TCCS - Quy hoạch Thủ đô Hà Nội được lập trong bối cảnh Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng xác định rõ về định hướng phát triển của đất nước đến năm 2045; Nghị quyết số 30-NQ/TW, của Bộ Chính trị về phát triển vùng đồng bằng sông Hồng đến 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết số 15-NQ/TW, ngày 5-5-2022, của Bộ Chính trị, về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 cùng Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố nhiệm kỳ 2020 - 2025. Trong thời đại Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ trên phạm vi toàn cầu, việc quản lý, vận hành đô thị một cách hiệu quả, thông minh hơn hướng tới phát triển đô thị tăng trưởng xanh và bền vững là cần thiết, phù hợp để hội nhập trong bối cảnh phát triển chung của thế giới. Với vai trò và vị thế của mình, việc xây dựng và thực hiện Quy hoạch Thủ đô thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 cần định hướng để Hà Nội tiên phong trở thành đô thị thông minh.
Định hướng quy hoạch theo hướng đô thị văn minh
Quán triệt quan điểm “Phát triển Thủ đô Hà Nội “Văn hiến - Văn minh - Hiện đại” là nhiệm vụ chính trị quan trọng đặc biệt trong chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc với tinh thần “Cả nước vì Hà Nội, Hà Nội vì cả nước”; là trách nhiệm, nghĩa vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống chính trị…”, thành phố Hà Nội đã triển khai xây dựng các chương trình, kế hoạch hành động thực hiện nghị quyết, trong đó, phải triển khai nghiên cứu, xây dựng đồng thời 3 nhiệm vụ quan trọng: Xây dựng Luật Thủ đô (sửa đổi), lập Quy hoạch Thủ đô, lập Điều chỉnh Quy hoạch chung Thủ đô nhằm sắp xếp, kiến tạo và phân bổ không gian phát triển cho Thủ đô Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 và xa hơn nữa; đồng thời, xây dựng, hình thành thể chế phát triển đồng bộ, vượt trội, ưu tiên, đặc thù và thực hiện các giải pháp, cơ chế về huy động các nguồn lực, tìm kiếm các động lực để xây dựng và phát triển Thủ đô.
Có thể thấy, sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin và truyền thông với những năng lực mới do công nghệ đem lại như điện toán đám mây, kết nối và đo lường trực tuyến, xử lý dữ liệu lớn khi ứng dụng công nghệ nhận dạng, công nghệ số, di động, và internet vạn vật (IoT) giúp đô thị xây dựng các chiến lược thích ứng mới nhằm tối ưu hóa sử dụng tài nguyên và năng lượng, nâng cao khả năng ứng phó và chống chịu với thách thức, phối hợp giải quyết các vấn đề ở quy mô lớn hơn, toàn diện hơn và kịp thời hơn. Do vậy, phát triển đô thị thông minh là giải pháp hữu hiệu nhằm thúc đẩy phát triển đô thị nhanh hơn, bền vững hơn.
Việc phát triển đô thị thông minh là một trong những động lực quan trọng để thực hiện mục tiêu đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số trên nền tảng khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo. Ngày 27-9-2019, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW, Về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (Nghị quyết số 52), đặt mục tiêu đến năm 2025 có ít nhất 3 đô thị thông minh tại 3 vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, phía Nam và miền Trung để đến năm 2030 sẽ hình thành một chuỗi đô thị thông minh tại các khu vực kinh tế này, từng bước kết nối với mạng lưới đô thị thông minh trong khu vực và thế giới.
Ngày 1-8-2018, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án phát triển đô thị thông minh bền vững Việt Nam giai đoạn 2018 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030 tại Quyết định số 950/QĐ-TTg, trong đó xác định nguyên tắc, cũng như mục tiêu tổng quát là hướng tới tăng trưởng xanh, phát triển bền vững, phát huy các tiềm năng và lợi thế, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực; khai thác tối ưu hiệu quả tài nguyên, con người, nâng cao chất lượng cuộc sống; đồng thời tạo điều kiện đối với các tổ chức, cá nhân, người dân tham gia hiệu quả nghiên cứu, đầu tư xây dựng, quản lý phát triển đô thị thông minh; hạn chế các rủi ro và nguy cơ tiềm tàng; nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước và các dịch vụ đô thị; nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, hội nhập quốc tế. Các mục tiêu cụ thể được xác định rõ theo từng giai đoạn, đến năm 2020, đến năm 2025 và định hướng đến năm 2030.
Đề án xác định 10 nhóm nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu có tính liên ngành, tập trung vào nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện hành lang pháp lý; các nhiệm vụ triển khai 4 nội dung cơ bản của phát triển đô thị thông minh, bền vững; xây dựng tiêu chuẩn, quy chuẩn, tiềm lực phát triển đô thị thông minh; giải pháp về tài chính, hợp tác quốc tế và tuyên truyền. Thực hiện đề án sẽ huy động và phát huy tổng hợp nguồn lực từ mọi thành phần kinh tế trong xã hội. Bên cạnh đó, đề án cũng xác định 7 nhóm nhiệm vụ ưu tiên đối với các cơ quan quản lý nhà nước ở Trung ương và địa phương để triển khai thực hiện kèm theo lộ trình, phân công thực hiện.
Trong giai đoạn 2018 - 2025, phát triển đô thị thông minh ở Việt Nam cần ưu tiên xây dựng các nội dung: Quy hoạch đô thị thông minh; xây dựng và quản lý đô thị thông minh; cung cấp các tiện ích đô thị thông minh cho các tổ chức, cá nhân trong đô thị. Với cơ sở nền tảng là hệ thống hạ tầng kỹ thuật đô thị và hệ thống hạ tầng ICT, trong đó bao gồm cơ sở dữ liệu không gian đô thị thông minh được kết nối liên thông và hệ thống tích hợp hai hệ thống trên.
Vấn đề phát triển thành phố thông minh đã nhận được sự quan tâm của nhiều địa phương. Theo thống kê của Cục Phát triển đô thị (Bộ Xây dựng), tính đến tháng 12-2022, tổng số đô thị cả nước là 888 đô thị, trong đó có 48/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã và đang triển khai xây dựng đề án phát triển đô thị thông minh.
Một số địa phương đã triển khai và đạt được kết quả ban đầu. Việc áp dụng mô hình thành phố bền vững thông minh cho các đô thị lớn của Việt Nam, như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng… với việc triển khai những ứng dụng công nghệ để phát triển xã hội thông minh, như 5G, di động (mobility), internet vạn vật (Internet of Things), giao thông thông minh, khám chữa bệnh từ xa (telehealth)… có thể giúp các thành phố giải quyết được không ít hạn chế gây bức xúc xã hội hiện nay, đồng thời tạo cơ hội cho các đô thị này phát triển bền vững.
Tuy nhiên, công tác xây dựng và phát triển đô thị thông minh đang gặp nhiều thách thức, khó khăn, tập trung ở 3 lĩnh vực chính:
Thứ nhất, hệ thống cơ sở dữ liệu đô thị: Công tác quản lý cơ sở dữ liệu đô thị còn nhiều hạn chế, đang ở mức độ khá sơ khai, nguyên nhân của những hạn chế này bởi các lý do: nguồn số liệu đô thị hiện nay đang bị phân tán từ ngành xây dựng và một số ngành liên quan cùng với một số địa phương. Các chỉ tiêu thống kê đánh giá phát triển đô thị thuộc nhiều ngành, lĩnh vực được thiết kế phục vụ các mục tiêu khác nhau, phương pháp thu thập, tính toán dữ liệu còn cần những chuẩn hóa trước khi áp dụng triển khai trên nền tảng số hóa; thể chế và cơ cấu tổ chức thực hiện công tác thống kê hiện nay cũng là hạn chế lớn trong việc xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu đô thị. Hiện nay, chưa có một văn bản quy phạm pháp luật cụ thể quy định về công tác thu thập dữ liệu cho khu vực đô thị, đồng thời tại một số ngành, lĩnh vực cũng không có cán bộ chuyên trách để thực hiện công tác này dẫn đến các dữ liệu đô thị còn thiếu độ tin cậy, thậm chí là thiếu dữ liệu.
Thứ hai, việc điều phối hiệu quả nguồn vốn đầu tư phát triển: Phát triển đô thị thông minh yêu cầu phải có nguồn lực đầu tư lớn, trong khi ngân sách nhà nước còn hạn hẹp và phải chia sẻ cho nhiều lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội khác nhau. Tuy nhiên, trong một vài năm trở lại đây, tại Việt Nam có nhiều doanh nghiệp có tiềm lực tài chính và khoa học - kỹ thuật trong lĩnh vực công nghệ thông tin (như Viettel, Vinaphone, Mobiphone, FPT, CMC...) đã tiến hành các nghiên cứu và phát triển một số dịch vụ tiện ích hướng đến phát triển đô thị thông minh và nhìn nhận phát triển đô thị thông minh là một thị trường mới, nhiều tiềm năng chưa được khai thác. Bên cạnh đó, có nhiều doanh nghiệp nước ngoài cũng đang tham gia phát triển đô thị thông minh tại Việt Nam. Qua những chuyển động của doanh nghiệp có thể nhận thấy rằng, phát triển đô thị thông minh có tiềm năng thương mại lớn, do đó có nhiều khả năng thu hút được nguồn vốn xã hội để đầu tư. Thách thức đặt ra ở đây đối với các cơ quan quản lý nhà nước nói chung, Thủ đô Hà Nội nói riêng là việc giữ vai trò điều phối các nguồn lực, xây dựng định hướng, chiến lược, kế hoạch phát triển dài hạn và khung quản lý thống nhất toàn quốc, hạn chế tối đa việc thay đổi, điều chỉnh sẽ dẫn đến lãng phí nguồn lực đầu tư.
Thứ ba, nền tảng cơ chế, chính sách có khả năng thích ứng và bắt nhịp với tốc độ phát triển của thời kỳ công nghệ số: Thực tiễn tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Việt Nam hiện nay còn nhiều vấn đề bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu của quản trị đất nước trong thời đại công nghệ số. Phát triển đô thị thông minh để hướng đến mục tiêu giảm thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian, quy trình thực hiện, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước và mở ra nhiều phướng thức hoạt động của xã hội phát triển trên nền tảng công nghệ. Trong khi lĩnh vực phát triển đô thị bao gồm hầu hết các lĩnh vực của phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, do đó để quản lý, quản trị đô thị hiệu quả nhưng không kìm hãm sự phát triển, yêu cầu hệ thống chính sách quản lý nhà nước phải thay đổi để phù hợp với yêu cầu thực tiễn.
Quy hoạch trở thành đô thị thông minh, hướng tới phát triển bền vững
Thủ đô Hà Nội hiện có rất nhiều lợi thế để phát triển đô thị thông minh. Thứ nhất, Hà Nội là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của cả nước nên được sự quan tâm rất lớn và kịp thời của Trung ương. Thứ hai, Hà Nội có tiềm lực kinh tế, nhân sự, kỹ thuật... để phát triển đô thị thông minh. Thứ ba, cũng là điều mà giới chuyên gia đánh giá rất cao là Hà Nội có những lãnh đạo có tầm nhìn chiến lược, rất quyết tâm phát triển Thủ đô thành đô thị thông minh.
Trước yêu cầu chung của phát triển, ngày 25-10-2022, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 138/NQ-CP, Về Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Nghị quyết số 138/NQ-CP đã đề cập đến định hướng phân bố các vùng đô thị lớn, gồm: Vùng đô thị Hà Nội, vùng Thành phố Hồ Chí Minh, vùng đô thị Đà Nẵng và vùng đô thị Cần Thơ.
Cụ thể là: Xây dựng hệ thống đô thị vùng Hà Nội gồm Thủ đô Hà Nội và các đô thị vệ tinh thuộc các tỉnh xung quanh thuộc vùng đồng bằng sông Hồng và vùng trung du và miền núi phía Bắc nhằm chia sẻ chức năng về giáo dục - đào tạo, y tế, khoa học - công nghệ, thương mại - dịch vụ - du lịch, hạn chế sự tập trung quá mức vào đô thị trung tâm Hà Nội. Tập trung phát triển kết cấu hạ tầng đô thị và hạ tầng kết nối đồng bộ, hiện đại, bao gồm các trục từ Hà Nội kết nối với các đô thị lớn của vùng, các đường vành đai 4, 5 và các tuyến đường sắt đô thị, đường sắt vành đai phía Đông thành phố Hà Nội, thúc đẩy liên kết và lan tỏa phát triển kinh tế - xã hội cho cả khu vực phía Bắc. Hình thành các vành đai công nghiệp - đô thị - dịch vụ dọc theo các đường vành đai 4, 5. Phát triển đô thị Hà Nội trở thành đô thị thông minh, năng động, sáng tạo, dẫn dắt; đầu tàu trong phát triển khoa học, công nghệ; trung tâm giao dịch quốc tế, dịch vụ giáo dục - đào tạo, y tế, tài chính - ngân hàng chất lượng cao; đầu mối giao thông quan trọng của khu vực và quốc tế.
Trên cơ sở định hướng đó, Nghị quyết số 18-NQ/TU, ngày 30-12-2022, của Thành ủy Hà Nội, Về chuyển đổi số, xây dựng thành phố Hà Nội thông minh đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 xác định: Xây dựng nền móng kết cấu hạ tầng cho thành phố thông minh với Trung tâm giám sát và điều hành tập trung kết nối đến hạ tầng viễn thông, IoT, tiếp nhận và xử lý các luồng thông tin các lĩnh vực đời sống xã hội của thành phố, hình thành hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu lớn, tích hợp, khai thác và cung cấp thông tin trực quan hỗ trợ các cấp lãnh đạo ra quyết định kịp thời, chính xác.
Lộ trình xây dựng thành phố thông minh của Hà Nội gồm 3 giai đoạn. Giai đoạn 1 (2018 - 2020), hình thành cơ bản các thành phần cốt lõi của thành phố thông minh... Giai đoạn 2 (2020 - 2025), sẽ hoàn thành cơ bản các hệ thống thông minh, thu hút người dân tham gia quản lý, hình thành nền kinh tế số. Giai đoạn 3 (sau năm 2025), sẽ phát triển thành phố thông minh ở mức độ cao, mang đặc trưng của nền kinh tế tri thức,… Trong thời gian tới, Hà Nội sẽ hình thành Trung tâm điều hành thông minh dựa trên các nền tảng công nghệ mới nhất, với 8 chức năng, cụ thể: Trung tâm Giám sát, điều hành giao thông và phòng, chống tội phạm công cộng; Trung tâm Giám sát bảo mật và an toàn thông tin; Trung tâm Hỗ trợ cán bộ sử dụng công nghệ thông tin; Trung tâm Quản lý thông tin báo chí và truyền thông; Trung tâm Ấn định dữ liệu...
Để sớm đạt mục tiêu đặt ra, có rất nhiều việc phải làm, nhưng công tác quy hoạch phải đi đầu để sớm định hướng phát triển Thủ đô theo hướng thông minh. Quy hoạch bao giờ cũng là lĩnh vực đi trước và định hướng phát triển cho các lĩnh vực tiếp theo và với quy hoạch đô thị thông minh, vấn đề này còn cần được đặc biệt quan tâm hơn nữa nên cơ sở dữ liệu đô thị từ lúc thiết kế, thi công dự án - công trình cho đến khi vận hành cần được số hóa và lưu trữ, sử dụng lâu dài. Các ứng dụng cho quản lý đô thị trên nền tảng thiết bị thông minh sẽ truy cập và sử dụng cơ sở dữ liệu. Xây dựng một hệ cơ sở dữ liệu lớn cho quy hoạch phát triển đô thị thông minh cần phải được đặc biệt lưu ý.
Quy hoạch đô thị thông minh phải dựa trên cơ sở dữ liệu. Các dữ liệu liên thông sẽ được xử lý để giúp trả lời cho vị trí vấn đề cần được giải quyết. Quy hoạch đô thị thông minh cần ứng dụng công nghệ để phân tích dữ liệu thô thành dữ liệu có khả năng đọc, hiểu. Quy hoạch đô thị thông minh có khả năng giúp cho người dùng (nhà quản lý, nhà đầu tư, cộng đồng) tra cứu, cùng tham gia vào quá trình quản lý thực hiện. Đồng thời, giúp minh bạch quá trình tham gia, tăng tính hợp tác, đối tác trong phát triển đô thị. Quy hoạch đô thị thông minh hướng đến sử dụng các thông tin quy hoạch và phổ biến nó cho các đối tượng có liên quan để họ cùng tham gia vào quá trình quản lý và thực hiện quy hoạch. Điều này giúp tránh các tình huống nhà đầu tư không biết thông tin quy hoạch và do đó cơ hội đầu tư có thể bị bỏ lỡ.
Để có quy hoạch thông minh, mọi vấn đề trong đô thị cần phải được số hóa, tạo cơ sở dữ liệu để quản lý và ứng dụng phát triển. Số hóa đô thị là nhiệm vụ quan trọng và đầu tiên trong việc quản lý và ứng dụng đô thị thông minh. Như phần mềm google map, được số hóa bản đồ trong nhiều năm và đến nay tiếp tục cập nhật dữ liệu mới. Cơ sở dữ liệu này sẽ là nền tảng quan trọng cho mọi ngành kinh tế như: Phát triển đô thị, giao thông thông minh, hạ tầng xã hội như y tế, giáo dục…
Và một điều rất quan trọng, đó là sự đồng thuận và phối hợp nhịp nhàng giữa chính quyền thành phố, người dân và doanh nghiệp trong xây dựng quy hoạch bởi đô thị thông minh để phục vụ người dân, doanh nghiệp và quản lý của chính quyền. Với người dân, trên cơ sở công nghệ có thể cải thiện cuộc sống của chính họ, giúp họ có một cuộc sống tốt đẹp hơn. Với doanh nghiệp, có thể hoạt động hoàn toàn trên nền tảng công nghệ để cải thiện, nâng cao năng suất lao động, giảm thiểu chi phí. Với chính quyền, thông qua một nền tảng đô thị thông minh, một hệ cơ sở dữ liệu lớn, một nền công nghệ hiện đại, chính quyền tham gia mạnh mẽ hơn nữa trong việc hỗ trợ người dân, doanh nghiệp và đóng góp cho sự phát triển chung của Thủ đô Hà Nội nói riêng, đất nước nói chung./.
Đảng bộ thành phố Hà Nội tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập  (18/06/2024)
Đảng bộ thành phố Hà Nội sơ kết việc thực hiện một số nội dung quan trọng về công tác xây dựng Đảng  (09/05/2024)
Thành phố Hà Nội tập trung đẩy mạnh cải cách hành chính  (15/04/2024)
- Thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội trong tình hình mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về chỉnh huấn cán bộ, đảng viên và một số giải pháp trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay
- Tổ hợp công nghiệp quốc phòng và gợi mở hướng nghiên cứu về mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng công nghệ cao ở Việt Nam
- Tỉnh Quảng Trị tập trung lãnh đạo, chỉ đạo một số nhiệm vụ trọng tâm tổ chức đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng
- Tăng cường vai trò của tài chính vi mô cho phát triển “nông nghiệp, nông dân và nông thôn xanh” tại Việt Nam
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên