Bổ sung, phát triển nhận thức lý luận về vai trò và sứ mệnh của văn hóa trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam - những thành tựu nổi bật (Kỳ 1)
TCCS - Trong bối cảnh hiện nay, làm rõ các vấn đề lý luận về văn hóa, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đồng bộ, hài hòa làm nền tảng xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, vừa làm rõ hơn bản chất, đặc trưng của chế độ xã hội chủ nghĩa, bổ sung nhận thức lý luận trong phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, vừa làm rõ hơn định hướng giải pháp quan trọng cho con đường phát triển đất nước trong thời gian tới.
Kỳ 1: Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc - hệ tư duy lý luận xuyên suốt của Đảng về văn hóa
Đề cao các giá trị văn hóa, nhân văn cao đẹp đồng nhất với mục tiêu xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa mà toàn Đảng, toàn dân ta nỗ lực thực hiện
Văn hóa, đạo đức là hai vấn đề được Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh và gần đây là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đặc biệt coi trọng. Đây cũng được coi là nền tảng vững bền cho phát triển đất nước, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay. Các nhiệm kỳ đại hội gần đây (Đại hội XI, XII, XIII) đều đặt yêu cầu rất cao đối với xây dựng đạo đức, xây dựng văn hóa với toàn thể đội ngũ cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị, nhất là trong bộ máy cơ quan nhà nước, trong toàn xã hội. Trong bối cảnh xã hội hiện đại, hội nhập và khoa học - công nghệ phát triển, nhận thức về đạo đức, về văn hóa cũng có những bước chuyển biến quan trọng. Từ các đặc trưng truyền thống của văn hóa nói riêng, của xã hội xã hội chủ nghĩa (XHCN) nói chung, những đặc trưng văn hóa mới là hệ quả của sự giao thoa, của sự kết nối ngày càng chặt chẽ giữa các lĩnh vực của đời sống xã hội từ chính trị - kinh tế - văn hóa - xã hội đã ngày càng định hình và được nhận thức là ngày càng gắn bó chặt chẽ hơn với các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội (CNXH), với các mục tiêu xây dựng CNXH ở nước ta. Nhận thức này đã được Hội nghị Trung ương 4 khóa VII (năm 1993) chỉ ra: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, một động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời là một mục tiêu của chủ nghĩa xã hội”(1). Gần đây, tầm quan trọng của điều này tiếp tục được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; xác định phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”(2). Từ dòng tư tưởng vận động mang tính quy luật đó, có thể thấy nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc mà chúng ta đang xây dựng là nền văn hóa có đặc trưng XHCN, nói cách khác đó là nền văn hóa XHCN.
Trong gần 40 năm đổi mới, nhận thức về các vấn đề cốt lõi, căn bản về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam của Đảng ta ngày càng sáng rõ hơn. Từ năm 1991, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh 1991) của Đảng đã đưa ra 6 đặc trưng của mô hình CNXH. Năm 2011, Đại hội XI của Đảng đã bổ sung, phát triển toàn diện hơn với 8 đặc trưng(3). Các đặc trưng mới của CNXH được bổ sung cho thấy sự hiện diện ngày càng rõ nét các yếu tố văn hóa. Cương lĩnh 1991 đã đề ra những phương hướng cơ bản, trong đó cốt lõi là: Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa làm cho thế giới quan Mác - Lê-nin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chỉ đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Kế thừa và phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp của tất cả dân tộc trong nước, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người. Chống tư tưởng, văn hóa phản tiến bộ, trái với truyền thống tốt đẹp của dân tộc và những giá trị cao quý của loài người, trái với phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội. Cũng ngay từ năm 1991, Cương lĩnh đã đề ra những định hướng quan trọng về đường lối, chính sách phát triển văn hóa, khẳng định để đạt các mục tiêu phát triển đất nước, cốt lõi là phải dựa trên nền tảng văn hóa - xã hội. Cũng ngay từ thời kỳ này, thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa(4), Đảng ta luôn coi trọng, đề cao phát triển văn hóa, con người; chủ trương xây dựng và phát triển văn hóa, con người luôn song hành, đồng hành với định hướng xây dựng xã hội chủ nghĩa, coi văn hóa, con người là một bộ phận quan trọng, nền tảng trong định hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 9-6-2014, Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” đề ra mục tiêu xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Các mục tiêu này không chỉ dừng lại ở phạm vi hẹp của văn hóa, mà đã gắn liền, thậm chí giữ vai trò quan trọng đối với xã hội, đối với sự phát triển, gắn liền với các mục tiêu bao trùm của đất nước. Đồng thời khẳng định, con người cũng là mục tiêu của phát triển, nên phải giải phóng con người, tạo điều kiện tốt nhất cho con người phát triển toàn diện.
Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa, con người Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc”(5). Gần đây nhất, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khái quát lý luận về mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay với 8 đặc trưng, trong đó ngoài hai nội dung đề cập trực tiếp đến văn hóa, con người (có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc), thì các nội dung còn lại(6) cũng ẩn chứa, gián tiếp bao hàm các giá trị nhân văn, một xã hội luôn hướng đến các giá trị nhân văn, hướng đến bảo đảm cuộc sống hạnh phúc, phồn vinh. Tổng Bí thư cũng phân tích: “Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hòa với lợi ích chính đáng của con người, khác hẳn về chất so với các xã hội cạnh tranh để chiếm đoạt lợi ích riêng giữa các cá nhân và phe nhóm, do đó cần và có điều kiện để xây dựng sự đồng thuận xã hội thay vì đối lập, đối kháng xã hội”(7). Rõ ràng, các đặc trưng văn hóa Việt Nam ngày càng thể hiện bản chất đích thực, vốn có của văn hóa là từ con người, vì con người và các chuẩn mực văn hóa, con người Việt Nam ngày càng tiếp cận, gắn liền với các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội.
Hệ tư duy lý luận xuyên suốt của Đảng về văn hóa - nền tảng để nhận diện, xác định rõ các vấn đề lớn trong từng giai đoạn, góp phần định hướng đường lối, chủ trương, cách thức, giải pháp
Qua hơn 93 năm lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo toàn dân xây dựng và phát triển đất nước, trong từng điều kiện, tình hình cụ thể khác nhau, hệ tư duy lý luận xuyên suốt của Đảng về văn hóa luôn là nền tảng quan trọng để Đảng ta nhận diện, xác định rõ các vấn đề lớn trong từng giai đoạn, từ đó định hướng đường lối, chủ trương, cách thức, giải pháp. Trong quá trình đó, các quan điểm, đường lối về văn hóa của Đảng đã được bổ sung, phát triển và ngày càng hoàn thiện, phù hợp với sự vận động, biến đổi của thực tiễn. Khái quát các quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựng nền văn hóa từ khi thành lập Đảng đến nay, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Từ ngày thành lập đến nay, Đảng luôn luôn coi trọng vai trò của văn hóa và hết sức quan tâm đến công tác xây dựng văn hóa trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước, nhất là trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nhận thức của Đảng về văn hóa ngày càng toàn diện, đầy đủ và sâu sắc hơn”. Về cơ bản, có thể chia thành hai mốc lớn: trước đổi mới và từ đổi mới (năm 1986) đến nay.
Ngay từ “Đề cương về văn hóa Việt Nam” năm 1943 - cương lĩnh văn hóa đầu tiên của Đảng đã đề cập đến văn hóa dưới góc nhìn toàn diện - “tư tưởng, học thuật, nghệ thuật”(8). Tư tưởng ở đây hàm ý cả định hướng chính trị. Đặt trong bối cảnh còn nhiều trí thức vẫn đang mơ hồ về con đường phát triển của đất nước, thì định hướng tư tưởng dẫn đường có ý nghĩa quan trọng. Từ thời điểm đó, Đề cương đã khẳng định “Nền văn hóa mà cuộc cách mạng văn hóa Đông Dương phải thực hiện sẽ là văn hóa xã hội chủ nghĩa”(9). Bên cạnh đó, định hướng văn hóa, văn nghệ phải gắn liền với bản sắc dân tộc, lợi ích dân tộc, vì dân tộc, người hoạt động văn hóa phải hiểu rõ nhiệm vụ, trách nhiệm cao cả của văn hóa, văn học, nghệ thuật là một bộ phận quan trọng cấu thành đời sống xã hội, có trách nhiệm xã hội, đặc biệt, những người hoạt động nghệ thuật không thể mãi sống trong “tháp ngà” nghệ thuật, phải thấu hiểu xã hội và có trách nhiệm xã hội là quan điểm hết sức mới mẻ lúc bấy giờ. Định hướng phương châm “Dân tộc, Khoa học, Đại chúng” cũng dẫn giải rõ hơn đường hướng phát triển của đất nước và định hướng phát triển văn hóa, văn học, nghệ thuật. Tinh thần phải làm cả cách mạng xã hội và cách mạng văn hóa, “Phải hoàn thành cách mạng văn hóa mới hoàn thành được cuộc cải tạo xã hội”(10) cho thấy Đảng ta đã nhận thức rất sớm và chỉ rõ mối liên kết chặt chẽ giữa dân tộc và văn hóa, mối quan hệ giữa nhiệm vụ chung với nhiệm vụ phát triển văn hóa của Đảng. Tinh thần này cũng đồng nhất với quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, phải có con người xã hội chủ nghĩa và có tư tưởng xã hội chủ nghĩa(11). Lịch sử Việt Nam trước đó, chủ yếu nhận thức về văn hóa thuần túy trên khía cạnh tinh thần. Đến Đề cương về văn hóa Việt Nam - Cương lĩnh đầu tiên của Đảng về văn hóa, văn hóa chính thức được nhận thức trên chiều cạnh chính trị - xã hội và đặt trong mối quan hệ với các lĩnh vực khác của đời sống xã hội.
Tại Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ nhất, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh luận điểm “văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”. Luận điểm này làm rõ hơn vai trò của văn hóa trong đời sống xã hội, đặc biệt là ở vị trí dẫn đường, định hướng. Đây là nhận thức quan trọng, mở đường cho những quan điểm lớn về văn hóa và định hướng các giải pháp lớn cho sự phát triển văn hóa nói riêng và phát triển đất nước nói chung. Và với vai trò lãnh đạo, Đảng phải là lực lượng thấm đẫm tính văn hóa nhất, các đảng viên trong Đảng phải có phẩm chất đạo đức trong sáng nhất, “Đảng phải là đạo đức, là văn minh”.
Quá trình gần 40 năm đổi mới, cũng là quá trình các quan điểm, đường lối về văn hóa của Đảng có những bổ sung quan trọng và ngày càng gắn bó chặt chẽ hơn với các ngành, lĩnh vực, với mục tiêu xây dựng CNXH ở nước ta. Đại hội VI của Đảng (năm 1986) là Đại hội mở đầu công cuộc đổi mới. Đại hội đã coi nhiệm vụ ổn định và cải thiện từng bước đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân là nhiệm vụ quan trọng, gắn liền với ổn định tình hình kinh tế - xã hội. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội chỉ rõ: “Mỗi hoạt động văn hóa, văn nghệ đều phải tính đến hiệu quả xã hội, tác động tốt đến tư tưởng, tâm lý, tình cảm, nâng cao trình độ giác ngộ xã hội chủ nghĩa và trình độ thẩm mỹ của nhân dân(12).
Những năm đầu sau đổi mới, mặc dù đã đạt được những thành tựu bước đầu quan trọng, nhưng đất nước vẫn còn rất nhiều khó khăn. Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu tác động sâu sắc đến đời sống chính trị - xã hội. Tuy nhiên, trong bối cảnh đó, Đại hội VII của Đảng đã thông qua Cương lĩnh năm 1991, khẳng định kiên trì đường lối đổi mới, trong đó có đường lối đổi mới về văn hóa. Năm 1995, Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) - mở ra thời kỳ hội nhập với thế giới, và Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII (năm 1998) đã ban hành Nghị quyết chuyên đề về “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Các hoạt động văn hóa, văn nghệ được tổ chức, hoạt động trên tinh thần xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người Việt Nam về tư tưởng, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh.
Có thể thấy, trong khoảng hơn 10 năm đầu đổi mới (từ năm 1986 đến năm 1998), những đổi mới trong tư duy lý luận về phát triển văn hóa của Đảng đã thể hiện tầm nhìn, sự bắt nhịp với xu thế thời đại, phù hợp với những định hướng của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) khi phát động “Thập kỷ quốc tế phát triển văn hóa” (1988 - 1997).
Từ Đại hội IX đến Đại hội XIII, các quan điểm cơ bản, cốt lõi về văn hóa và phát triển văn hóa đã từng bước được nhìn nhận vừa sâu hơn, vừa rộng hơn trong mối quan hệ tổng hòa với các lĩnh vực khác của đời sống xã hội, và gắn với chủ thể đất nước, đó là con người. Từ quan điểm xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng văn hóa được gắn với xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực, có lòng nhân ái, khoan dung, có lối sống văn hóa, hài hòa trong quan hệ gia đình, cộng đồng và xã hội; gắn văn hóa với quá trình phát triển kinh tế - xã hội, gắn với yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế đã củng cố, bổ sung nền tảng định hình tư duy làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Về phương hướng phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ và khoa học; coi con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển được bổ sung từ Đại hội XI của Đảng năm 2011 và Nghị quyết số 33-NQ/TW (năm 2014) được coi là nhận thức quan trọng. Các nhận thức mới này cũng thể hiện sinh động mối quan hệ, sự gắn bó sâu sắc giữa văn hóa với dân tộc: văn hóa còn dân tộc còn, văn hóa mất thì dân tộc mất; giữa văn hóa với dân chủ và tiến bộ: văn hóa không chỉ là một giá trị được xã hội công nhận, mà còn là kết quả của dân chủ, là biểu hiện của xã hội tiến bộ, văn minh. Văn hóa và dân chủ hòa quyện, bổ sung nhau, con người, tổ chức thực hành văn hóa thì sẽ tạo nên dân chủ, và dân chủ ngày càng được nâng cao là quá trình tiến tới văn hóa, văn minh; giữa văn hóa với khoa học: trong xu thế các ngành, lĩnh vực có sự liên kết, ràng buộc, tác động qua lại ngày càng chặt chẽ, thúc đẩy cùng phát triển. Trong “dòng chảy” tự nhiên đó, văn hóa ngày càng ngấm sâu, lan tỏa trong các lĩnh vực đời sống, dần phát huy vai trò điều tiết xã hội, trở thành động lực, nguồn lực nội sinh cho phát triển; giữa văn hóa với đại đoàn kết các dân tộc: bản sắc văn hóa Việt Nam là thống nhất trong sự đa dạng văn hóa của 54 dân tộc anh em.
Đứng trước những vấn đề lớn về văn hóa cần làm rõ về lý luận và những vấn đề lớn cần có giải pháp giải quyết trong thực tiễn, Đại hội XII nhất quán và nâng tầm, gắn nhiệm vụ xây dựng văn hóa, phát triển con người toàn diện với nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước, bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Từ mục đích phát triển văn hóa và con người gắn trực tiếp với nhiệm vụ phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc, tiêu chuẩn, tiêu chí đối với cán bộ các cấp cũng được cụ thể hóa trong Nghị quyết số 26/NQ-TW, ngày 19-5-2018, của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, về “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”. Đến Đại hội XIII, với mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2030 là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045, trở thành nước phát triển, thu nhập cao, Đại hội đề ra các tiêu chí cụ thể, căn cốt đối với đội ngũ cán bộ, đặc biệt là với một số lĩnh vực đi đầu, tiên phong trong hội nhập quốc tế, “Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ am hiểu sâu về luật pháp quốc tế, thương mại, đầu tư quốc tế, có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế, trước hết là cán bộ trực tiếp làm công tác hội nhập kinh tế quốc tế, giải quyết tranh chấp quốc tế”(13); “Nâng cao bản lĩnh, phẩm chất, năng lực, phong cách chuyên nghiệp, đổi mới sáng tạo của đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế; chủ động thích ứng trước chuyển biến của tình hình”(14)...
Qua từng kỳ đại hội, nhận thức về vị trí, vai trò của văn hóa đã có những bước chuyển biến quan trọng. Đặc biệt, văn hóa trở thành nhân tố quan trọng, không chỉ được coi là là cơ sở nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu hướng tới, mà thực sự bước đầu đã trở thành nhân tố quan trọng trong quá trình phát triển, giữ vai trò là động lực thúc đẩy, được xác định là giải pháp đột phá cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế của đất nước. Đại hội XIII của Đảng là Đại hội đầu tiên Đảng ta đề cập một cách toàn diện và sâu sắc đến lĩnh vực văn hóa, từ chủ đề Đại hội đến các quan điểm, mục tiêu, định hướng lớn, nhiệm vụ trọng tâm, đột phá chiến lược. Đại hội XIII của Đảng bổ sung những tư duy, nhận thức quan trọng về văn hóa và phát triển văn hóa trong bối cảnh mới theo định hướng phát huy giá trị văn hóa, con người Việt Nam, khơi dậy khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, nhân dân hạnh phúc, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, bảo đảm gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Đây là những định hướng thể hiện trực tiếp, đậm tính văn hóa.
Ngay trong nửa đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII, hàng loạt sự kiện, công việc đã được các cấp, các ngành triển khai như Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về lĩnh vực văn hóa với bài phát biểu quan trọng của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã định hướng nhận thức, những vấn đề lớn, mới của văn hóa, định hướng giải pháp phát triển văn hóa trong thời kỳ mới.
Có thể thấy, Đảng ta luôn gắn phát triển văn hóa với phát triển con người và luôn gắn với định hướng chính trị, mục tiêu phát triển đất nước. Mục tiêu xây dựng con người vừa có bản lĩnh chính trị, có trình độ chuyên môn, vừa có sức khỏe, có tình cảm chân thành và đạo đức chính trực - đó chính là tổng thể khuôn mẫu, chuẩn mực con người văn hóa, con người XHCN. Mục tiêu xây dựng nền văn hóa vừa tiên tiến, vừa đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng môi trường văn hóa, hệ thống thiết chế văn hóa với những yếu tố tích cực để tạo điều kiện tối đa phát huy, phát triển các giá trị văn hóa, con người; phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, xây dựng và phát triển thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa để gia tăng giá trị các di sản văn hóa, các sản phẩm văn hóa, đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta chính là mục tiêu xây dựng nền văn hóa XHCN, đóng góp vào mục tiêu chung xây dựng CHXN ở Việt Nam. Nhận thức ngày càng toàn diện về văn hóa, con người và đề ra cách thức phát huy, phát triển các giá trị văn hóa, các nhân tố con người này là bước tiến quan trọng trong nhận thức của Đảng ta, đóng góp quan trọng vào hệ thống lý luận chung về đổi mới và phát triển toàn diện đất nước.
(Còn nữa)
----------------------------
(1) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, t. 52, tr. 513
(2) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr. 27 (chữ in đậm là tác giả nhấn mạnh)
(3) Về đặc trưng của xã hội XHCN ở nước ta: Xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới
(4) Xem: Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 12, tr. 604
(5) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 115 - 116
(6) Xem: Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 24
(7) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 28
(8), (9), (10) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 7, tr. 316, 319, 318
(11) Xem: Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 604
(12) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1986, tr. 91
(13), (14) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 135 - 136 , 165
Nhận thức và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn trong quá trình đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam (Kỳ III và hết)  (28/07/2023)
Nhận thức và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn trong quá trình đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam (Kỳ II)  (25/07/2023)
Nhận thức và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn trong quá trình đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam (Kỳ II)  (25/07/2023)
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng mục tiêu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
- Nhận diện những thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức chủ yếu của Việt Nam trong kỷ nguyên phát triển mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
- Hội nghị Trung ương 3 khóa XX Đảng Cộng sản Trung Quốc: Chú trọng duy trì ổn định và phát triển chất lượng cao
- Tư duy lý luận của Đảng về xây dựng mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam từ năm 1991 đến nay
- Nhận diện một số tiêu chí cơ bản của xã hội văn minh ở Việt Nam qua gần 40 năm đổi mới
-
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm