của Ðảng là phải biết lắng nghe nhiều ý kiến của cán bộ các cấp, không nghe một chiều hoặc chỉ nghe ý kiến của một vài cá nhân; khi quyết định lựa chọn cán bộ tham gia cấp ủy, tham gia hệ thống chính trị thì yêu cầu về chất lượng cán bộ, nhất là tiêu chuẩn đức - tài, phải được đặt lên hàng đầu. Đồng chí nhấn mạnh: “Một người cán bộ tốt không thể chỉ có đức hoặc chỉ có tài. Nếu không có đức thì không thể có tài thật sự, hoặc không có tài thì khó mà có đức trọn vẹn. Có đức mà không có tài thì khó mà hoàn thành được nhiệm vụ Đảng giao cho. Có tài mà không có đức thì không thể phục vụ được giai cấp công nhân và nhân dân lao động”(6); khi đề bạt và sử dụng cán bộ, đều phải xuất phát từ tiêu chuẩn đức - tài; đánh giá đúng là cơ sở để đề bạt, bố trí cán bộ vào vị trí phù hợp, có lợi cho công tác của Đảng, Nhà nước, có lợi cho việc rèn luyện, phát triển của cán bộ; phải biết kết hợp giữa cán bộ công tác lâu năm và cán bộ trẻ để bổ khuyết cho nhau, đồng thời bảo đảm sự chuyển tiếp liên tục, vững vàng của đội ngũ cán bộ. Quan tâm đến công tác cán bộ nữ, đồng chí cho rằng, do chưa chú ý đầy đủ, chưa thấy hết vai trò, vị trí của cán bộ nữ, nên chưa tích cực bồi dưỡng, mạnh dạn đề bạt, tạo điều kiện cho chị em tiến bộ, và “muốn giải quyết tốt vấn đề đề bạt và sử dụng cán bộ phụ nữ, chúng ta phải giải quyết tốt những quan điểm sai lệch trên đây và bản thân chị em cũng phải cố gắng nhiều hơn nữa”(7). Đối với việc đề bạt, sử dụng cán bộ là người dân tộc thiểu số, đồng chí nhấn mạnh, phải quan tâm đào tạo, mạnh dạn đề bạt, sử dụng cán bộ là người dân tộc thiểu số trong mọi mặt công tác; đấu tranh chống lại các quan điểm lệch lạc, phiến diện, cầu toàn, thiếu tin tưởng ở khả năng của cán bộ. Về cán bộ ngoài Đảng, đồng chí yêu cầu “phải phát huy đầy đủ tác dụng của cán bộ ngoài Đảng và mạnh dạn đề bạt, sử dụng những người có đủ đức tài”(8).

Những tư tưởng đó được thể hiện sinh động, nhất quán trong thực tiễn hoạt động của đồng chí, nhất là trong công tác tuyển chọn, đào tạo, điều động, bố trí nhiều lớp cán bộ từ Trung ương tới địa phương. Trong những năm tháng hoạt động tại Xứ ủy Nam Bộ, đồng chí là người đề xuất xây dựng trường Trường Chinh, mở lớp và trực tiếp huấn luyện, bồi dưỡng, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ Nam Bộ vừa có trình độ lý luận chính trị, vừa có thực tiễn đấu tranh cách mạng. Sau Hội nghị Giơ-ne-vơ năm 1954, đồng chí đã đề xuất và được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị chấp thuận, cho triển khai kế hoạch đưa hàng vạn con em cán bộ miền Nam ra miền Bắc học tập, để sau này trở lại miền Nam phục vụ cho cách mạng. Trong những năm 60 - 80 của thế kỷ XX, nhiều cán bộ ưu tú ở các ngành, địa phương đã được phát hiện, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện, thử thách trong thực tiễn; được đề bạt và trưởng thành, góp phần vào thắng lợi vẻ vang của sự nghiệp giải phóng đất nước và hoàn thành các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Đặc biệt, từ Đại hội III đến Đại hội VI của Đảng, với vai trò là Trưởng Tiểu ban nhân sự, đồng chí đã đến từng cơ sở xem xét, cân nhắc thận trọng trước khi giới thiệu cán bộ vào cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng, giúp Bộ Chính trị chuẩn bị tốt nhân sự để lựa chọn, bầu cử Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư trong các kỳ Đại hội Đảng.

Những bài học quý đối với ngành tổ chức xây dựng Đảng

Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đặt ra các nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ Đại hội, trong đó nhiệm vụ “Xây dựng đội ngũ đảng viên và cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”(9) được đặt lên hàng đầu. Nhìn lại sự nghiệp 64 năm hoạt động cách mạng, hơn 20 năm cống hiến cho công tác tổ chức, cán bộ của đồng chí Lê Đức Thọ, những bài học về sự kết hợp chặt chẽ giữa bảo đảm đường lối, quan điểm của Đảng với việc cụ thể hóa, tổ chức thực hiện trong thực tiễn; giữa kiên định các nguyên tắc của Đảng với sự vận dụng sáng tạo, đổi mới trong hành động; giữa lý luận và thực tiễn; giữa lời nói và việc làm là những bài học kinh nghiệm phải được tiếp tục kế thừa và mỗi cán bộ ngành tổ chức xây dựng Đảng cần nghiên cứu sâu sắc để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tham mưu trong tình hình mới.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng cùng các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và các đại biểu tại phiên thảo luận các văn kiện trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng (tháng 1-2021) _Ảnh: Tư liệu

Thứ nhất, xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ, yêu cầu của công tác tổ chức xây dựng Đảng.

Trong suốt quá trình đảm nhiệm công tác tổ chức xây dựng Đảng qua các thời kỳ cách mạng, đồng chí Lê Đức Thọ đã luôn thể hiện nhất quán quan điểm: Mục tiêu, nhiệm vụ của công tác tổ chức xây dựng Đảng là kiên định phục vụ đường lối chính trị của Đảng; xem công tác xây dựng Đảng là then chốt. Trong công tác xây dựng Đảng, nhiệm vụ xây dựng đội ngũ cán bộ là trọng tâm, trong đó cán bộ cấp chiến lược là quyết định. Đồng chí nhấn mạnh: “Công tác tổ chức cán bộ đòi hỏi chúng ta phải theo sát tình hình và nhiệm vụ chính trị của Đảng, của mỗi địa phương, mỗi ngành, xem xét phân tích tình hình trên nhiều mặt. Phải nắm vững đường lối, phương châm chính sách của Đảng nhưng lại phải đi sâu, cụ thể, nhất là khi tìm hiểu cán bộ. Nhận xét đánh giá từng người cán bộ, không thể chung chung, đại khái, nhưng cũng tránh sa đà vào những việc vụn vặt mà bỏ sót những việc lớn, nhất là đối với cán bộ giữ cương vị phụ trách”(10).

Để bảo đảm hiệu quả thực hiện công tác xây dựng Đảng, đồng chí Lê Đức Thọ nhấn mạnh phải coi trọng kiện toàn cơ quan tham mưu về tổ chức xây dựng Đảng: “Cấp ủy lãnh đạo nhưng hàng ngày theo dõi cán bộ là do bộ phận tham mưu; nếu tham mưu mà làm sai cũng rất nguy hiểm. Bởi vậy, cấp ủy, đảng đoàn phải rất coi trọng kiện toàn cơ quan tổ chức để nó thực sự là cơ quan tham mưu đắc lực cho lãnh đạo”(11). Đồng thời, đồng chí cũng thừa nhận, “làm công tác cán bộ đã khó nhưng hiểu cán bộ lại là điều khó hơn, “thức lâu mới biết đêm dài”, nói chung đánh giá cán bộ đúng 70% - 80% cũng là tốt rồi. Bởi vì: trong thực tế đã diễn ra có cán bộ khi chưa có quyền lực thì khác, khi đã có quyền lực rồi thì mới bộc lộ hết khuyết tật; có cán bộ trong điều kiện thuận buồm xuôi gió thì không sao, song khi không được thỏa mãn tham muốn của mình thì lại buồn phiền, bất mãn, oán trách tổ chức”(12).

Thứ hai, người làm công tác tổ chức phải gắn nghiên cứu lý luận với tổng kết thực tiễn.

Đồng chí Lê Đức Thọ cho rằng, “cần tăng cường công tác nghiên cứu tổng kết để đào tạo bồi dưỡng nâng cao dần trình độ lý luận và thực tiễn của đội ngũ cán bộ tổ chức, khắc phục tình trạng sự vụ, kinh nghiệm chủ nghĩa trong công tác tổ chức”(13). Người làm công tác cán bộ phải sâu sát, đánh giá đúng từng cán bộ thuộc trách nhiệm quản lý; nắm rõ quá trình, kết quả thực hiện nhiệm vụ, ưu điểm, khuyết điểm và triển vọng của cán bộ để đề xuất, kiến nghị chính sách đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí phù hợp; tránh quản lý hời hợt, chỉ đánh giá cán bộ trên hồ sơ, qua những báo cáo chung chung, không nắm chắc phẩm chất, năng lực của cán bộ thông qua kết quả thực hiện các nhiệm vụ chính trị của Đảng, Nhà nước.

Bên cạnh yêu cầu phải bám sát thực tiễn, người làm công tác tổ chức phải chủ động nghiên cứu lý luận dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhất là lý luận về công tác tổ chức xây dựng Đảng, những văn bản của Đảng, pháp luật có liên quan; nhằm không ngừng bổ sung, hoàn thiện phương pháp làm việc đúng đắn, khoa học, tránh chủ quan, duy ý chí, áp đặt, phiến diện; đồng thời, phải nghiên cứu các vấn đề về khoa học tổ chức, quản lý nhân lực, lãnh đạo học, tâm lý học,... để hiểu sâu sắc, toàn diện và có giải pháp đúng đắn về công tác tổ chức, cán bộ.

Thứ ba, xây dựng đội ngũ cán bộ ngành tổ chức xây dựng Đảng đáp ứng yêu cầu công bằng, vô tư.

Trên cương vị Trưởng Ban Tổ chức Trung ương, đồng chí Lê Đức Thọ nhiều lần nhắc nhở: “Làm cán bộ tổ chức có hai điều phải chú ý, đó là công bằng, vô tư; đó là điều quan trọng nhất”(14); “nếu cán bộ tổ chức mà lệch lạc sẽ làm cho nội bộ xáo trộn, lủng củng”(15). Cán bộ tổ chức phải là những người có phẩm chất, tư cách tốt, trung thực, khách quan, vô tư, có tinh thần trách nhiệm; có trình độ, năng lực, phương pháp xem xét, đánh giá con người một cách đúng đắn. Trong bài viết với tiêu đề “Thực hiện tốt việc đề bạt và sử dụng cán bộ”, đăng trên Tạp chí Học tập, số ra tháng 11-1960, đồng chí chia sẻ tâm huyết với đội ngũ cán bộ làm công tác tổ chức: “Thấu suốt yêu cầu của nhiệm vụ chính trị và đánh giá đúng đội ngũ cán bộ của Đảng, thấu suốt đường lối công tác cán bộ trong việc đề bạt và sử dụng cán bộ là vấn đề cần thiết, nhưng chúng ta còn phải giải quyết tốt một số vấn đề khác về nhận thức tư tưởng và phương pháp công tác thì việc đề bạt và sử dụng cán bộ mới có thể mạnh dạn và chính xác được”(16). Theo đó, đồng chí yêu cầu khi xem xét cán bộ phải tìm hiểu người cán bộ một cách toàn diện, bởi ai cũng có ít nhiều khuyết điểm, vì thế cần phải xem khuyết điểm nào là căn bản, khuyết điểm nào là phụ; phải biết xét xem ưu điểm của người cán bộ đó là căn bản hay khuyết điểm là căn bản; cán bộ tổ chức phải luôn nghiêm khắc với bản thân mình, cơ quan tổ chức phải lắng nghe ý kiến từ nhiều phía, nếu có sai thì phải kiên quyết sửa chữa.

Với những đóng góp quan trọng của mình, đồng chí Lê Đức Thọ đã được Đảng, Nhà nước Việt Nam tặng thưởng Huân chương Sao Vàng và nhiều huân chương, danh hiệu cao quý khác; Đảng và Nhà nước Liên Xô tặng Huân chương Cách mạng Tháng Mười; Đảng và Nhà nước Cam-pu-chia tặng Huân chương Ăng-co. Ghi nhận công lao to lớn của đồng chí Lê Đức Thọ, thay mặt Ban Chấp hành Trung ương khóa VI, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã khẳng định: “Trong nhiều năm phụ trách công tác tổ chức cán bộ của Đảng, là lĩnh vực công tác rất khó khăn, phức tạp, đồng chí đã để lại cho chúng ta nhiều bài học kinh nghiệm bổ ích đối với công cuộc đổi mới hiện nay”(17). Sự nghiệp cách mạng của đồng chí Lê Đức Thọ luôn là tấm gương tiêu biểu cho các thế hệ cán bộ làm công tác tổ chức xây dựng Đảng noi theo để luôn nỗ lực phấn đấu, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó./.

--------------

(1) “Đại hội VI tuyên dương công trạng to lớn vì Đảng, vì dân của các đồng chí Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ”, trong sách: Lê Đức Thọ - Người cộng sản kiên cường, nhà lãnh đạo tài năng (Hồi ký), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 11
(2), (3) Tô Huy Rứa: “Về những đóng góp của đồng chí Lê Đức Thọ trong công tác tổ chức xây dựng Đảng”, trong sách: Lê Đức Thọ - Người cộng sản kiên cường, nhà lãnh đạo tài năng (Hồi ký), Sđd, tr. 284, 285
(4) Lê Khả Phiêu: “Đồng chí Lê Đức Thọ - Một nhà chính trị, tham mưu chiến lược tài năng”, Báo Hà Nội mới điện tử, ngày 10-10-2011
(5) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t. 37, tr. 797
(6), (7), (8) Lê Đức Thọ: Một số vấn đề về xây dựng Đảng trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa và chống Mỹ, cứu nước, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1967, tr. 112, 118, 119
(9) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. II, tr. 334
(10) Vũ Trọng Kiên: “Anh Sáu Thọ với cán bộ tổ chức”, trong sách: Lê Đức Thọ - Người cộng sản kiên cường, nhà lãnh đạo tài năng (Hồi ký), Sđd, tr. 328
(11) Lê Đức Thọ: Tăng cường công tác xây dựng Đảng và công tác tổ chức để bảo đảm thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1971, tr. 76
(12) Nguyễn Đình Hương: “Nhớ anh Lê Đức Thọ”, trong sách: Lê Đức Thọ - Người cộng sản kiên cường, nhà lãnh đạo tài năng (Hồi ký), Sđd, tr. 308
(13) Lê Đức Bình: “Vài kỷ niệm nhỏ về người anh lớn của ngành tổ chức”, trong sách: Lê Đức Thọ - Người cộng sản kiên cường, nhà lãnh đạo tài năng (Hồi ký), Sđd, tr. 299
(14), (15) Lê Đức Thọ: Tăng cường công tác xây dựng Đảng và công tác tổ chức để bảo đảm thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng, Sđd, tr. 78, 76
(16) Lê Đức Thọ: Một số vấn đề về xây dựng Đảng trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa và chống Mỹ, cứu nước, Sđd, tr. 113
(17) Điếu văn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đọc tại lễ tang đồng chí Lê Đức Thọ, ngày 17-10-1990