Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật theo tư tưởng Hồ Chí Minh
TCCS - Trong phần “Bộc bạch đôi lời” tại cuốn “Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh”, cụ Vũ Đình Hoè (Bộ trưởng Bộ Tư pháp giai đoạn 1946 - 1960) đã nhận định, Chủ tịch Hồ Chí Minh “có một tư duy pháp lý nhạy bén tuyệt vời, gần như thiên bẩm, hiểu thấu và thi hành một cách sáng tạo lý luận và thực tiễn chế độ Nhà nước - Pháp quyền của thời đại và của thế giới văn minh”(1). Nhận định đó đã khẳng định giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước, pháp luật và tư tưởng đó của Người là chỉ dẫn quan trọng để chúng ta xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật ở nước ta trong 75 năm qua.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về hệ thống pháp luật Việt Nam
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh không để lại những trước tác lý luận bàn riêng chủ đề về hệ thống pháp luật. Tuy nhiên, Người để lại di sản tư tưởng rất sâu sắc và đặc biệt có giá trị đối với những người làm công tác xây dựng, thực thi pháp luật, thể hiện trong nhiều bài nói, bài viết và trong hành động thực tiễn cách mạng trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng hệ thống pháp luật Việt Nam, đặc biệt là Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959, trong 24 năm chỉ đạo xây dựng nhà nước kiểu mới - Nhà nước của nhân dân lao động, Nhà nước của giai cấp cần lao chính thức được thiết lập ở nước ta kể từ ngày Quốc khánh 2-9-1945.
Nghiên cứu những tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng quá trình chỉ đạo cách mạng, xây dựng bộ máy nhà nước, xây dựng hệ thống pháp luật, có thể thấy rõ những tư tưởng lớn của Người về tầm nhìn, nội dung, yêu cầu và cả cách tư duy trong thiết kế và thực thi pháp luật:
Thứ nhất, hệ thống pháp luật Việt Nam cần xây dựng là hệ thống pháp luật chứa đựng những giá trị công bằng, nhân văn, chính nghĩa, vì nhân dân lao động và vì con người.
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng cứu nước, cứu dân của mình, sống, nghiên cứu và trải nghiệm ở hơn 30 quốc gia, khắp năm châu, với bao khó khăn, gian khổ, bằng nhãn quan chính trị và trí tuệ thiên tài, hiểu sâu sắc bản chất vô nhân đạo và phi nghĩa của chế độ thực dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh, với lòng yêu nước thương dân vô hạn, mong muốn xây dựng hệ thống pháp luật vì nhân dân lao động, vì con người sau khi đã giành được chính quyền.
Trong Tuyên ngôn Độc lập ngày 2-9-1945 chính thức khai sinh chế độ mới, khai sinh nhà nước kiểu mới ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trích dẫn những bản tuyên ngôn bất hủ trên thế giới để khẳng định “những lẽ phải không ai chối cãi được”, mang giá trị “nhân đạo và chính nghĩa”; phê phán chế độ thực dân, phong kiến có thứ “luật pháp dã man”. Ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời ngày 3-9-1945, Người chỉ rõ: “Chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ”(2). Trong thực tế, chính Người đã chỉ đạo soạn thảo Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959 với những nội dung thể hiện đậm nét tính dân chủ, vì con người.
Hệ thống pháp luật mà Chủ tịch Hồ Chí Minh mong muốn xây dựng là sản phẩm của chế độ có một “mục đích duy nhất là mưu tự do hạnh phúc cho mọi người… đặt quyền lợi dân lên trên hết thảy”(3). Trong bài phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị Tư pháp toàn quốc năm 1950, Người chỉ rõ: “Pháp luật của ta hiện nay bảo vệ quyền lợi cho hàng triệu người lao động… Pháp luật của ta là pháp luật thật sự dân chủ, vì nó bảo vệ quyền tự do, dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động”(4).
Thứ hai, hệ thống pháp luật Việt Nam cần xây dựng là hệ thống pháp luật dựa trên nền tảng Hiến pháp dân chủ và các đạo luật.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ý thức rất sớm tầm quan trọng của Hiến pháp và các đạo luật trong quản lý nhà nước và xã hội. Ngay từ năm 1919, trong bản “Yêu sách của nhân dân An Nam” gửi tới Hội nghị Versaile, Nguyễn Ái Quốc đã yêu cầu phải “thay thế chế độ ra sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật”. Bản yêu sách ngắn gọn, súc tích đã tập trung vào các nội dung đòi tự do, dân chủ cho nhân dân các nước thuộc địa, thể hiện rõ ý thức đề cao, khẳng định vị trí, tầm quan trọng của các đạo luật trong đời sống của một dân tộc, một xã hội(5). Năm 1922, Nguyễn Ái Quốc đã truyền bá rộng rãi trong kiều bào và chuyển về nước bản “Việt Nam yêu cầu ca”, chuyển thể nội dung bản yêu sách thành những vần ca dao dễ đọc, dễ nhớ và yêu sách thứ 7 đã chuyển thành 2 câu thơ lục bát: “Bảy xin Hiến pháp ban hành. Trăm đều phải có thần linh pháp quyền”. Như vậy, ngay từ năm 1922, Nguyễn Ái Quốc, đã nêu “ban hành Hiến pháp” phải trở thành một yêu cầu, một đòi hỏi, một yêu sách của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam. Hơn nữa, Người yêu cầu pháp quyền đối với “trăm đều” - tức là mọi thứ, là toàn xã hội(6). Khi đã giành được chính quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, Việt Nam “phải có một hiến pháp dân chủ” để nhân dân được quyền tự do, dân chủ. Trong Thể lệ tổng tuyển cử(7), tại Điều thứ 2 đã quy định: “Tất cả những công dân Việt Nam 18 tuổi trở lên không phân biệt nam nữ đều có quyền bầu cử và ứng cử”.
Trong thực tiễn, dưới sự lãnh đạo của Người, sau một thời gian soạn thảo và xin ý kiến nhân dân, ngày 9-11-1946, Quốc hội đã thông qua bản Hiến pháp dân chủ đầu tiên trong lịch sử nước nhà. Bản Hiến pháp trang trọng tuyên bố: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hoà. Tất cả quyền binh trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo” (Điều thứ nhất), đồng thời “thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân” (Lời nói đầu). Do chiến tranh, việc cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 1946 thành các đạo luật không có điều kiện được thực hiện đầy đủ, nhưng dựa trên các quy định của Hiến pháp năm 1946, Nhà nước ta đã ban hành hàng loạt văn bản quy phạm pháp luật quan trọng để tổ chức các cơ quan trong chính quyền và thực hiện huy động lực lượng của nhân dân cho sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc, đưa tới sự thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp vào năm 1954. Sau kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, để bảo đảm phù hợp với điều kiện chính trị, lịch sử cụ thể của thời gian đó, dưới sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong quá trình xây dựng và soạn thảo, Hiến pháp năm 1959 đã được Quốc hội ban hành. Trên cơ sở đó, Quốc hội cũng ban hành một số đạo luật quan trọng, tạo cơ sở pháp lý để chính quyền các cấp tổ chức bộ máy và tổ chức đời sống của nhân dân, xây dựng miền Bắc vững mạnh và làm cơ sở cho cuộc đấu tranh giành lại hòa bình, thống nhất đất nước ở miền Nam.
Thứ ba, pháp luật là công cụ cần thiết “giữ gìn quyền lợi của nhân dân”(8) và duy trì trật tự xã hội.
Trong tư tưởng của Người, một xã hội không thể thiếu pháp luật. Ngay sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, trước khi có Hiến pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 47/SL, ngày 10-10-1945, giữ lại mọi luật lệ của chế độ cũ chỉ trừ những điều luật trái với nền độc lập, tự do(9). Trong điều kiện chưa thể ban hành ngay hệ thống pháp luật, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho ban hành hàng loạt các sắc lệnh để đưa vào thi hành các quyền tự do, dân chủ của công dân, như: Ngày 6-9-1945, Sắc lệnh số 11 bãi bỏ thuế thân và cam kết các sắc thuế muốn được ấn định thì phải có sắc lệnh quy định; ngày 8-9-1945, ban hành Sắc lệnh về việc lập ra bình dân học vụ để thực hiện chủ trương diệt giặc dốt và Sắc lệnh số 14 mở ra cuộc tổng tuyển cử để bầu Quốc dân đại hội…
Như vậy, trong những giờ phút khẩn trương, bộn bề công việc, chuẩn bị công cuộc kháng chiến bảo vệ nền độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn dồn không ít sự quan tâm cho việc xây dựng pháp luật, ban hành chính sách, củng cố bộ máy chính quyền.
Sau này, khi hòa bình lập lại ở miền Bắc sau năm 1954, hoạt động xây dựng pháp luật ở nước ta đã được coi trọng hơn. Quốc hội đã ban hành nhiều đạo luật quan trọng liên quan trực tiếp đền quyền tự do của người dân, như: Luật quy định quyền lập hội ngày 20-5-1957, Luật quy định quyền tự do hội họp ngày 20-5-1957, Luật bảo đảm quyền tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của nhân dân ngày 20-5-1957, Sắc luật về quyền tự do xuất bản ngày 18-6-1957, Luật Công đoàn ngày 5-11-1957(10)…
Thứ tư, hệ thống pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước và đội ngũ cán bộ cần được đặc biệt coi trọng để thiết lập và vận hành Nhà nước thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm tới việc hoàn thiện pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước, về quản lý đội ngũ cán bộ và phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, bảo đảm bản chất “của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân” của chính quyền cách mạng. Cụ thể, ngày 22-11-1945, Chủ tịch Chính phủ lâm thời ban hành Sắc lệnh số 63-SL về tổ chức các hội đồng nhân dân và ủy ban hành chính (áp dụng cho chính quyền ở nông thôn); ngày 21-12-1945, ban hành Sắc lệnh số 77-SL về tổ chức chính quyền nhân dân ở các thị xã và thành phố. Đối với hệ thống tòa án nhân dân, ngày 24-1-1946, ban hành Sắc lệnh số 13-SL tổ chức các tòa án và ngạch thẩm phán… Tiếp đó, Hiến pháp năm 1946 được ban hành quy định hệ thống tổ chức chính quyền gồm: Nghị viện nhân dân, Chính phủ, hội đồng nhân dân (ở tỉnh, thành phố, thị xã và xã) và ủy ban hành chính (ở tất cả các đơn vị hành chính), cơ quan tư pháp (gồm Tòa án tối cao, tòa án phúc thẩm, các tòa án đệ nhị cấp và sơ cấp). Ngày 22-5-1950, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban hành Sắc lệnh số 85-SL cải cách bộ máy tư pháp và Luật Tố tụng - có thể coi đây là cuộc cải cách tư pháp đầu tiên kể từ khi chế độ mới được thiết lập năm 1945, nhằm bảo đảm tốt hơn tính nhân dân của nền tư pháp mới.
Sau khi hòa bình lập lại ở miền Bắc vào năm 1954 cho tới năm 1969, Quốc hội đã ban hành Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 1958, Hiến pháp năm 1959, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội năm 1959, Luật Tổ chức Quốc hội năm 1960, Luật Tổ chức Hội đồng Chính phủ năm 1960, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960, Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân năm 1960, Luật Tổ chức hội đồng nhân dân và ủy ban hành chính các cấp năm 1962…
Thứ năm, bảo đảm dân chủ trong quá trình xây dựng pháp luật.
Trong việc xây dựng hệ thống pháp luật, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú trọng tính nhân văn, dân chủ, vì con người. Muốn có được hệ thống pháp luật như vậy, sự tham gia của nhân dân trong quá trình xây dựng pháp luật là điều kiện tiên quyết. Một trong sáu nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước ngay sau khi Chính phủ lâm thời được thành lập năm 1945 đó là tổng tuyển cử và lập hiến(11); muốn có Hiến pháp thì phải tổ chức tổng tuyển cử để nhân dân bầu ra Quốc hội và Quốc hội sẽ chịu trách nhiệm đại diện cho nhân dân soạn thảo ra Hiến pháp. Quốc hội được bầu ngày 6-1-1946 chính là Quốc hội lập hiến(12). Như vậy, tư tưởng dân chủ trong lập hiến, lập pháp của Người thể hiện rất rõ ở việc xác định tham gia xây dựng Hiến pháp, pháp luật là quyền của nhân dân. Việc xây dựng pháp luật phải xuất phát từ sáng kiến của nhân dân, có sự tham gia đóng góp ý kiến của các cơ quan đoàn thể và mọi tầng lớp nhân dân. Trong quá trình xây dựng Hiến pháp năm 1959, việc bảo đảm sự tham gia của đông đảo các tầng lớp nhân dân vào xây dựng pháp luật đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm. Để bảo đảm pháp luật thực sự của nhân dân, trong quá trình xây dựng Hiến pháp, Hồ Chí Minh yêu cầu: “Bản Hiến pháp của chúng ta sẽ thảo ra… phải tiêu biểu được các nguyện vọng của nhân dân… Sau khi thảo xong chúng ta cần phải trưng cầu ý kiến của nhân dân cả nước một cách thật rộng rãi. Có như thế bản Hiến pháp của chúng ta mới thật sự là bản Hiến pháp của nhân dân, của chế độ dân chủ”(13).
Như vậy, trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, pháp luật sinh ra không vì cái gì khác hơn là vì dân. Pháp luật dân chủ, tiến bộ là mục tiêu hướng tới của quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Người nhấn mạnh, tư tưởng của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân phải được “quán triệt trong toàn bộ sự nghiệp xây dựng cấu trúc thượng tầng của chế độ và thể chế của nhà nước ta”(14). Người luôn căn dặn: “Chính phủ và Đảng chỉ mưu giải phóng cho nhân dân, vì thế, bất kỳ việc gì cũng vì lợi ích của nhân dân mà làm và chịu trách nhiệm trước nhân dân”(15), nhất là “sự lãnh đạo trong mọi công tác thiết thực của Đảng, ắt phải từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng”(16).
Thứ sáu, bảo đảm tính khách quan của pháp luật.
Trong bài viết “Xây dựng những con người của chủ nghĩa xã hội”, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Chớ đem chủ quan của mình thay cho điều kiện thực tế. Phải chống bệnh chủ quan, tác phong quan liêu, đại khái. Phải xây dựng tác phong điều tra, nghiên cứu trong mọi công tác cũng như trong khi định ra mọi chính sách của Đảng và của Nhà nước”(17). Điều này có nghĩa rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng nguyên tắc khách quan trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật. Lý do là, pháp luật là một hiện tượng khách quan, pháp luật sinh ra do nhu cầu của xã hội, phản ánh trình độ phát triển, thực tiễn cuộc sống. Do vậy, xây dựng và hoàn thiện pháp luật phải bảo đảm phản ánh được những nhu cầu khách quan về sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với những quan hệ xã hội nhất định. Nội dung của pháp luật phải phù hợp với các quy luật khách quan, bảo đảm phát huy vai trò tích cực của pháp luật đối với đời sống. Để bảo đảm tính khách quan quá trình xây dựng pháp luật cần coi trọng quá trình nghiên cứu thực tiễn xã hội, thực tiễn phát triển kinh tế, chính trị, đặc điểm văn hóa, dân cư, nhu cầu của các đối tượng liên quan… Các thông tin này sẽ là những cơ sở để xây dựng các quy phạm pháp luật phù hợp.
Thực tiễn vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh và kế thừa những thành tựu lập pháp của đất nước, kể từ khi thống nhất đất nước đến nay, Nhà nước ta đã ban hành 3 bản Hiến pháp mới bao gồm: Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) và Hiến pháp năm 2013. Mỗi bản Hiến pháp ra đời đã đánh dấu một bước phát triển mới của đất nước, là cơ sở cho việc hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam.
Tính đến nay, Quốc hội đã ban hành 17 bộ luật và 430 luật trên tất cả các lĩnh vực(18), 7.004 nghị định của Chính phủ(19), chưa kể rất nhiều văn bản khác của các bộ, ngành, chính quyền địa phương. Đặc biệt, trong gần 35 năm đổi mới, đất nước ta đã có một sự thay đổi mạnh mẽ trong phát triển kinh tế. Để làm được điều này, bên cạnh quyết tâm chính trị, hệ thống pháp luật liên tục được quan tâm xây dựng, hoàn thiện dựa trên nền tảng tư tưởng, giá trị tốt đẹp mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho tiến trình chuyển đổi kinh tế và quá trình mở cửa, hội nhập quốc tế của Việt Nam thành công.
Một là, thể chế về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được bổ sung, hoàn thiện một bước quan trọng. Kế tục các tư tưởng tiến bộ của các bản Hiến pháp trước đó (trong đó có Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959), Hiến pháp năm 2013 (Điều 2) trang trọng quy định: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức” và “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”. Hiến pháp cũng quy định rõ: “Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng Nhân dân, tận tụy phục vụ Nhân dân, liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của Nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền” (Điều 8). Hiến pháp năm 2013 quy định nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước làm cơ sở cho việc xây dựng các đạo luật về tổ chức và hoạt động của các thiết chế cơ bản trong bộ máy nhà nước(20) và hệ thống chính trị, hoàn thiện cơ chế phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp(21), hành pháp, tư pháp.
Hai là, thể chế về bảo vệ, bảo đảm quyền con người được quan tâm hoàn thiện. Trên cơ sở nhận thức sâu sắc về những lẽ phải “không ai chối cãi được” thể hiện trong bản Tuyên ngôn Độc lập, bằng tư duy lập hiến mới của Hiến pháp năm 2013 coi công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân là trách nhiệm của Nhà nước, các đạo luật về quyền dân sự, chính trị, quyền tự do, dân chủ của công dân đã được sửa đổi, bổ sung, ban hành mới, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân(22). Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung, ghi nhận nhiều quyền mới(23) và quy định rõ ràng, đầy đủ hơn nội hàm của các quyền mà Hiến pháp năm 1992 đã quy định, đồng thời bổ sung nguyên tắc quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng (khoản 2 Điều 14). Có thể nói, thể chế bảo đảm cho nhân dân thực hiện các quyền tự do, dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh ở nước ta hiện nay đã hoàn thiện một cách khá căn bản.
Ba là, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được hoàn thiện với nhiều đặc điểm của thể chế kinh tế thị trường hiện đại, phù hợp hơn với thông lệ quốc tế. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay chính là tiền đề giải phóng sức dân, tiền đề pháp lý bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân trong lĩnh vực kinh tế, phù hợp với tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật. Chế độ sở hữu(24), pháp luật về các loại hình doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế(25) và thể chế cho việc đổi mới, sắp xếp, cơ cấu lại, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước(26) đều có bước phát triển mới. Các quyền và nghĩa vụ về tài sản được thể chế hóa tương đối đầy đủ. Vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân ngày càng được coi trọng, thu hút vốn đầu tư nước ngoài đạt kết quả tích cực, đội ngũ doanh nhân không ngừng lớn mạnh. Thể chế về các yếu tố thị trường và các loại thị trường được hình thành đồng bộ hơn, tạo điều kiện cho việc gắn kết với thị trường khu vực và thế giới. Môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện và thông thoáng hơn; quyền tự do kinh doanh và cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế được bảo đảm hơn(27). Cải cách thủ tục hành chính trong công tác quy hoạch, quản lý sử dụng đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, giải phóng mặt bằng, đấu giá quyền sử dụng đất đã được đẩy mạnh, đưa quản lý, sử dụng đất đai vào nền nếp(28). Pháp luật về giá quy định rõ quyền, nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân trong lĩnh vực giá và hoạt động quản lý giá, qua đó bảo đảm sự điều tiết của Nhà nước về giá thông qua các biện pháp kinh tế nhằm ổn định thị trường; tôn trọng quyền tự định giá của cá nhân, tổ chức sản xuất, kinh doanh; khuyến khích, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng; ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát và bình ổn thị trường(29).
Bốn là, cùng với việc ký kết, gia nhập các điều ước quốc tế, trong những năm qua, Việt Nam đã đẩy mạnh thực hiện việc rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật để phù hợp với thông lệ quốc tế và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, cơ bản đã theo kịp và tương thích với hầu hết các nguyên tắc, tập quán quốc tế, góp phần quan trọng trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam trong các lĩnh vực thương mại, đầu tư, tài chính, ngân hàng, tương trợ tư pháp, chống khủng bố, chống tội phạm, chống rửa tiền, chống tham nhũng…
Năm là, Hiến pháp và các đạo luật đã trở thành nguồn quy phạm quan trọng nhất về giá trị pháp lý trong việc giải quyết công việc cho nhân dân và trong điều tra, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật. Thêm vào đó, đến nay, tuyệt đại đa số các lĩnh vực kinh tế - xã hội đều đã được điều chỉnh bởi các đạo luật. Các đạo luật mang tính rường cột của quốc gia, như Bộ luật Dân sự, Luật Thương mại, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Bộ luật Lao động, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Xử lý vi phạm hành chính, Luật Tố tụng hành chính và các đạo luật về tổ chức Quốc hội, Chính phủ, tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, chính quyền địa phương đã được ban hành đầy đủ. Số lượng đạo luật điều chỉnh lĩnh vực quyền con người, quyền công dân đã cân xứng hơn so với các đạo luật về tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cũng như các đạo luật điều chỉnh các quan hệ dân sự, kinh tế. Trên cơ sở đó, Chính phủ và các bộ, ngành, chính quyền địa phương đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn thi hành, góp phần sớm đưa các quy định trong các đạo luật vào thực tiễn đời sống.
Sáu là, quy trình xây dựng luật, pháp lệnh đã được đổi mới một bước khá cơ bản theo hướng tách bạch quy trình xây dựng chính sách với quy trình soạn thảo bảo đảm sự phù hợp của luật, pháp lệnh với đường lối, chủ trương của Đảng, nâng cao tính công khai, minh bạch trong xây dựng chính sách, tăng cường, phát huy sự tham gia của nhân dân vào quy trình xây dựng chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đây thực chất là sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy dân chủ và bảo đảm tính khách quan trong công tác xây dựng pháp luật trong thực tiễn cải cách, đổi mới ở nước ta. Trong thực tế, trong những năm gần đây, quy trình xây dựng pháp luật đã được đổi mới, hoàn thiện theo hướng ngày càng chú trọng đến công tác xây dựng chính sách, tách bạch giữa xây dựng chính sách và soạn thảo văn bản, tránh tình trạng “vừa thiết kế vừa thi công”.
Đối với quy trình xây dựng chính sách, cơ quan đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật phải có trách nhiệm tổng kết việc thi hành pháp luật, đánh giá các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành có liên quan đến đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật; khảo sát, đánh giá thực trạng quan hệ xã hội liên quan; tổ chức nghiên cứu thông tin, tư liệu, điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có liên quan đến đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, xây dựng nội dung chính sách trong đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, đánh giá tác động của chính sách, dự kiến nguồn lực, điều kiện bảo đảm cho việc thi hành văn bản sau khi được cơ quan có thẩm quyền thông qua; tổ chức lấy ý kiến đối với đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật… Tất cả những công đoạn này đều nhằm mục đích thu thập đầy đủ nhất nguồn thông tin để từ đó đưa ra những chính sách phù hợp nhất với yêu cầu thực tiễn. Thêm vào đó, chất lượng công tác thẩm định dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật đã được nâng lên rõ rệt; công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật được thực hiện có trọng tâm, trọng điểm. Tiến độ xây dựng, ban hành văn bản quy định chi tiết đã được cải thiện, từng bước đáp ứng yêu cầu công tác triển khai thi hành luật, pháp lệnh, tình trạng nợ đọng văn bản quy định chi tiết đã giảm so với các năm trước đây.
Tiếp tục vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật ở nước ta hiện nay
Nhờ thành quả sau gần 35 năm đổi mới, diện mạo đất nước ta đã hoàn toàn thay đổi. Việt Nam đạt được những thành tựu mang tính lịch sử trong phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và hội nhập quốc tế. Trong thành tích chung đó có đóng góp rất quan trọng của hệ thống pháp luật được xây dựng dựa trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh. Bước vào giai đoạn phát triển mới, công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tổ chức thi hành pháp luật đang đứng trước cả thời cơ và những thách thức mới, đòi hỏi các cán bộ tham gia công tác tư pháp, pháp luật cần tiếp tục quán triệt sâu sắc, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh để giải quyết các vấn đề thực tiễn đặt ra, tập trung thực hiện các giải pháp sau:
Thứ nhất, cần quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng, hoàn thiện pháp luật, với tinh thần “việc gì có lợi cho dân… phải hết sức làm. Việc gì có hại đến dân… phải hết sức tránh”, sớm xây dựng hệ thống pháp luật Việt Nam thống nhất, đồng bộ, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận với chi phí tuân thủ thấp, có hiệu lực, hiệu quả cao, có sức cạnh tranh quốc tế, lấy quyền và lợi ích hợp pháp của người dân là trung tâm, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển bền vững kinh tế - xã hội và quốc phòng, an ninh trong điều kiện mới.
Thứ hai, tiếp tục quan tâm hoàn thiện thể chế về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, chú trọng bảo đảm quyền con người, phát huy quyền tự do dân chủ của nhân dân đã được đề ra trong các chủ trương, nghị quyết của Đảng và Hiến pháp 2013, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính và cải cách tư pháp, kiên quyết, kiên trì thực hiện các giải pháp phòng, chống tham nhũng, bảo đảm xây dựng bộ máy nhà nước thực sự trong sạch, vận hành thông suốt, hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân. Tạo điều kiện để người dân thực hiện quyền dân chủ trực tiếp và các quyền tự do, dân chủ khác, tạo thêm động lực cho cải cách, đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước, các thiết chế trong hệ thống chính trị; đồng thời cụ thể hóa Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa XII về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Thứ ba, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo tiêu chuẩn hiện đại, có sự cạnh tranh và phù hợp với các thông lệ quốc tế, bảo đảm tối đa quyền sở hữu tài sản, quyền sở hữu trí tuệ, quyền tự do hợp đồng và tự do kinh doanh, tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững, tận dụng hiệu quả các cơ hội và ứng phó kịp thời với những thách thức từ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Quan tâm xây dựng khung chính sách, pháp luật đối với hệ thống chính quyền điện tử hướng tới nền kinh tế số. Xây dựng, thử nghiệm, hoàn thiện khung khổ pháp lý cho các mô hình kinh doanh mới ứng dụng công nghệ cao, mô hình kinh tế chia sẻ, giao dịch, quản lý các tài sản kỹ thuật số, đầu tư mạo hiểm, các phương thức thanh toán mới, hệ thống xác thực và định danh điện tử.
Thứ tư, hoàn thiện cơ chế để chủ động hội nhập quốc tế, trong đó trọng tâm là hội nhập kinh tế quốc tế, bảo đảm phát triển kinh tế bền vững, tự chủ, gắn với yêu cầu củng cố quốc phòng, an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Thứ năm, tổ chức tốt việc thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, bảo đảm sự tham gia thực chất của người dân vào hoạt động xây dựng, pháp luật, coi trọng và đầu tư thỏa đáng cho công tác điều tra, khảo sát thực tiễn, phân tích chính sách trong hoạt động xây dựng pháp luật, sớm chuyên nghiệp hóa các hoạt động phân tích chính sách và soạn thảo pháp luật.
Thứ sáu, đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả việc tổ chức thi hành pháp luật nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, bảo đảm thượng tôn pháp luật trở thành chuẩn mực ứng xử phổ biến trong các cơ quan nhà nước, tổ chức đoàn thể, các thiết chế khác trong hệ thống chính trị và trong đời sống thường nhật của cá nhân, doanh nghiệp. Khẩn trương đẩy mạnh nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật về tổ chức thi hành và theo dõi thi hành pháp luật, quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp và mọi công dân trong việc thi hành pháp luật và theo dõi tình hình thi hành pháp luật.
Kiện toàn và đổi mới về tổ chức, bộ máy, biên chế làm công tác tổ chức thi hành và theo dõi thi hành pháp luật theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, đáp ứng được yêu cầu hội nhập quốc tế. Nghiên cứu thành lập cơ quan chuyên trách theo dõi thi hành pháp luật theo hướng tinh gọn, hiệu quả từ Trung ương xuống địa phương. Các bộ, ngành Trung ương cần bố trí sắp xếp bảo đảm có cán bộ chuyên trách về tổ chức thi hành và theo dõi thi hành pháp luật; các địa phương cần bố trí biên chế pháp chế chuyên trách tại các sở, ngành chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân cấp tỉnh để thực hiện nhiệm vụ công tác pháp chế nói chung và làm đầu mối công tác tổ chức thi hành và theo dõi thi hành pháp luật nói riêng. Xây dựng được đội ngũ cán bộ làm công tác thi hành pháp luật có năng lực chuyên môn và bản lĩnh, phẩm chất chính trị, nghề nghiệp vững vàng, thông qua việc lập quy hoạch, kế hoạch đào tạo, xây dựng chương trình khung đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn và dài hạn, nâng cao trình độ chuyên môn cho lực lượng cán bộ công chức làm công tác thi hành pháp luật tại các bộ, ngành, địa phương. Tăng cường năng lực phản ứng chính sách trong quá trình tổ chức thi hành pháp luật, đặc biệt là việc tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị của người dân và doanh nghiệp về tình hình thi hành pháp luật(30). Thiết lập kênh thông tin đa dạng, thuận lợi, bảo mật để người dân, doanh nghiệp phát huy tính tự giác, kịp thời khiếu nại, tố cáo về những hành vi nhũng nhiễu, tiêu cực của cán bộ, công chức, viên chức trong thực thi pháp luật./.
---------------------
(1) Vũ Đình Hòe: Pháp quyền - nhân nghĩa Hồ Chí Minh, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 2001, tr. 5
(2), (3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.4, tr. 7, 21
(4) https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=634
(5) Nguyễn Đình Lộc: Tư tưởng: “Trăm điều phải có thần linh pháp quyền” của Hồ Chí Minh và việc xây dựng hệ thống pháp luật Việt Nam, trong cuốn sách “Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác tư pháp””, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, 2010, tr. 45
(6) Nguyễn Đăng Dung (chủ biên), Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2007, tr. 93
(7) Sắc lệnh số 51/SL của Chủ tịch nước ngày 17-10-1945
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr. 262
(9) Vũ Đình Hòe: Pháp quyền - nhân nghĩa Hồ Chí Minh, Sđd, tr. 352
(10) Trên cương vị là Chủ tịch nước (từ năm 1945 đến năm 1969), Hồ Chí Minh vừa là nhà lập pháp, đồng thời là nhà hành pháp có công lớn nhất trong sự nghiệp lập hiến và lập pháp ở nước ta, đã hai lần đứng đầu Ủy ban soạn thảo Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959, đã ký công bố 16 đạo luật, 613 sắc lệnh và nhiều văn bản dưới luật, trong đó có 243 sắc lệnh quy định về tổ chức nhà nước, qua đó hình thành một thể chế bộ máy nhà nước có nhiều nhân tố cơ bản của một nhà nước pháp quyền. Nguồn: http://noichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/201402/tu-tuong-ho-chi-minh-ve-nha-nuoc-phap-quyen-293760/
(11) Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb. Văn học, 1963, tr. 114
(12) Nguyễn Đăng Dung (chủ biên): Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền, Sđd, tr.117
(13) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr. 510 - 511
(14) Hoàng Tùng: “Quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh và giá trị chỉ đạo đối với cách mạng Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản, số 4-1992, tr. 12-13
(15) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 285
(16) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 330
(17) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 13, tr. 71
(18) http://vbpl.vn/TW/Pages/vanban.aspx?idLoaiVanBan=16&dvid=13 (truy cập ngày 4-5-2020)
(19) https://thuvienphapluat.vn/phap-luat/tim-van-ban.aspx?keyword=&area=0&type=11&status=0&lan=0&org= 0&signer=0&match=True&sort=1&bdate=04/05/1940&edate=04/05/2020&chlbg=04/05/1940&chlend=04/05/2030 (truy cập ngày 4-5-2020)
(20) Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật Tổ chức chính quyền địa phương, các đạo luật về tố tụng...
(21) Điều 69 của Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 có nhiều đổi mới, quy định chức năng của Quốc hội theo hướng ngắn gọn hơn, theo đó: “Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước”, tạo cơ chế để hoạt động giám sát của Quốc hội tập trung vào những vấn đề bức thiết, quan trọng của đất nước
(22) Lần đầu tiên, Quốc hội ban hành Luật Trưng cầu ý dân (năm 2015), Luật Tiếp cận thông tin (năm 2016)
(23) Hiến pháp năm 2013 bổ sung, ghi nhận nhiều quyền mới như quyền sống (Điều 19); quyền được sống trong môi trường trong lành (Điều 43); quyền không bị trục xuất, giao nộp cho nước khác (Khoản 2, Điều 17); quyền có nơi ở hợp pháp (Điều 22); quyền được hưởng an sinh xã hội (Điều 34); quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa, tham gia đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa (Điều 41); quyền xác định dân tộc, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp (Điều 42)… Hiến pháp năm 2013 cũng quy định rõ ràng, đầy đủ hơn nội hàm của các quyền mà Hiến pháp 1992 đã quy định, đó là các quyền bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trước pháp luật (Điều 16); không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm (khoản 1 Điều 20); quyền bảo vệ đời tư (Điều 21); quyền tiếp cận thông tin (Điều 25); quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội (Điều 28); quyền bình đẳng giới (Điều 26); quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân (Điều 29)...
(24) Bộ luật Dân sự năm 2015, Luật Đất đai năm 2013, Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp năm 2014, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công năm 2017...
(25) Luật Doanh nghiệp năm 2014 (sửa đổi, bổ sung năm 2016), Luật Đầu tư năm 2014…
(26) Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp năm 2014; Nghị định số 126/2017/NĐ-CP, ngày 16-11-2017, về chuyển doanh nghiệp nhà nước và công ty TNHH một thành viên do doanh nghiệp nhà nước đầu tư 100% vốn điều lệ thành công ty cổ phần; Nghị định số 94/2017/NĐ-CP, ngày 10-8-2017, về hàng hóa, dịch vụ, địa bàn thực hiện độc quyền nhà nước trong hoạt động thương mại…
(27) Quyền tự do kinh doanh được Hiến pháp năm 2013 quy định theo hướng: “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm” (Điều 33), đồng thời Hiến pháp cũng khẳng định các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng với nhau trong hoạt động; tạo bước đột phá mạnh mẽ hơn về quyền tự do kinh doanh và sự bình đẳng trong hoạt động kinh doanh giữa các thành phần kinh tế. Tiếp đó, Luật Doanh nghiệp năm 2014 và Luật Đầu tư năm 2014 đã được ban hành theo hướng đơn giản hóa điều kiện, thủ tục cấp phép, dỡ bỏ hàng loạt hạn chế, bất cập của quy định cũ, mở rộng các nhóm quyền tự quyết của doanh nghiệp
(28) Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành
(29) Luật Giá năm 2012 và các văn bản hướng dẫn thi hành
(30) Thiết lập các hình thức đa dạng, linh hoạt trong tiếp nhận kiến nghị, phản ánh của doanh nghiệp trong thực thi pháp luật, trong đó chú trọng việc ghi nhận, xử lý công khai, công bằng, nhanh chóng, khách quan, đúng thẩm quyền; chủ động tổ chức đối thoại với doanh nghiệp về các quy định của pháp luật về đầu tư, kinh doanh để có các biện pháp chỉ đạo, giải quyết kịp thời các khó khăn, vướng mắc mà doanh nghiệp phản ánh, kiến nghị; trường hợp không giải quyết được cũng cần giải thích, thông tin trả lời rõ ràng, minh bạch
Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIV: Nghiêm túc, đoàn kết, đồng thuận cao  (17/11/2020)
Khai mạc Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIV  (21/10/2020)
Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và yêu cầu củng cố mối quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân trong giai đoạn hiện nay  (04/10/2020)
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước hiện nay  (20/07/2020)
Xây dựng Đảng trong Công an nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh  (07/07/2020)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- Bảo đảm an ninh con người của chính quyền đô thị: Kinh nghiệm của một số quốc gia và hàm ý chính sách đối với Việt Nam
- Phát huy vai trò trụ cột của đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân trong phối hợp xây dựng nền ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, thực hiện hiệu quả mục tiêu đối ngoại của đất nước
- Tăng cường công tác dân vận nhằm thực hiện hiệu quả chính sách xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển